Triều Nguyễn trong tiến trình lịch sử dân tộc

5 tỉnh thuộc Trung Kỳ:

    1. Quảng Bình

    2. Quảng Trị (trong đó có 9 châu ky my trong tỉnh là Mang Vanh, Na Bôn, Thượng Kế, Tâm Bồn (này là Champhone), Mang Bổng, Ba Lan (nay là Thaphalanxay), Tá Bang (nay là Thapangthong), Xương Thịnh, Làng Thìn (nay khoảng Nong, Phine đầu nguồn sông Thạch Hãn[5]) sau đó trở lại lãnh thổ Lào[6], 9 châu này nay là đất thuộc tỉnh Savannakhet). (Champhone (Chầm Bồn, Tầm Bồn), Outhoomphone (Mường Phon, Mường Bổng), (Nong, Phine) (Mường Phin, Làng Thìn, Lang Thìn), Sepone (Cha Bon, Na Bôn), Songkhone (Thương Kế), Thapangthong (Phá Băng, Tá Bang), Thaphalanxay (Ba Lan), Vilabuly (Vanh, Mường Vanh), Xonbuly (Xương Găm, Xương Thịnh)).

    3. Hà Tĩnh (gồm cả đất Trấn Tĩnh (Đông Khammuane), Lạc Biên (Nam Khammuane) nay thuộc Lào)

    4. Nghệ An (gồm cả đất Trấn Ninh (Xiengkhuang), Trấn Biên (Nam Huaphanh), Trấn Định (Borikhamxay, Bắc Khammuane) nay thuộc Lào)

    5. Thanh Hóa (gồm cả đất Trấn Man (Bắc Huaphanh) nay thuộc Lào)

13 tỉnh Bắc Kỳ:

    1. Ninh Bình (nay là đất Ninh Bình và một phần Hòa Bình)

    2. Nam Định (gồm cả đất Thái Bình và Nam Định ngày nay)

    3. Hà Nội (nay là đất các tỉnh thành Hà Nội, Hà Nam)

    4. Hưng Yên

    5. Hải Dương (gồm cả đất Hải Phòng và Hải Dương ngày nay)

    6. Quảng Yên (Quảng Ninh ngày nay)

    7. Sơn Tây (nay là đất thuộc các tỉnh thành Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hòa Bình, Phú Thọ)

    8. Bắc Ninh (nay là Bắc Ninh và Bắc Giang, một phần đất Hà Nội và Vĩnh Phúc này nay)

    9. Tuyên Quang (nay là đất các tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang)

    10. Hưng Hóa (nay là đất các tỉnh Phú Thọ, Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái)

    11. Thái Nguyên (nay là đất các tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn)

    12. Lạng Sơn

    13. Cao Bằng

Các hạt Bình - Trị, An - Tĩnh, Thanh Hoa, Hà - Ninh, Định - Yên, Hải - Yên, Ninh - Thái và Sơn - Hưng - Tuyên đặt chức Tổng đốc kiêm lĩnh Tuần phủ; lấy các chức Đô thống, Thượng thư và Thống chế sung bổ vào

Quảng Bình, Hà Tĩnh, Ninh Bình, Hưng Yên, Quảng Yên, Hưng Hoá, Lạng Sơn đặt chức Tuần phủ kiêm việc Bố chính; lấy các chức Thị lang, Tham tri sung bổ vào

- Năm 1832, Minh Mạng lại sắp xếp các trấn phía nam thành 12 tỉnh

Chương 1: Vị trí của triều Nguyễn trong lịch sử dân tộc Việt Nam

1.1. Tên gọi và cách sử dụng

Triều Nguyễn tồn tại trên thực tế từ 1802 - 1945, độc lập thực sự trong giai đoạn 1802 - 1858. Trước đó có chính quyền các chúa Nguyễn (1558 - 1777) và sau này là chính quyền vua Nguyễn (1802 - 1945) trừ khoảng thời gian gián đoạn do khởi nghĩa Tây Sơn. Trong các con và vợ của chúa và vua Nguyễn thì con gái không bao giờ ghi tên trong các tài liệu chính thức (quốc sử, gia phả) vì lý do là tên của con gái là không cần thiết. Cái nữa là nhân vật Nguyễn Ánh có chỗ ghi "Nguyễn Phúc Ánh", có chỗ ghi là "Nguyễn Ánh" vì theo giả thuyết là có một thời kỳ sử học Việt Nam cho rằng thời Nguyễn là phản động nên họ bỏ chữ "Phúc" đi.

Trong các tài liệu ghi: họ Nguyễn, thời Nguyễn là không rõ ràng vì nó không phân định rõ và chúa Nguyễn, vua Nguyễn là hai thời kỳ khác nhau. Nhà Nguyễn dùng để chỉ một triều đại.

1.2. Thời kỳ các chúa Nguyễn

  1. Theo sách Nguyễn Phúc tộc thế phả, thuỷ tổ họ Nguyễn là Định quốc công Nguyễn Bặc, khai quốc công thần của nhà Đinh. Cha của Nguyễn Bặc là nha tướng của Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ. Phạm Văn Sơn trong quyển Việt sử tân biên liệt vào danh sách "Giao Châu thất hùng", tức 7 anh hùng người Giao Châu gồm: Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Liễn, Lê Hoàn, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp và Phạm Cự Lạng. Nguyễn Bặc giúp họ Đinh đánh dẹp các sứ quân và được vua Đinh phong làm Tể tướng. Ông mất trong cuộc tấn công chống lại viên tướng Lê Hoàn.

  2. Con trai là Nguyễn Đê được vua Lê Long Đĩnh cử làm Hữu điện tiền Chỉ huy sứ. Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Đến khi Ngọa Triều băng, vua nối còn thơ, Công Uẩn cùng với Hữu điện tiền Chỉ huy sứ là Nguyễn Đê, mỗi người được đem 500 quân Tùy Long vào làm túc vệ". Khi nhà Lý lên ngôi, Nguyễn Đê được phong làm Quốc Công, Á Khanh Hầu. Ông có ba con trai là Nguyễn Quang Lợi, Nguyễn Viễn và Nguyễn Phúc Lịch.

  3. Kế tiếp là Nguyễn Viễn, con trai thứ của Nguyễn Đê. Ông là tỳ tướng của Lý Thường Kiệt, được vua phong làm Tả tướng quân, Tham tri chính sự dưới hai đời vua Lý là Lý Thánh Tông (1054-1072) và Lý Nhân Tông (1072-1127). Tiếp đó, đông xuân Bính Thìn (1076), Đinh Tỵ (1077) ông lại lập công trong chiến dịch sông Như Nguyệt cũng do Lý Thường Kiệt chỉ huy. Phả cũ ghi ông sinh một con là Nguyễn Phụng.

  4. Nguyễn Phụng (1112-1150). Nguyễn Phúc tộc thế phả cho biết vào năm Ất Dậu (1145), ông dâng lên vua một con rùa mắt có sáu ngươi, ức có bốn chữ "Vương dĩ công pháp" (Vua theo việc công). Về sau, do có liên quan đến việc chống Đỗ Anh Vũ mà ông bị sát hại. Theo các tài liệu gia phả, Nguyễn Phụng, Nguyễn Dương, và Nguyễn Quốc đều bị hại trong dịp này. Ông mất năm Canh Ngọ (1150). Không rõ lăng mộ, gia đình của ông.

  5. Nguyễn Nộn (1160 - 1229) là một sứ quân nổi dậy chống lại triều đình vào cuối thời nhà Lý, đầu thời nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Theo các sách Việt sử tiêu án, Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, ông vốn là cư sĩ ở hương Phù Đổng. Tháng 8 năm 1218, ông bắt được vàng và ngọc mà không đem dâng vua Lý Huệ Tông, do đó triều đình xuống chiếu bắt giam ông. Tháng 2 năm 1219, quyền thần Trần Tự Khánh thấy ông có tài, bèn tâu vua Huệ Tông xin tha cho Nguyễn Nộn, cho đi theo quân đánh giặc để chuộc tội. Vua Huệ Tông bằng lòng cho. Tháng 3 năm 1220, Nguyễn Nộn nhân cầm quân trong tay không trở về triều, giữ hương Nghệ An, tự xưng là Hoài Đạo Vương, dâng biểu xưng thần, xin đi dẹp loạn để chuộc tội. Theo Đại Việt sử lược, tháng 6, năm 1219, Trần Tự Khánh sai tướng Vương Lê đem binh về Nam Sách đánh Nguyễn Nộn. Quân hai bên giằng co, Trần Tự Khánh không thắng nổi quân của Nộn. Tháng chạp, Nguyễn Nộn bị bệnh nặng. Năm 1220, trong khi các sứ quân khác bị dẹp thì Nguyễn Nộn và Đoàn Thượng vẫn là hai sứ quân tồn tại chống lại triều đình (trong tay họ Trần). Năm 1225, Trần Thủ Độ chủ xướng việc nhà Trần thay nhà Lý và lo việc đánh dẹp. Tuy nhiên bấy giờ Nguyễn Nộn và Đoàn Thượng binh thế còn mạnh, chưa dễ hàng phục được, Trần Thủ Độ bèn phong cho Nộn làm Hoài Đạo Vương, chia cho các huyện Bắc Giang Thượng, Bắc Giang Hạ, Đông Ngạn. Tháng 12 năm 1228, Nguyễn Nộn đánh bại giết chết Đoàn Thượng. Thanh thế của Nguyễn Nộn rất lừng lẫy. Trần Thủ Độ lo lắng, chia quân chống giữ và sai sứ đem thư đến chúc mừng, gia phong Nộn làm Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương (懷道孝武王). Sau đó Thủ Độ lại đưa công chúa Ngoạn Thiềm gả cho ông để ngầm dò la tin tức. Tháng 3 năm 1229, Nguyễn Nộn tự xưng là Đại Thắng Vương, ham chơi buông thả, chè chén chơi bời bừa bãi. Cuối năm đó ông ốm nặng, triều đình sai nội nhân tới hỏi thăm, Nguyễn Nộn cố gượng ăn cơm, phi ngựa để tỏ ra còn khoẻ mạnh. Nhưng không bao lâu thì ông qua đời (được thờ ở 72 nơi theo gia phả). Lực lượng của ông nhanh chóng tan rã. Ông có hơn 10 người con, Nguyễn Thế Tứ là con trưởng kế tự.

  6. Tuân theo Di huấn của cha, Nguyễn Thế Tứ thần phục nhà Trần, được phong chức Đô Hiệu Kiểm. Ông có hơn 7 người con, con trưởng là Nguyễn Nạp Hoà kế tự.

  7. Nguyễn Nạp Hoà đậu Cử nhân Võ, làm quan dưới các triều Trần Dụ Tông (1341-1369), Trần Nghệ Tông (1370-1372), Trần Duệ Tông (1373-1377). Dưới triều Hiến Tông, Ông chỉ huy một vệ trong Ngự tiền Thần Võ Quân. Tháng Giêng năm 1377, Ông phò giá Trần Duệ Tông đem 12 vạn quân Nam chinh đánh Chămpa và được giao chức Bình Man Đại Tướng Quân. Năm 1377, đại quân đổ bộ lên cửa Thị Nại (nay thuộc Qui Nhơn, Bình Định), đóng quân ở Động Ỷ Mang. Đại tướng Đỗ Lễ can vua không nên vào vì sợ trúng kế địch. Vua không nghe, lệnh cho quân tiến vào. Địch phục sẵn, đổ ra đánh. Vua và các tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa, Phạm Huyền Lệnh đều tử trận. Nguyễn Nạp Hòa sinh 5 con trai: Nguyễn Luật, Nguyễn Đa Phương, còn lại đều thất truyền.

  8. Nguyễn Luật (gia phả ghi là Nguyễn Công Luật) kế tự. Ông làm quan dưới hai triều vua Trần Duệ Tông (1374 - 1377) và vua Trần Phế Đế (1377 - 1388). Ông từng nắm giữ các chức quan Giám Quân Thiên Trường, Hữu Hiệu Điểm... Năm 1388, Trần Phế Đế mưu tính với Trang Định Vương Trần Ngạc ngầm giết Hồ Quý Ly để trừ hậu họa. Việc này bị bại lộ, Hồ Quý Ly lấy cớ Trần Phế Đế đã giết Ngự Câu Vương Trần Húc (con của Thượng Hoàng Nghệ Tông), để xin Nghệ Tông lập vua khác. Trần Phế Đế bị Thượng Hoàng giáng xuống làm Minh Đức Đại Vương. Sau đó Phế Đế bị hại thắt cổ chết ở phủ Thái Dương. Những người theo Trần Phế Đế trong đó có Nguyễn Công Luật đều bị hại.Ông bị giết theo Phế Đế vào năm Mậu Thìn (1388). Ông có ba người con trai là Nguyễn Công Sách, Nguyễn Hách và Nguyễn Minh Du. Trong vụ ám sát năm mậu thìn, cả ba người con của ông đều bị bắt, sau đó chỉ duy nhất người con thứ hai là Nguyễn Hách trốn thoát được

  9. Nguyễn Minh Du. Cũng như cha, ngài cùng hai anh là Nguyễn Công Sách và Nguyẽn Hách đều làm quan dưới triều Trần Phế Đế. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Nguyễn Bát Sách là người là người cùng vú nuôi với Trần Phế Đế nên có tên là Nguyễn Thánh Du. Như vậy chứng tỏ thân sinh ông là tướng thân cận với Hoàng gia. Trần Phế Đế cho người có cùng nhũ mẫu với mình là Nguyễn Bát Sách làm Quân quân thiết sang và hai em của Nguyễn Bát Sách là Nguyễn Hách. làm Quản quân thiết liêm và Nguyễn Thánh Du làm Quản quân thiết hổ. Trong vụ thảm sát Trần Phế Đế năm Mậu Thìn (1388), ông bị bắt. Sau đó ông bị Hồ Quý Ly giết vào năm Canh ngọ (1390). Có thuyết cho rằng ông trốn thoát được và về Thanh Hóa mai danh ẩn tích.

  10. Nguyễn Biện, con trai thứ ba của Nguyễn Minh Du. Khi Du Cần Công bị HỒ Quý Ly hãm hại, ông trốn về Thanh Hóa, cư ngụ ở sơn động, chiêu tập dân miền núi, tự làm hùng trưởng (1) Khi Giản Định Đế (1407-1409) và Trùng Quang Đế (1409-1413) nhà Hậu Trần khởi nghĩa chống quân Minh, ông thường giúp đõ lương thực nên được giao làm Phụ Đạo sơn động, cai quản 12 trang (vì vậy ông còn được gọi là Quản Trang). Sau ông còn được phong làm Huệ Quốc Công. Khi nhóm Hậu Trần thất bại, ông trở về sơn động cùng bà con cấy cày làm ăn. Ông mất ngày 12 tháng 6 âm lịch (không rõ năm mất) thụy An Tâm.

  11. Nguyễn Chiếm là con thứ hai của Biện lên kế tự họ Nguyễn. Ông theo cha cai quản các sơn động, mất và được táng tại Thanh Hoá. Nguyễn Sừ kế tự.

  12. Nguyễn Sừ: ông sống ở sơn động như các vị đời trước. Do con cháu của ông có công lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và trong các triều vua kế tiếp, ông được vua Lê Hiến Tông (1479-1504) truy phong chức Đại đội trưởng Chiêu Quang Hầu (mẹ vua Lê Hiến Tông là chắc nội cuả ông). Ông mất ngày 10 tháng 4 âm lịch (không rõ năm mất), thụy là Nhân Phúc. Nguyễn Công Duẩn kế tự.

  13. Nguyễn Công Duẩn (1360 - 1431), Sổ bộ của Gia Miêu ngoại trang phiên âm là "Chuẩn", là tướng nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, Thanh Hóa, Việt Nam. Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Công Duẩn đã cung cấp 10 vạn thạch lương, có công lớn trong nhiều trận chiến với quân Minh. Sau khi giành lại giang sơn, Lê Thái Tổ phong cho Nguyễn Công Duẩn tước Thái bảo Hoàng công, cho con cháu đời đời làm quan triều Lê. Nguyễn Công Duẩn được coi việc quân dân ở huyện Tống Giang, và xin đổi huyện Tống Giang thành huyện Tống Sơn, thôn Gia Hưng thành Gia Miêu Ngoại Trang. Nguyễn Công Duẩn cùng anh là Nguyễn Dã được phong Bình Ngô khai quốc công thần, ban quốc tính thời Lê sơ. Con thứ là Như Trác kế tự hô Nguyễn Thanh Hoá.,

  14. Nguyễn Như Trác, tự là Hạo, con thứ tư của Hoằng Quốc Công Nguyễn Công Duẩn và phu nhân Mai Thị Ánh. Ông làm quan chức Tham Đốc, tước Hầu, dưới hai triều vua Lê Thánh Tông (1460-1497) và Lê Hiền Tông (1497-1504). Ông mất ngày 17 tháng 7 âm lịch (không rõ năm mất), thụy là Đức Khánh. Ông có nhiều con, biết tên một người là Nguyễn Văn Lựu.

  15. Nguyễn Văn Lựu thuở bé hiếu học, tám tuổi đả biết làm văn, 15 tuổi thì võ nghệ tinh thông. Ông giữ chức Kinh Lược Sử Đà Giang dưới triều vua Lê Hiến Tông (1497 -1504). Đến đời vua Tương Dực, (1509-1516), biến loạn nổi lên khắp nơi, giặc Trần Cao chiếm lấy Đông Đô. Ông phải đem quân từ Thanh Hóa ra, chiếm lại Đông Đô rồi rước vua Tương Dực về. Ông được phong làm Thái Tể Trừng Quốc Công. Ông mất ngày mồng 4 tháng 8 âm lịch (không rõ năm mất), thụy là Chơn Tâm

  16. Nguyễn Kim (quyển Khang Hy tự điển phiên âm là "Cam"), được con cháu họ Nguyễn gia phong làm Triệu Tổ Tĩnh hoàng đế. Thế phả ghi ông là con của Nguyễn Văn Lựu; nhưng Đại Nam thực lục (quyển 1) và Đại Việt sử ký toàn thư (bản kỷ, quyển 15) ghi ông là con của Nguyễn Hoằng Dụ, cháu của Nguyễn Văn Lang. Thời ấy cha con Mạc Đăng Doanh do thoán nghịch, nên hào kiệt không phục, thổ tù các nơi khởi binh. Nguyễn Kim đóng ở nước Ai Lao. Chúa nước Sạ Đầu cho rằng Đại Việt và nước họ có quan hệ môi răng, mới đem nhân dân và đất đai Sầm Châu cấp cho Nguyễn Kim. Từ đó Nguyễn Kim nuôi dưỡng sĩ tốt, ngấm tìm con cháu họ Lê lập nên để mưu khôi phục. Năm 1533, cựu thần nhà Lê gồm An Thanh hầu Nguyễn Kim cùng một số người khác dựng người con của vua Lê Chiêu Tông tên Duy Ninh làm vua Trang Tông; lên ngôi vua tại Ai Lao, đặt niên hiệu là Nguyên Hòa. Vua Lê Trang Tông tấn phong cho tứ vị công thần khai quốc. Nguyễn Kim là Thượng phụ Thái sư Hưng Quốc công. Mùa xuân năm Kỷ Hợi 1539, vua Lê Trang Tông phong Đại tướng quân Dực Nghĩa hầu Trịnh Kiểm, tước Dực quận công. Trịnh Kiểm vốn theo Thái sư Nguyễn Kim đi đánh dẹp, lập nhiều chiến công. Nguyễn Kim thấy có tài, bèn gả con gái là Ngọc Bảo cho. Năm 1543, Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Doanh đều đã chết, Mạc Phúc Hải lên ngôi vua. Vua Lê Trang Tông thân chinh đánh Mạc Phúc Hải, lấy được Tây Đô. Bấy giờ, Thái sư Hưng quốc công Nguyễn Kim còn ở Ai Lao chưa theo đi. Vua Lê Trang Tông sai Tuyên quận công Trịnh Công Năng mang chiếu thư về gọi. Nguyễn Kim bèn chỉnh đốn bộ ngũ lên đường ngay, bái yết vua ở hành tại sông Nghĩa Lộ. Lê Trang Tông gia thăng Kim làm thái tể, sai làm đô tướng, tiết chế tướng sĩ các dinh, chia đường cùng tiến, bình định vùng tây nam. Nguyễn Kim bị Trung Hậu hầu Dương Chấp Nhất đầu độc vào năm Ất Tỵ (1545). Ông có 3 con, con cả được gả cho Trịnh Kiểm, hai con trai là Uông và Hoàng; Hoàng kế nghiệp ông. Nguyễn Hoàng về sau được cậu của mình là Nguyễn Ư Kỷ (em của mẹ là thái hậu Nguyễn Thị Mai) giúp rập trong việc mở cõi phương Nam.

