Pháp thuộc là một giai đoạn trong lịch sử Việt Nam kéo dài 61 năm, bắt đầu từ 1884 khi Pháp ép triều đình Huế kí Hòa ước Giáp Thân cho đến 1945 khi Pháp mất quyền cai trị ở Đông Dương. Tuy nhiên, nhiều tài liệu khác cho rằng thời kỳ Pháp thuộc cần được tính từ năm 1867 (tức là kéo dài gần 80 năm), khi Nam Kỳ Lục tỉnh bị nhà Nguyễn cắt nhượng cho Pháp, trở thành lãnh thổ đầu tiên Pháp chiếm được trong quá trình Pháp xâm lược Đại Nam.
Trong thời kỳ này, Pháp thôn tính Việt Nam, Campuchia và Lào. Mất chủ quyền, Việt Nam bị chia cắt thành 3 xứ riêng biệt với ba cơ cấu hành chính riêng: xứ thuộc địa Nam Kỳ và hai xứ bảo hộ Bắc và Trung Kỳ. Cao Miên (Campuchia), Ai Lao cũng chịu sự cai trị của Pháp, và nhượng địa Quảng Châu Loan tiếp theo bị gom vào Liên bang Đông Dương.
Pháp tấn công Đà Nẵng (1858)
Tháng 9 năm 1945, Pháp đem quân trở lại Việt Nam. Tuy người Pháp đã thừa nhận Việt Nam là nước tự do trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp nhưng chiến tranh Đông Dương vẫn bùng nổ và Pháp đã thất bại sau 9 năm chiến tranh. Pháp buộc phải công nhận nền độc lập của Việt Nam (cũng như Lào và Campuchia), chính thức chấm dứt thời kỳ Pháp thuộc, đồng thời kéo theo sự sụp đổ hệ thống thuộc địa của Pháp và các nước thực dân khác trên khắp thế giới vào thập niên 1950 – 1960. Cuộc chiến tranh này ở Việt Nam còn được gọi là Kháng chiến chống Pháp, Kháng chiến 9 năm, 9 năm kháng chiến trường kỳ, Thời 9 năm, Hồi 9 năm. Các tài liệu nghiên cứu, sách báo ở nước ngoài phần lớn gọi là Chiến tranh Việt-Pháp hoặc Chiến tranh Đông Dương.
– Mặc dù đã ký Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946, nhưng thực dân Pháp không nghiêm túc thực hiện mà ra sức khiêu khích, phá hoại. Chúng không ngừng bắn ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, tìm cách thành lập “Nam Kỳ tự trị”. Hạ tuần tháng 11 năm 1946, chúng chiếm đóng ở Hải Phòng và Lạng Sơn.
– Đầu tháng 12 chúng đánh úp lên Đà Nẵng, chiếm đóng Hải Dương và tăng thêm quân ở Hải Phòng.
– Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12/1946, quân Pháp ra sức khiêu khích đốt cháy Nhà Thông tin ở phố Tràng Tiền và phá chướng ngại vật ở phố Lò Đúc, bắn vào nhà dân thường như phố Hàng Bún, Yên Ninh, chiếm đóng trụ sở chính Bộ Tài chính, Bộ Giao Thông công chính.
– Lúc này, bộ mặt của thực dân Pháp muốn xâm lược nước ta đã rõ ràng. Trước tình hình đó đòi hỏi Đáng và Chính phủ ra những quyết sách kịp thời. Ngày 12-12-1946, Đảng ta đã họp và ra chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”.
– Trong các ngày 18 và 19-12-1946, quân Pháp gửi tối hậu thư buộc ta phải giải tán lực lượng tự vệ ở Hà Nội và nắm quyền kiểm soát thủ đô, nếu không được thì chậm nhất là sáng ngày 20-12-1946 chúng sẽ chuyển sang hành động.
