Trần Nhật Duật (chữ Hán: 陳日燏, 1255 – 1330), được biết qua tước hiệu Chiêu Văn vương (昭文王) hay Chiêu Văn đại vương (昭文大王), là một nhà chính trị, quân sự Đại Việt thời Trần. Ông là con trai thứ sáu của Trần Thái Tông và là một danh tướng của vương triều nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai và thứ ba, đặc biệt là trận Hàm Tử.
Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật sinh vào tháng tư năm Ất Mão (1255), là con trai thứ sáu của Trần Thái Tông, người đời ấy thường gọi là Ông hoàng Sáu hoặc Hoàng lục tử (皇六子). Các bộ chính sử như Đại Việt Sử ký Toàn thư, Việt sử tiêu án,... đều không chép mẹ ông là ai. Tuy nhiên, theo bản thần tích ở đền thôn Miễu, xã Mạt Lăng, huyện Tây Chân (nay thuộc [Thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định), có nhắc đến những chi tiết thú vị về người mẹ của ông như sau:
"Vào năm Kỷ Hợi (1239), một lần Trần Thái Tông đi tuần du qua phủ Thiên Trường, xa giá dừng lại nghỉ ở làng Miễu. Nghe tin vua đến, dân chúng đem lễ vật tới dâng và để tỏ lòng sùng kính, Trần Thái Tông mới hỏi chuyện nông tang, và điều ngạc nhiên là người trả lời không phải là các bô lão, chức dịch trong vùng mà là một cô gái trẻ được cử ra hầu đáp với hoàng đế. Cô gái đó tên là Vũ Thị Vượng, còn gọi là Vượng Nương, hình dung yểu điệu, nhan sắc tuyệt trần, giỏi nghề canh cửi, chăm việc ruộng đồng, nổi tiếng cả vùng vừa đẹp người lại đẹp nết. Thấy cô gái trả ứng đối thông minh mẫn tiệp, hiểu biết sâu rộng, nhất chuyện nghề nông nên nhà vua thấy rất quý mến. Ngay sau ngày hôm đó, Trần Thái Tông cho làm lễ, đón Vũ Thị Vượng về cung, lập Cung phi thứ năm, hiệu là Vũ phi"
Có nhiều truyền thuyết kể về sự ra đời kì lạ của Trần Nhật Duật, chẳng hạn truyền thuyết cũng ghi tại thần phả làng Miễu: ..."Lễ cầu tự kéo dài 21 ngày, một đêm Vũ phi nằm mộng thấy ngôi sao lớn từ trên không rơi xuống giường nằm của mình, từ đấy bà có mang, đến giờ Ngọ ngày mồng 10 tháng 4 năm Ất Mão (1255) sinh một hoàng tử, dung mạo khác thường, được đặt tên là Nhật Duật".
Theo sử sách, từ nhỏ ông đã nổi tiếng là hiếu học và sớm lộ thiên tri, ham thích hiểu biết về các tiếng nói và các giống người. Truyền rằng khi mới sinh, trên tay Trần Nhật Duật có bốn chữ "Chiêu Văn đồng tử" (昭文童子). Sau Trần Thái Tông lấy đó mà đặt phong hiệu cho ông là Chiêu Văn (昭文) có nghĩa là đón, gọi cái đẹp.
Theo vai vế, ông là em cùng cha khác mẹ của Trần Thánh Tông và Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải. Ông cũng là anh em cùng mẹ với Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc và Chiêu Đạo vương Trần Quang Xưởng.
Từ thuở niên thiếu, Trần Nhật Duật đã bộc lộ tư chất thông minh của một thiên tài. Sau này, ông không chỉ nổi tiếng vì sự am hiểu kinh sử, giỏi chính trị, quân sự mà còn rất thông thạo ngôn ngữ và phong tục tập quán của các các quốc gia lân bang và tộc người thiểu số trong nước.
Đã có nhiều câu chuyện khác nhau về biệt tài này của Trần Nhật Duật.
Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, vào thời của vua Trần Nhân Tông, có một lần sứ thần nước Sách Mã Tích (tên cổ của Singapore) sang cống, nhưng triều đình không tìm được người phiên dịch.
Vua triệu tập các phiên dịch viên giỏi nhất của thành Thăng Long lại để nói chuyện với sứ thần, nhưng không một ai nói được tiếng Sách Ma Tích. Trần Nhật Duật biết chuyện liền đến gặp sứ thần và nói chuyện trôi chảy bằng thứ ngôn ngữ lạ trong sự thán phục của những người có mặt.
Sau chuyện này, có người hỏi Trần Nhật Duật vì sao biết được tiếng nước Sách Ma Tích. Ông trả lời: “Thời vua Thái Tông, sứ nước ấy sang, nhân có giao du với họ, nên hiểu được đôi chút tiếng nước họ”.
Trong các ngoại ngữ thì tiếng Chăm là thế mạnh của Trần Nhật Duật. Từ thành Thăng Long, ông thường cưỡi voi đến chơi thôn Bà Già (phía Tây Hà Nội ngày nay), nơi sinh sống của các cư dân có nguồn gốc từ tù binh Champa. Ông rất say mê trò chuyện, tìm hiểu ngôn ngữ, văn hóa của người Chăm và thường ở lại cùng họ mấy ngày mới về.
Tài ngoại ngữ của Trần Nhật Duật khiến vua rất thán phuc. Có lần vua còn nói đùa: “Chiêu Văn Vương có lẽ không phải người Việt mà là kiếp sau của giống Phiên, Nam (chỉ các dân tộc lân bang ở vùng Đông Nam Á thời đó)”.
Năm 1280, Trịnh Giác Mật – tù trưởng địa phương ở Đà Giang (Tây Bắc ngày nay) là nổi lên chống lại triều đình giữa lúc nhà Nguyên chuẩn bị đưa quân sang xâm lược Đại Việt lần thứ hai. Trần Nhật Duật được lệnh đem quân dẹp loạn.
Khi Trần Nhật Duật đến Đà Giang, Giác Mật sai người đưa thư nói: “Giác Mật không dám trái lệnh triều đình, nếu ân chúa dám một mình một ngựa mà đi đến thì Giác Mật xin hàng ngay”.
Bất chấp các tướng can ngăn, Trần Nhật Duật nhận lời rồi đem các tiểu đồng cùng đi. Tới đại bản doanh của những kẻ nổi loạn, ông thản nhiên đi giữa hàng lính mặc sắc phục kì dị, lăm lăm gươm giáo được bày ra để dọa dẫm.
Trần Nhật Duật nói với Giác Mật bằng chính ngôn ngữ và theo đúng phong tục của dân tộc vùng Đà Giang: “Lũ tiểu đồng của ta đi đường thì nóng tai trái, đến đây thì nóng tai phải”, khiến vị tù trưởng và các đầu mục kinh ngạc.
Người Đà Giang có tục “ăn bằng tay, uống bằng mũi”. Khi mâm rượu được bưng lên, chỉ có quả bầu cắt đôi sóng sánh rượu và đĩa thịt nai muối. Trần Nhật Duật rất tự nhiên lấy tay cầm thịt ăn rồi vừa nhai vừa ngẩng mặt, cầm bầu rượu từ từ dốc vào lỗ mũi đầy điêu luyện.
Trịnh Giác Mật kinh ngạc thốt lên: “Chiêu Văn Vương là anh em với ta”. Trần Nhật Duật đáp lại: “Chúng ta xưa nay vẫn là anh em”, rồi gọi tiểu đồng đến, tự tay mở tráp, lấy ra những chiếc vòng bạc sáng lấp lánh, trao tận tay cho tù trưởng Đà Giang và các từng đầu mục.
Sau buổi gặp gỡ, Trịnh Giác Mật đã đem cả gia thuộc đến doanh trại Trần Nhật Duật xin hàng phục triều đình. Như vâỵ, cả miền Đà Giang đã được Trần Nhật Duật thu phục chỉ bằng sự tinh thông ngôn ngữ và văn hóa dân tộc, không phải đổ một giọt máu nào.