- Thái Tổ Gia Dũ hoàng đế Nguyễn Hoàng (1558 - 1613). Ông là con út của tướng Nguyễn Kim, sau anh trai là Nguyễn Uông và chị cả Ngọc Bảo. Ông sinh năm 1525, hai năm trước khi Mạc Đăng Dung làm chính biến lật đổ nhà Lê sơ và lập ra triều Mạc ở Thăng Long (Bắc triều). Sau khi cha mình bị tướng Mạc đầu độc mà mất, kế đó là người anh mình cũng bị anh rể Trịnh Kiểm sát hại nên Nguyễn Hoàng bị anh rể coi là cái gai trước mắt phải tìm cách loại bỏ. Trước tình hình như vậy, Nguyễn Hoàng phải giấu mình và bí mật bàn bạc với chú của mình là Nguyễn Ư Dĩ. Sau khi bàn mưu với cậu là Nguyễn Ư Dĩ, Nguyễn Hoàng ngầm sai sứ giả tới hỏi Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và được khuyên là Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân, nghĩa là: Một dải núi ngang có thể dung thân muôn đời được. Năm 1558, Nguyễn Hoàng nhờ chị mình xin Trịnh Kiểm vào trấn thủ Thuận Hoá và được đồng ý. Nguyễn Hoàng cùng tuỳ tùng vào Quảng Trị, lập ra các thủ phủ đầu tiên là Ái Tử (1558), Trà Bát (1570) đều thuộc tỉnh này; ông vỗ yên dân và vẫn nộp thuế đều đặn cho vua Lê - chúa Trịnh. Sau khi chiến tranh Nam - Bắc triều chấm dứt (1592), Nguyễn Hoàng ra giúp người cháu họ của ông là Trịnh Tùng đánh dẹp dư đảng họ Mạc, nhưng xong xuôi thì Tùng lại tiếp tục nghi ngờ nên Nguyễn Hoàng bỏ trốn vào Thuận Hoá (1600) dưới sự giúp sức của con thứ năm là công tử Nguyễn Hải.

Ở mặt nam, Nguyễn Hoàng cử tướng vào đánh bại quân Champa xâm nhập (1597, Lương Văn Chánh; 1611 - Văn Phong) khiến lãnh thổ của Nguyễn Hoàng mở rộng sang tận nam Khánh Hoà (tức thành An Nghiệp) với diện tích lúc này là 45.000 km2 (theo Nguyễn Đình Đầu). Để củng cố thành quả đạt được ở mặt nam, năm 1602 Nguyễn Hoàng lập dinh trấn Thanh Chiêm (Quảng Nam) giao cho công tử Nguyễn Phúc Nguyên làm trấn thủ. Cũng trong thời gian này, lưu dân bảy họ lớn đã lập ra xã An Vĩnh và hai viên tướng gốc Chăm là Vũ Thì An, Vũ Thì Trung đã giúp Nguyễn Hoàng chiếm hữu Bãi Cát Vàng khi còn là một vùng đất vô chủ (Thệ Thuỷ (1999), "Quần đảo Hoàng Sa và đội ghe thuyền của chúa Nguyễn", tạp chí Xưa và nay số 29). Theo PGS Đỗ Bang (2017) thì người Chăm đã giữ vững Bãi Cát Vàng ít nhất là trước sự kiện 1471 họ lùi về nam đèo Cù Mông (Phú Yên) và quân nhà Lê sơ chính thức tiếp quản ngay sau đó (Đỗ Bang (2017, "Quá trình khai chiếm và xác lập chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa thời chúa Nguyễn", tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 11/2017). Về ngoại thương, Nguyễn Hoàng ra sức củng cố thêm hoạt động của đô thị cổ Hội An và giao thương mạnh với nhiều nước, nhất là nước Nhật Bản thời kỳ đầu của Mạc phủ Tokugawa.

- Hy Tông Hiếu Văn Hoàng đế Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1635): ông là con thứ sáu của Nguyễn Hoàng, từng đánh bại cướp biển Nhật xâm nhập (1585) và là trấn thủ Thanh Chiêm (1602). Năm 1613 ông lên ngôi chúa. Ở mặt bắc, chúa Nguyễn áp đặt tổ chức hành chính mới và mở khoa thi (1646), cho quân đánh bại cuộc phản loạn của hai em trai Hiệp và Trạch (1620) và kéo quân mở đầu cuộc chiến tranh Nguyễn - Trịnh kéo dài 39 năm (1627 - 1672); về ngoại thương thì chúa củng cố Hội An cực thịnh với chính sách định cư cho người Hoa, người Nhật rất thoáng. Ở mặt nam, chúa gả công nữ Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp (1620) dẫn đến thành lập hai đồn thu thuế đầu tiên là Sài Gòn và Bến Nghé, thành lập dinh điền Mô Xoài; gả tiếp một công nữ cho vua Champa Po Rome (1631) sau khi đã dẹp yên cuộc phản loạn của quân Chăm do viên lưu thủ Văn Phong cầm đầu. Ở Hoàng Sa có sự kiện tàu Hà Lan bị đắm tại đây (1631 - 1636). Con trai thứ là thế tử Lan kế vị

- Thần Tông Hiếu Chiêu hoàng đế Nguyễn Phúc Lan (1635 - 1648): ông lên ngôi sau khi cha vừa mất, dời thủ phủ từ làng Phước Yên (Quảng Điền, Thừa Thiên) qua làng Kim Long (Hương Trà, Thừa Thiên) vào năm 1636, thành lập cảng thị Thanh Hà. Ở mặt bắc, chúa Nguyễn hai lần đem quân đánh bại tàu Hà Lan xâm nhập (1641, 1643) và hai lần tiến đánh quân Trịnh (1643, 1648). Ở quần đảo Hoàng Sa, chúa Nguyễn

- Thái Tông Hiếu Triết Hoàng đế Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687): trước khi lên cầm quyền, ông mang tước Dũng Lê hầu và đánh tan quân Hà Lan (1644), quân Trịnh (1648) xâm nhập. Ở mặt bắc, chúa Nguyễn nhiều lần đánh quân Trịnh (có lần đánh lên tận Nghệ An); mãi đến năm 1672 hai bên mới lấy sông Gianh làm ranh giới chia cắt hai miền, đồng thời duy trì khoa thi. Ở mặt nam, chúa Nguyễn đánh bại quân Champa xâm nhập và giữ được vùng đất tới bắc sông Phan rang (1653); với vùng Nam Bộ thì chúa Nguyễn hai lần đem quân đánh đuổi quân Chân Lạp xâm nhập (1658, 1674) giữ yên vùng Mô Xoài và đô thị Sài Gòn - Bến Nghé. Trong năm 1679, chúa Nguyễn lập đồn dinh ở Tân Mỹ (bây giờ gần ngã tư Cống Quỳnh - Nguyễn Trãi) cho người Hoa đến cư trú; đồng thời hai đoàn người Hoa của Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên vào khai phá vùng Mỹ Tho và Đồng Nai.

- Anh Tông Hiếu Nghĩa hoàng đế Nguyễn Phúc Thái (1687 - 1691): sau khi lên ngôi, chúa Nguyễn dời dinh phủ Chúa sang làng Phú Xuân và nơi này trở thành Kinh Đô của triều Nguyễn sau này và được gọi là chính dinh. Ở mặt nam bộ, chúa Nguyễn đánh bại cuộc phản loạn của Hoàng Tiến ở Mỹ Tho (1688 - 1689), hai lần đánh tan quân Chân Lạp để buộc vua Nặc Thu phải tiến cống (1690).

- Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng đế Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725): ở mặt nam, chúa Nguyễn đánh bại hoàn toàn quân Champa (1692 - 1693) đặt phủ Bình Thuận. Tình hình nước Chân Lạp ở phía nam rất lộn xộn: sau khi đánh tan quân Chân Lạp (1690, 1698) thì chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu Cảnh vào nam kinh lược, đặt phủ Gia Định; nhưng đầu thế kỷ XVIII tình hình Chân Lạp cực kỳ rối ren khiến chúa Nguyễn phải hai lần đem quân vào bình định. Năm 1708, Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên cho chúa Nguyễn. Ở mặt bắc, chúa Nguyễn xây nhiều chúa Phật giáo và mời thầy Thích Đại Sán về giảng đạo; năm 1712 ông dời thủ phủ về Bác Vọng. Với quần đảo Hoàng Sa, chúa Nguyễn Phúc Chu tiếp nhận các sản vật của đội Hoàng Sa dâng; đồng thời lập đội Bắc Hải (đầu thế kỷ XVIII).

- Túc Tông Hiếu Ninh Hoàng đế Nguyễn Phúc Trú (1725 - 1738): vừa lên cầm quyền, chúa Nguyễn ban bố các điều răn dạy dân. Ở Nam Bộ, năm 1732 chúa Nguyễn tiếp nhận Longhor và Mesar của vua Chân Lạp và lập dinh Long Hồ, châu Định Viễn. Năm 1735 chúa thành lập Đồn dinh Điều Khiển, cử Mạc Thiên Tứ tiếp tục là Tổng trấn Hà Tiên.

- Thế Tông Hiếu Vũ Hoàng đế Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765): vừa lên ngôi, chúa được quần thần tôn làm Võ Vương (1744). Ở mặt nam, năm 1739 Mạc Thiên Tứ lập thêm bốn huyện: Long Xuyên (Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ) và Trấn Di (bắc Bạc Liêu). Về sau, nhân việc vua Chân Lạp là Nặc Nguyên (1745 - 1756) nhiều lần đem quân quấy nhiễu dân Côn-man (Champa) ở biên giới tây nam, chúa cử Nguyễn Cư Trinh vào đánh. Nặc Nguyên thua trận và dâng hai phủ Tầm Bôn (Long An) và Lôi Lạp (Gò Công) để tạ tội với chúa Nguyễn (1756). Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận đã vội dâng hai phủ Trà Vang (Trà Vinh), Ba Thắc (Sóc Trăng) cho chúa Nguyễn để được lên ngôi. Năm 1757, Nặc Tôn lên ngôi đã dâng đất Tầm-phong-long để tạ ơn chúa Nguyễn; chúa Nguyễn tiếp nhận và cho dời dinh lỵ xuống Vĩnh Long ngày nay, đặt ra các đạo là Đông Khẩu (Sa Đéc), Tân Châu (An Giang) và Châu Đốc (Hậu Giang, Châu Đốc). Tiếp đó Nặc Tôn dâng tiếp năm phủ Hương úc, Cần Vọt, Chân Sum, Sài Mạt, Linh Quỳnh để tạ ơn Mạc Thiên Tứ, được chúa Nguyễn cho nhập vào trấn Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ lập Giá Khê làm đạo Kiên Giang, Cà Mau làm đạo Long Xuyên.

- Duệ Tông Hiếu Định Hoàng đế Nguyễn Phúc Thuần (1765 - 1777): ở mặt bắc, ông phong Trương Phúc Loan làm Thái phó và ông này rất tham nhũng, liên tục thua nghĩa quân Tây Sơn và mất gần hết đất đai. Ở mặt nam, chúa Nguyễn thất bại trong chiến tranh với Xiêm và vùng Hà Tiên trở thành chiến trường ác liệt giữa hai phe; trong khi đó chúa Nguyễn cũng ra sức giữ vững thành quả: trong năm 1772, Nguyễn Cửu Đàm xây dựng Luỹ Bán Bích bảo vệ thành Sài Gòn; đồng thời ở miệt tây nam bộ thì chúa Nguyễn sai quan trấn Gia Định đem đất Mỹ Tho lập thành đạo Trường Đồn, để rồi năm 1781 chúa Nguyễn Ánh đổi thành dinh Trấn Định

1.3. Thời kỳ các vua Nguyễn

  1. Gia Long: huý là Nguyễn Ánh (hay Nguyễn Phúc Ánh), là cháu của Vũ vương Khoát. Lúc mới sinh thì ông có tên là Chủng, hoặc Noãn; cha là Phúc Luân. Khi cha bị Trương Phúc Loan hại chết, lúc đó Ánh mới 4 tuổi. Sau khi chúa Nguyễn cuối cùng bị nghĩa quân Tây Sơn sát hại, Nguyễn Ánh phải chạy trốn khắp nơi và đến năm 1778 thì ông xưng Vương và tiến hành chiến tranh với nghĩa quân Tây Sơn. Năm 1790, Nguyễn Ánh lấy lại được Gia Định, đổi thành Gia Định kinh và xây dựng thành Bát Quái. Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, lập ra triều Nguyễn; năm 1804 đổi tên nước là Việt Nam; năm 1806 lên ngôi Hoàng đế. Năm 1816, ông cắm cờ chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa. Ông qua đời năm 1820, con trai thứ 4 là Hoàng tử Đảm lên thay

  2. Minh Mạng: Hoàng đế Minh Mạng tên là Nguyễn Phúc Đảm, còn có tên là Kiểu, con thứ 4 của Hoàng đế Gia Long và bà Nguyễn Thị Đang (Thuận Thiên Cao Hoàng hậu). Ông lên ngôi năm 1820. Trong thời gian ở ngôi, nhà vua đã có nhiều cải cách quan trọng: cho bỏ các dinh và trấn mà thành lập các tỉnh (cả nước được chia làm 31 tỉnh). Hoàng đế cho lập Quốc Tử Giám, mở thêm kỳ thi Hội và thi Đình (thời Gia Long chỉ có thi Hương). Lãnh thổ Việt Nam dưới thời Minh Mạng được mở rộng nhất trong lịch sử và Việt Nam thực sự trở thành một quốc gia hùng mạnh. Vì vậy vào năm 1838, Hoàng đế Minh Mạng cho đổi tên nước ta là Đại Nam. Ông mất năm 1841.

  3. Thiệu Trị: ông là con trưởng của Minh Mạng, lên ngôi năm 1841. Ông tên ban đầu là Dung, rồi Miên Tông, lúc lên ngôi đổi tên là Tuyền. Ông thích thơ va hạn chế thấp nhất các cuộc chiến tranh ra bên ngoài. Không như vua cha Minh Mạng, Thiệu Trị ít có tham vọng về mở rộng lãnh thổ và khuếch trương thanh thế, ông cho rút quân khỏi Chân Lạp. Triều đình Huế không có thiện cảm với Công giáo, một số giáo sĩ bị giam và bị xử tử khiến Pháp ngang nhiên đem tàu vào đánh phá Đà Nẵng. Ông mất và con thứ hai lên ngôi, hiệu là Tự Đức.

  4. Tự Đức: tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (阮福洪任), khi lên ngôi đổi thành Nguyễn Phúc Thì (阮福時) và niên hiệu là Tự Đức từ năm 1848. Theo tài liệu của Yoshiharu Tsuboi, Hồng Nhậm được cha vợ có thế lực là Trương Đăng Quế đưa lên ngôi; nhưng theo Hoàng Trọng Thược, Tinh thần trào phúng thi ca xứ Huế, 1973 và Nguyễn Q.Thắng - Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, 1991 thì Tự Đức là con trai của Trương Đăng Quế tư thông với bà Từ Dụ. Sách Nguyễn Phúc tộc thế phả chép rõ thêm: "Sử nhà Nguyễn chép về việc của An Phong quận vương quá vắn tắt, chứng tỏ thiếu minh bạch. Di chiếu đức Hiến Tổ (vua Thiệu Trị), tuy có chép trong Quốc triều chính biên, nhưng dính vào việc phế truất ông đương nhiên phải có đại thần Trương Đăng Quế và bà Từ Dũ". Vua Tự Đức là một người thông minh, hiểu biết sâu rộng về nhiều lĩnh vực như: nghệ thuật, lịch sử, triết học… và nhất là Nho học. Vua Tự Đức còn là một nhà văn, một nhà thơ lớn khi có tới 600 bài văn, 4.000 bài thơ chữ Hán và hàng trăm bài thơ chữ Nôm. Nhưng Tự Đức lại không phải là một vị vua “thạo việc triều chính, biết tính toán khôn lường” bởi tính cách đơn thuần, hiền lành, đôi lúc có phần nhu nhược khi ký các hoà ước với Pháp, kéo dài đến gần lúc Tự Đức mất (1883). Ông có 103 vợ, nhưng không có con kế tự.

  5. Dục Đức: tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Ái, sau đổi thành Nguyễn Phúc Ưng Chân (阮福膺禛), cháu trai của Thiệu Trị và là con trai của Thoại Thái vương Hồng Y. Trước khi lên ngôi, Ưng Chân bí mật chuyển nhiều tài liệu cho tên trú sứ Pháp là Rheinart (1881, theo Nguyễn Phước tộc thế phả). Ông lên ngôi mới 3 ngày (20 - 23/7/1883) thì bị Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường phế truất, đưa Hồng Dật (con út của vua Thiệu Trị) lên ngôi

  6. Hiệp Hoà: Hiệp Hòa có húy là Hồng Dật (洪佚), là con trai thứ 29, và cũng là út nam của vua Thiệu Trị, lên ngôi ngày 30/7/1883. Năm 1883, Hiệp Hòa buộc phải ký Hiệp ước Harmand với Pháp với những điều khoản nặng nề, như nước Nam phải chấp nhận sự bảo hộ của Pháp và Pháp có quyền kiểm soát quan hệ của nước Nam với các quốc gia khác, kể cả Trung Hoa; và tỉnh Bình Thuận phải nhập vào Nam Bộ do Pháp chiếm làm thuộc địa. Với bản hiệp ước này, uy tín vua Hiệp Hòa trong triều đình cũng như với dân chúng bị tổn hại nghiêm trọng. Hiệp Hoà bị ép uống thuốc độc mà băng hà (theo Nguyễn Thế Anh) vào ngày 29/11/1883

  7. Kiến Phúc: tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Đăng (阮福膺登), là vị hoàng đế thứ bảy của triều đại nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam; ông là cháu của Thiệu Trị và là con thứ của Kiên quốc công Hồng Cai. Ông lên ngôi ngày 2 tháng 12 năm 1883;

  8. Lúc bấy giờ ở Bắc Kỳ, lực lượng của Hoàng Kế Viêm, Trương Quang Đản hãy còn phối hợp với quân nhà Thanh, kình chống với quân Pháp. Viên Khâm sứ Pháp ở Huế lấy điều đó ra trách cứ, khiến triều đình có dụ truyền cho hai viên tướng ấy phải về Kinh. Nhân nhượng như vậy, nhưng ít lâu sau quân Pháp vẫn tiến đánh và chiếm đoạt các tỉnh là Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Hóa và Tuyên Quang. Ngày 18 tháng 4 (âm lịch) năm Giáp Thân (1884), Pháp ký kết hòa ước Thiên Tân (còn gọi là Hòa ước Fournier) với nhà Thanh. Đại lược rằng triều Thanh thuận rút quân đóng ở Bắc Kỳ về, và từ đấy về sau họ để cho nước Pháp được tự do xếp đặt mọi việc ở đất Việt Nam. Thắng thế, ngày 13 tháng 5 (âm lịch) năm đó (tức ngày 6 tháng 6 năm 1884), đại diện Pháp Jules Patenôtre ký tờ hòa ước mới với triều đình nhà Nguyễn. Đó là Hòa ước Giáp Thân (1884), công nhận cuộc bảo hộ của Pháp và chia nước Việt ra làm hai khu vực là Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Đang khi đất nước rối ren như thế, thì vua Kiến Phúc mất vào ngày 10 tháng 6 (âm lịch) năm Giáp Thân (31 tháng 7 năm 1884), hưởng dương 15 tuổi. Em trai là Ưng Lịch lên ngôi

