Thiên Thành công chúa (天城公主 1235 - 28 tháng 9, 1288), huý là Anh thường được gọi là Nguyên Từ Quốc mẫu (元慈國母), là một công chúa nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Sinh ra, lớn lên trong gia đình đại quý tộc, được sự giáo dục của hoàng cung, Quốc Mẫu có phẩm hạnh nhân từ mẫu mực, tư chất tài hoa, quyền quý của bậc vương nhi dòng tôn thất. Bà được biết đến rộng rãi với vai trò là phu nhân của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Hiện tại bà đang được thờ bên cạnh Hưng Đạo Đại vương tại đền Kiếp Bạc thuộc tỉnh Hải Dương, Vạn Kiếp.
Cho đến nay, vẫn tồn tại hai luồng ý kiến về thân thế của bà, không rõ bà là con gái của Trần Thái Tổ (Trần Thừa) hay Trần Thái Tông (Trần Cảnh).
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, bà được gọi là Trưởng công chúa (長公主), trong đoạn "Gả Thiên Thành Trưởng công chúa cho Trung Thành vương". Xét theo chế độ danh vị, danh hiệu này là để chỉ chị em gái của Đương kim Hoàng đế. Điều này có nghĩa là Thiên Thành Trưởng công chúa dĩ nhiên là con gái Thái thượng hoàng, tức Trần Thái Tổ và là em gái của Trần Thái Tông. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục và một số nguồn, bà cũng được thừa nhận là con gái của Trần Thái Tổ. Kết quả Thiên Thành công chúa là con gái của ai, vẫn hoàn toàn không cách nào khẳng định được với cứ liệu hiện tại.
Trần Thái Tông ban đầu định gả bà cho Trung Thành vương (khuyết danh), con trai Nhân Đạo vương (khuyết danh) vào đầu năm Nguyên Phong thứ nhất (1251). Tuy nhiên, việc hôn nhân này không thành và bà lấy Trần Quốc Tuấn.
Mẹ nuôi của Trần Quốc Tuấn là Thụy Bà Công chúa đã phải dâng 10 mâm vàng sống để đền bù. Thái Tông cũng đành đem 2000 mẫu ruộng ở phủ Ứng Thiên để đền sính vật cho Trung Thành vương( theo Đại Việt sử ký toàn thư).
Năm Tân Hợi (1251), khi công chúa sánh duyên cùng Quốc Công Tiết Chế Trần Hưng Đạo. Từ đó, bà rời chốn hoàng cung, giúp phu quân kinh bang tế thế. Trong hai lần kháng chiến chống giặc Nguyên xâm lược nước Đại Việt (1285 và 1288), bà được vua Trần giao việc làm tổng quản quân lương. Công chúa hướng dẫn các gia đình quý tộc, các chúng dân thực hiện kế “Thanh dã” (vườn không, nhà trống), phát động chiến tranh du kích, tiêu hao sinh lực quân thù.
Thân phận cành vàng lá ngọc nhưng công chúa Thiên Thành đã vì nghĩa lớn, trải qua bao nỗi gian nan, đi gần với dân chúng, trực tiếp phụ trách hậu phương, tổ chức sản xuất, tập trung lương thực, bố trí cắt đặt kho quân lương. Công chúa tận dụng địa thế núi, rừng, sông, ngòi hiểm yếu để phòng bố, tích trữ lương thảo, phục vụ quân doanh trong mọi tình thế. Thời ấy, cả vùng rộng lớn Kiếp Bạc, làng Bến, Thanh Tân, Thanh Tảo, Trung Quê, Đa Cốc, Bãi Thảo, núi Huyền Đinh... đều là căn cứ hậu cần đặc biệt quan trọng của phòng tuyến Vạn Kiếp.
Lương thực, thóc gạo được vận chuyển theo sông Vang, ngòi Mó về Hố Thóc dự trữ, cất giấu. Trong khi ngoài chiến trận, các chiến binh xả thân giết giặc thì ở hậu phương, công chúa chỉ huy lập các cơ sở sản xuất, trồng cấy, chăn nuôi lấy lương thực nuôi quân. Đến mãi đời sau quanh vùng còn dấu vết tên gọi Hố Lợn, Hố Thóc và dân gian truyền tụng câu ca: Trâu thì Mẫu thả Huyền Đinh/Lợn thì Mẫu thả cánh đồng Trung Quê.
Năm 1288, quân Nguyên thua trận, rút về nước. Cũng năm đó, vào mùa thu, Thiên Thành công chúa từ trần. Biết tin, chúng dân đau xót, triều đình tiếc thương, vua Trần sắc phong tước hiệu “Nguyên Từ Quốc Mẫu, Thiên Thành Thái trưởng công chúa” và cho phép tạc tượng phụng thờ
Trong lịch sử dân tộc, Đức Nguyên Từ Quốc Mẫu Thiên Thành Thái Trưởng công chúa đã trở thành một trong những tấm gương tiêu biểu, điển hình của người phụ nữ Việt Nam giỏi việc nước, đảm việc nhà. Đức Quốc Mẫu xứng danh với câu ca:
“Quốc sắc khuynh thành thiên hạ hữu
Anh linh liệt nữ thế gian vô”
Có nghĩa là: Trong thiên hạ, người phụ nữ có sắc đẹp làm nghiêng nước, nghiêng thành đã từng có; nhưng người phụ nữ có công đức giúp nước, cứu dân trở thành anh hùng, Thánh nữ thì vô cùng hiếm có.