Nguyễn Quyện (chữ Hán: 阮倦; 1511-1593) là danh tướng trụ cột của nhà Mạc thời Nam Bắc triều trong lịch sử Việt Nam, tước Văn Phái hầu sau được phong làm Thường quận công, Chưởng phù Nam vệ, Thạch Quốc công, Tả đô đốc Nam đạo, Thái bảo. Ông một trong các vị tướng lĩnh chủ chốt của nhà Mạc trong giai đoạn thời kỳ chiến tranh Lê Mạc.
Nguyễn Quyện là con của Thư Quận công, Thượng thư, Trạng nguyên Nguyễn Thiến, quê nội làng Tảo Dương, quê ngoại làng Canh Hoạch, phủ Thanh Oai nay thuộc tỉnh Hà Nội.
Nguyễn Thiến là bạn học với Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585). Vì quý trọng, tin phục và giao du thân tình với Bỉnh Khiêm, nên lúc Quyện còn nhỏ, Nguyễn Thiến đã cho Quyện theo bái Khiêm làm thầy. Về sau, Quyện cùng ra làm tướng cho nhà Mạc.
Năm 1550, Thái tể Lê Bá Ly mâu thuẫn với phe cánh cha con sủng thần Phạm Quỳnh - Phạm Dao. Thượng thư Nguyễn Thiến đứng về phía Thái tể Bá Ly nên cũng bị đưa vào tình thế đối địch. Vua Mạc Tuyên Tông còn trẻ lại tin lời xúc xiểm của sủng thần Phạm Quỳnh. Cha con Phạm Quỳnh, Phạm Dao đã bất ngờ đưa quân cấm vệ đến vây dinh Thái tể Lê Bá Ly và Thượng thư Nguyễn Thiến.
Khiêm vương Mạc Kính Điển phụ chính đại thần lại đang lo đánh dẹp bọn phản nghịch Mạc Chính Trung - Phạm Tử Nghi nên chưa kịp đứng ra dàn xếp, ngăn cản. Hai người Lê Bá Ly, Nguyễn Thiến trốn thoát ra được, liền đem binh Sơn Tây và Kinh Bắc về đánh lại quân của Phạm Quỳnh và Phạm Dao. Vua Mạc Tuyên Tông trốn ra ngoài thành và xuôi thuyền bí mật về Dương Kinh để gặp Mạc Kính Điển.
Trong tình thế cấp bách, biết không địch lại được đại quân của Khiêm Vương, Lê Bá Ly và Nguyễn Thiến đã vội vàng dẫn gia quyến cùng nhiều tướng lãnh chạy ra Thanh Hoa, xin hàng nhà Lê, mà không kịp hỏi kế Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong các con đi theo có Nguyễn Quyện.
Vụ lật kèo này khiến quân đội nhà Mạc bị tổn thất nghiêm trọng, nên tháng 3 năm sau, Thái Sư nhà Lê là Trịnh Kiểm đã cử Lê Bá Ly, Nguyễn Quyện, Lê Khắc Thận làm tiên phong, phối hợp chặt chẽ với Vũ Văn Mật ở Tuyên Quang cùng mang quân ra đánh kinh thành Thăng Long.
Mạc Tuyên Tông tránh sang Kim Thành, Hải Dương để Khiêm Vương Mạc Kính Điển và Tây Thanh hầu Nguyễn Kính ở lại chống giữ. Có binh hùng tướng mạnh nhưng Trịnh Kiểm vẫn không lấy được kinh thành từ tay Khiêm Vương, cuối cùng phải kéo quân về lại Thanh Hoa.
Năm 1557, Vua Mạc Tuyên Tông biết Nguyễn Quyện là tướng tài, thường lập được chiến công nên trong lòng vừa lo lắng vừa yêu thích. Vua hỏi kế Nguyễn Bỉnh Khiêm xem có cách nào thu Quyện về tay.
Trạng Trình nói là có thể được, rồi xin vua cho ông mang theo một trăm tráng sĩ đi phục sẵn ở bờ Bắc, sau ông gửi thư mời Nguyễn Quyện và em trai Nguyễn Miễn sang bên thuyền để cùng uống rượu, nói chuyện tâm tình.