  9. Hàm Nghi: húy là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, khi lên ngôi đổi thành Nguyễn Phúc Minh. Ông là con thứ năm của Kiên quốc vương Hồng Cai. Sáng ngày 12 tháng 6 năm Giáp Thân, tức ngày 2 tháng 8 năm 1884, Ưng Lịch được dìu đi giữa hai hàng thị vệ, tiến vào điện Thái Hòa để làm lễ lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Hàm Nghi. Khi đó Ưng Lịch mới 13 tuổi. Đêm 22 rạng 23 tháng 5 âm lịch (tức đêm ngày 5 rạng ngày 6 tháng 7 năm 1885), Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, vì thấy người Pháp khinh mạn vua mình như vậy, nên quyết định ra tay trước: đem quân tấn công trại binh của Pháp ở đồn Mang Cá. Đến sáng thì quân Pháp phản công, quân triều Nguyễn thua chạy, rời bỏ Kinh thành Huế. Ông bị Pháp bắt lưu đày Algeria năm 1888, mất tại đó năm 1944

  10. Đồng Khánh: huý là Ưng Kỷ (Chánh Mông, Biện), là con cả của Kiên quốc vương và là con nuôi của Tự Đức. Ông được người Pháp đưa lên ngôi ngày 19 tháng 9 năm 1885, hiệu là Đồng Khánh sau khi Hàm Nghi rời ngôi vị được 2 tháng. Ông củng cố cung đình; Trong sinh hoạt thường ngày, nhà vua hay chú ý đến ngoại diện, thường chăm sóc trang điểm và phủ dụ phong trào Cần vương bất thành. Ngày 28 tháng 1 năm 1889 (âm lịch ngày 27 tháng 12 năm Mậu Tý), lúc 8 giờ tối, Đồng Khánh băng hà ở điện Càn Thành, hưởng dương 24 tuổi, trị vì được 3 năm

  11. Thành Thái: tên thật là Nguyễn Phúc Bửu Lân (阮福寶嶙), khi lên ngôi đổi thành Nguyễn Phúc Chiêu (阮福昭). Ông là con thứ 7 của vua Dục Đức, chắt của Thiệu Trị. Ngày 2 tháng 2 năm 1889 Bửu Lân lên ngôi tại điện Thái Hòa lấy hiệu là Thành Thái. Thành Thái được đánh giá là người cầu tiến, yêu nước và chống Pháp. Khác với những vị vua trước đây, ông học chữ Nho, học tiếng Pháp và cũng cho cả con cái của mình cùng theo học chữ Pháp. Không nói ra, nhưng rõ ràng ý định của ông là học chữ Pháp để có thể giao tiếp với những người này với tinh thần chống Pháp. Ông còn cắt tóc ngắn, mặc âu phục, học cả lái ca nô, xe hơi, làm quen với vǎn minh phương Tây. Là vị vua gần gũi với dân chúng, ông thường xuyên đi vi hành. Ông có ý thức chống Pháp rất lớn. Trước các ý tưởng cấp tiến của Thành Thái, người Pháp lo ngại tìm cách ngăn trở. Ngày 3/9/1907, Thành Thái thoái vị và bị Pháp lưu đày, về sau ông được về nước và mất tại Sài Gòn năm 1954.

  12. Duy Tân: tên húy là Nguyễn Phúc Vĩnh San (阮福永珊), khi lên ngôi đổi thành Nguyễn Phúc Hoảng, con thứ 8 của Thành Thái. Ông tham gia bí mật Việt Nam quang phục hội, tổ chức kháng Pháp thất bại và bị đi đày, mất ở Trung Phi năm 1945.

  13. Khải Định: Khải Định có tên khai sinh là Nguyễn Phúc Bửu Đảo (阮福寶嶹), khi lên ngôi lấy ngự danh là Nguyễn Phúc Tuấn (阮福晙), là con trưởng của vua Đồng Khánh, lên ngôi năm 1916. Ngày 20 tháng 5 năm 1922, Khải Định sang Pháp dự Hội chợ thuộc địa ở Marseille. Đây là lần đầu tiên một vị vua triều Nguyễn ra nước ngoài. Chuyến công du của Khải Định đã làm dấy lên nhiều hoạt động của người Việt Nam yêu nước nhằm phản đối ông. Phan Châu Trinh đã gửi một bức thư dài trách Khải Định 7 tội, thường gọi là Thư thất điều hay Thất điều trần. Tháng 9 năm 1924, từ Pháp về, Khải Định còn lo tổ chức lễ tứ tuần đại khánh rất lớn và tốn kém, bắt nhân dân khắp nơi gửi quà mừng. Ông mất năm 1925, con nuôi là Vĩnh Thuỵ lên ngôi

  14. Bảo Đại: ông là con duy nhất của Khải Định, huý là Vĩnh Thuỵ. Ông du học ở Pháp năm 1922, lên ngôi Hoàng đế năm 1926. Tháng 3/1945, ông tuyên bố độc lập dưới sự bảo trợ của Nhật và thành lập chính phủ Đế quốc Việt Nam Trần Trọng Kim. Ngày 30/8/1945, Bảo Đại ra chiếu thoái vị; làm cố vấn cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà một thời gian; năm 1949, Bảo Đại thành lập chính quyền Quốc gia Việt Nam (1949 - 1955). Ông mất tại Pháp năm 1997

1.4. Phân kỳ lịch sử triều Nguyễn

Theo các mốc thời gian xác định: 1858, 1862, 1884, 1885, 1896. Mở đầu là mốc năm 1858 là mốc phương thức sản xuất tư bản bắt đầu du nhập vào nước ta, nền độc lập dân tộc bị đe doạ nghiêm trọng. Phân kỳ này mang tính chất tương đối để xác định tiêu chí nào cho đúng, vì giai đoạn cận đại đánh dấu sự hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lenin. Thời cận đại của Việt Nam được lấy mốc năm 1896 tức là năm Pháp tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ nhất để đưa phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào, nhưng điều đó bất hợp lý vì độc lập dân tộc là trên hết nên lấy mốc năm 1858 là hợp lý.

Vấn đề mốc thời gian cho giành độc lập dân tộc: lấy mốc 1858 không phù hợp vì lúc này Pháp mới đánh. Nhưng lấy mốc 1885 là rất hợp lý vì thực tế quyền lực triều đình đã bị phái chủ chiến nên mới có sự kiện phản công kinh thành Huế (7/1885), nước ta thực tế mất hẳn nền độc lập từ 1885 mặc dù trên giấy tờ là năm 1884.

Mốc thời gian 1858 được chọn làm mốc chủ đạo vì Pháp bắt đầu xâm lược và truyền bá phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào nước ta. Nhưng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam phát triển yếu vì nó chỉ tập trung ở một số lĩnh vực và một số vùng chứ không phải cả nước; công nhân Việt Nam ra đời trước tư sản và họ gắn bó máu thịt với nông dân.

1.5. Sự thành lập triều Nguyễn và tổ chức bộ máy chính quyền Nguyễn

a. Thuận lợi

- Lãnh thổ được thống nhất

- Thừa hưởng kết quả của quá trình mở cõi phương Nam từ thời Lý - Trần, Lê sơ và trực tiếp, có nhiều công lao nhất là các chúa Nguyễn

- Có lực lượng quân sự mạnh và giàu kinh nghiệm

- Có kinh nghiệm trong các mối quan hệ với phương Tây

- Kế thừa di sản từ mô hình thể chế chính trị và mô hình tổ chức bộ máy nhà nước qua các thời kỳ

b. Khó khăn

- Tính chính danh (chính đáng): dòng dõi của Gia Long vốn là cựu thần của vua Lê nên có thể làm vua được hay không ? Tính chính danh sẽ được xét ở nền tảng kinh tế - xã hội:

+ Ở Bắc Kỳ: mỗi vùng có những đặc điểm khác nhau nên con người ở đó có sự phân ly nhất định. Giới trí thức Bắc Hà có phân hoá lớn - một số theo Quang Trung, số khác theo Nguyễn Ánh; nên khi Ánh thắng ông ta đã bắt những trí thức Bắc Hà theo Tây Sơn ra phạt roi ở Văn Miếu. Thời Tự Đức họ vẫn còn chống đối nên khó khăn rất lớn

+ Ở Nam Kỳ: thành phân dân cư phức tạp, có cả người Việt, người Hoa, người Khmer vào cư trú ở Nam Kỳ. Đa số họ ủng hộ chúa Nguyễn vì các chúa tạo điều kiện cho họ vào làm ăn; nhưng nền tảng chính trị cũng chưa thật sự vững chắc bởi nền tảng kinh tế - xã hội có nhiều biến động. Cấu trúc làng xã, cấu trúc xã hội ở Nam Kỳ rất khác nên không vững chắc.

+ Ở miền Trung: phát triển hơn nhiều do kinh đô Phú Xuân đóng tại đây, vị trí địa lý dù nhỏ hẹp nhưng nó là kinh đô của các vua Nguyễn. Cư dân miền Trung gắn bó lâu đời với vua Nguyễn nên vua chọn chủ yếu là người miền Trung sung vào quân đội: miền Trung 3 người lấy một, miền Bắc và miền Nam là 5 người lấy 1, miền núi là 10 người lấy 1. Cần quân chiến đấu thì lấy người Bình Định

- Đưa quân nước ngoài vào giày xéo nước ta

- Thiếu kinh nghiệm trong quản lý một lãnh thổ rộng lớn

- Thiết chế chính trị không có sự bảo vệ vững chắc của nền tảng kinh tế - xã hội

- Sự chống đối của nhiều lực lượng: nổi bật nhất là khởi nghĩa Lê Văn Khôi. Việc lập các khu tự trị phía bắc khiến khởi nghĩa Nông Văn Vân bùng phát (1833 - 1835). Thời Minh Mạng, ông ta bỏ chế độ dòng họ và thay bằng chế độ lưu quan, khiến khởi nghĩa bùng phát mạnh hơn; kết quả là Tự Đức phải bãi bỏ chế độ lưu quan này. Năm 1854, viên quan Cao Bá Quát nổi dậy chống lại nhà Nguyễn, khẩu hiệu phù Lê.

c. Tình hình ruộng đất thời Nguyễn

Theo Sĩ hoạn tư tri lục của Nguyễn Công Tiệp thì vào năm 1843, ruộng công còn 580.613 mẫu, chủ yếu là ruộng công làng xã, chiếm 17,08%; ruộng tư chiếm 82,92% và chi phối toàn bộ chế độ sở hữu ruộng đất thời Nguyễn. Ruộng tư là chủ yếu nên địa chủ bóc lột tá điền thông qua địa tô

d. Sự thành lập các cơ quan triều đình thời Nguyễn

Nhà Nguyễn lúc đầu theo tản quyền, về sau là phát triển lên tập quyền cao độ để khôi phục lại theo thời Lê sơ

Các cơ quan ở triều đình:

- Lục bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công

- các cơ quan phụ trách hoàng cung: Tôn nhân phủ, Xử thị vệ, Nội lệnh sử, Thái y viện, Cẩn tín ty

- các cơ quan phụ trách văn phòng: Thị thư viện, Thị hàn viện, Nội hàn viện, Thượng bữu ty, Văn thư phòng, Nội các

- các cơ quan phụ trách lễ nghi: Thái thường tự, Quang lộc tự

- các cơ quan phụ trách văn hoá và khoa học: Quốc tử giám, Hàn lăm viện, Khâm thiên giám, Quốc sử quán

- các cơ quan phụ trách kho tàng: Nội vụ phủ, Vũ khố và Thương trường

- cơ quan phụ trách thông tin: Tào chính ty, Bưu chính ty

- các cơ quan phụ trách giám sát: Tả - Hữu Đô ngự sử, Nha thư viện Đô sát với các chức Cấp sự trung và Giám sát ngự sử

Vua Gia Long lúc đầu chấp nhận tản quyền, chia đất nước ra Bắc thành và Gia Định thành; mục đích là để nghiên cứu và sắp xếp bộ máy chính quyền mới cho phù hợp với đặc điểm từng khu vực; thời gian này các quan Tổng trấn (Gia Định thành, Bắc thành) có quyền lực rất lớn nên Gia Long ban đầu tổ chức "công đồng" là tổ chức các buổi họp chung của vua với các quan để ra mệnh lệnh mang tính tập thể. Minh Mạng lên ngôi sau đó đã hạ các bậc hàm xuống vì sợ các quan lấn quyền. Quan lại thời Nguyễn có 18 cấp bậc, với chín bậc từ Nhất phẩm đến Cửu phẩm; ở mỗi bậc lại chia ra Chánh và Tòng (Chánh Nhất phẩm, Tòng nhất phẩm...). Trên 18 bậc quan là Tôn thất nhà Nguyễn

* Tổ chức ở các địa phương:

+ Triều đình: Thành - Trấn/Dinh - Phủ - Huyện/Châu - Tổng - Xã. Ở Bắc thành là 7 trấn, Gia Định thành là 4 dinh (hành chính - quân sự); thời chúa Nguyễn tổ chức thành: Thuyền - Đội - Cơ - Dinh. Triều đình quản lý các dinh, ở dinh Quảng Nam đứng đầu là Chưởng cơ (bậc Cửu phẩm) ngang với hàm Đại tá ngày nay. Từ kinh dô Huế ra các tỉnh gần gọi là "trực" (Tả trực, Hữu trực), các tỉnh ở xa kinh đô gọi là "kỳ" (Tả kỳ, Hữu kỳ)

* Bắc thành: gồm 11 trấn (5 nội trấn và 6 ngoại trấn), tính từ khu vực Ninh Bình trở lên phía bắc. Các trấn của Bắc Thành bao gồm: Nội trấn: Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương. Ngoại trấn: Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên

* Gia Định thành: cai quản 5 trấn là Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường và An Giang.

Cơ cấu tổ chức của Thành: Đứng đầu là Tổng trấn (cất bãi các quan lại, xử án; xử trước rồi mới tâu). Giúp việc cho Tổng trấn là Hiệp Tổng trấn và Phó Tổng trấn, Cai bạ, Cai án, Tri bạ phụ tá. Các cơ quan thừa hành là Tam tào: Hộ tào (kiêm Công phòng), Binh tào (kiêm Lễ phòng) và Hình tào (kiêm Lại phòng). Mỗi tào có một Tham tri, một Thiêm sự (từ Bộ cử ra). Tả thừa ty (Lại, Binh, Hình) và Hữu thừa ty (Hộ, Lễ, Công) chuyên thu thuế, xử án và binh dịch.

Đứng đầu Trấn là Trấn thủ (3a), Hiệp trấn (3a) và Tham hiệp trấn (4a). Đứng đầu Dinh là Lưu thủ (3a), Cai bạ (3a), phụ tá và Ký lục (3a). Cơ quan thừa hành Trấn/Dinh là Tả và Hữu thừa ty; Câu kê (TG3a), Cai hợp (TG7b), Thủ hợp (TG8b), Ty lại (TG9b)

Ở các vùng đất mới khai phá thì Gia Long thành lập các "Đạo" lệ thuộc vào Trấn. Đạo Thanh Bình thuộc trấn Thanh Hoa; đạo Long Xuyên và Kiên Giang thuộc trấn Hà Tiên. Đứng đầu là Quản đạo và Hiệp thủ (cùng là 7b); giúp việc là Câu kê, Cai hợp, Thủ hợp, Ty lai

Dưới Dinh/Trấn là Phủ, chuyên quản lý hành chính. Đứng đầu là Tri phủ (6a); giúp việc có Đề lại (TG9b), Thông lại, Chính sai và 50 lính. Phủ quản lý huyện và châu; có Dinh không có Phủ như Quảng Trị, Quảng Bình

Huyện là cấp hành chính ở đồng bằng và miền núi; thay mặt triều đình thu thuế, quân dịch và xử án. Đứng đầu là Tri huyện (7a); giúp việc là Đề lại (1 - 2 người) và Thông lại (1 - 8 người) cùng 50 lính

Xã tồn tại hai cấu trúc quyền lực. Đứng đầu là Xã trưởng (sau đổi thành Lý trưởng); giúp việc là Phó lý và Khán thủ (Trùm trưởng). Hai bộ máy tự trị chính là Hội đồng kỳ mục (hưu quan, chức sắc, xã nhiêu, lão hạng; đứng đầu là Tiên chỉ và Thứ chỉ), Hội đồng tộc biểu (tập hợp các trưởng tộc, đứng đầu các dòng họ lớn trong làng)

# Đến thời Minh Mạng, ông tiến hành cải cách hành chính lớn. Cải cách Minh Mạng vì lý do quyền lợi và chính trị:

- Định lại 18 thứ bậc (Văn giai, Võ giai). Bãi bỏ trật Tản giai và thiết lập chế độ Cửu khanh (Lục bộ, Đô sát viện, Đại lý tự, Thông chính sứ ty). Đô sát viện lo việc giám sát quan lại ở trung ương và địa phương; Đại lý tự lo việc hình án; Thông chính sứ ty lo việc truyền mật những thông tin quan trọng.

- Thành lập Nội các. Ban đầu Nội các là Văn thư phòng (gồm Thị thư viện, Thị hàn viện, Nội hàn ty hợp lại) với 4 tào là Thượng bảo (giữ các sổ ấn tỷ, phó bản chỉ dụ, các công văn, Biểu hạ (giữa châu phê, hồng bản, châu khuyên, phó bản chương sổ sách trong ngoài), Đồ thư (giữ các sáng tác của vua, đồ hoạ của nhà nước, công văn ngoại giao), Ký chú (giữ nhật ký của vua, tấu sở của các quan lại, phó bản của các án kiện); năm 1829 đổi thành Nội các. Giữ con dấu là Thượng bảo khanh và Thượng bảo thiếu khanh. Có 4 Quản lĩnh được cử từ Viện và Bộ ra. Thuộc viên gồm 28 người với các phẩm trật Thị độc, Thừa chỉ, Tu soạn, Biên tu, Kiêm thảo, Đãi chiếu, Điền bạ

- Thành lập Cơ mật viện (1832) chuyên tư vấn cho vua các vấn đề về chính trị, ngoại giao và những vấn đề mang tính cơ mật quốc gia. Gồm 4 đại thần có hàm từ tam phẩm trở lên phụ trách. Tổ chức Bắc chương kinh (Hà Tĩnh trở ra) và Nam chương kinh (từ Quảng Binh trở vào)

- Hoàn thiện Lục bộ và Lục khoa: thời Gia Long vẫn theo quan chế nhà Hậu Lê (Thượng thư, Tham tri, Thiêm sự, Câu kê, Cai hợp, Thủ hợp). Đến thời Minh Mạng, ông đặt chức Lang trung, Chủ sự, Tư vụ (1821); bỏ Cai hợp và Thủ hợp (1822); bỏ Thiêm sự (lấy Lang trung thay thế), đặt Thị lang; bỏ Câu kê, đặt Viên ngoại lang (1827). Từ năm 1827 là: Thượng thư (2a), Tham tri (2b), Thị lang (3a), Lang trung (4a), Viên ngoại lang (5a), Chủ sự (6a), Tư vụ (7a), Thư lại (8a, 9a), Vị nhập lưu

- Đặt các "tự": Gia Long mới đặt Thái thường tự và Thái bộc tự. Thời Minh Mạng đặt thêm Đại lý tự, Quang lộc tự, Hồng lô tự, Thượng bảo tự:

+ Đại lý tự là cơ quan tư pháp tối cao của triều Nguyễn, xét xử các vụ kiện quan trọng trong nước (Đại lý tự + Đô sát viện + Bộ Hình = Tam pháp ty).

