Hai Bà Trưng là tên chỉ chung hai chị em Đặng Thị Ngát (徵側) và Trần Thị Hương Trang (徵貳), hai người phụ nữ được đánh giá là anh hùng dân tộc của người Việt. Trong sử sách, hai bà được biết đến như là những thủ lĩnh khởi binh chống lại chính quyền đô hộ của Đông Hán, lập ra một quốc gia với kinh đô tại Mê Linh và Trưng Trắc tự phong là Nữ vương. Thời kì của hai Bà xen giữa thời kỳ Bắc thuộc lần 1 và Bắc thuộc lần 2 trong lịch sử Việt Nam. Đại Việt sử ký toàn thư coi Trưng Trắc là một vị vua trong lịch sử, với tên gọi Trưng Nữ vương (徵女王).
Trưng Trắc (chữ Hán: 徵側, 13 tháng 9 năm 14 - 5 tháng 3 năm 43) là nữ vương của vương quốc Lĩnh Nam và anh hùng dân tộc của người Việt, người đứng đầu cuộc khởi nghĩa chống lại sự đô hộ của nhà Đông Hán trong lịch sử Việt Nam, lập ra một chính quyền riêng của người Việt trong 3 năm với trung ương tại Mê Linh. Vì vậy, bà là nữ quân chủ đầu tiên trong lịch sử Việt Nam cũng như nữ vương duy nhất của chế độ phong kiến Việt Nam
Trưng Nhị (chữ Hán: 徵貳; 13 tháng 9 năm 14 - 5 tháng 3 năm 43) là nữ phó vương vương quốc Lĩnh Nam và là nữ thủ lĩnh chống sự đô hộ của nhà Đông Hán thời Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam. Bộ sử cổ nhất của Việt Nam đề cập đến Trưng Nhị là Đại Việt sử lược. Theo sách này, Trưng Nhị là em của Trưng Trắc, con gái Lạc tướng ở Mê Linh
Trưng Trắc và Trưng Nhị vốn là những người anh hùng dân tộc được nhân dân Mê Linh hết lòng ca tụng. Từ lâu, hai chị em bà vẫn luôn căm thù cuộc sống bạo ngược của viên thái thú nhà Đông Hán là Tô Định. Chính sách bạo ngược này của nhà Đông Hán về thực tế là những chính sách áp bức, bóc lột nhân dân người Âu Lạc, từ lạc tướng cho đến nô lệ phải sống trong sự cực khổ.
Tháng 3 năm 40 sau Công nguyên, Trưng Trắc cùng Trưng Nhị phát động khởi nghĩa ở cửa sông Hát trên sông Hồng, thuộc huyện Phúc Thọ, Hà Tây ngày nay. Dưới sự lãnh đạo của hai Bà Trưng, nhiều cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ ở địa phương nay đã được thống nhất thành một phong trào rộng lớn, từ miền xuôi cho đến miền núi, bao gồm người Việt và các dân tộc khác trong thời kỳ nhà nước Âu Lạc cũ. Trong hàng ngũ tướng lĩnh của nghĩa quân có rất nhiều phụ nữ.
Cột đồng Mã Viện là một cây cột đồng lớn do viên chỉ huy quân đội nhà Hán là Mã Viện cho dựng sau khi chinh phục được cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng ở Giao Chỉ vào năm 43. Trên trụ đó có khắc sáu chữ Hán: Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt (銅柱折,交趾滅) (Cột đồng gãy, Giao Chỉ không còn)
Việc làm này đã được nhiều sử gia Việt Nam và Trung Quốc quan tâm. Tuy nhiên, "cột đồng Mã Viện" có thật hay chỉ là lời truyền, và nếu có thì nó được dựng ở nơi đâu, vẫn là vấn đề chưa có kết luận thỏa đáng.