– Nền độc lập của cả nước đang bị đe dọa.Vì thế trong hai ngày 18 và 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Vạn Phúc, Hà Đông phát động cuộc kháng chiến toàn quốc. Khoảng 20h ngày 19-12-1946 công nhân nhà máy điện Yên Phụ phá máy, cả Hà Nội tắt điện. Đảng phát động cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu.
1. Chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947:
– Diễn biến:
+ Vào ngày 7 – 10 – 1947, thực dân Pháp mở cuộc tiến công Việt Bắc. Theo chỉ thị của Đảng, quân dân ta anh dũng chiến đấu, từng bước đẩy lùi cuộc tiến công của địch.
+ Quân dân ta bao vây, tiến công địch nhiều nơi ở Bắc Kạn, buộc địch rút khỏi Chợ Đồn và Chợ Rã. Quân ta chặn đánh địch trên Đường số 4, trận đèo Bông Lau, phục kích đánh địch trên sông Lô, nổi bật là trận Đoan Hùng và Khe Lau.
+ Vào ngày 19 – 12 – 1947, đại bộ phận quân Pháp rút khỏi Việt Bắc. Chiến dịch kết thúc.
– Kết quả và ý nghĩa
+ Kết quả: Loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6.000 tên địch, phá huỷ nhiều phương tiện , vũ khí chiến tranh. Cơ quan đầu não của kháng chiến được bảo toàn, bộ đội chủ lực của ta ngày càng trưởng thành.
+ Ý nghĩa: Chiến thắng Việt Bắc đã chuyển hóa cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp sang giai đoạn mới, bước đầu thất bại chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của Pháp, buộc chúng phải chuyển sang “đánh lâu dài”.
2. Chiến dịch biên giới thu-đông 1950:
– Diễn biến:
+ 16-9-1950. ta mở màn chiến dịch bằng trận đánh Đông Khê một cứ điểm quan trọng trên đường số 4
+ Ngày 18/9/ 1950 ta chiếm được hoàn toàn Đông Khê, Thất Khê bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập.
+ Pháp rút khỏi Cao Bằng men theo đường số 4 và cho quân từ Thất Khê lên chiếm lại Đông Khê và đón quân từ Cao Bằng rút về.
+ Ta chủ động mai phục, chặn đánh địch trên đường số 4, khiến cho hai cánh quân này không có cơ hội hội ngộ.
+ Quân Pháp lần lượt rút khỏi Thất Khê và Na Sầm. Đến ngày 22/10/1950 đường số 4 được giải phóng hoàn toàn.
– Kết quả:đuổi hơn 8.000 tên địch ra khỏi vòng chiến đấu, giải phóng đường biên giới từ Cao Bằng với 35 vạn dân, phá tan hành lang Đông – Tây, thế bao vây của địch đối với căn cứ Việt Bắc bị phá vỡ với thất bại của kế hoạch Rơve.
– Ý nghĩa:
+ Đường liên lạc của ta với các nước XHCN được nới lỏng, khai thông .
+ Chiến dịch Biên Giới đã chứng minh Bộ đội ta đã trưởng thành qua 4 năm kháng chiến ta đã giành được thế chủ động trên chiến trường Bắc Bộ .
+ Mở ra bước phát triển mới có lợi cho ta trong cuộc kháng chiến .
3. Chiến dịch Điện Biên Phủ 1954:
– Diễn biến:
+ Đợt 1:( từ 13-3 đến 17-3-1954): tiến công địch ở phân khu Bắc, tiêu diệt cứ điểm Him Lam, Độc Lập, buộc địch ở Bản Kéo phải ra hàng.
+ Đợt 2 từ 30-3 đến 26-4-1954): mở liên tiếp nhiều cuộc tiến công đánh vào các vị trí phòng thủ phía Đông phân khu trung tâm cứ điểm và các dãy đồi A1, D1, C1,E1, Mỹ phải tăng cường viện trợ cho Pháp ở Đông Dương.