+ Thái thường tự là cơ quan phụ trách việc thi hành những thể thức lễ nghi trong nước

+ Quang lộc tự là cơ quan phụ trách việc cung cấp và nấu rượu lễ, đồ lễ, đồ ăn trong các bữa tế tự, triều hội, yến tiệc cung đình, yến tiệc ân vinh Tiến sĩ

+ Thái bộc tự phụ trách các trách nhiệm trông coi, nuôi cấp ngựa, giữ gìn những xe ngựa của hoàng tộc (vua và các hoàng tử), và điều hành các mục súc (đồng cỏ để nuôi ngựa) trên toàn quốc

+ Thượng bảo tự phụ trách việc văn phòng giúp vua, giữ ấn triện, sao chép sắc chỉ, dụ vua ban hoặc những chương sớ sổ sách đã được vua chuẩn y, đóng ấn quyền thi Hội

+ Hồng lô tự còn phụ trách việc xướng danh các vị tân khoa tiến sĩ đậu kỳ thi Đình, phụ trách việc thể thức lễ nghi trong các bữa yến tiệc dành cho những sứ đoàn từ các triều hoặc nước khác đến

Nhóm các cơ quan phụ trách sinh hoạt của Hoàng tộc như Tông nhân phủ, Cần tín ty, Thái y viện

Nhóm các cơ quan phụ trách giữ gìn đồ đạc của Hoàng tộc: Nội vụ phủ, Vũ khố, Thường trường

Các cơ quan văn hoá giáo dục: Quốc tử giám (1803), Hàn lâm viện (1804), Khâm thiên giám (1805), Quốc sử quán (1820), Tào chính ty (1822), Thông chính sứ ty (1834), Bưu chính sứ ty (1820)...

Năm 1832 lập Đô sát viện. Đặt chức tả - hữu Đô ngự sử, ngang với chức Thượng thư Lục bộ; tả - hữu Phó đô ngự sử ngang với chức Tham tri Lục bộ. Các thuộc viên là Lục khoa Cấp sự trung, Thập lục đạo giám sát ngự sử; Lục sự trật 7a, Thư lại trật 8a và 9a, Thư lại vị nhập lưu

* Cơ cấu tổ chức gồm Lục khoa và Thập lục đạo:

Lục khoa gồm: Lại khoa, Lễ khoa, Hộ khoa, Binh khoa, Hình khoa, Công khoa

Thập lục đạo tương ứng với các liên tỉnh: Kinh sư, Nam - Ngãi, Bình - Phú, Thuận - Khánh, Định - Biên, Long - Tường, An - Hà, Trị - Bình, An - Tĩnh, Thanh Hoá, Hà - Ninh, Định - Yên, Hải - An, Sơn - Hưng - Tuyên, Ninh - Thái, Lạng - Bình

Quan hệ Khoa - Đạo: Nam - Ngãi và Ninh - Thái hội đồng với Lại khoa; Long - Tường, Định - Yên và Lạng - Bình hội đồng với Hộ khoa; An - Biên, Hải - Yên hội đồng với Lễ khoa; An - Hà, Thanh Hoa và Sơn - Hưng - Tuyên hội đồng với Binh khoa; Bình - Phú và An - Tĩnh hội đồng với Hình khoa; Thuận - Khánh, Bình - Trị và Hà - Ninh hội đồng với Công khoa.

Chức sự: đối với việc của triều đình thì việc được hay việc hỏng cứ thực tâu bày. Đối với việc lợi hại liên quan đến nhân dân thì linh hoạt chỗ nào nên làm và chỗ nào nên đổi cứ thực tâu bày. Đối với việc cơ mật thì cứ tâu bày sự thực, đóng niêm phong gửi lên. Không được kêu xàm nhảm nhí, không được nghe hơi bắt bóng và hiềm riêng mà càn bậy bới chuyện

=> Thượng thư Lục bộ + Đô sát viện + Thông chính sứ ty + Đại lý tự = Cửu khanh

** Ở địa phương thời Minh Mạng

- Năm 1830, Minh Mạng bãi bỏ "Dinh" và đổi thành "Trấn" cho các cấp hành chính thuộc triều đình.

- Năm 1831, Minh Mạng chia hạt và đặt chức quan từ Quảng Trị trở ra Bắc. Các chức quan chủ yếu là Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chính, Án sát, Lãnh binh, Tổng trấn, các tào, Trấn thủ, Hiệp trấn, Tham hiệp ở các trấn trước. Nhà vua thực hiện chia các trấn phía bắc làm 18 tỉnh[4] (trong đó 13 tỉnh thuộc Bắc Kỳ và 5 tỉnh thuộc Trung Kỳ (5 tỉnh này còn gọi là hữu kỳ)):

+ Tả Kỳ (thuộc Trung Kỳ)

  1. Quảng Nam (nay là Quảng Nam và Đà Nẵng)

  2. Quảng Ngãi

  3. Bình Định

  4. Phú Yên

  5. Khánh Hòa (gồm cả Bắc Ninh Thuận)

  6. Bình Thuận (gồm cả Nam Ninh Thuận)

+ Nam Kỳ Lục Tỉnh

  1. Phiên An (tức Gia Định)

  2. Biên Hòa

  3. An Giang

  4. Vĩnh Long

  5. Định Tường

  6. Hà Tiên

Ở phía nam, các tỉnh Bình - Phú, An - Biên, Long - Tường và An - Hà thì Tổng đốc kiêm lĩnh việc Tuần phủ; Nam - Ngãi và Thuận - Khánh thì Tuần phủ kiêm việc Bố chính; Tổng đốc An - Hà kiêm việc bảo hộ Chân Lạp. Kinh sư là Phủ Thừa Thiên

=> năm 1832 là 30 tỉnh, 1 phủ Thừa Thiên

+ Giáo môn luận đề cập đến việc nội trị, nhất là chính sách đối với Công giáo. Triều đình nên khoan dung, không nên bức hại Công giáo...

+ Thiên hạ phân hợp đại thế luận: Đối phó với ngoại xâm, ông cho rằng nên tạm hòa hoãn với Pháp.

Tiếp đó ông viết bản Trần tình 7-5-1863: Phân trần về tâm tư, tình cảm của mình; giải thích rõ hoàn cảnh để tránh sự hiềm nghi. Những văn bản đó được gửi về triều thông qua Phạm Phú Thứ.

Từ 1861 - 1866, Nguyễn Trường Tộ gửi triều đình 11 văn bản nhưng không có hồi âm. Cuối tháng 1-1866, Nguyễn Trường Tộ được mời ra Huế để giúp giải quyết vụ tàu London. Ngày 10-4-1866, Nguyễn Trường Tộ rời Huế đi Quảng Bình. Tiếp đó ông cùng với Giám mục Gauthier đi Nghệ An trong tháng 5. Ngày 17-8-1866, Nguyễn Trường Tộ cùng Giám mục Gauthier đi Huế.

Ngày 15-9 Nguyễn Trường Tộ đi Sài Gòn và chuẩn bị đi Pháp. Ngày 10-1-1867 lên đường đi Pháp.

Tháng 11-1867 phá đoàn rời Pháp về Việt Nam. Ngày 18-4-1868, Nguyễn Trường Tộ về Nghệ An. Tháng 1 1871, ông được triệu hồi vào Huế. Sau vài tháng ở Huế, ông trở về quê và mất ngày 22-11-1871.

* Tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ được thể hiện trong gần 60 bản gửi cho triều đình Huế từ 1861 đến 1871:

- Về chính trị: ông ủng hộ đường lối chủ hoà dựa trên cơ sở phần tích xu hướng xâm chiếm thuộc địa của các nước tư bản phương Tây sang phương Đông, phân tích tương quan mất cân bằng lực lượng giữa quân xâm lược và triều đình. Hoà là chiến lược nhất quán nhằm mục đích có hoà bình để canh tân, nâng cao nội lực đất nước. Trong Thiên hạ đại thế luận, ông viết thêm: "Sự thế hiện nay chỉ có chữ hoà. Hoà thì trên không cưỡng lại ý trời, dưới có thể làm cho dân đỡ khổ, chấm dứt sự dòm ngó của bon gian nghịch, ngăn chặn được sự tranh giành của nước ngoài, thật là hay không kể xiết".

- Về ngoại giao: Ông mạnh mẽ đề nghị con đường mở cửa thông thương, hướng ngoại. "Sở dĩ từ trước đến nay tất cả mọi việc, việc gi họ cũng chiếm ưu thế mà không tương nhượng cho ta chút nào là vì thứ nhất họ biết thế lực ta không địch nổi họ, thứ hai biết không có một nước lớn nào giúp ta, không có sự viện trợ của nước láng giềng, thứ ba là biết ta không thể thâm hiểu tình hình nước họ mà cân nhắc tạm nhận lấy một điều, thứ tư biết ta việc gì cũng không thể phán đoán đúng, chỉ thấy lợi mà không thấy con đường tiến tới, có thể làm được mà không làm..." (DC 43: Mở rộng ngoại giao với Pháp và các nước khác).

- Về giáo dục: Chủ trương lối học thực dụng. Đưa vào chương trình học và thi cử các môn nông nghiệp, thiên văn, địa lý, bách khoa, luật học. Gửi học sinh ra nước ngoài học ngoại ngữ, khoa học. Tổ chức biên soạn lại sách giáo khoa cho học sinh.

- Về công thương nghiệp: đề cao vai trò của kinh tế với xã hội, đất nước và đặc biệt là đời với đời sống nông dân: "nếu bị cái nghèo đói thúc bách thì lo kế sống không xong, còn hơi đâu mà bàn lễ nghĩa". Tổ chức xuất khẩu nông, lâm và khoáng sản. Ông đề xuất cho "nhưng nhà giàu ở gần cửa bể có thể mua tàu lớn vượt bể để chở đồ vật dư mình không dùng đến đem bán cho các nước, rồi lại chở về những thứ thiết dụng cho nước mình và đánh thuế xuất nhập để tăng thêm những thứ cần dùng trong nước". Ông cũng đề nghị: "chủ động chuẩn bị các điều kiện để khi họ đến thì xin mở cửa đón họ vào, để mình làm chủ họ làm khách, chứ nếu không họ sẽ lập mưu chiếm hết" để học tập kỹ thuật của phương Tây (ý nói nước ta không hề có chiến lược biển. Sách của Alparma về chiến lược biển (Mỹ) nêu rõ ý chí và đội hàng hải. Chính hàng hải phát triển sẽ quyết định sức mạnh của đất nước). "chỉ riêng một mình nước ta thi hành đường lối khác, cho nên thiên hạ cho ta là nước kỳ dị đệ nhất".

- Về nông nghiệp: Trong Tế cấp luận, bài "Về nông chính" giới thiệu các đề nghị về cải tiến kỹ thuật và bảo vệ môi trường.

* Về triều đình Huế:

- Năm 1866, triều đình sai lang trung Hồ Văn Long theo Nguyễn Trường Tộ ra địa phận núi Hải Dương tìm than mỏ. Huế sai Giám mục Gauthiet cùng với Tộ sang nước Tây thuê thợ và mua máy móc.

- Năm 1870, Nguyễn Trường Tộ ở Nghệ An đề nghị triều đình do thám và dâng kế để khiến Pháp phải trả lại 6 tỉnh Nam Kỳ, chơi thân với Anh để thăm dò, tuỳ ý bày kế.

Trần Tiễn Thành sau khi xin vua cho giáo dân là Nguyễn Hoằng sang Pháp du học, đã đề nghị vua cử Nguyễn Trường Tộ sang Pháp xem sự thể tình hình các nước Anh, Nga, Úc, Phổ. Vua nghe theo, ít lâu sau cho vời Nguyễn Trường Tộ về kinh bàn việc nước.

4.5.2. Đề nghị cải cách của Phạm Phú Thứ

Phạm Phú Thứ (1821-1882), hiệu Trúc Đường, biệt hiệu Giá Viên, người xã Đông Bàn, huyện Diên Phước, nay là xã Điện Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Năm 1842, khi 22 tuổi, Phạm Phú Thứ đỗ thi hương, năm sau đỗ thi hội rồi thi đình đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ khoa Quý Mão (1843). Chức quan ban đầu của Phạm Phú Thứ là Tri phủ Lạng Giang (nay thuộc tỉnh Bắc Giang). Sau thăng Tổng đốc Hải An (tên gọi khác là Hải Yên, gồm 4 tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng và Quảng Yên). Một thời gian, ông được triệu về kinh sung chức Thương chính đại thần, Tham tri bộ Binh. Năm 1849, ông được chuyển qua Viện Tập hiền làm chức Khởi cư chú (thư ký ghi lời nói và hành động của vua) rồi sang tòa Kinh diên (phòng giảng sách cho vua). Năm 1863, ông được bổ nhiệm chức Tham tri bộ Lại, hàm Tòng Nhị phẩm. Cùng năm đó, ông được cử làm phó sứ trong phái bộ Phan Thanh Giản sang Pháp chuộc 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ. Trong khi ở Pháp, ông tranh thủ đi thăm các nước Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh...

Phạm Phú Thứ có thời gian 6 tháng đi các nước phương Tây (9/1863 - 3/1864), trở về thì ông được Nguyễn Trường Tộ đưa 3 bản điều trần và một bản trần tình, một bản đồ thế giới để dâng nhà vua. Về phần mình thì ông cũng dâng nhà vua tài liệu và nhật ký gồm Tây hành nhật ký và Tây phù thi thảo, ghi chép những điều mắt thấy tai nghe để thuyết phục vua canh tân đất nước. Khi làm Tả tham tri Bộ Lại, Phạm Phú Thứ đề nghị các nội dung cải cách sau: ban bố sách của Nhà nước để cổ vũ việc học, lập khoa hàng hải để chấn chỉnh ghe thuyền, dịch sách nước ngoài để theo dõi tình hình thế giới, khuyến khích các nghề thủ công và cho dân tự do dùng gỗ và sắt, bỏ thuế nấu rượu và giảm chi phí tuần tra biển, cấm người Hoa buôn bán gạo, khai thác quặng và than đá, mở rộng buôn bán với nước ngoài. Nhưng triều đình có bàn mà không làm.

Năm 1865 ông làm Thượng thư bộ Hộ trong Cơ mật viện và tiếp tục đề nghị: đặt Nha Thương chính ở Ninh Hải; Cùng Pháp mở cảng ngoại thương; Khai rộng sông ở Bình Giang; chăm lo đời sống nhân dân; Mở trường học tiếng Pháp ở Ninh Hải. Tại quê hương, Phạm Phú Thứ cho đắp đê Câu Nhí – Điện Bàn, đào sông Ái Nghĩa – Đại Lộc phục vụ sản xuất. Tương truyền, kiểu xe nước ngày nay còn thông dụng ở các tỉnh miền Trung (Quảng Nam, Quảng Ngãi...) là kiểu xe nước trâu kéo ở Ai Cập vào các thế kỷ trước do Phạm Phú Thứ vẽ kiểu mang về áp dụng vào thời ấy.

Về sau, các sĩ quan Pháp tỏ thái độ không hài lòng về cách xử sự cứng rắn của ông luôn bảo vệ quyền lợi quốc gia và không khuất phục trước vũ lực, lấy cớ đó để đưa cuộc thương lượng vào thế đổ vỡ bằng sức mạnh, buộc triều đình phải thay người đối thoại. Do triều đình vốn chủ hòa, lại sợ mất lòng Pháp nên ông bị Ngự sử đàn hặc và bị gọi về kinh “hậu cứu”. Năm 1876, ông bị giáng xuống làm Tổng đốc Hải Dương. Ông mất năm Nhâm Ngọ 1883, thọ 63 tuổi. Sau khi ông mất, triều đình truy tặng ông hàm Hiệp biện Đại học sĩ. Vua Tự Đức còn ban dụ, ca ngợi những đóng góp của ông về việc trông coi Thương chính ở Hải Dương, về việc mở đồn điền ở Nam Sách.

4.5.3. Đề nghị cải cách của Nguyễn Lộ Trạch

Nguyễn Lộ Trạch còn có tên gọi khác là Nguyễn Lộc Trạch. Ông sinh ngày 15 tháng 2 năm 1853 (có tài liệu ghi năm 1852), mất năm 1898, tên tự là Hà Nhân, hiệu Kỳ Am, biệt hiệu Quỳ Ưu (còn có các biệt hiệu khác như Hồ Thiên cư sĩ, Bàn cơ điếu đồ…). Quê gốc là làng Kế Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên (nay là xã Điền Môn - Phong Điền - Thừa Thiên Huế) nhưng Nguyễn Lộ Trạch được sinh tại Cam Lộ (Quảng Trị). Theo Nguyễn Huệ Chi (Từ điển văn học, nhà xuất bản Thế giới, 2004) thì Nguyễn Lộ Trạch thuộc dòng dõi “danh gia thế phiệt” - cha là Tiến sĩ Nguyễn Thanh Oai (thời vua Thiệu Trị), từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình như Tổng đốc Ninh Thái (Bắc Ninh và Thái Nguyên), quyền Thượng thư bộ Hình. Khác với giới sỹ phu đương thời, Nguyễn Lộ Trạch không tham dự các kì thi mà chỉ chú tâm vào tính ứng dụng của khoa học. Do tính cách phóng khoáng, thích ngao du thiên hạ, kết bạn với những văn thân sĩ phu, người cùng chí hướng nên thiên hạ gọi ông là “cậu ấm tàng tàng”. Năm 20 tuổi, Nguyễn Lộ Trạch lập Năm 20 tuổi, ông kết hôn với Trần Thị Nhàn, con gái Phụ chính Trần Tiễn Thành. Ở văn phòng cha vợ, ông đã đọc được nhiều sách tân thư của Trung Quốc, đọc được cả những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ, và chịu ảnh hưởng những tư tưởng canh tân này.

Năm Tự Đức thứ 30 (Đinh Sửu 1877), kỳ thi Hội ở Huế có lấy chuyện "Sứ Pháp vào chầu, hòa hiếu hợp lễ" làm đề thi. Ông ở ngoài làm bài và dâng cho triều đình bản dâng Thời vụ sách I (thượng), vạch trần bộ mặt giả nhân nghĩa, vờ nghị hòa của người Pháp, đồng thời đề ra chủ trương “gấp lo tự lực tự cường”. Bản Thời vụ sách đã gây tiếng vang lớn. Sau sự kiện Cơ mật viện có ý định gọi ông qua Hương Cảng học kỹ thuật phương Tây không thành (1882), Nguyễn Lộ Trạch gửi thư cho Trần Tiễn Thành, có ý nhờ nhạc phụ nhắc nhở triều đình “phải biết tự cường, tự trị, đồng thời phải biết mật giao với các cường quốc thù địch của Pháp như Anh, Đức... để làm thế chân vạc kiềm chế Pháp”. Tuy nhiên, người đứng đầu triều Nguyễn đã phê là ngôn hà quá cao (lời nói cao, đại ngôn).

Khi quân Pháp đánh thành Hà Nội lần hai (1882), Nguyễn Lộ Trạch tiếp tục dâng bản Thời vụ sách II (hạ), gấp rút đề ra những kế hoạch giữ nước. Trong đó có nội dung rất đáng chú ý như sau:

  1. Dời kinh đô về Thanh Hóa lấy chỗ địa thế hiểm yếu để giữ vững gốc nước.

  2. Lập đồn điền ở các vùng rừng núi phía Bắc. Chọn lọc quân tinh nhuệ ở lại phòng thủ các đồn lũy, số còn lại đưa đến các đồn điền trên để làm ra lương thực.

  3. Luyện binh thường xuyên và mua sắm vũ khí mới.

  4. Đưa con em tài giỏi ra nước ngoài học khoa học thực nghiệm và cơ khí phương Tây.