Về tiếng Hán – ngoại ngữ thông dụng trong giới quan lại quý tộc nhà Trần – Trần Nhật Duật cũng tỏ ra xuất sắc hơn người.
Theo thông lệ, khi sứ phương Bắc sang thì triều đình phải sai phiên dịch viên làm trung gian, tể tướng không được người trực tiếp đối thoại, đề phòng việc xảy ra sai sót gì thì còn có thể đổ lỗi cho người phiên dịch.
Nhưng tể tướng Trần Nhật Duật lại là ngoại lệ. Khi tiếp sứ nhà Nguyên ông thường nói chuyện trực tiếp với họ. Khi sứ về nơi nghỉ thì dắt tay cùng vào, ngồi uống rượu vui vẻ như bạn vẫn quen biết.
Chính tiếng Hán lưu loát và sự am hiểu văn hóa Hán đã khiến sứ nhà Nguyên tưởng Trần Nhật Duật là người Hán di cư sang Đại Việt, đặt câu hỏi: “Ông là người vùng Chân Định (một huyện ở tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc) đến làm quan ở đây chứ gì?”.
Trần Nhật Duật ra sức giải thích, nhưng sứ Nguyên vẫn không tin vì người nước Việt không thể giỏi tiếng Hán như vậy được.
Kỹ năng tiếng Hán đặc biệt của Trần Nhật Duật có thể lý giải bằng việc ông có mối quan hệ thân mật với những người Hán ở kinh thành Thăng Long.
Theo các sử liệu, Trần Nhật Duật thường hay qua nhà của Trần Đạo Chiêu là người Tống, ngồi bên nhau nói chuyện phiếm hàng giờ không thôi. Ông cũng hay đến thăm chùa Tường Phù, ở lại qua đêm để đàm đạo với nhà sư người Tống. Khách người Hán đến Thăng Long thường được ông mời đến chơi nhà, vừa thưởng trà, vừa bàn đủ thứ chuyện...
Khi đại quân Mông Cổ tiến đánh nhà Tống, nhiều binh tướng nhà Tống bại trận phải chạy sang nương nhờ Đại Việt, trong số đó có cả hoàng tử Triệu Trung cùng em gái là công chúa Triệu Hoa.
Nhờ giỏi ngôn ngữ và phong tục người Hán, Trần Nhật Duật được giao nắm giữ và tổ chức đội quân Trung Quốc này. Khi quân Nguyên Mông tiến đánh Đại Việt, đội quân này mặc trang phục và mang cờ hiệu của nhà Tống, khiến quân Nguyên Mông cứ tưởng nhà Tống đã phục quốc, cũng là một nhân tố khiến tinh thần quân Nguyên Mông suy sụp mà thua trận.
Trong số đó có Hứa Tông Đạo là một đạo sĩ người lộ Phúc Kiến. Trần Nhật Duật đãi Tông Đạo làm môn khách, thường cùng nhau đàm đạo về Đạo giáo. Khi quân Nguyên xâm lược, Tông Đạo cắt tóc ăn thề với Trần Nhật Duật, quyết tâm chiến đấu. Tông Đạo chỉ huy một đội quân người Tống tham gia cùng quân dân nhà Trần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông. Quốc sử đã ghi nhận đóng góp tích cực của đội quân do Hứa Tông Đạo chỉ huy. Sau chiến thắng, Tông Đạo được giao việc đúc chuông, xây quán, sao chép kinh kệ, giảng giải kinh pháp. Các hoàng thân, công chúa triều Trần thường góp tiền, vàng, ruộng đất cho các công việc của Tông Đạo. Năm 1231, Đại Khánh thứ tám vua Trần Minh Tông, Tông Đạo đúc quả chuông cho cung Thái Thanh, ở quán Thông Thánh thuộc Bạch Hạc và tự tay viết bài ký thuật lại sự việc này. Chính bài ký này nói đến Trần Nhật Duật làm trấn thủ lộ Tuyên Quang.