Tháng 8 năm đó, Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn nghe theo lời thầy mình, bèn rủ nhau trốn về với nhà Mạc. Sự trở về của hai anh em Nguyễn Quyện làm vua Mạc và Khiêm Vương Mạc Kính Điển rất vui mừng.
Hoan hỉ, Vua Mạc phong cho Quyện tước Văn Phái hầu, Miễn tước Phù Hưng hầu. Sau Khiêm Vương cũng gả con gái Ngọc Tỷ cho Quyện và Ngọc Điểm cho Miễn. Một pha dụ người làm mất đi hai tướng tài của Trạng Trình khiến Thái sư nhà Lê là Trịnh Kiểm nổi giận. Một tháng sau khi bọn Quyện, Miễn bỏ trốn, Trịnh Kiểm tự mình chỉ huy bộ binh, sai Vũ Lăng hầu Phạm Đức Kỳ làm Tiền Thuỷ đội, tung quân đánh lớn vào huyện Giao Thủy dưới mạn Sơn Nam.
Tuy Quyện mới về lại nhà Mạc chưa lâu, nhưng Khiêm Vương đã không chút nghi ngờ sai quyện ra chống giữ trận tiền ở sông Giao Thuỷ. Quân Nguyễn Quyện và Phạm Đức Kỳ gặp nhau liền đánh nhau to. Kỳ rướn mình nhảy sang mui thuyền của Nguyễn Quyện và hạ gục ngay người vệ sĩ của Quyện. Quyện nổi giận cầm gươm chém tới, Kỳ không đỡ kịp nên nhảy xuống sông lặn đi. Quyện tiếp tục dẫn quân nhảy sang thuyền của Kỳ, chém được đầu người vệ sĩ của Kỳ. Tiếp đó, Quyện nhanh ý xóc mũi kiếm vào đầu tên vệ sĩ, dơ cao lên, hô lớn:
“Đầu Vũ Lăng hầu đây, lũ chúng mày địch sao nổi ta!”
Quân Lê Trịnh nghe nói thế, tưởng chủ tướng bị giết thật nên nao núng, mất sĩ khí, đánh không được lâu nữa thì liền tan vỡ. Quân Mạc thừa thắng đuổi đánh. Mắt thấy trận này đã bại, Trịnh Kiểm vội vàng rút quân. Khiêm Vương thấy Kiểm chạy liền sai tướng đem quân chặn lối về Thanh Hoa, lại đánh cho quân Lê một đòn chí mạng.
Trận này quân Lê tổn hại quá nửa, chiến tướng bị giết đến vài chục viên, thuyền bè, khí giới phải vứt bỏ rất nhiều, Trịnh Kiểm rút về Thanh Hoa. Nguyễn Quyện được phong là Thường quận công. Chiến sự giữa hai nhà Lê, Mạc tiếp tục giằng co trong nhiều năm.
Năm 1561, Mạc Phúc Nguyên lâm bệnh chết, con là Mạc Mậu Hợp mới hai tuổi lên thay. Phụ chính Khiêm vương Mạc Kính Điển phong Nguyễn Quyện làm Chưởng Phù Nam vệ.
Năm 1570, Trịnh Kiểm chết, hai người con của ông là Trịnh Cối và Trịnh Tùng tranh quyền đánh nhau. Khiêm Vương nhân thời cơ bèn khởi binh mười vạn, thuyền chiến bảy trăm, chia làm năm đội vào đánh Nam triều.
Trịnh Cối liệu thế không chống nổi bèn đem quân về hàng nhà Mạc. Quân nhà Mạc thừa thắng tràn lên vây đánh An Trường, thuộc huyện Thuỷ Nguyên, là nơi vua Lê đóng.
Tuy nhiên, Trịnh Tùng thay thế Trịnh Kiểm cũng là tướng có tài, quân Mạc không đánh chiếm được Thanh Hoa, chỉ cướp được nhiều của cải và dân mang về bắc. Một số tướng lĩnh nhà Lê cũng quay sang hàng nhà Mạc.
Tháng 7 năm 1571, Nguyễn Quyện mang quân theo Khiêm Vương vào đánh các huyện ở Nghệ An. Nhưng vì lý do địa lý, các quân ngoài Bắc không vào ứng cưu kịp, nên chiếm đóng không được bao lâu thì rút về lại Bắc.