  5. Mở rộng ngoại giao với các nước châu Âu, nhất là nước Đức và nước Anh để kiềm chế Pháp

Song, giống như Thời vụ sách (thượng), bản Thời vụ sách (hạ) cũng không được triều đình quan tâm. Tháng Giêng năm Giáp Thân (1884), Phụ chính Nguyễn Văn Tường mời ông và Phạm Phú Đường (con trai Phạm Phú Thứ) đến kinh đô Huế bàn việc nước. Trở về, ông cùng Phú Đường thảo ra bức “Thư đứng tên cùng Phạm Phú Đường gửi Phụ chính đại thần” (Dữ Phạm Phú Đường thướng Phụ chính đại thần), nhắc lại những luận điểm trong kế sách chống ngoại xâm. sau khi vua Hàm Nghi bị quân Pháp bắt trong phong trào Cần Vương, Nguyễn Lộ Trạch lui về ở ẩn. Năm 1892, nhân kỳ thi Hội ở kinh, Nguyễn Lộ Trạch nhân đầu đề hỏi về "đại thế hoàn cầu", ông cũng viết một bài có tên là "Thiên hạ đại thế luận" (Bàn về thế lớn trong thiên hạ) bàn về tình thế các nước Á Đông trước nguy cơ thôn tính của một số nước ở Phương Tây. Sau khi phân giải, ông đã chỉ ra đại để rằng: dã tâm xâm lược của thực dân Pháp đã có từ lâu, không vì chúng ta sợ sệt cầu hòa mà họ ngừng lại, cũng không vì chúng ta khiêu khích mà họ dấy binh nhiều hơn. Đứng trước thực tế đó, triều đình chỉ còn cách: Từ bỏ tệ quan liêu, thói chuộng hư danh, sửa sang chính trị, giáo dục. Bài luận của Nguyễn Lộ Trạch được đông đảo sĩ phu cả nước có tư tưởng đổi mới đón nhận và khen ngợi. Cuối đời, Nguyễn Lộ Trạch đã vào Phan Thiết (nơi tập trung nhiều sỹ phu Nam Trung bộ) và dự định xuất dương nhưng chưa kịp thực hiện thì lâm trọng bệnh rồi qua đời tại Bình Định năm 1898 (có tài liệu ghi năm mất của Nguyễn Lộ Trạch là 1895), hưởng dương 45 tuổi.

4.5.4. Đề nghị cải cách của Bùi Viện

Bùi Viện (1839-1878) sinh ra ở làng Trình Phố, tổng An Bồi, huyện Trực Định, phủ Kiến Xương tỉnh Nam Định, nay là thôn Trình Nhì, xã An Ninh, huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình.

Sử sách ghi chép về Bùi Viện không nhiều. Trong cuốn “Bùi Viện và chính phủ Mỹ” của nhà sử học Phan Trần Chúc, tác phẩm duy nhất viết về các cuộc công du của Bùi Viện, ông được đánh giá là nhà ngoại giao Việt Nam đầu tiên đặt chân sang Mỹ tìm đồng minh giao hiếu. Ông cũng được coi là người có công trong việc sáng lập ra cửa biển Hải Phòng, tiền thân là bến Ninh Hải. Năm 1867, Bùi Viện đề xuất với vua Nguyễn một ý tưởng táo bạo, là chủ trương vươn ra biển, làm chủ lãnh hải, cải cách và trang bị cho lực lượng hải quân, tăng cường phòng vệ vùng biển. Thấu hiểu được tư tưởng đó, Vua Tự Đức đã giao cho ông tổ chức nha Tuần tải và cử ông làm Chánh quản đốc phụ trách trực tiếp. Châu bản triều Nguyễn ghi nhận những hoạt động của ông: năm 1877, bản tấu của Bộ Binh xin vua giao "cho Bùi Viện sung làm Quản đốc nha ấy, còn Phó quản đốc do ban võ lựa chọn" (Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Tự Đức, tập 286, tờ 210). Chánh Quản đốc nha Tuần tải Bùi Viện tổ chức và chỉ huy một đội Thủy quân hùng mạnh có nhiệm vụ vừa tuần tiễu miền duyên hải, vận tải lương tiền cho nhà nước vừa hộ vệ, dẫn dắt các thuyền buôn (Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn,Tự Đức, tập 290, tờ 27). Tư tưởng tiến bộ của Bùi Viện còn thể hiện ở việc đóng đồn chính ở cửa Ba Lạt là cửa biển giáp ranh giữa Thái Bình –Nam Định. Tuy nhiên ông vẫn thiết lập thêm các đồn quan phòng ở các tấn thuộc các tỉnh: Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Nam, Đà Nẵng…với mục đích mở mang đường thủy, mở hải cảng bến sông nhằm thúc đẩy kinh tế (Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Tự Đức, tập 30, tờ 175)....

* Nhận xét chung: quan lại, nho sĩ và giáo dân đề nghị cải cách; phạm vi cải cách là mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, kỹ thuật, quốc phòng. Các đề nghị cải cách này tác động đến chính sách của triều Nguyễn trong bồi cảnh phức tạp

* Thái độ và hành động của triều đình Huế

- Triều đình nghiêm túc luận bàn và xem xét các đề nghị cải cách rồi quyết định thực hiện hay không thực hiện các đề nghị cải cách; rõ ràng triều đình rất quan tâm và mong muốn cải cách

- Các hoạt động triển khai:

+ Khai mỏ: năm 1864 khai mỏ sắt ở Quảng Bình, Thừa Thiên, Thái Nguyên; khai mỏ than ở Thái Nguyên và Quảng Yên, Quảng Nam; khai mỏ bạc ở Cao Bằng; khai mỏ vàng Cao Bằng và Quảng Nam...

+ Nông nghiệp: đào sông từ Thanh Hoá đến Quảng Bình, đào mới và mở rộng sông ở Thừa Thiên (1868 - 1869), mở rộng sông Vĩnh Định ở Quảng Trị => Thừa Thiên (1872), đào sông Thiên Dưc ở đồng bằng sông Hồng. Tổ chức đắp đê sông Hồng, đắp đập ngăn mặn ở Tiền Hải (1870)

+ Ngoại thương: triều đình miễn thuế nhập cảng với thuyền buôn phương tây và Trung quốc (1866, 1876), mở phố và lập chợ dọc sông Cấm và cửa Ninh Hải (1874), lập cửa Nhu Viễn ở sông Cấm (1866), thường xuyên cử các phái đoàn ra Hongkong, Singapore, Pháp, Xiêm...

+ Giáo dục: khuyến khích học trò học tiếng Pháp, cử người vào nam học tiếng Pháp với Petrus Trương Vĩnh Ký (1868), sử dụng các giáo dân biết tiếng Pháp và Hán để giao thiệp với Pháp. Ngoài ra, triều đình khuyến khích con em quan lại ra nước ngoài học ngoại ngữ hoặc nghề, khi về được bổ dụng vào một chức quan; dịch các sách của phương Tây cho nhân dân xem: bác vật tân biên, khai môi yếu pháp, vạn quốc công pháp...; năm 1879 khuyến khích nhân dân học tiếng Pháp và tạo điều kiện cho ai muốn học kỹ nghệ thì đưa sang Pháp học.

Năm 1861, vua Tự Đức ra Dụ cầu hiền (10 việc): thuộc binh pháp, mạnh bạo hơn người, võ nghệ hơn chúng, biết thiên văn, tinh địa lý, cơ biến tinh tường, nói phô lanh lợi, học thuốc giỏi, thánh thính hay, kỹ nghệ khéo. Năm 1871 nhà vua rút xuống còn 8 việc: đức hạnh hiền tài, trí tài sâu rộng, giỏi trị dân, giỏi trị binh, giỏi thương thuyết, giỏi lý tài, giỏi văn học, kỹ nghệ tinh xảo. Năm 1873 vua yêu cầu tiến cử người có học thức, thông hiểu thời thế, giỏi ngoại ngữ. Năm 1876 cho phép cả quan và dân đều có thể tự tiến cử.

4.5.5. Nguyên nhân thất bại của các đề nghị cải cách (nhấn mạnh mối quan hệ giữa các đề nghị cải cách)

Tuy nhiên, các đề nghị cải cách chỉ thực hiện mang tính chất thăm dò, thử nghiệm và thực hiện nửa vời vì các nguyên nhân:

- Những đề nghị cải cách không xuất phát từ yêu cầu phát triển nội tại của đất nước

- Động lực của các đề nghị cải cách chủ yếu là giữ được nền độc lập trước ngoại xấm sau các thất bại quân sự của quân triều đình, hơn là mục đích xác lập bước tiến của trình độ kinh tế - xã hội mới cao hơn trước. Tư tưởng chỉ được thực hiện khi đất nước có nền tảng vững chắc (nền tảng kinh tế vững chắc). Nước ta không có nền tảng kinh tế (chủ yếu là nông nghiệp, chẳng có nhu cầu cần máy móc), nhà nước không có chính sách tích cực để cải cách đất nước. Những đề nghị cải cách lẻ tẻ của một nhóm nhỏ, về sau hình thành "tầng lớp tinh hoa" có thái độ tương đối rõ rệt với tình hình thực tại của đất nước.

- Các đề nghị cải cách không có hậu thuẫn quan trọng về xã hội và con người; thiếu hẳn giai cấp tiên tiến đủ năng lực cải cách. Khác với Nhật Bản, Việt Nam chưa có giai cấp tư sản và kể cả quý tộc tư sản hoá để tiến hành cải cách; tầng lớp sĩ phu có ý tưởng rất tốt, nhưng họ lại không có hậu thuẫn của đại đa số quan lại trong triều đình (ít quan lại muốn cải cách, hậu thuẫn cho cải cách như Phạm Phú Thứ, Trần Tiễn Thành nhưng không được ủng hộ của số đông). Hơn nữa họ không hậu thuẫn vì các đề nghị này lẻ tẻ, không mang tính hệ thống và với mục tiêu cuối là "không thay đổi chế độ chính trị hiện hành" thì nó không đủ sức thay đổi toàn bộ hệ thống kinh tế - xã hội của nước ta lúc đó.

- Các nhà cải cách lấy mô hình nước ngoài để áp dụng vào Việt Nam. Việt Nam không sáng tạo ra mô hình nào mà họ tiếp thu từ bên ngoài rồi sửa lại cho phù hợp như tiếp thu và sửa chữa văn hoá Hán phù hợp với văn hoá Việt, tương tự như thế với việc tiếp thu văn hoá phương Tây (xây thành Vauban, chữ quốc ngữ...)

- Triều Nguyễn đóng vai trò quan trọng trong các đề nghị cải cách, nhưng từ vua đến quan đều thuần tuý mang tư tưởng phong kiến (cự tuyệt cái mới, đa số rất bảo thủ). Vua Tự Đức dù có quan tâm nhưng lại thiếu quyết đoán, thiếu năng lực thực hiện; triều đình gặp khó khăn về tài chính và cuối cùng là cản trở của Pháp. Các đề nghị cải cách muốn thực hiện được rộng rãi thì đầu tiên cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng theo TBCN, bản thân giai cấp phong kiến phải tư sản hoá. Ở Việt Nam thời Nguyễn, triều đình đóng cửa thì lấy đâu mà quý tộc biết buôn bán (quý tộc tư sản hoá) như Nhật được; Việt Nam quá trọng Nho giáo (ức thương) nên không buôn bán, cấm ngặt tàu thuyền nước ngoài đến buôn bán khiến nhiều đô thị lụi tàn.

Chương 5: Vấn đề đối ngoại của triều Nguyễn

5.1. Các đánh giá trước đây về chính sách đối ngoại của triều Nguyễn

- Sách Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập 3 (1960) có đoạn (trích lược): "đối ngoại thì nhà Nguyễn lại tỏ ra tự cao ngu xuẩn, câu nệ vào những quan niệm cổ sơ của chế độ phong kiến cổ Trung Quốc. Đó là biểu hiện của chế độ phong kiến suy tàn chưa có điều kiện giải thể sang xã hội tư bản chủ nghĩa (...), mặc khác đó là sự sai lầm mù quáng của những kẻ cầm quyền chỉ biết đóng khung vào những đạo lý mơ hồ trong sách cổ mà không chịu biết gì về thực tế xung quanh. Chính sách sai lầm mù quáng ấy là đối với Mãn Thanh thì tuyệt đối thần phục, còn đối với các nước láng giềng thì thi hành chính sách xâm lược, và đối với các nước phương Tây thì đóng cửa, khước từ mọi giao hảo thông thương (...). Cái chính sách đối ngoại phản động mù quáng này một phần do ý thức phong kiến lạc hậu chỉ nô lệ vào dòng chữ chết trong sách cổ mà không chịu nhìn biết gì đến tình hình bên ngoài. Điều đó còn bám chặt vào đầu óc của bè lũ phong kiến cho mãi đến khi hoàn toàn mất nước. Đó là... vua quan nhà Nguyễn không thể nhìn thấy hết mối lợi của việc mở rộng ngoại thương mà chúng lo sợ nhưng chuyển biến mới trong nước làm lung lay địa vị thống trị của chúng".,

- Sách Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1 viết: "thái độ của nhà Nguyễn trong quan hệ với nhà Thanh là thần phục một cách mù quáng (...) lại dùng lực lượng quan sự khống chế Cao Miên, bắt Lào thần phục (...) đóng cửa cự tuyệt (với phương Tây)".

5.2. Thực tế lịch sử và cách nhìn nhận mới

5.2.1. Đối với Trung Quốc

Các triều đại phong kiến Việt Nam dùng cầu phong (cầu xin cho Trung Quốc thừa nhận mình) và triều cống (cống vật phẩm của Việt Nam cho Trung quốc theo định kỳ) trong quan hệ với Trung Quốc.

Năm 972, Tống Thái tổ phong vua Đinh làm Giao Chỉ quận vương, Đinh Liễn làm tiết độ sứ Tĩnh Hải quân (vẫn coi nước ta là lãnh thổ thuộc Trung Quốc. Do vua Lê lên ngôi không chính thống và nhà Tống mạnh nên Lê Hoàn sang xin mà vua Tống từ chối ngay; từ 986 - 995, nhà Tống phong dần vua Lê từ tiết độ sứ lên Giao Chỉ quận vương (một thân vương của vua Trung Hoa) và duy trì chức "Giao Chỉ quận vương" sang thời Lý. Mãi đến năm 1164, vua Tống trong thế suy yếu và vì muốn có ủng hộ nên phong vua Lý Anh Tông làm An Nam quốc vương, duy trì đến hết thời Trần. Khi Lê Lợi đánh thắng quân Minh, vua Minh tức giận không phong vương cho Lê Lợi, đến năm 1431 mới phong làm "người tạm quyền cai quản nước ta" (quyền thự An Nam quốc sự), mãi đến năm 1437 mới phong vua Lê làm An Nam quốc vương. Thế kỷ XVI, khi Mạc Đăng Dung dâng đất đầu hành thì vua Minh chỉ phong làm "An Nam đô thống sứ ty", duy trì cho đến tận năm 1646 mới phong làm An Nam quốc vương cho vua Lê nên Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí bình luận sự kiện 1646: "thật khác hẳn (phong vua Lê là quốc vương, chúa Trịnh là phó và là phụ chính vương) đó là vì nhà Minh phải chạy về phương nam, sự thể cùng quẫn, muốn cầu cứu nước ta, sớ chiều mong mỏi, cho nên ân mệnh ban nhiêu không ngại phiền nhảm". Thời Tây Sơn cũng phong vua Quang Trung làm An Nam quốc vương (1789)

Khi vua Việt Nam mới lên ngôi thì lập tức cử sứ sang vua Trung Quốc cầu phong để được vua Trung quốc "sách phong" (tức là công nhận mình làm vua Đại Việt). Trong số các vua Việt Nam, riêng trường hợp triều Trần thì vua Trung Quốc chủ động sách phong. Khi cầu phong được Trung Quốc thừa nhận thì phải triều cống (cống sản vật địa phương cho thiên triều); "cống" là quy định theo thoả thuận bắt buộc phải thực hiện, "sính" là tặng phẩm nhân cac chuyến thăm ngoại giao. Thời Đinh đến hết thời Lý, hoạt động ngoại giao chủ yếu là mang sính lễ sang thông hiếu; sang thời Trần (1258) thì bắt đầu lệ triều cống, 3 năm triều cống một lần. Theo quy định ngoại giao, sứ thần Việt nam phải sang biên giới Việt - Trung nhận cầu phong, kéo dài đến đầu thời Nguyễn, cá biệt vua Tự Đức đã khiến sứ thần Mãn Thanh phải vào Huế để trao sắc phong cho Hoàng đế Nguyễn.

* Nhận xét về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc thời phong kiến:

- Trong lịch sử, Việt Nam luôn tự nhận mình là một nước nhỏ, thần phục, chấp nhận cầu phong và triều cống Trung Quốc; đây là đường hướng ngoại giao mà triều đại nào của Việt Nam cũng phải làm (kể cả triều Nguyễn cũng không ngoại lệ). Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú nhận định: "nước Việt có cả cõi đất phía nam mà thông hiếu với Trung Hoa, nhưng ở trong xưng đế ngoài xưng vương, vẫn chịu phong hiệu, xét lý thế thực phải như thế". Khi nhà Nguyễn còn tồn tại, quan hệ ngoại giao với Trung Hoa chủ yếu dựa trên cơ sở là cầu phong (muốn Trung Hoa thừa nhận ngôi vua chính thống, chính thức) và triều cống - đây là kiểu quan hệ điển hình nhất

- Về hình thức, các vua Nguyễn đều tuân theo sự phân định ngôi thứ rõ ràng, "chư hầu" phục tùng "thiên triều" theo đúng lễ; dù thế các vua Nguyễn vẫn xưng là Hoàng đế ở trong nước và nỗ lực duy trì hệ thống các chư hầu trong vùng Đông Nam Á.

# Tích cực:

+ mặc dù vua Nguyễn luôn "nhún nhường" một cách mềm dẻo, nhưng buộc Trung Quốc phải tôn trọng chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia

+ nhà Nguyễn kế thừa các kinh nghiệm ngoại giao của cha ông đi trước để xử sự một cách thông minh và khôn khéo với mục tiêu là không được khiêu khích và buộc Trung Quốc phải tôn trọng mình

+ góp phần duy trì quan hệ hoà hiếu giữa hai nước trong bối cảnh mới đầy thử thách, đặt nền tảng cho sự tiếp nối và phát triển của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong các giai đoạn tiếp sau

+ Kế thừa truyền thống ngoại giao của các triều đại trước, phương thức ngoại giao văn hoá đã phát huy lợi thế cao trong thế kỷ XIX.

# Hạn chế:

+ Khi thực dân phương Tây xâm lược Việt Nam, triều Nguyễn gặp nhiều khó khăn trong việc điều chỉnh chính sách đối ngoại phù hợp với bối cảnh tình hình mới. Đến năm 1869, triều đình Huế đã cầu viện nhà Thanh giúp đỡ; nhưng nhà Thanh lại lợi dụng để "bán đứng" Việt Nam: khi Pháp đánh Bắc Kỳ, vua Thanh nhiều lần có sự can dự vào Bắc kỳ vì họ ỷ quân đội mạnh sau cuộc cải cách quân đội của phái Dương vụ. Lúc này viên đại sứ Tăng Kỷ Trạch của nhà Thanh nhiều lần đàm phán với viên đại sứ Pháp Bourée (sau đó là Tricou) về vấn đề Bắc Kỳ (muốn tranh giành ảnh hưởng với Pháp). Sau Hiệp ước Pathenotre 1884, quân Thanh khởi sự chiến tranh với Pháp ở miền đông bắc Việt Nam (1883 - 1885), nhưng quân Pháp có tăng viện đã mở các cuộc tấn công liên tiếp khiến quân Thanh thua nhiều trận, buộc Lý Hồng Chương phải ký Quy ước Thiên Tân (6/1885) từ bỏ quyền lợi của nhà Thanh ở Bắc Kỳ. Mặc dù thế, Pháp lúc này có quyền ngoại giao nên chúng mặc nhiên đàm phán với nhà Thanh, ký hai Công ước Constans 1887 và Gerard 1895 cắt nhượng nhiều vùng đất phía bắc cho nhà Thanh, trong đó có 3/4 mỏ đồng Tụ Long mất về tay nhà Thanh.

=> như vậy, lòng tin tưởng và sự trung thành của nhà Nguyễn với triều Thanh trong trường hợp này không còn sáng suốt nữa (đúng một phần trong lời phê phán có phần phiến diện của các tác giả bộ Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập 3). Nó thể hiện tính bất biến và thiếu linh hoạt trong tư tưởng, biện pháp ngoại giao của triều Nguyễn với nhà Thanh.