+ Đợt 3: (từ 1-5 đến 7-5-1954): đồng loạt tiến công tiêu diệt các điểm dễ kháng của địch. Chiều 7-5-1954 , quân ta đánh vào sở chỉ huy của địch, tướng Đờcátxtơri cùng toàn bộ ban tham mưu của địch bị bắt 17 giờ 30 phút ngày 7-5-1954.
– Kết quả: bắt sống 16.200 tên địch, bắn rơi 62 máy bay B52, thu hồi toàn bộ vũ khí, phương tiện chiến tranh và đập tan cứ điểm Điện Biên Phủ.
– Ý nghĩa: đập tan hoàn toàn kế hoạch Na Va và giáng đòn nặng nề vào ý chí xâm lược thay đổi cục diện chiến tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao ở Hội nghị Giơnevơ.
Chiến dịch Việt Bắc Thu Đông (1947)
Chiến dịch biên giới Thu Đông (1950)
CHIẾN THẮNG LỊCH SỬ ĐIỆN BIÊN PHỦ 1954
Cuộc kháng chiến của nhân dân VN chống đế quốc Mỹ xâm lược tiếp sau thắng lợi của Kháng chiến chống Pháp (1945-1954) để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneve được ký kết. Cuộc chiến tranh kết thúc. Quân Pháp rút về nước, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Theo Hiệp định Geneve, sau 2 năm sẽ tổ chức tổng tuyển cử thống nhất nước Việt Nam. Nhưng đế quốc Mỹ với ý đồ xâm lược Việt Nam từ lâu, đã lợi dụng cơ hội, gạt Pháp ra, nhảy vào tổ chức, chỉ huy nguỵ quyền, nguỵ quân tay sai, viện trợ kinh tế quân sự, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, chia cắt lâu dài nước ta. Cả dân tộc ta lại bước vào chiến đấu chống xâm lược mới.
Chiến tranh Việt Nam hay Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai là cuộc xung đột diễn ra tại Việt Nam, Lào và Campuchia từ ngày 1 tháng 11 năm 1955 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi chính phủ Việt Nam Cộng hòa đầu hàng chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Cuộc chiến kéo dài gần 20 năm, diễn ra không chỉ tại Nam Việt Nam mà còn mở rộng lên miền Bắc đồng thời có ảnh hưởng trực tiếp tới Nội chiến Lào và Nội chiến Campuchia. Chiến tranh kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đầu hàng vô điều kiện Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Trước đó, phần lớn công dân, nhân viên ngoại giao, quân sự và dân sự của Hoa Kỳ cùng đồng minh còn duy trì hiện diện sau năm 1973 cũng di tản do sự kiện này.
Cuộc kháng chiến trải qua 5 giai đoạn chiến lược:
Giai đoạn 1 (7.1954-12.1960): Thời kỳ giữ gìn lực lượng chuyển sang khởi nghĩa từng phần - phong trào Đồng Khởi. Miền Bắc ra sức củng cố, xây dựng theo hướng XHCN làm căn cứ địa vững chắc cho cách mạng cả nước; miền Nam từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và khởi nghĩa từng phần, đánh bại cuộc chiến tranh một phía của Mỹ.
Giai đoạn 2 (1.1961-6.1965): Cách mạng miền Nam từ khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng, đánh bại chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ.
Thắng lợi của phong trào “Đồng Khởi” đã làm thất bại cuộc chiến “chiến tranh một phía” của Eisenhower, đẩy chính quyền Ngô Đình Diệm vào thời kỳ khủng hoảng triền miên. Trước nguy cơ sụp đổ của chính quyền tay sai, Mỹ phải đối phó bằng chiến lược chiến tranh đặc biệt, ra sức củng cố và phát triển QĐ Sài Gòn, tăng cường viện trợ, cố ván và lực lượng yểm trợ của Mỹ; mở các cuộc hành quân càn quét, gom dân, lập ấp chiến lược theo kế hoạch Stanley-Taylor.
