Kiều Công Hãn (chữ Hán: 矯公罕; ?-967), danh tướng thời vua Ngô Quyền, thứ sử Phong Châu cuối thời Ngô, sau đó ông chiếm giữ thêm 2 châu lân cận là Hào Châu, Thái Châu; tự xưng là Kiều Tam Chế và trở thành một thủ lĩnh thời loạn 12 sứ quân trong lịch sử Việt Nam.
Ông là con của Kiều Công Chuẩn, anh trai sứ quân Kiều Thuận và là cháu nội của Kiều Công Tiễn. Năm 937, Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ để chiếm quyền, Kiều Công Hãn không theo ông nội mà mang quân vào châu Ái theo Vua Ngô Quyền.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, sau khi biết tin Nam Hán kéo quân sang, Vua Ngô Quyền đã nói với tướng sĩ rằng: “Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe tin Kiều Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được”.
Điểm mạnh lớn nhất của quân Nam Hán lúc bấy giờ chính là chiến thuyền. Tương truyền, người được cho là nghĩ ra kế cắm cọc xuống đáy sông giúp Ngô Vương là Đức ông Kiều Công Hãn. Ông là vị tướng tài, xuất thân từ gia đình có thế lực nhiều đời làm hào trưởng tại vùng Phong Châu (Phú Thọ).
Vốn là tướng tài, Kiều Công Hãn đã có cái nhìn và nhận định chuẩn xác khi khuyên Vua Ngô Quyền rằng: “Nam Hán là nước nhỏ ở vùng duyên hải, nhân nhà Đường tan rã mà nổi lên chiếm một vùng đất ở phía Đông Nam, dựng thành nước, quân mạnh về thủy chiến. Nếu sang nước ta, tất chúng sẽ lấy đường biển mà tiến, qua sông Bạch Đằng để vào Đại La. Ta nên bày trận đánh chúng ngay khi mới vào cửa sông Bạch Đằng”.
Vua Ngô Quyền khen kế đó hay, liền sai Dương Tam Kha chỉ huy quân lính chặt ba nghìn cây gỗ, vót nhọn, bịt sắt rồi đóng xuống lòng sông trên một quãng dài 3 dặm.
Ông là một sứ quân thuộc thế lực họ Kiều, từng tranh chấp ngôi Vua khi Ngô Xương Văn mất và cuối cùng bị lực lượng của Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp trong quá trình thống nhất Đại Cồ Việt.
Theo Đại Việt sử ký tiền biên, khi Ngô Xương Văn mất vào năm 965, các tướng dưới quyền là Tham tán Lã Xử Bình và Thứ sử Phong Châu Kiều Công Hãn tranh giành ngôi báu... Năm 966, Tham tán Ngô Xử Bình, Thứ sử Kiều Công Hãn, Thứ sử châu Vũ Ninh là Dương Huy, Nha tướng là Đỗ Cảnh Thạc lại kéo về Cổ Loa đấu tranh chiếm ngôi vua. Trong nước khắp nơi dấy loạn, các thủ lĩnh quần long vô thủ chiếm cứ quận ấp, mưu thôn tính lẫn nhau.
Sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục ghi "các đại thần họ Kiều, họ Dương làm loạn" phần nào cho thấy tham vọng của Kiều Công Hãn trong cuộc chiến ngôi báu này.
Ông và Dương Huy là hai thứ sử địa phương kéo quân về triều đình Cổ Loa tranh chấp ngôi vua cùng với hai đại thần triều đình Lã Xử Bình và Đỗ Cảnh Thạc. Trong tình huống đấu tranh quyết liệt, hậu duệ nhà Ngô là Ngô Xương Xí phải lui về Bình Kiều, Thanh Hóa và trở thành một sứ quân.
Làm thứ sử Phong Châu, Kiều Công Hãn cho xây thành Tam Giang rồi thành Phù Lập (đều ở phía nam Phú Thọ). Khi nhà Ngô mất lực lượng của ông trở thành một sứ quân trong thời loạn 12 sứ quân. Từ vị thế thủ lĩnh Phong Châu, Đức ông Kiều Công Hãn chiếm 2 châu lân cận là Hào Châu và Thái Châu để mở rộng địa bàn, Đức ông Kiều Công Hãn xưng là Kiều Tam Chế. Ngay từ những ngày đâu gây dựng, Đức ông Kiều Công Hãn liên tục mở rộng địa bàn chiếm đóng sang khu vực tả ngạn sông Lô bằng những cuộc chiến với sứ quân Nguyễn Khoan tại khu vực thuộc các huyện Sông Lô, Lập Thạch (Vĩnh Phúc) ngày nay.
Thần phả miếu Ba Thôn - chùa Hưng Quốc ở Thái Bình cho biết tướng Nguyễn Quảng Lại trong một lần cùng vua Đinh Tiên Hoàng truy đuổi tàn quân của Kiều Công Hãn ở Phong Châu, khi tới sông Việt Trì, để giữ bí mật của trận đánh, Nguyễn Quảng Lại đã cho quân chặt cây, hạ thuỷ để vượt sông. Khi ra tới giữa dòng, trời nổi cơn dông lớn, Quảng Lại mất tích, xác trôi về cửa Bố Hải Khẩu rồi được người dân làng chài trang Quang Lang chôn cất và thờ cúng.
Năm 967 căn cứ Phong Châu liên tục bị quân Hoa Lư của Đinh Bộ Lĩnh tấn công. Cuối cùng, lực lượng của sứ quân Kiều Công Hãn bị Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp. Ông chạy về phía Nam để cầu cứu Ngô Xương Xí thì bị hào trưởng Nguyễn Tấn chặn đón ở Nam Định chém chết.