5.2.2. Đối với Champa

Đối với Champa thì Đại Việt thể hiện thế "tôn chủ - phiên bang", buộc Champa thần phục. Champa xuất hiện từ thế kỷ II với tên gọi đầu tiên là "Tượng Lâm Ấp" (theo Thuỷ kinh chú) của dòng vua miền Bắc; năm 758 chuyển vào miền Nam với dòng vua Nam (thủ phủ là Panduranga). Champa quan hệ với Đại Cồ Việt vào cuối thời Đinh, nhân sự kiện Ngô Nhật Khánh cầu viện quân Champa vào đánh quân của Lê Hoàn (978 - 979). Đến thời Lý - Trần, người Chăm vừa thần phục và vừa gây chiến tranh: năm 1011, vua Chiêm dâng sư tử; năm 1020 Khai Thiên vương đem quân đánh thẳng đến bắc Bố Chính (núi Long Ty) giết hại phân nửa quân Chiêm. Sau cuộc cướp phá của quân Chiêm năm 1043, năm 1044, quân nhà Lý đánh thẳng vào kinh đô Champa và giết hại rất nhiều, trong đó có vua Champa là Sạ Đẩu (Jaya Sinhavarman II). Năm 1055, 1065, 1066, 1067 Chiêm Thành đều đặn tiến cống. Nhân vụ quân Chiêm quấy phá biên giới năm 1068, đầu năm 1069 vua Lý lại đem quân đánh thẳng vào kinh đô và bắt sống vua Chế Củ (Rudravarman III), Rudravarman đã phải dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính (khu vực Quảng Trị - Quảng Bình ngày nay) để chuộc tội.

Từ năm 1077 - 1226 là "chiến tranh trăm năm" giữa Champa với Chân Lạp. Sau khi giành được độc lập (1220), vua Jaya Paramesvaravarman II khôi phục lại đất nước; đến năm 1265 thì vua Champa là Indravarman V liên minh với triều đình nhà Trần (Đại Việt) đánh thắng quân xâm lược Nguyên (1282). Năm 1306, vua Trần gả em gái là công chúa Huyền Trân cho vua Champa là Chế Mân (Jaya Simhavarman III) nhân chuyến thăm của thượng hoàng nhà Trần sang Champa 8 tháng, đổi lại Champa cắt hai châu: châu Ô, châu Lý làm lễ cưới công chúa Huyền Trân. Năm 1307 Chế Mân chết, vua Trần cử Trần Khắc Chung vào dùng kế đưa Huyền Trân về và tiếp theo đó thì vua Champa nhiều lần cho quân chiếm lại nhưng không thành. Năm 1360, Chế Bồng Nga lên ngôi vua Champa đã tổ chức nhiều trận cướp phá dọc bờ biển miền Trung nước ta, bốn lần đánh vào Thăng Long khiến vua Trần bỏ chạy lên vùng cao. Năm 1377, vua Trần Duệ Tông đem quân Trần tiến đánh Đồ Bàn, nhưng ông bị quân Champa phục kích và bị sát hại cùng nhiều quân lính Trần khác. Năm 1390 Chế Bồng Nga tử trận, Champa suy nhược hẳn. Thời Lê Thánh tông, vua Trà Toàn nhiều lần đem quân quấy nhiễu biên giới; vua Lê quyết định đem 26 vạn quân nhà Lê đi đánh bỏ qua ý kiến của vua Minh Hiến tông cho rằng không nên đánh nhau với Champa (theo Vương quốc Champa của H. Maspero), kết quả là thành Đồ Bàn bị huỷ diệt cùng 5 vạn quân Champa, Trà Toàn bị bắt sống (1471). Tướng của Trà Toan rút về Phan Rang và xưng thần với vua Lê, được vua Lê phong vương cùng với Hoa Anh, Nam Bàn. Năm 1693, lãnh thổ Champa bị sát nhập vào lãnh thổ Đại Việt; người Chăm tản mát ra nhiều nơi (xuống tận tây Nam Bộ). Thời Thiệu Trị, một bộ phận người Chăm trong quân đội nhà Nguyễn sang Chân Lạp đã tiếp thu Islam giáo, hình thành cộng đồng người Chăm Islam ở An Giang.

5.2.3. Đối với Lào

Thời kỳ khi chưa lập nước, các mường Lào tiến cống đều đặn cho vua Đại Việt: "năm 1067 các nước Ngưu Hống, Ai Lao dâng vàng bạc, sừng tê, ngà voi và các thứ sản vật địa phương" (Đại Việt sử ký toàn thư). Sau khi Lan Xang bị suy sụp và phân liệt thành 3 nước đối lập nhau (1707), đến 1779 thì Lan Xang thần phục Xiêm trong khi một số mường của Lào giáp biên giới với Đại Việt lại không thần phục Xiêm. Năm 1791, vua Quang Trung cử sứ bộ sang đặt quan hệ ngoại giao, nhưng bị vua Lan Xang thân Xiêm bắt giao cho vua Xiêm; lập tức vua Quang Trung cử Trần Quang Diệu kéo quân Tây Sơn qua truy kích vua Nanthasen (thân Xiêm) đến tận biên giới Myanmar. Vua Minh Mạng từng giúp đỡ vua Viêng-chăn Anuvong (1828) trong cuộc chiến tranh chống lại ảnh hưởng của Xiêm.

5.2.4. Đối với Chân Lạp

Chân Lạp được thành lập vào thế kỷ VI, ít lâu sau đánh tan quân Phù Nam để chiếm vùng Thuỷ Chân Lạp. Thế kỷ VIII, Chân Lạp suy yếu và phân liệt thành 2 tiểu quốc, riêng Lục Chân Lạp ít nhiều về sau chịu ảnh hưởng của Đại Việt và cả Xiêm La. Thời Lý, các năm 1012, 1014, 1020, 1026, 1033, 1056 sứ Chân Lạp đều đặn đến cống. Năm 1076, quân nhà Lý đánh tan cuộc tiến công phối hợp của liên quân Chân Lạp - Champa - Tống sang cướp phá biên thuỳ Đại Việt. Năm 1118, 1120, 1122 sứ Chân lạp vẫn tiếp tục tiến công; nhưng năm 1128 lợi dụng vua Lý Nhân tông vừa mất thì 2 vạn quân Chân Lạp bất ngờ tiến đánh bến Ba Đầu ở Nghệ An, nhưng bị quân Lý nhanh chóng đánh tan tành. Năm 1177 - 1226, Chân Lạp có chiến tranh liên miên với Champa, nhưng vua Chân Lạp cũng rất tranh thủ là lợi dụng triều Lý suy yếu đã hai lần tiến đánh châu Nghệ An (1216, 1218), nhưng đều bị Lý Bất Nhiễm đánh bại. Từ thế kỷ XIV về sau, quân đội Xiêm nhiều lần đánh bại Chân Lạp và buộc vua Chân Lạp thần phục. Khi triều Nguyễn lên cầm quyền, Chân Lạp là nơi tranh chấp ảnh hưởng quyết liệt giữa Đại Nam và Xiêm, kết quả là thời Minh Mạng có sát nhập Chân Lạp vào để lập trấn Tây Thành, cho quan cai trị tỉnh An - Hà làm bảo hộ Chân Lạp. Thời Thiệu Trị thì tình hình bên ngoài thay đổi (tiếng súng xâm lăng của phương Tây vào phương Đông đã nổ) nên đã ra lệnh rút quân về, về sau thì thực lực của quân triều đình không còn mạnh, dễ thất bại trước quân xâm lược phương Tây.

5.2.5. Đối với Xiêm

Vào thế kỷ XI (1182), người Thái (ở vùng đồng bằng Chao Phraya) cử sứ sang triều cống vua Lý; năm 1437, vua Ayudthaya là Borommaratcha II (Samphraya) (1424-1448) cử sứ sang cống. Cuối thế kỷ XVIII, vua Xiêm là Rama I ủng hộ chúa Nguyễn Ánh ở Đàng Trong trong cuộc chiến tranh chống Tây Sơn

5.2.6. Đối với phương Tây

Các vua đầu triều Nguyễn thể hiện tinh thần cảnh giác với phương Tây: vua Gia Long có giao thiệp với người phương Tây (về thành quách, quân đội), thậm chí cho người Pháp làm quan như Vannier, P. Chaigneau nhưng ông không ký kết chính thức về mặt nhà nước. Minh Mạng lên ngôi khá cởi mở, nhưng vụ loạn Lê Văn Khôi khiến ông cự tuyệt hoàn toàn với phương Tây; cuối đời Minh Mạng thì tiếng súng "chiến tranh nha phiến" ở Trung Quốc khiến ông thức tỉnh. Thiệu Trị và Tự Đức sau này cự tuyệt quan hệ với phương Tây

Chương 6: Hệ di sản của triều Nguyễn và vấn đề phát huy giá trị trong giai đoạn hiện nay

Trong Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam tập 3, nhóm tác giả (1960) bình luận (xin trích đoạn liên quan): "Gia Long khi mới lên ngôi còn ít nhiều dùng chữ Nôm vì chưa thể một lúc thủ tiêu mọi thành quả văn hoá của phong trào Tây Sơn. Nhưng từ đời Minh Mạng thì việc thi và trong văn thư hành chính đều chỉ dùng chữ Hán, nhất thiết không dùng chữ Nôm (...). Về phần nghệ thuật, mọi công trình kiến trúc, hội hoạ, âm nhạc đều phục vụ chính quyền phong kiến, nhiều phần tỏ ra bề thế nên có vẻ nặng nề, không được thanh thấu như các triều đại trước (...) Về tuồng, chèo, hý khúc...họ hết sức đề cao luân lý phong kiến, đề cao trung, hiếu, tiết, nghĩa. Tất cả hoạt động nghệ thuật ấy nhằm tiêu khiến cho bọn vua chúa quan lại, hết sức nêu cao quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của nhà vua (...). Mọi chính sách về văn hoá chỉ nhằm xây vững chế độ phong kiến tập quyền chuyên chế cao độ, chứ không có mục đích nhìn xa vì dân vì nước".

Trong Lược sử mỹ thuật Việt Nam, Nguyễn Phi Hoanh (1970) viết (trích đoạn): "vì khôi phục một chế độ lỗi thời của phong kiến nhà Thanh, phong kiến Nguyễn làm cho nghệ thuật Huế đi từ chỗ yếu ớt của các đời vua đầu đến chỗ suy đồi cực điểm trong các đời vua sau (...). một thí dụ điển hình là sự nghèo nàn óc sáng tạo của kiến trúc Huế là cửa Ngọ Môn. Có thể coi nó là bản chép vụng về theo kiểu Ngọ Môn Bắc Kinh thời ấy (...). Kiến trúc các vua thời Nguyễn từ Gia Long đến Tự Đức có vẻ bạc nhược và chịu ảnh hưởng của phong kiến nhà Thanh Trung Quốc (...) Tượng các lăng từ Gia Long về sau có thế nói là vào loại ấu trĩ của nghệ thuật

6.1. Hệ di sản vật chất

Diên mạo kinh thành Huế được hiện diện trong bốn đời vua đầu tiên của nhà Nguyễn, sau đó được kế thừa bởi hai vua cuối cùng là Khải Định và Bảo Đại

Ở giai đoạn đầu (1802 - 1917), triều Nguyễn vận dụng kết hợp kiến trúc truyền thống với kiến trúc Trung Hoa và phương Tây để hình thành diện mạo của kinh đô Huế (Kinh thành, Hoàng thành, các cơ quan trong kinh thành Huế, các công trình quân sự dọc bờ sông Hương). Giai đoạn này định hình phong cách xây dựng lăng mộ cho vua (Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh, Khải Định); các ngôi quốc tự là Thiên Mụ, Giác Hoàng, Diệu Đế, Thánh Duyên; Linh Hựu quốc quán. Cuối cùng là một hệ thống các phủ đệ cho các hoàng thân triều đình với 85 cái như thế ở Kim Long, Ngự Viên, An Cựu tạo ra môi trường nhân văn và sinh thái cao.

Giai đoạn 1917 - 1945 mang tính phát triển do có bổ sung kiểu kiến trúc dân sự theo phong cách phuong Tây mà Khải Định là người tiên phong.

6.1.1. Thành quách - kinh đô Huế

a. Kinh thành - Thành nội - Phòng thành:

Thành xây năm 1805 theo phong cách kiến trúc Vauban của Pháp với chu vi hơn 10,571 mét, rộng 520 ha; mặt thành thì bên ngoài cao 6,6 mét, mặt trong cao 5,5 mét và chiều rộng mặt thành rộng trung bình 21,5 mét; xung quanh có 10 cửa chính ra vào. Phong cách Vauban của Pháp (thế kỷ XVII) rất thuận lợi cho công và thủ, đặc biệt thuận lợi cho phối hợp tác chiến giữa các lực lượng trong thành. Phần trước kinh thành (trước khi vào Ngọ Môn) có hào, phòng lộ, kỳ đài, các cổng thành, dược khố (kho thuốc súng); dọc bờ sông Hương có Phu Văn lâu, Viện thương bạc, Nghênh lương đình. Theo Cadière, khu vực kinh thành có đến 370 di tích lịch sử.

Cửa Ngọ Môn còn gọi là "cửa Tý - Ngọ" (theo trục phong thuỷ), có 9 lầu với 5 cửa. Lối chính giữa là Ngọ Môn, chỉ dành cho vua đi. Hai lối bên là Tả Giáp Môn và Hữu Giáp Môn, dành cho quan văn, võ theo cùng trong đoàn Ngự đạo. Hai lối đi bên ngoài cùng nằm ở hai cánh chữ U là Tả Dịch Môn và Hữu Dịch Môn, dành cho binh lính và voi ngựa theo hầu. Lầu Ngũ phụng có 9 lầu (tượng trưng cho "cửu ngũ chí tôn" - ngôi vị tối cao nhất dành cho vua), bộ khung có 100 cột (Phan Thuận An cho đó là tổng của Hà Đồ (tổng từ 1 + 2... = 55) và Lạc thư (tổng là 45) biểu hiện cho sự hài hoà "âm dương nhất thể. Liễu Thượng Văn cho rằng đó là biểu trưng của bách tính - tư tưởng "dân vi bản" của triều Nguyễn)

b. Hoàng thành: được xây năm 1804 và hoàn chỉnh vào thời Minh Mạng (1833). Hoàng thành có hình gần vuông với bốn cửa trổ về 4 hướng chính là Ngọ Môn (nam), Hoà Bình (bắc), Hiển Nhân (đông) và Chương Đức (tây)

c. Tử cấm thành: có hình chữ nhật, cao 3,72 mét, có 7 cửa ra vào với Đại Cung môn là cửa đẹp nhất. Trong Tử cấm thành có các nơi vua ngự triều (điện Cần Chánh, Tả Vu, Hữu Vu), nơi nghỉ ngơi (điện Càn Thành, cung Khôn Thái, lầu Kiến Trung), nơi giải trí (lầu Thái Bình, lầu Dưỡng Tâm, vườn ngự uyển)

d. Phủ đệ

Phủ đệ là nơi sinh hoạt hàng ngày cho các hoàng tử và hoàng nữ được vua phong tước công; nơi ở của những người này gọi là "tư thất/tư dinh"

Phủ đệ là sự chuyển tiếp giữa kiến trúc cung đình với kiến trúc dân gian trong truyền thống Huế, đồng thời nó cũng là nơi trung chuyển lối sống văn hoá cung đình đến với văn hoá dân gian và ngược lại

Đầu thời Nguyễn, các phủ đệ được xây dựng bên trong kinh thành theo nguyên tắc "nam tả, nữ hữu"; về sau thì dịch chuyển ra ngoài và tập trung chủ yếu ở Gia Hội - Chợ Dinh, Vĩ Dạ, Phủ Cam, Kim Long

Các vua thời Nguyễn đề ra nguyên tắc xây dựng các phủ đệ. Gia Long quy định các phủ đệ xây dựng theo cấu trúc 5 gian 2 chái, tiền đường 7 gian (1816); nhưng Minh Mạng quyết định thu nhỏ còn 3 gian 3 chái (1822); Thiệu Trị (trước đó là Minh Mạng) sau khi phong tước cho các con (hơn 100 người, từ 1820 - 1847) đã phải quyết định cho toà chính đường làm dạng nhà rường đơn 3 gian 2 chái. Tất cả đều lợp ngói âm dương

Phủ đệ là nơi sinh hoạt và là nơi thờ tự của các hoàng thân và gia quyến. Quản lý chung là Trưởng sử, giúp việc có một Tư vụ, hai viên Thư lại, 25 vị Nhập lưu thư lại; canh gác phủ đệ là đội Thuộc binh do chánh đội trưởng suất đội chỉ huy.

Phủ đệ còn là nơi học tập và tu dưỡng đạo đức cho các ông hoàng bà chúa có đủ tư cách, phẩm chất để thành người kế vị trong tương lai.

* Giá trị lịch sử - văn hoá: phủ đệ là tác phẩm nghệ thuật mang dấu ấn riêng biệt làm cho di sản thêm phần phong phú về loại hình; là nơi lưu giữ và lan toả các giá trị văn hoá cung đình và văn hoá dân gian; bảo lưu nhiều bảo vật quý như châu bản, chế phong, sắc phong... mang tính độc bản. Các bộ hoành phi, gia phả và câu đối chữ Hán đã lưu giữ nhiều truyền thống văn hoá đạo đức, phản ánh nếp nhà ... của các phủ đệ. Phủ đệ là nơi hình thành nghệ thuật Ca Huế, thẩm thấu vào dân gian (thêm các điệu lý, hò) tạo ra loại hình âm nhạc đặc sắc; các nhạc sĩ nổi tiếng là Tuyên Hoá vương, Tương An quận vương, Nam Sách quận công soạn nhiều lời ca Huế, trình diễn theo các nhạc cụ truyền thống; nhạc sĩ nổi tiếng là Diên Khánh vương soạn bộ trường ca "Vạn bửu trình tường". Kiến trúc phủ đệ theo mô thức "trùng thiềm điệp ốc", tuân thủ các nguyên lý triết học cổ, thuật phong thuỷ và thân thiện với môi trường; đặc biệt các phủ đệ của Tuyên Hoá vương, Hoằng Hoá quận vương, Tương An quận vương, Hoa quốc công, Ngọc Sơn công chúa, cung An Định có sử dụng kiến trúc Pháp làm cho công trình có giá trị, góp phần làm phong phú di sản văn hoá Huế nói riêng.

* Giá trị kinh tế: được xem là nguồn tài nguyên du lịch để khai thác nhằm tạo ra các sản phẩm du lịch có giá trị, phủ đệ là di sản văn hoá độc đáo tạo ra giá trị nổi bật của đô thị di sản Huế.

6.1.2. Kiến trúc các tỉnh thành

6.1.2.1. Lăng mộ của vua ở kinh thành Huế

a. Lăng mộ của các chúa Nguyễn

Các lăng đều được xây ở phía tây kinh thành Huế (nay thuộc huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế), có 2 lớp tường chữ nhật dày, trước mặt và sau lưng đều có bình phong che chắn, nấm mộ (bảo phong) xây hình chữ nhật và trước mặt có án xây bằng gạch.