Chính quyền Kennedy công bố học thuyết chiến tranh mới: Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” và chọn miền Nam Việt Nam làm nơi thí điểm. Nội dung chủ yếu của “Chiến tranh đặc biệt” là: củng cố ngụy quyền, tăng cường khả năng chiến đấu của ngụy quân bằng chỉ huy, trang bị vũ khí, yểm trợ kỹ thuật Mỹ, tăng cường phá hoại miền Bắc, chống miền Nam thâm nhập, bình định dồn dân vào “ấp chiến lược” để thực hiện “tát nước bắt cá”, cô lập, đi đến tiêu diệt cách mạng miền Nam. Ngụy quyền, ngụy quân và “ấp chiến lược” được coi là xương sống của “Chiến tranh đặc biệt”.
Giai đoạn 3 (7.1965-12.1968): Phát triển thế tiến công chiến lược, đánh bại chiến lược "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và chiến tranh phá hoại lần 1 (7.2.1965-1.11.1968) của Mỹ ở miền Bắc.
Chiến lược toàn cầu “phản ứng linh hoạt” của Kennedy đề ra 3 hình thức chiến tranh: đặc biệt, cục bộ, tổng lực. Sau thất bại của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", Mỹ bị động chuyến sang tiến hành chiến lược "Chiến tranh cục bộ" hòng nhanh chóng kết thúc chiến tranh, cuộc “Chiến tranh cục bộ” là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới, nhưng sử dụng mức độ hạn chế quân Mỹ cùng với quân chư hầu trong khu vực và quân ngụy, trong đó quân Mỹ giữ vai trò tác chiến chủ yếu trên chiến trường. Mục tiêu “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam là nhanh chóng tạo ra ưu thế binh lực, hỏa lực “tìm diệt” chủ lực ta, giành lại thế chủ động trên chiến trường, mở rộng và củng cố vùng kiểm soát, giành lại dân; đồng thời gây chiến tranh phá hoại miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc vào miền Nam, phá hoại sự nghiệp xây dựng miền Bắc, làm lung lay ý chí giải phóng miền Nam của Đảng ta và nhân dân ta.
Giai đoạn 4 (1.1969-1.1973): Đánh bại chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh và chiến tranh phá hoại lần 2 (6.4.1972-15.1.1973) của Mỹ ở miền Bắc, buộc Mỹ phải ký hiệp định Paris 1973 về Việt Nam, rút hết quân Mỹ về nước.
Chiến lược chiến tranh cục bộ bị phá sản, Nixon chuyển sang thực hiện chiến lược "VN hoá chiến tranh", ra sức phát triển và hiện đại hoá QĐ Sài Gòn để từng bước thay thế quân Mỹ rút dần về nước; đẩy mạnh bình định ở miền Nam VN và mở rộng chiến tranh ra toàn bán đảo Đông Dương.
Trước thất bại nặng nề của QĐ Sài Gòn, Mỹ cho không quân và hải quân trở lại đánh phá ác liệt ở miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc. Cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B-52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng cuối 12.1972 (chiến dịch Linebacker II) bị đập tan (xem chiến dịch phòng không Hà Nội-Hải Phòng, 18-29.12.1972) và là một “Điện Biên Phủ trên không” đối với đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải ký hiệp định Paris về Việt Nam (27/1/1973), rút hết quân Mỹ và quân các nước phụ thuộc Mỹ ra khỏi miền Nam VN, cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của VN. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” thất bại.
Giai đoạn 5 (12.1973-30.4.1975): tạo thế, tạo lực và thực hành cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam kết thúc thắng lợi cuộc Kháng chiến chống Mỹ.
Một số hình ảnh trận địa phòng không trong Chiến thắng "Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không", năm 1972
Xe tăng 843 và xe tăng 390 lần lượt húc đổ cổng phụ và cổng chính (hướng chính diện), tiến vào Dinh Độc Lập.