Đế hệ thi (chữ Hán: 帝系詩) là một bài thơ theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt do vua Minh Mạng định ra để đặt tên cho con cháu của mình. Ngoài ra, ông còn định luôn 10 bài Phiên hệ thi (藩系詩) để đặt tên cho con cháu các thế hệ của các anh em mình (tức con trai của Gia Long).
Về nguồn gốc của quyết định này, tương truyền vào năm Minh Mạng thứ 4 (1823), Minh Mạng dựa vào thuyết Chính danh của Khổng Mạnh, đã sai Khê đình hầu Đinh Hồng Phiên (Đinh Nguyễn Phiên) làm ra 2 bộ thơ này, quá trình khảo chứng đã xác định chính xác thông tin này.
Bài Đế Hệ Thi gồm 20 chữ, dùng làm chữ lót tên cho mỗi thế hệ từ Minh Mạng trở về sau.
Nguyên văn
...
綿洪膺寶永
保貴定隆長
賢能堪繼述
世瑞國嘉昌
Phiên âm
...
MIÊN HỒNG ƯNG BỬU VĨNH
BẢO QUÝ ĐỊNH LONG TRƯỜNG
HIỀN NĂNG KHAM KẾ THUẬT
THẾ THOẠI QUỐC GIA XƯƠNG
Tạm dịch
...
Huân nghiệp lớn do Tổ Tiên gầy dựng,
Gắng giữ gìn cho xứng ân sau., phồn vinh thịnh đạt dài lâu,
Anh tài hiền đức cùng nhau bảo toàn.
Đời đời nối nghiệp tiền nhân, nước nhà hưng vượng muôn phần phát huy.
Giải nghĩa:
MIÊN: Trường cửu, phước duyên trên hết
HƯỜNG (HỒNG): Oai hùng, đúc kết thế gia
ƯNG: Nên danh, xây dựng sơn hà
BỬU: Bối báu, lợi tha quần chúng
VĨNH: Bền chí, hùng anh ca tụng
BẢO: Ôm lòng, khí dũng bình sanh
QUÝ: Cao sang, vinh hạnh công thành
ĐỊNH: Tiền quyết, thi hành oanh liệt
LONG: Vương tướng, rồng tiên nối nghiệp
TRƯỜNG: Vĩnh cửu, nối tiếp giống nòi
HIỀN: Tài đức, phúc ấm sáng soi
NĂNG: Gương nơi khuôn phép bờ cõi
KHAM: Đảm đương, mọi cơ cấu giỏi
KẾ: Hoạch sách, mây khói cân phân
THUẬT: Biên chép, lời đúng ý dân
THẾ: Mãi thọ, cận thân gia tộc
THOẠI (THỤY): Ngọc quý, tha hồ phước lộc
QUỐC: Dân phục, nằm gốc giang san
GIA: Muôn nhà, Nguyễn vẫn huy hoàng
XƯƠNG: Phồn thịnh, bình an thiên hạ
Tuy nhiên, chưa dừng lại đó, trong Ngự chế mạng danh thi còn quy định đi kèm với mỗi chữ trong bài Đế hệ thi là một bộ chữ riêng:
Miên + (宀; miên), Hường + (亻; nhân), Ưng + (礻; thị), Bửu + (山; sơn), Vĩnh + (玉; ngọc)
Bảo + (阜; phụ), Quý + (亻; nhân), Định + (言; ngôn), Long + (扌; thủ), Trường + (禾; hòa)
Hiền + (貝; bối), Năng + (力; lực), Kham + (扌; thủ), Kế + (言; ngôn), Thuật + (心; tâm)
Thế + (玉; ngọc), Thoại + (石; thạch), Quốc + (大; đại), Gia + (禾; hòa), Xương + (小; tiểu)
Tên đặt cho các hoàng tử lúc chưa làm Hoàng đế, bắt buộc phải dùng một chữ có bộ đó, ví dụ:
Thiệu Trị, tên thật Miên Tông (綿宗): có chữ lót là [Miên; 綿], và tên là [Tông; 宗 thuộc bộ miên 宀], và tất cả các anh em của Thiệu Trị cũng đều phải có tên có chữ bộ Miên cả. Sau khi Thiệu Trị lên ngôi, con của các vị hoàng tử anh em của nhà vua phải đặt tên không được có bộ [nhân; 亻], trừ các con của Thiệu Trị.
Tự Đức không có con, nên lấy cháu làm Thái tử. Người cháu được chọn kế vị tên là Nguyễn Phúc Ưng Ái, chữ lót thì đúng, nhưng tên không có bộ [thị; 礻], xét ra trên hoàng phổ không phải dòng họ chính của Hoàng đế, nên để được lập, Ưng Ái được đổi tên thành Ưng Chân (膺禛), chữ Chân này có bộ thị.