Các lăng mộ chính: Lăng Trường Cơ của Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế Nguyễn Hoàng (1525-1613), nằm tại trung tâm thôn La Khê; Lăng Trường Diễn của Hy Tôn Hiếu Văn Hoàng Đế - Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635), nằm ở thôn Hải Cát; Lăng Trường Diên của Thần Tôn Hiếu Chiêu Hoàng Đế Nguyễn Phúc Lan (1601-1648), nằm ở thôn La Khê Trẹm; Lăng Trường Hưng của Thái Tôn Hiếu Triết Hoàng Đế Nguyễn Phúc Tần (1620-1687), dân gian quen gọi là lăng Chín Chậu, nằm ở thôn Hải Cát; Lăng Trường Mậu của Anh Tôn Hiếu Nghĩa Hoàng Đế Nguyễn Phúc Thái (1650-1691), nằm ở thôn Kim Ngọc; Lăng Trường Thanh của Hiển Tôn Hiếu Minh Hoàng đế Nguyễn Phúc Chu (1675-1725), nằm ở thôn Kim Ngọc; Lăng Trường Phong của Túc Tôn Hiếu Ninh Hoàng Đế Nguyễn Phúc Chú (Thụ) (1697-1738), nằm ở thôn Định Môn; Lăng Trường Thái của Thế Tôn Hiếu Vũ Hoàng Đế Nguyễn Phúc Khoát (1714-1765), nằm ở thôn La Khê; Lăng Trường Thiệu của Duệ Tôn Hiếu Định Hoàng Đế Nguyễn Phúc Thuần (1754-1777), ở thôn La Khê. Ngoài 9 lăng chúa Nguyễn, tại xã Hương Thọ còn có lăng vua Minh Mạng nằm ở thôn La Khê; lăng vua Gia Long nằm ở thôn Định Môn

b. Lăng mộ của các vua Nguyễn

* Lăng Gia Long (Thiên Thọ lăng)

Lăng nằm trong vùng đất hoang sơ thuộc huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Khu lăng nằm trong khu vực có 42 ngọn đồi, núi lớn nhỏ trong đó có núi Đại Thiên Thọ là lớn nhất, nằm án ngữ, tiền án của lăng và là tên gọi của cả quần sơn này. Vua cử con út của Lê Quý Đôn là Lê Duy Thanh xem và chọn đất. Năm 1814 vợ cả của Gia Long qua đời nên ông quyết định song táng theo lệ "càn khôn hiệp đức". Phía trước khu lăng có trụ biểu (nơi kết nối giữa người cai trị với thiên (trời)) lúc đầu là 85 trụ, về sau thời gian tàn phá riết còn 2 trụ. Lăng vua Gia Long nằm trên một ngọn đồi bằng phẳng, trước mặt là núi Đại Thiên Thọ án ngữ, sau có bảy ngọn núi làm hậu chẩm, trái phải mỗi bên 14 ngọn núi gọi là "Tả Thanh Long - Hữu Bạch Hổ". Lăng mộ tựa lưng vào núi thấp, trông ra sông lớn. Bên trái khu lăng mộ là Bi Đình, được xây dựng giữa một không gian rừng thông. Bi Đình là nhà bia ghi công trạng; trong Bi Đình đặt tấm bia "Thánh Đức thần công" chạm khắc tinh tế, sau gần 200 năm vẫn còn rõ chữ mà theo Phan Thuận An thì nghệ thuật thể hiện tấm bia đá này (Bi đình) vượt hẳn bia Vĩnh Lăng thời Lam Sơn. Đây là tấm bia của vua Minh Mạng dựng lên ca ngợi vua cha Gia Long của mình

Về sau phát triển thành một khu lăng mộ rộng lớn với chu vi đến 11.234,40m (tài liệu của L. Cadière), gồm những lăng sau:

- Lăng Quang Hưng của bà Thái Tông Hiếu Triết Hoàng hậu, vợ thứ hai của chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1620-1687), thân mẫu của chúa Nguyễn Phúc Thái (Trăn).

- Lăng Vĩnh Mậu của bà Anh Tông Hiếu Nghĩa Hoàng hậu, vợ chúa Nghĩa Vương Nguyễn Phúc Thái (Trăn) (1650-1725).

- Lăng Trường Phong của Túc Tông Hiếu Ninh Hoàng đế Nguyễn Phúc Thụ (Chú) (1697-1738).

- Lăng Thoại Thánh của bà Hưng Tổ Hiếu Khương Hoàng hậu (1738-1811), vợ thứ hai của Nguyễn Phúc Côn (Luân) và là thân mẫu của vua Gia Long.

- Lăng Hoàng Cô của Thái Trưởng Công chúa Long Thành, chị ruột vua Gia Long.

- Lăng Thiên Thọ của vua Gia Long và vợ ông.

- Lăng Thiên Thọ Hữu của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, vợ thứ hai của vua Gia Long, mẹ vua Minh Mạng.

* Lăng Minh Mạng - Hiếu lăng

Năm 1826 vua Minh Mạng bắt đầu cho người tìm đất. Quan Địa lý Lê Văn Đức đã chọn được một cuộc đất tốt ở địa phận núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu của hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành con sông Hương thơ mộng. Nhưng phải ròng rã 14 năm cân nhắc, chọn lựa, đến năm 1840, nhà vua mới quyết định cho xây dựng lăng tẩm của mình ở nơi này. Nhà vua cho đổi tên núi Cẩm Kê (thuộc ấp An Bằng, huyện Hương Trà) thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu Lăng. Sau khi cha băng hà được hơn 1 năm, Thiệu Trị tiến hành ninh lăng (đưa quan tài theo đường trục thần đạo vào khu mộ - cửa vào khu mộ theo trục thần đạo sẽ bị khoá vĩnh viễn)

Điểm nổi bật của lăng là tính đăng đối theo trục thần đạo, xuyên qua một loạt các hạng mục công trình gồm: cửa chính, sân chầu, nhà bia, sân tế, Hiển Đức môn, điện Sùng Ân (thờ vua Minh Mạng và Hoàng hậu), hồ Trừng Minh, Minh Lâu, hồ Tân Nguyệt (trăng non), cổng tam quan Quang Minh Chính Trực, Trung Đạo kiều và cuối cùng là Bửu thành (mộ vua Minh Mạng).

* Lăng Thiệu Trị - Xương lăng

Năm 1841, vua Thiệu Trị lên ngôi. Sau khi lên ngôi được 7 năm, vua Thiệu Trị lâm bệnh và băng hà vào ngày 4/11/1847. Trong lúc hấp hối, nhà vua đã dặn người con trai sắp lên nối ngôi về việc xây lăng của mình. Vua căn dặn rằng: “Chỗ đất làm Sơn lăng nên chọn chỗ bãi cao chân núi cận tiện, để dân binh dễ làm công việc. Còn đường ngầm đưa quan tài đến huyệt, bắt đầu từ Hiếu Lăng, nên bắt chước mà làm. Còn điện vũ liệu lượng mà xây cho kiêm ước, không nên làm nhiều đền đài, lao phí đến tài lực của binh dân”. Do sinh thời ông chưa nghĩ đến việc xây cất sơn lăng cho mình nên khi vua Thiệu Trị băng hà, thi hài của ông được quàn tại điện Long An cung Bảo Dịnh 8 tháng. Vua Tự Đức (con trai thứ cua Thiệu Trị) lên nối ngôi vua và tiến hành xây lăng cho vua cha.

Tự Đức sai thầy địa lý đi coi đất và năm 1848 ông chọn núi Thuận Đạo để xây lăng cho cha mình, tự tay viết "Thánh đức thần công" gồm trên 2.500 chữ ca ngợi công đức của cha mình. Theo lời dặn của vua cha, vua Tự Đức căn dặn các đại thần phải bắt chước cách làm toại đạo giống lăng Minh Mạng, công việc xây dựng các công trình mang tính thờ phụng ở lăng như điện, đình, các, viện… thì phải theo quy chế của lăng Gia Long, và tùy theo địa thế tại chỗ để châm chước định liệu mà làm. Dưới sự đốc thúc của vua Tự Đức, quá trình xây cất Xương Lăng diễn ra nhanh chóng và gấp rút chưa từng có. Năm 1939, Langland nhận xét: "lăng Thiệu Trị có thể được xem là một trong những thành tựu độc đáo nhất của nền mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XIX".

* Lăng Tự Đức - Khiêm lăng

Tự Đức đã sớm nghĩ đến việc xây lăng mộ cho mình ngay khi còn sống. Vốn là một người giỏi thi phú, ông đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ xứng đáng với ngôi vị của mình, địa điểm được chọn để xây lăng trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh. Khi mới khởi công xây dựng, vua Tự Đức lấy tên Vạn Niên Cơ đặt tên cho công trình, với mong muốn được trường tồn. Sau loạn Chày Vôi 1866, vua đổi tên thành Khiêm lăng.

Tổng diện tích 500 ha, riêng Bồi lăng là 15 ha gồm ba khu lăng: Khiêm lăng, Khiêm Thọ lăng và Bồi lăng. Có đến 103 vợ nhưng tuyệt tự, Tự Đức viết bài "Khiêm cung ký" dài 4,935 chữ kể về cuộc đời của mình

* Lăng Khải Định - Ứng Lăng: đây là lăng tẩm của Hoàng đế áp chót của triều Nguyễn, sau lăng của năm Hoàng đế đầu tiên và cả lăng Đồng Khánh. Lăng được xây cạnh núi Châu Chữ, sát một con suối nhỏ (suối này gọi là suối Châu Chữ) và thời gian xây là 11 năm (1920 - 1931). Lăng được xây theo phong cách kiến trúc dung hoà Đông - Tây, dùng xi-măng (ciment theo tiếng Pháp mà thành) trộn thành bê-tông cốt thép, khác với cách xây dựng của các đời vua trước. Các công trình kiến trúc có cung An Định, lầu Kiến Trung (nơi vua băng hà), cửa Hiển Nhơn, cửa Chương Đức, cửa Trường An. Theo Phan Thuận An: "lăng Khải Định là một tác phẩm mỹ thuật tổng hoà của nhiều dòng văn háo, một điểm giao thoa của mỹ thuật kim cổ, Đông Tây. Nó phản ánh rõ phong cách thích sống chưng diện của vua Khải Định lúc sinh thời, và đánh dấu giai đoạn giao thoa, hội nhập giữa hai nền văn hoá Á - Âu của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX".

Kết luận, Phan Thuận An ghi: "lăng tẩm Huế là cõi sống của người chết". Ông nhận định về đặc điểm các lăng tẩm: hoành tráng (lăng Gia Long), thâm nghiêm (lăng Minh Mạng), thanh thoát (lăng Thiệu Trị), thơ mộng (lăng Tự Đức), đơn giản (lăng Dục Đức), xinh xắn (lăng Đồng Khánh), tinh xảo (lăng Khải Định). Trong quyển Les Merveilles du Monde (những kỳ quan thế giới) ở Paris (1957), lăng tẩm Huế được xếp vào hàng những di sản kiến trúc quý báu của nhân loại

6.2. Hệ di sản tinh thần (phi vật thể)

6.2.1. Nhã nhạc:

Nhã nhạc là nhạc chính thống của cung đình, được xem là "Quốc nhạc" trong các cuộc lễ tế Giao, tế Miếu, Đại triều, Thường triều; là sự kết hợp giữa lễ và nhạc. Nhã nhạc có những quy định về quy mô dàn nhạc, cách thức diễn xướng, nội dung bài bản rất kỹ lưỡng và nó phản ánh tính quy củ của các định chế thẩm mỹ rất cao, có khả năng phản ánh tư tưởng và quan điểm triết ký của chế độ quân chủ đương thời.

Nhã nhạc xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc dưới thời nhà Chu (thế kỷ VI – tk III TCN). Về sau, nhã nhạc được lan toả sang các nước láng giềng như: Nhật Bản (tk VIII), Triều Tiên ( tk XII), Việt Nam. Ở Việt Nam thì Nhã nhạc có từ thời Lý, được củng cố có quy củ vào thời Hậu Lê với cải cách của Lương Đăng theo mô hình nhã nhạc của nhà Minh (Trung Quốc); bao gồm Giao nhạc, Miếu nhạc, Đại triều nhạc, Thường triều nhạc, Đại yến nhạc, Cung trung nhạc, Ngũ tự nhạc...

Các đội nhã nhạc được thành lập đầu tiên thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1630) với đội Hoà Thanh tự của Đào Duy Từ nhằm phục vụ tế lễ của phủ chúa. Đến thời vua Nguyễn, đội này có nhiều lần đổi tên: Việt Tương đội (1804), Thanh Bình thự (1820), Võ Can đội (1889) và Vũ đội (1926 - 1945). Sau năm 1945 thì đội Ba Vũ vẫn tiếp tục biểu diễn nhạc cung đình cho đến khi tự giải tán vào thập niên 60.

Hệ thống bài bản của nhã nhạc phong phú, gồm hàng trăm nhạc chương do Bộ Lễ đích thân biên soạn theo từng loại lễ của triều đình:

+ Lễ Tế giao, có 10 nhạc chương mang chữ Thành (nghĩa là: nên việc, thành công, thành tựu) bao gồm: An thành tri chương (khúc hát cầu mong mọi sự được yên ổn và thành công) được diễn tấu trong lễ rước thần về; Triệu Thành tri chương (khúc hát cầu mong sự khởi đầu tốt đẹp) được diễn tấu trong lễ dâng ngọc lụa; Đăng thành chi chương (khúc hát cầu mong sự dâng hiến thành công): lễ dâng vật tế (mâm thịt tế); Mỹ thành chi trương (khúc hát cầu mong điềm lành): Á hiến lễ (tuần rượu thứ hai); Vĩnh Thành chi chương (khúc hát cầu mong sự thành công lâu dài): chung hiến lễ (tuần rượu thứ ba); Doãn thành chi chương (khúc hát cầu mong sự bằng lòng của thần): tấu khi hạ cỗ; Hy thành chi chương (Khúa hát cầu mong thần phù hộ, giúp đỡ): tấu khi tiễn thần đi; Hựu Thành chi chương (khúc hát cầu mong thần phù hộ, giúp đỡ): tấu khi đốt đồ cúng; Khánh thành chi chương (khúc hát bày tỏ niềm vui mừng sau sự thành công của cuộc tế lễ): tấu khi vua về cung.

+ Lễ tế Xã tắc có 7 nhạc chương mang chữ Hoà (nghĩa là sự hài hoà- harmony)

+ tế Lịch đại đế vương có 6 nhạc chương mang chữ Huy (nghĩa là sự tốt lành)

+ tế văn miếu có 6 nhạc chương mang chữ Văn (nghĩa là có học vấn- educated)

+ lễ Đại triều dùng 5 bài mang chữ Bình (nghĩa là sự hòa bình- Peace)

+ Lễ vạn thọ dùng 7 bài mang chữ Thọ (nghĩa là sống lâu- longevity),

+ lễ Đại Yến dùng 5 bài mang chữ Phúc (nghĩa là may mắn- happiness)

Các dàn nhạc cung đình rất đa dạng. Các dàn nhạc thời kỳ này có biên chế như sau (Theo Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam Hội diễn Sư lệ giữa thế kỷ XIX): Huyền nhạc: gồm 26 nhạc cụ: 1 kiến cổ, 1 bác chung, 1 đặc khánh, 1 bộ biên chung, 1bộ biên khánh, 1 bác phụ, 1 chúc, 1 trống, 2 đàn Cầm, 2 đàn Sắt, 2 bài tiêu, 2 tiêu, 2 địch, 2 Sinh, 2 Huân, 2 Trì, 2 Phách bản. Đại nhạc gồm 42 nhạc cụ: 20 trống, 8 minh già, 4 câu giốc (tù và bằng sừng trâu), 4 sa la, 4 tiểu sa, 2 hải loa (tù và bằng ốc biển). Nhã nhạc gồm 8 nhạc cụ: 1 trống bản, 1 tỳ bà, 1 đàn nguyệt, 1 đàn nhị, 2 địch, 1 tam âm, 1 phách tiền. Ti trúc tế nhạc: gồm 8 ca sinh và 8 nhạc công. Ty chung- Ty khánh: gồm 6 nhạc công chơi các nhạc cụ: bác chung, đặc khánh, biên chung, biên khánh. Ty cổ: gồm 7 nhạc công.

Hiện nay, Nhã nhạc mất đi vai trò vốn có và chỉ tồn tại dưới hai tổ chức dàn nhạc, đó là: Đại nhạc và Tiểu nhạc. Hơn nữa, Khải Định du nhập quân nhạc của Pháp khiến Nhã nhạc càng mờ nhạt thêm. Đại nhạc là dàn nhạc hết sức quan trọng trong hệ thống nhạc lễ cung đình Huế. Nó là dàn nhạc diễn tấu với những trình thức quan trọng nhất trong các buổi lễ, thường được dùng trong các lễ tế như: Tế Nam giao, tế miếu, Đại triều …. Tiểu nhạc thường được dùng trong các buổi yến tiệc của triều đình, trong các lễ đại khánh, dịp tết nguyên đán; quan trọng nhất là phải đi liền với ngự liễn của Hoàng đế trong mọi trường hợp. Hai ban Tiểu nhạc và Đại nhạc không bao giờ tấu nhạc cùng lúc với nhau, dù họ đứng cạnh nhau.

Tháng 11 năm 2003, Nhã nhạc Việt Nam chính thức được tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hiệp quốc - Gọi tắt là UNESCO, công nhận là “Kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại”. Đây là di sản văn hoá phi vật thể đầu tiên của Việt Nam được thế giới công nhận tính đến thời điểm hiện tại.

6.2.2. Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế

Hiện trên kiến trúc cung đình Huế còn 2.967 ô thơ văn chạm khắc, sơn thếp trên gỗ, 146 ô thơ văn viết tráng men pháp lam và 88 đơn vị ô hộc, câu đối, bài văn đắp ngõa sành sứ. Đây là những di sản tư liệu độc đáo, là những bản gốc, duy nhất hiện chỉ còn ở Việt Nam và có giá trị nổi bật toàn cầu. Các chuyên gia nhận xét: Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế là một phong cách riêng trong trang trí kiến trúc cung đình, chưa thấy xuất hiện ở những nơi khác trên thế giới. Hệ thống di sản thơ văn này thật sự là một bảo tàng sống động, độc đáo, riêng có về văn chương thời Nguyễn. Nó chuyển tải những thông điệp lịch sử, văn hóa và nghệ thuật đặc sắc một giai đoạn trong lịch sử cận đại của Việt Nam. Đó là những tác phẩm nghệ thuật vô giá, một kho tàng sử liệu đồ sộ, một di sản hàm chứa nhiều giá trị quý báu cần được đặc biệt chú ý bảo tồn.

Ngày 19/5/2016, Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.

Cố đô Huế nói chung và văn hóa triều Nguyễn nói riêng có 5 di sản tầm quốc tế. 4 di sản đã được tổ chức UNESCO công nhận trước đó, gồm: Quần thể Di tích Cố đô Huế, Nhã nhạc cung đình Huế, Mộc bản triều Nguyễn và Châu bản triều Nguyễn. Với sự kiện này, Huế thực sự đã trở thành “Một điểm đến, 5 di sản”.

6.2.3. Mộc bản triều Nguyễn

Tài liệu mộc bản là những bản gỗ khắc chữ Hán hoặc chữ Nôm ngược để in ra thành sách, được dùng phổ biến ở Việt Nam trong thời kỳ phong kiến. Dưới triều Nguyễn, do nhu cầu phổ biến rộng rãi các chuẩn mực của xã hội, những điều luật bắt buộc thần dân phải tuân theo, để lưu truyền công danh sự nghiệp của các bậc vua chúa, các sự kiện lịch sử…, triều đình đã cho biên soạn và khắc in nhiều bộ chính văn, chính sử để ban cấp cho các nơi. Trong quá trình hoạt động đó đã sản sinh ra loại hình tài liệu đặc biệt, đó là mộc bản. Gỗ dùng làm ván khắc mộc bản là gỗ thị, gỗ lê, gỗ táo. Theo sách “Đại Nam nhất thống chí” có ghi “Gỗ dùng làm ván khắc là gỗ cây nha đồng, tục danh là lồng mật, sớ gỗ trắng, sáng ngời như ngà voi”

Mộc bản được lưu trữ ở nhà Giám thuộc Quốc tử giám, do nhân viên Quốc Tử Giám coi giữ và thường xuyên kiểm tra, xem xét; đồng thời “Cho sinh viên ở quán xét xem những sách công cũ, những chữ in có chữ nào mất nét, ai lầm, cần phải khắc lại”. Hiện nay, Mộc bản được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV (số 2 Yết Kiêu, Đà Lạt). Hiện nay, Trung tâm đang bảo quản khối lượng lớn tài liệu mộc bản gồm 34.619 tấm bản gốc với 55.320 mặt khắc. Toàn bộ mộc bản đã được chỉnh lý khoa học, trên 9 chuyên đề như lịch sử, địa lý, quân sự, pháp chế, ngôn ngữ văn tự… gồm 152 đầu sách với 1.953 quyển của Quốc sử quán triều Nguyễn đích thân biên soạn. Tài liệu mộc bản là các bộ sách như Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Khâm định Việt sử thông giám cương mục; các bài thơ Ngự chế văn và Ngự chế thi của các Hoàng đế đầu triều Nguyễn sáng tác. Theo nguồn từ Cục Di sản văn hóa, về lịch sử: có 30 bộ sách gồm 836 quyển, ghi chép về lịch sử Việt Nam từ thời Hùng Vương dựng nước cho đến triều Nguyễn. Đây là nguồn tư liệu đáng tin cậy và có tính chính xác cao. Trong 34.619 tấm Mộc bản, có một bản khắc bài "Nam quốc sơn hà". Đây là bản khắc gỗ cổ nhất bài thơ "Nam quốc sơn hà" còn lại cho đến ngày nay.