Tháng 6 năm 1574, Nguyễn Quyện lại đem quân đánh Nghệ An. Quân Lê đánh nhau với quân Mạc nhiều lần bất lợi, thấy quân lính nhiều người sợ bỏ trốn, bèn làm vòng sắt khoá chân quân lính vào thuyền.
Quân Mạc đuổi đến, quân Lê cũng không chịu giao chiến. Nguyễn Quyện đánh bại quân Lê, đuổi theo bắt sống được tướng Hoành quận công Thái Bá Chiên mang về Thăng Long xử tử.
Tháng 8 năm 1575, Khiêm vương mang quân vào đánh Thanh Hoa, sai Nguyễn Quyện cầm quân đánh Nghệ An. Trịnh Tùng điều quân đánh chặn, cầm chân được quân của Kính Điển ở huyện Yên Định. Trịnh Tùng cử các tướng Lại Thế Khanh, Phan Công Tích, Trịnh Mô đi cứu Nghệ An.
Sáng ngày hôm sau Chiến sự giao tranh tại Lèn Hai Vai, Diễn Châu. Nguyễn Quyện nhìn Lèn Hai Vai là núi "Lưỡng Khương" chỉ có hai vai mà Không có đầu thì biết là trận này sẽ thắng. Ông bố trí kỳ binh mai phục, đánh thắng và giết chết Phan Công Tích ngay trên lưng ngựa.
Năm 1576, Khiêm Vương một lần nữa mang quân vào đánh Thanh Hoa và lại sai Nguyễn Quyện cầm quân đánh Nghệ An. Nguyễn Quyện đụng với Tấn quận công Trịnh Mô, đánh nhau vài tháng. Sau Trịnh Mô nhiều lần đánh không được, trốn về Thanh Hoa, đến huyện Ngọc Sơn. Nguyễn Quyện nói:
“Trịnh Mô đánh thua chạy về, rút quân không có hiệu lệnh, ta thế nào cũng bắt được nó.”
Nói xong, ông tự đốc quân đuổi tới Ngọc Sơn, bắt được Trịnh Mô ở giữa đường, rồi đưa về Thăng Long.
Từ sau trận này, oai danh Nguyễn Quyện ngày một lẫy lừng. Ông trở thành danh tướng bậc nhất của nhà Mạc. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư viết: “Các tướng hùng, tôi giỏi cả miền Giang Đông (ý chỉ nhà Mạc) đều cho là không bằng Nguyễn Quyện.”
Từ năm 1570 đến năm 1577, Khiêm Vương hai lần đốc xuất đại binh vào đánh Thanh Hoa. Lần nào Nguyễn Quyện cũng làm quân Tiên Phong, nhưng cả hai lần đều không giành được thắng lợi. Quân Mạc tổn thất phải rút về.
Tháng 7 năm 1580, Khiêm Vương Mạc Kính Điển lâm bệnh không ra trận được, ông sai Nguyễn Quyện cùng Mạc Ngọc Liễn đem quân vào đánh Thanh Hoa, cướp lấy tiền của, súc vật của dân cư các huyện dọc sông rồi rút về. Ba tháng sau, Khiêm Vương mất. Mạc Đôn Nhượng được thay làm phụ chính.
Năm 1581, Nguyễn Quyện theo Mạc Đôn Nhượng vào đánh Thanh Hoa nhưng Trịnh Tùng chốt giữ nhưng nơi hiểm yếu nên quân Mạc bại trận phải trở về.
Năm Quý Mùi (1583) sau mười năm giằng co (1573-1583), Trịnh Tùng thấy thế lực của mình đã mạnh bèn cử binh mã ra đánh Sơn Nam, đổi thế thủ thành thế công.
Lúc này Mạc Đôn Nhượng làm phụ chính không có tài như Khiêm Vương Mạc Kính Điển. Vua Mạc Mậu Hợp lại hèn kém, ít quan tâm chính sự, không nghe lời trung thần. Nguyễn Quyện và Mạc Ngọc Liễn thì đều đã già yếu. Quân Mạc thất thế ở Sơn Nam, tuy chặn được quân Lê nhưng mất đi nhiều vùng lãnh thổ. Thế Nhà Mạc ngày một lung lây.