Với bài Đế hệ thi, Minh Mạng mong muốn sau mình, vương triều Nguyễn sẽ truyền nối tới 20 đời, 500 năm. Nhưng cuối cùng chỉ dừng lại ở chữ Vĩnh - đời thứ 5, do 11 Hoàng đế nối tiếp thuộc cả chi khác và thế hệ trước.
Thế hệ đầu theo Đế hệ thi là Hoàng đế thứ 3 Thiệu Trị - Nguyễn Phúc MIÊN Tông.
Thế hệ thứ 2 có 2 vị vua là Hoàng đế thứ 4 Tự Đức - Nguyễn Phúc HỒNG Nhậm và Hoàng đế thứ 6 Hiệp Hòa - Nguyễn Phúc HỒNG Dật.
Thế hệ thứ 3 gồm 4 vị vua:
Hoàng đế thứ 5 Dục Đức - Nguyễn Phúc ƯNG Chân;
Hoàng đế thứ 7 Kiến Phúc - Nguyễn Phúc ƯNG Đăng;
Hoàng đế thứ 8 Hàm Nghi - Nguyễn Phúc ƯNG Lịch;
Hoàng đế thứ 9 Đồng Khánh - Nguyễn Phúc ƯNG Kỷ.
Thế hệ thứ 4 có Hoàng đế thứ 10 Thành Thái - Nguyễn Phúc BỬU Lân và Hoàng đế thứ 12 Khải Định - Nguyễn Phúc BỬU Đảo.
Hai vị vua thuộc thế hệ thứ 5 là Hoàng đế thứ 11 Duy Tân - Nguyễn Phúc VĨNH San và vị Hoàng đế cuối cùng (Hoàng đế thứ 13) Bảo Đại - Nguyễn Phúc VĨNH Thụy.
Các quy định trên dành cho Hoàng tử, còn đối với Hoàng nữ thì việc đặt chữ lót khác hẳn:
Các Hoàng nữ (thế hệ 1) đặt tên thời Gia Long còn theo chữ Ngọc (玉), nhưng về sau đều theo ý nghĩa mà đặt. Khi đến tuổi trưởng thành, các Hoàng nữ sẽ nhận danh hiệu Công chúa. Như Hoàng nữ Vĩnh Trinh, có phong hiệu Quy Đức công chúa (歸德公主) vậy.
Cháu gái của Hoàng đế (thế hệ 2), tức là con gái của những Công chúa và các Hoàng tử, được gọi là Công Nữ (公女); chắt gái (thế hệ 3) được gọi là Công Tôn Nữ (公孫女); chắt gái (thế hệ 4) là Công Tằng Tôn Nữ (公曾孫女)... để cho gọn, họ thường được rút ngắn lại thành Tôn Nữ với ý nghĩa là cháu gái của các Hoàng đế. Các Tôn Nữ không có phong hiệu.
Bài Đế hệ thi được khắc trong một cuốn sách bằng vàng (kim sách), cất trong hòm vàng (kim quỹ) để lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, các bài Phiên hệ thi cũng được khắc trong các cuốn sách bằng bạc.
Năm 1945, khi vua Bảo Đại thoái vị đã nộp lại cho Chính phủ Việt Minh ấn kiếm và kim sách Đế hệ thi. Hiện nay, kim sách Đế hệ thi đang được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam. Sách làm theo khổ chữ nhật đứng, gồm 13 tờ vàng, gồm bìa trước và sau chạm hình rồng bay trong mây và 11 tờ ruột khắc sách văn, gáy đóng 4 khuyên tròn. Ngày 31 tháng 3, năm 2016, sau nhiều thăng trầm lịch sử, lần đầu tiên kim sách Đế hệ thi đã được Bảo tàng Lịch sử quốc gia đưa ra giới thiệu tới quảng đại công chúng trong cuộc trưng bày chuyên đề "Bảo vật hoàng cung - Kim sách Triều Nguyễn (1802 - 1945)".
Vua Minh Mạng ban cho dòng họ của các con của Gia Long 10 bài phiên hệ thi. Vì sao 10 bài? Bởi vua Gia Long có 13 con trai, 2 mất sớm, còn 11, trừ Minh Mạng thì còn 10 người
I. Tăng Duệ Hoàng Thái Tử
(Hoàng trưởng tử của vua Gia Long)
Mỹ Lệ Tăng Cường Tráng
Liên Huy Phát Bội Hương
Linh Nghi Hàm Tốn Thuận
Vỹ Vọng Biểu Khôn Quang.
