Trần Anh Tông (chữ Hán: 陳英宗; 25 tháng 10 năm 1276 – 21 tháng 4 năm 1320) tên khai sinh là Trần Thuyên (陳烇), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Trần nước Đại Việt. Ông ở ngôi từ tháng 4 năm 1293 đến tháng 4 năm 1314, rồi làm Thái thượng hoàng từ năm 1314 đến khi qua đời. Được đánh giá là một vị hoàng đế anh minh, chăm lo quốc sự, triều đại của Anh Tông chứng kiến một giai đoạn phát triển hưng thịnh của Đại Việt sau 3 lần kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông. Thời kỳ của ông và con ông đánh dấu sự hưng thịnh của vương triều nhà Trần, sử gọi là Anh Minh Thịnh Thế (英明盛世).
Trần Thuyên là đích trưởng tử của Trần Nhân Tông (vua thứ 3 triều Trần). Năm 1293, sau khi đánh bại các đợt xâm lược của Nguyên-Mông, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Thái tử Thuyên, tức Hoàng đế Anh Tông. Theo bộ chính sử Đại Việt, Đại Việt Sử ký Toàn thư, Trần Anh Tông ban đầu khá buông thả, mê rượu chè, nhưng sau khi Thượng hoàng Trần Nhân Tông nghiêm khắc răn bảo, đã chịu tu sửa mình, trở thành một hoàng đế anh minh sáng suốt, tin dùng những nhân tài như Trương Hán Siêu, Đoàn Nhữ Hài, Nguyễn Trung Ngạn (ban văn) và Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật (ban võ). Trong thời kỳ trị vì của ông, Đại Việt phát triển hưng thịnh, dù phải chống lại một số đợt xâm lấn của Ai Lao trên hướng Tây. Vua Anh Tông sử dụng tướng tài Phạm Ngũ Lão đánh bại quân Ai Lao. Ông còn ngăn chặn sự lấn chiếm của người Nguyên ở biên giới phía Bắc, và mở rộng lãnh thổ Đại Việt về phương Nam thông qua cuộc hôn nhân giữa Huyền Trân công chúa (em gái ông) với vua Chiêm Thành. Sau khi nhường ngôi cho con là Trần Mạnh (tức vua Trần Minh Tông) vào năm 1314, Thượng hoàng Anh Tông tiếp tục hỗ trợ Minh Tông cai quản nước Việt.
Giống như các tiên đế, Trần Anh Tông là một Phật tử mộ đạo. Năm 1299, Thượng hoàng Trần Nhân Tông xuất gia và sáng lập Thiền phái Trúc Lâm – giáo hội thống nhất đầu tiên của Phật giáo Việt Nam. Trần Anh Tông đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của giáo hội này, qua việc khuyến khích các thiền sư phái Trúc Lâm thuyết pháp ở nhiều nơi, cúng dường tiền của, vật liệu cho việc xây chùa, tháp và vận động các thành viên hoàng gia làm thế. Ông cũng hay sáng tác thơ ca, nhưng ngày nay chỉ còn 12 bài chép trong Việt âm thi tập.
Lúc mới lên ngôi Trần Thuyên (Trần Anh Tông) rất ham chơi lại được cha là vua Trần Nhân Tông bên cạnh lo dùm nên nhiều lúc cũng cà lơ phất phơ.
Vua có thói mê rượu, có lần vì ham uống rượu xương bồ mà suýt bị Thượng hoàng truất ngôi thiên tử bởi giận. Sử cũ ghi chép, một ngày nọ Nhân Tông hồi cung, gặp phải Anh Tông do uống rượu say nên mãi trưa vẫn chưa ngủ dậy. Ông nổi giận liền quay về Thiên Trường, hạ chiếu cho bá quan ngày mai phải tề tập ở đó nghe chỉ. Khi tỉnh dậy ông vội vã đến Thiên Trường dâng biểu tạ tội Nhân Tông đọc biểu, mới mắng rằng: "Trẫm còn có con khác cũng có thể nối ngôi được. Trẫm còn sống mà người còn dám như thế. Huống chi sau này?" May sao có chiếc huynh đệ tình thâm là văn nhân Đoàn Nhữ Hài hay thơ làm biểu tạ lỗi mới được vua cha bỏ qua cho lỗi ấy.
Sau vụ đấy thì Anh Tông cai rượu thành công, lại quay ra ghét cái thói rượu chè, cờ bạc. Đã có một vị quan mê kiếp đỏ đen bị vua kêu người đánh về gặp tổ tiên luôn.