Tháng 10 năm 1584, Nguyễn Quyện được phong tước Thạch quốc công. Tháng 6 năm 1586, ông được phong làm Nam quân Tả đô đốc.
Tháng 11 năm 1587, quân Lê ra đánh phía tây nam, đến huyện Mỹ Lương. Nhà Mạc sai tướng Mạc Ngọc Liễn và Nguyễn Quyện ra chống giữ. Khi Nguyễn Quyện đến sông Do Lễ gặp quân Lê tới. Quân Mạc yếu thế, bị thua chạy về Thăng Long.
Liên tiếp trong các năm sau, quân Lê ra đánh, quân Mạc thường bị thua, nhưng khi quân Mạc chạy về kinh, phía quân Lê cũng chưa đủ mạnh để truy kích ra Bắc, nên rút về Thanh Hoa.
Tháng 12 năm 1591, Trịnh Tùng huy động đại quân Bắc tiến, chia làm năm đạo để đánh ra Thăng Long. Nhà Mạc cũng dồn hết mười vạn quân ra mặt trận. Hai bên hội ở Quốc Oai quyết một trận đại chiến.
Mạc Mậu Hợp sai Mạc Ngọc Liễn đốc suất các tướng sĩ binh mã Tây đạo; Nguyễn Quyện đốc suất tướng sĩ binh mã Nam đạo, Mạc Mậu Hợp đích thân đốc suất binh mã của chính dinh.
Ngày 27 tháng chạp, đến địa phận xã Phấn Thượng, huyện Quốc Oai (Hà Nội) hai bên đối trận với nhau. Quân Lê Trịnh mạnh mẽ tiến lên đánh bại quân Mạc, thừa thắng đuổi dài đến Giang Cao, chém được hơn một vạn quân Mạc.
Mạc Mậu Hợp vội xuống thuyền vượt sông mà chạy. Duy có Nguyễn Quyện lánh xa nên được an toàn, chưa đụng quân Lê.
Mạc Mậu Hợp trốn về Thăng Long, chỉnh đốn lại binh mã. Mậu Hợp sai Mạc Ngọc Liễn đem quân bản đạo cố thủ từ cửa Bảo Khánh về phía tây đến phường Nhật Chiêu. Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên đem quân bốn vệ giữ cửa Cầu Dừa, qua cửa Cầu Muống đến thẳng cửa Cầu Dền. Còn Nguyễn Quyện đem quân giữ từ Mạc Xá trở về đông, ứng cứu quân các đạo. Quân hai đạo Đông và Bắc đều thuộc quyền của Nguyễn Quyện.
Mạc Mậu Hợp tự tay đốc suất thuỷ quân, dàn hơn một trăm chiến thuyền giữ sông Nhị Hà để làm thanh viện. Nguyễn Quyện đem quân đến dinh, đặt quân phục ở ngoài cửa Cầu Dền để đợi, dàn súng lớn Bách Tử và các thứ hoả khí để phòng bị.
Đầu tháng 1 năm 1592, Trịnh Tùng đốc suất quân lính cùng tiến. Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên không chống nổi quân Lê, tan vỡ tháo chạy; Mạc Ngọc Liễn cũng bỏ trốn.
Quân Lê thừa thắng đuổi tràn đến tận sông, phóng lửa đốt cung điện và nhà cửa trong thành. Trịnh Tùng thúc voi ngựa và quân lính đánh phá cửa Cầu Dền. Quân Mạc tan vỡ, quân mai phục của Nguyễn Quyện chưa kịp nổi dậy thì đã chết hết ở ngoài cửa Cầu Dền.
Nguyễn Quyện định liều mạng chạy trốn, nhưng tiến, lui đều không còn đường nào. Trong ngoài đều là quân Lê, mà cửa luỹ lại bị lấp. Con ông là Nguyễn Bảo Trung, Nguyễn Nghĩa Trạch và thủ hạ, tinh binh cố sức đánh, đều chết tại trận.