Anh Duệ là hoàng thái tử Nguyễn Phúc Cảnh (1780 - 1801), hậu duệ theo bài thơ vừa nêu để đặt chữ lót lần lượt, ví dụ cụ thể:
1. Con của Nguyễn Phúc Cảnh là Nguyễn Phúc Mỹ Đường.
2. Con của Nguyễn Phúc Mỹ Đường là Nguyễn Phúc Lệ Chung.
3. Con của Nguyễn Phúc Lệ Chung là Nguyễn Phúc Tăng Du.
4. Con của Nguyễn Phúc Tăng Du là Nguyễn Phúc Cường Để (Kỳ Ngoại hầu).
5. Con của Nguyễn Phúc Cường Để là Nguyễn Phúc Tráng Cử.
6. Con của Nguyễn Phúc Tráng Cử là Nguyễn Phúc Liên Thành.
7. Con của Nguyễn Phúc Liên Thành là Nguyễn Phúc Huy Tuấn.
2. Kiến An Vương
(Hoàng đệ ngũ tử của vua Gia Long)
Lương Cẩn An Hòa Thuật
Du Hành Suất Nghĩa Phương
Dưỡng Di Tương Thức Hảo
Cao Túc Thế Vi Tường
Về sau, do phạm húy, Cẩn chuyển thành Kiến, An chuyển thành Ninh.
3. Định Viễn Quận Vương
(Hoàng đệ lục tử của vua Gia Long)
Tịnh Hoài Chiêm Viễn Ái
Cảnh Ngưỡng Mậu Thanh Kha
Nghiễm Cách Do Trung Đạt
Liên Trung Tập Cát Đa
4. Diên Khánh Vương
(Hoàng đệ thất tử của vua Gia Long)
Diên Hội Phong Hanh Hợp
Nguyên Phùng Thái Lãng Nghi
Hậu Lưu Thành Tú Diệu
Diễn Khánh Thích Phương Huy
Về sau, do phạm húy, Nguyên chuyển thành Trọng, Thái chuyển thành Tuấn
5. Điện Bàn Công
(Hoàng đệ bát tử của vua Gia Long)
Tín Điện Tư Duy Chính
Thành Tồn Lợi Kiến Trinh
Túc Cung Thừa Hữu Nghị
Vinh Hiển Tập Khanh Danh
Về sau, do phạm húy, Kiến chuyển thành Thỏa.
6. Thiệu Hóa Quận Vương
(Hoàng đệ cửu tử của vua Gia Long)
Thiện Thiệu Thuần Tuần Lý
Văn Tri Tại Mẫn Cầu
Ngưng Lân Tài Chí Lạc
Địch Đạo Duẫn Phu Hưu
Về sau, do phạm húy, Thuần chuyển thành Kỳ, Cầu chuyển thành Du.
7. Quảng Oai Công
(Hoàng đệ thập tử của vua Gia Long)
Phụng Phù Huy Khải Quảng
Kim Ngọc Trác Tiêu Kỳ
Điển Học Kỳ Gia Chí
Đôn Di Khắc Tự Trì
8. Thường Tín Quận Vương
(Hoàng đệ thập nhất tử của vua Gia Long)
Thường Hổ Tuân Gia Huấn
Lâm Túy Trang Thạnh Cung
Thận Tu Di Tấn Đức
Thụ Ích Mậu Tân Công
Về sau, do phạm húy, Hổ chuyển thành Cát.
9. An Khánh Vương
(Hoàng đệ thập nhị tử của vua Gia Long)
Khâm Hoa Xưng Ý Phạm
Nhã Chính Thủy Hoằng Qui
Khởi Để Đằng Cần Dự
Quyến Ninh Công Tập Hi
Về sau, do phạm húy, Hoa chuyển thành Tùng / Tòng.
10. Từ Sơn Công
(Hoàng đệ thập tam tử của vua Gia Long)
Từ Thế Dương Quỳnh Cẩm
Phu Văn Ái Diệu Hoàng
Bách Chi Giai Phụ Dực
Vạn Diệp Diệu Khuôn Tương
Về sau, do phạm húy, Hoàng chuyển thành Dương, Giai chuyển thành Quân.
Chữ lót của mỗi đời dùng một chữ trong bài thơ, nhưng tên ở mỗi đời thì phải dùng một bộ trong ngũ hành theo thứ tự: thổ, kim, thủy, mộc, hỏa và trở lại, vì thế tên của tất cả đời thứ nhất dùng bộ thổ.