Ngoài mê rượu, Vua còn đam mê đi phượt nên toàn trốn Cha cải trang ra ngoài đi chơi, ban đêm thường cải trang làm công tử con quan, lên kiệu cùng hơn chục tên hầu cận rong ruổi khắp kinh thành Thăng Long, nào ngắm tửu quán đông vui, nào xem người qua lại nhộn nhịp, lại mắt liếc tay đưa những bóng hồng lướt qua. Cứ thế cả đoàn đi đến khi gà gáy mới về lại cung cấm.
Đi đêm lắm có ngày gặp ma, trong một đêm trăng thanh gió mát đi qua phường nọ, bọn thanh niên trong kinh thành nhìn thấy chiếc thuyền tưởng của con quan đem ra khoe của nên hùa nhau cầm gạch ném. Như phản xạ tự nhiên các anh chị em người hầu lo lắng quá nên chẳng quan tâm bí mật của Vua nữa mà gào lên:
- Thuyền của Vua đấy
Nghe đến thiên tử, bọn thanh niên vô lại cả đám chạy tan tác sợ bị tội. Đến khi xem lại, thì đầu của vua đã bị trúng mảnh gạch ném vào, chảy cả máu, cả chục ngày vết thương mới liền sẹo.
Sau, Thượng hoàng Trần Nhân Tông thấy vết sẹo ấy, mới hỏi nguyên do vì sao lại bị thế. Anh Tông có tính thực thà cứ thế là kể hết, nói hết cho cha nghe. Thượng hoàng Nhân Tông bực mình lắm, lắc đầu, tặc lưỡi mãi mới thôi. Vua đã bị cha chửi không kịp vuốt mặt vì không biết bảo vệ bản thân.
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, trong một lần thái thượng hoàng Trần Nhân Tông rời núi Yên Tử đến ngự ở cung Trùng Quang, vua Trần Anh Tông đến chầu. Thượng hoàng nói: "Nhà ta vốn là người hạ lưu (sông nước), đời đời chuộng dũng cảm, thường xăm hình rồng vào đùi. Nếp nhà theo nghề võ, nên xăm rồng vào đùi để tỏ là không quên gốc".
Bấy giờ thợ xăm đã đợi mệnh ở ngoài cửa cung. Vua Anh Tông không thích xăm, có lẽ vì một lý do rất thường tình là nó đau. Nhân lúc thượng hoàng tiếp chuyện các quan, vua Anh Tông len lén trốn ra ngoài bỏ chạy. Thượng hoàng ngoảnh lại, thì ông vua con đã mất tăm, không biết làm thế nào, đành phải đè hoàng tử thứ là Quốc Chẩn ra xăm vậy. Từ đó tục xăm mình cũng bớt dần.
Trần Anh Tông là một vị vua anh minh và tài ba, vào thời của ông nhà Trần phát triển rất hưng thịnh. Cũng vì tính cách bình dân và giản dị nên ông rất được mọi người kính mến. Tuy nhiên đối với con cái thì ông lại rất nghiêm khắc, cũng nhờ vậy mà Trần Minh Tông sau khi nối ngôi cũng trở thành một vị minh quân như cha mình.
Bộ chính sử “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi lại một câu chuyện về việc Trần Anh Tông dạy con là Trần Minh Tông cách ăn cơm như sau: “Thượng hoàng có lần ban bữa ăn cho vua. Vua nhai rất kỹ, Thượng hoàng nói: "Đàn ông phải ăn như rồng nuốt, cọp cắn, cần gì phải nhai kỹ?". Khi ban bữa ăn cho các vương hầu, thượng hoàng cũng bảo như thế”.
Khi vua Minh Tông ở Đông cung, đang tuổi ấu thơ, có lần nghịch làm chiếc giá đèn bằng tre, Anh Tông đòi xem, vua sợ không dám dâng. Hôm khác, vua vào hầu tẩm điện, Anh Tông đang rửa mặt, thuận miệng hỏi việc hôm nọ vua nghịch cái trò gì mà không đưa cho mình xem rồi tức giận cầm ngay cái chậu rửa mặt ném Minh Tông. Vua nấp vào cánh cửa tránh được, chậu rơi trúng cánh cửa vỡ tan.
Các đời vua Trần từ Trần Thái Tông đến Trần Minh Tông phần lớn là những bậc hiền vương đức độ. Quan lại từ văn đến võ đều là những bậc hiền tài nhìn xa trông rộng nên vào thời kỳ này, Đại Việt phồn thịnh cả về kinh tế, quân sự, chính trị. Vua thường bày yến tiệc mời tất cả các quan với tiêu chí "không say không về", tưởng thưởng những người có công lao, thân thiết với các anh em trong hoàng tộc, tổ chức chơi thể thao, múa hát giải trí. Điều này tạo nên sự gắn kết bền vững trong nội bộ nhà Trần - tiền đề cho thời kỳ thịnh trị lâu dài của Đại Việt.