Nguyễn Quyện sức cùng lực kiệt, chạy về bản dinh, bị quân Lê bắt sống đem dâng trước cửa quân. Trịnh Tùng cởi trói cho ông, đãi theo lễ tân khách, tuyên dụ uý lạo, nói tới ân nghĩa thu nạp của Trịnh Kiểm trước kia.
Nguyễn Quyện phục xuống và tự than rằng:
“Tướng thua trận không thể nói mạnh được. Trời đã bỏ họ Mạc thì người anh hùng cũng khó ra sức.”
Trịnh Tùng khen ngợi câu nói ấy của ông. Sau câu này Quyện bị bắt giam.
Nguyễn Quyện tuy bị bắt nhưng trong lòng vẫn nhớ nhà Mạc, bèn nghĩ ra kế hoãn binh cho nhà Mạc.
Ông nói với Trịnh Tùng nên san phẳng luỹ đất trong thành Thăng Long để tiện đường tiến công. Trịnh Tùng nghe theo, ngày 15 tháng giêng hạ lệnh cho các quân san phẳng luỹ đất đắp thành Đại La dài đến mấy ngàn trượng, phát hết bụi rậm gai góc, cày lấp hào rãnh, phá đến thành đất bằng. Quyện muốn nhân thời gian quân Lê mải đi phá luỹ, quân Mạc sẽ có cơ hội tổ chức lại.
Trịnh Tùng tuy thắng trận nhưng liệu sức chưa chiếm hẳn được Thăng Long nên cũng tạm rút quân. Song Mạc Mậu Hợp khi trở về kinh thành lại hưởng lạc như cũ, không lo lắng việc phòng chống quân Nam và tổ chức phản công.
Nguyễn Quyện sinh được hai con gái. Con gái lớn là hoàng hậu Nguyễn Thị của Mạc Mậu Hợp, con gái thứ là Nguyễn Thị Niên là vợ của tướng Bùi Văn Khuê.
Tháng 8 năm 1592, Nguyễn Thị Niên vào cung thăm chị, Mạc Mậu Hợp thấy sắc đẹp của Thị Niên nên muốn chiếm đoạt, bèn giữ luôn ở trong cung và dự định triệu Bùi Văn Khuê về kinh để giết.
Nguyễn Thị Niên sợ hãi bèn sai người hầu cận, bí mật chạy đi báo cho Bùi Văn Khuê. Văn Khuê biết chuyện, bèn dẫn quân bản bộ về hàng nhà Lê.
Sau đó liên tiếp 10 tướng Mạc sang hàng Lê. Mạc Ngọc Liễn một mình chống giữ nhưng thân cô thế cô không cách nào địch lại, sau bại trận ở Tam Đảo. Mạc Mậu Hợp đại bại, may mắn chạy thoát về sau đã ẩn cư (hoặc bị giết).
Mạc Ngọc Liễn chạy thoát, lập người tông thất là Mạc Kính Cung (con Khiêm Vương) lên ngôi, cát cứ đất Cao Bằng, tiếp tục chống quân Lê Trịnh.
Các con Nguyễn Quyện là Nhuệ quận công Nguyễn Tín, Thọ Nham hầu Nguyễn Trí và con của Phù Hưng hầu Nguyễn Miễn thấy vua Mạc bị bắt, bèn chịu khuất cùng Nguyễn Quyện quy thuận nhà Lê.
Tuy nhiên sau đó Quyện cùng các con, cháu vẫn trung với nhà Mạc nên mưu phản. Không may, sự việc bị phát giác.
Ngày mồng 4 tháng 11 năm 1593, Nguyễn Quyện cùng con cháu đều bị giết trong ngục. Năm đó Nguyễn Quyện đã 82 tuổi.
Trải qua bao sự biến thiên, thăng trầm cùng nhà Mạc, Nguyễn Quyện đã trở thành một danh tướng hiển hách, đóng vai trò trụ cột trong quân đội của Khiêm Vương.
Tuổi trẻ thì lập nhiều chiến công, tuổi già thì làm trung thần tận tụy. Tuy cuối cùng, ông và nhà Mạc đã bại nhưng những năm Nam Bắc triều đó, quân tướng nhà Lê Trung Hưng đã luôn kính sợ mỗi khi nhắc đến “Đệ nhất dũng tướng Giang Đông, Nguyễn Quyện”.