Ngày 30/7/2009, Mộc bản triều Nguyễn đã là tư liệu đầu tiên của Việt Nam được công nhận là “Di sản tư liệu thế giới”thông qua tại kỳ họp từ ngày 29/7 đến ngày 31/7/2009 tại thành phố Bridgetown (Barbados) của Ủy ban Tư vấn Quốc tế (IAC) thuộc UNESCO. Mộc bản triều Nguyễn đã chính thức được đưa vào chương trình “Ký ức thế giới” (Memory of the World Programme) của UNESCO.

6.2.4. Châu bản triều Nguyễn

“Châu bản” – 硃 本 (có tài liệu gọi là “Hồng bản” – 紅 本) theo nghĩa gốc là các văn bản có bút tích phê của nhà vua bằng mực son (“châu” có nghĩa là màu đỏ son, “bản” chỉ văn bản tài liệu). Châu bản triều Nguyễn là các văn thư hành chính do các quần thần hoặc các cơ quan trong chính quyền triều Nguyễn soạn thảo đệ trình nhà vua phê duyệt và để lại dấu tích bằng mực son trên văn bản. Tuy nhiên ngoài các văn bản có bút tích ngự phê còn có các bản Thượng dụ hoặc Chiếu chỉ do đích thân nhà vua ra ý chỉ ban hành và một số quốc thư trao đổi hay hòa ước ký kết với ngoại quốc.

Việc ngự phê trên châu bản có nhiều hình thức:

– Châu điểm (硃 點) là một nét son được nhà vua chấm lên đầu văn bản sau khi xem duyệt và chuẩn tấu.

– Châu phê (硃 批) là một đoạn, một câu hay một vài chữ do đích thân nhà vua viết thường ở đầu hoặc cuối văn bản thể hiện sự phê duyệt, cho ý kiến chỉ đạo, cũng có khi vua phê xen vào giữa các dòng văn bản khi cần cho ý kiến.

– Châu khuyên (硃 圈) là những vòng son được nhà vua khuyên lên điều khoản, tên người hoặc vấn đề được chấp thuận.

– Châu mạt (硃 抹), châu sổ (硃 数), châu cải (硃 改) là những nét son chấm bên cạnh hoặc gạch sổ lên dòng chữ mà nhà vua có ý phủ nhận hoặc bác bỏ trong văn bản và viết chữa lại bên cạnh.

Theo thống kê từ Châu bản triều Nguyễn, có hơn 20 loại hình văn bản. Trong đó, một số loại được sử dụng thường xuyên như: chiếu, dụ, chỉ, tấu, khải, bẩm, tư trình, phúc trình, phiến trình, thông tri, phiếu nghĩ… Thẩm quyền ban hành và công dụng được phân biệt cụ thể:

– Chiếu (詔), Dụ (諭), Chỉ (旨) là các văn bản hành chính dành cho nhà vua, dùng để công bố cho thần dân biết chủ trương, quyết sách, mệnh lệnh hoặc những chỉ thị mang tính pháp quy.

– Tấu (奏) là loại văn bản do các bộ nha ở trung ương và địa phương dùng để tâu bày lên Hoàng thượng trong quá trình thực hiện chức trách.

– Khải (啟), Bẩm (稟) là loại văn bản do các bầy tôi, thần dân trình lên các bộ, nha xin tấu lên nhà vua.

– Tư trình (咨 呈), Phúc trình (覆 呈), Phiến lục (片 錄), Thông tri (通 知) là loại công văn trao đổi, phúc đáp, giải quyết công việc giữa các cấp hoặc công văn của các nha môn gửi cho cơ quan cấp dưới.

– Phiếu nghĩ (票 儗) là loại văn bản ghi ý kiến của các Bộ, Nha hoặc Nội các khi tiếp nhận giải quyết công việc do các địa phương, nha môn đệ trình trước khi chuyển nhà vua xem duyệt.

Theo quy định của triều Nguyễn, văn bản do các cơ quan, địa phương, bầy tôi, thần dân trước khi trình lên nhà vua ngự lãm đều phải chuyển tới Nội các sơ duyệt. Văn bản chuyển tới Nội các phải gồm 3 bản, 1 bản chính và 2 bản phó. Trên văn bản ghi rõ tên người soạn thảo, người khảo duyệt và đóng dấu của cơ quan trình văn bản. Nội các sau khi tiếp nhận văn bản có trách nhiệm duyệt qua và biên ý kiến vào tờ Phiếu nghĩ (còn gọi là “hoàng niêm”). Đối với các văn bản cần tham khảo cơ quan chuyên môn, Nội các có quyền yêu cầu các bộ nha liên quan đề xuất ý kiến lên Phiếu nghĩ. Đối với các văn bản không hợp lệ, Nội các có thể yêu cầu cơ quan đệ trình xem xét làm lại văn bản. Sau khi Nội các sơ duyệt xong, sắp xếp các văn bản và đặt vào tráp tấu trình. Hoàng thượng căn cứ vào ý kiến của Nội các và của các Bộ, Nha ghi trong Phiếu nghĩ phê duyệt lên 1 bản chính bằng bút mực đỏ. Văn bản được chuyển trở lại Nội các giao cho các viên Thị độc hoặc Thừa chỉ kính sao lại lời vua phê lên 2 bản phó bằng bút mực đen. Ngự phê sao lại phải viết rõ “phụng châu phê… khâm thử” hoặc “phụng châu điểm khâm thử”, cuối bản phó phải viết “Nội các cung lục” và đóng dấu kiềm “Nội các quan phòng”. Văn bản sau đó được chuyển giao 1 bản phó cho bộ nha liên quan để giải quyết công việc, 1 bản phó giao cho Quốc sử quán để viết sử. Bản chính có bút tích ngự phê trực tiếp sẽ được lưu lại Nội các hình thành nên khối Châu bản triều Nguyễn còn lại đến ngày nay.

Châu bản hiện nay được chuyển ra bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I ở Hà Nội (1991). Số lượng Châu bản triều Nguyễn còn lưu giữ được đến nay gồm 773 tập gốc tương đương khoảng 200.000 tờ tài liệu của 11/13 triều vua nhà Nguyễn là Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định và Bảo Đại. Về nội dung, Châu bản là khối văn thư hành chính của triều đình nhà Nguyễn nên phản ánh bao quát gần như toàn bộ lịch sử, đời sống kinh tế, xã hội, con người ở Việt Nam giai đoạn thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ 20 trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế…

* Ấn chương là loại hình con dấu và hình dấu dùng để đóng trên văn bản, thể hiện sự tín xác, tính hợp pháp của văn bản được ban hành. Ấn chương triều Nguyễn có nhiều loại, việc quản lý và sử dụng ấn chương trong ban hành văn bản được triều đình quy định rất cụ thể và chặt chẽ. Trên Châu bản triều Nguyễn, ấn chương gồm những loại sau:

– Kim Bải Tỷ là ấn của nhà vua, đúc bằng vàng, dùng vào nghĩa quốc gia trọng đại

– Ấn là ấn lớn của các cơ quan từ trung ương đến địa phương; một số tướng lĩnh trong quân đội cũng sử dụng loại ấn này

– Kiềm Ấn (kiềm hay dấu kiềm) là loại ấn rất nhỏ, dùng đóng giáo trang và các vị trí quan trọng trên văn bản của các cơ quan. Đi liền với ấn lớn, kiềm ấn được gọi là bộ ấn kiềm

– Chương và Tín chương là ấn dùng ở chính quyền địa phương cấp Doanh, Trấn, Đạo, Huyện và một số chức kiêm nhiệm từ đầu triều vua Gia Long (1802-1820) đến hết triều vua Minh Mạng (1820-1840)

– Quan phòng là ấn chức vụ của quan chức, tướng lĩnh, thường gọi là quan phòng chức vụ. Quan phòng cũng được dùng trong một số cơ quan nhỏ

– Đồ ký là ấn dùng cho các quan nhỏ phụ trách Phủ, ngành giáo dục cấp Phủ, Huyện; hay trưởng các Ty, Sở và sĩ quan đứng đầu Vệ, Cơ, Thuyền của quân đội

– Kiềm ký là ấn dùng ở cấp chỉ huy những đơn vị nhỏ có tính chất riêng biệt như: cửa thành, cửa khẩu, cửa biển, đồn trạm

– Tín ký là ấn riêng của tất cả các quan viên văn, võ, từ Đại thần, Vương công đến hàng Bát, Cửu phẩm…

– Ký là loại ấn nhỏ của người chưa có phẩm hàm hoặc phẩm hàm thuộc hàng thấp nhất như: Thư lại, nhập lưu Thư lại…

6.2.5. Ca Huế

Là loại hình đàn hát thính phòng mang phong cách tự sự, tri kỷ, tri âm do năm - bảy người đàn hát với nhau, nội dung ca Huế đạt đến trình độ hoàn chỉnh cả lời và nhạc, nội dung giàu chất thơ và trữ tình. Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và dòng ca nhạc cung đình, nhã nhặn, trang trọng uy nghi nên có thần thái của ca nhạc thính phòng, thể hiện theo hai dòng lớn điệu Bắc và điệu Nam, với trên 60 tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc.

Ca Huế được định hình với một số bài bản rút ra từ tế nhạc cung đình, như: “Long ngâm”, “Ngũ đối thượng”, “Ngũ đối hạ”; các bài bản trong hệ thống “Mười bài ngự” (thập thủ liên hoàn, liên bộ thập chương, mười bản tàu) như: “Phẩm tuyết”, “Nguyên tiêu”, “Hồ quảng”, “Liên hoàn”, “Bình bán”, “Tây mai”, “Kim tiền”, “Xuân phong”, “Long hổ”, “Tẩu mã”… Ca Huế thực sự phát triển cùng với sự tham gia sáng tác, biểu diễn của nhiều văn nhân, nho sĩ, quan lại, các ca nương, nhạc công tài năng dưới triều Nguyễn.

Thú nghe ca Huế tao nhã, đầy sức quyến rũ. Một đêm ca Huế có thể được tổ chức trong một thính phòng nho nhỏ nhưng thi vị và hấp dẫn hơn cả là được nghe ca Huế trong một đêm trăng lên trên dòng Hương Giang thơ mộng. Lúc đó tâm hồn của người nghe và cả ca sĩ cùng dàn nhạc dường như được siêu thoát trong một bầu không khí như đưược thăng hoa cùng trời, mây, sông, nước. Sau phần đầu của một đêm ca Huế với tiết tấu âm nhạc rộn ràng, vui tươi của điệu Bắc, người ta thường hát những ca khúc trang trọng, uy nghiêm như Long Ngâm, Tứ Đại Cảnh... Đêm càng về khuya, không gian càng yên tĩnh là lúc đó những điệu Nam Ai, Nam Bình, tương tư khúc... cất lên với nỗi buồn thương nhưng cũng rất gợi tình.

Theo Gs Trần Văn Khê thì ca Huế "không phải là loại nhạc dân gian vì nó chỉ được giới quyền quý trong cung đình sử dụng. Vậy có thể nói rằng đây là loại quan nhạc chứ không phải là dân nhạc". Lúc đầu, nội dung của ca Huế thì bộ phận đặc sắc nhất lại chịu ảnh hưởng rõ rệt của hò, lý dân gian. Chính từ sự kết hợp hài hoà của hai luồng giao thoa đó đã làm cho ca Huế có một phong vị đặc biệt, không những thoả mãn được yêu cầu thẩm mỹ của giới "quí tộc phong lưu", các sĩ phu phong kiến (ngày trước), mà còn được dân chúng hâm mộ; có thời gian thì chính ca Huế, cùng với các điệu lý, hò đã tạo nên bộ mặt của nhạc Huế được biết đến rộng rãi ở ngoài Bắc cũng như trong Nam. Và cũng vì vậy, nên một thời gian nhạc Huế ở Bắc được gọi là "Ca Lý Huế". Ca Huế tiếp xúc với nhạc Chăm và dung hoà giữa hai loại hình âm nhạc này phù hợp với tâm hồn người Việt ở vùng đất mới => cải lương Nam Bộ là một sản phẩm dung hoà thành công giữa Ca Huế với âm nhạc Nam Bộ, một sự kết hợp hài hoà các tính chất cung đình và dân gian với nhau rất độc đáo.

Là thể loại âm nhạc mang đầy đủ các điều kiện, tiêu chí của dòng âm nhạc cộng hưởng giữa dân gian, chuyên nghiệp và bác học của thể loại thính phòng, một thể loại âm nhạc đỉnh cao trong toàn bộ các di sản âm nhạc truyền thống Việt Nam, Ca Huế đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 1877/QĐ-BVHTTDL ngày 08 tháng 6 năm 2015./

6.2.6. Sinh hoạt ẩm thực

6.2.6.1. Các loại đồ ăn

Cả nước có khoảng 1.700 món ăn (tài liệu khác thống kê là 3.000 món) thì Huế có 1.500 món, trong đó có hơn 700 món chay, mặn cung đình và dân gian. Sự xuất hiện của lưu dân vào phương Nam và sự hình thành quý tộc ở đô thị Thanh Hà - Bao Vinh kéo theo hình thành các món ăn phong phú ở Huế.

Có nhiều quy tắc, luật lệ, nghi thức được đề ra trong ẩm thực cung đình Huế. Từ việc cung ứng thực phẩm, chế biến, phục vụ, cách sắp xếp bàn ăn, kiểu chén đĩa… Sách Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ dành hẳn hai quyển 97 và 98 để quy định về thể thức tổ chức yến tiệc trong triều đình thời Nguyễn.

Yến tiệc thời Nguyễn gồm hai hình thức: dự lễ ăn yến và được ban thưởng tặng vật. Người được dự yến phải là hoàng thân quốc thích, quan lại có phẩm hàm cao và những người đã lập nhiều công trạng hay đỗ đạt cao trong khoa cử. Theo sách Khâm định Ðại Nam hội điển sự lệ thì triều Nguyễn tổ chức 2 hình thức yến tiệc. Thứ nhất là yến tiệc được tổ chức định kỳ vào các dịp lễ tiết và triều hội trong năm. Thứ hai là yến tiệc được tổ chức nhân một sự kiện quan trọng nào đó vừa diễn ra. Thuộc vào loại thứ nhất là yến tiệc được tổ chức vào các tiết: Nguyên đán (mồng 1 tháng Giêng âm lịch), Ðoan dương (mồng 5 tháng 5 âm lịch), Trùng dương (mồng 9 tháng 9), Ðông chí (ngày 22 tháng Chạp), Vạn thọ (mừng sinh nhật của vua), Vạn thọ đại khánh (mừng thọ vua vào những năm chẵn như Tứ tuần đại khánh, Ngũ tuần đại khánh... ), Thánh thọ (mừng sinh nhật hoàng thái hậu), Thiên xuân (mừng sinh nhật thái tử), Thiên thu (mừng thọ hoàng quý phi); hoặc trong các dịp triều hội nhân dịp: hoàn thành lễ tịch điền, vua ngự chính điện lần đầu trong một năm, khánh thành cung điện mới; hoàn tất lễ thăng phối (đăng quang) hoặc lễ tấn tôn (tôn tân vương lên ngai vàng)... Thuộc vào loại thứ hai là yến tiệc được tổ chức sau lễ chia ngành họ, cho bộ tên cho các hoàng thân và con cháu của họ (dựa theo bài Đế hệ thi và 10 bài Phiên hệ thi do vua Minh Mạng đặt ra), yến tiệc khi đúc xong Cửu đỉnh (1837), yến tiệc khi mở Sử quán để làm sử cáo thành, yến tiệc khi khai giảng ở Kinh diên.

Quyển 130 của sách Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ quy định rõ về yến tiệc trong bang giao với Trung Quốc. Mỗi ngày sứ bộ nhà Thanh được đãi yến 1 lần. Mỗi lần 1 mẫm cỗ yến hạng nhất 50 bát; 7 mâm hạng nhì, mỗi mâm 40 bát, 25 mâm hạng ba mỗi mâm 30 bát. Duy hai ngày làm lễ thì cỗ yến khoản đãi đều làm thêm 16 đĩa thức ăn dành cho một lần tiếp sứ trong một ngày. Thức ăn trong buổi khoản tiếp, yến tiệc gồm từ những món hảo hạng như yến sào, vây cá, bào ngư, hải sâm đến các món truyền thống như chân giò ninh, gà chặt, cơm nếp lam, bánh bột sắn.

6.2.6.2. Các loại đồ uống

a. Rượu

Thời Nguyễn (1802 – 1945), việc nấu rượu và sử dụng rượu được nhà nước quản lý khá chặt chẽ, nhất là các loại rượu dùng để cung đốn cho các nhu cầu của triều đình như tế lễ, yến tiệc hoặc để bồi bổ sức khỏe nhà vua và các thành viên hoàng gia.

Theo sách Khâm định Ðại Nam hội điển sự lệ, rượu dùng để cúng Trời, Đất, thần linh trong lễ tế Nam Giao được nấu bằng gạo nếp, do phủ Nội vụ tuyển chọn. Còn rượu dùng trong các tiết Vạn Thọ (mừng sinh nhật vua), Thánh Thọ (mừng sinh nhật hoàng thái hậu) là rượu nếp do dân các làng nghề nấu rượu ở phủ Thừa Thiên dâng lên.

Đứng đầu bảng trong các loại ngự tửu chính là rượu sâm, là thứ rượu đặc chế dành riêng cho nhà vua sử dụng. Đôi khi, nhà vua cũng ban thưởng rượu sâm cho các quan lại cao cấp hoặc những người có công trạng đặc biệt như một hình thức tưởng thưởng. Cũng theo sách Khâm định Ðại Nam hội điển sự lệ do Nội các triều Nguyễn biên soạn thì sâm dùng trong triều đình nhà Nguyễn đến từ hai nguồn: sâm nội địa và sâm nhập khẩu. Sâm nội địa do các hộ dân chuyên nghề lấy sâm ở các tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam và Quảng Bình khai thác, dâng nộp (mỗi người nộp 3 cân sâm/năm). Sâm nhập khẩu, chủ yếu là sâm Cao Ly (của Triều Tiên), sâm Quảng Ðông và sâm Phúc Kiến (của Trung Hoa) do triều đình sai quan binh Bắc Thành mua ở các tiệm thuốc bắc của người Hoa trên phố Hàng Buồm dâng về kinh.

Thứ hai là rượu thuốc. Rượu này là rượu ngâm thuốc bắc, theo toa thuốc Minh Mạng thang. Theo kết quả khảo cứu của nhiều danh y xứ Huế, có đến 19 toa thuốc Minh Mạng thang dùng để ngâm rượu. Tuy nhiên, do tên của toa thuốc gắn với niên hiệu của một vị hoàng đế có tới 142 người con (78 hoàng tử, 64 công chúa), là người đã làm nên giai thoại “Nhất dạ ngũ giao tam hữu thụ”, nên người đời tin rằng Minh Mạng thang là bài thuốc tăng cường dương lực. Trong dân gian thì rượu thuốc xuất hiện ở Thiên Tương, Phát Tường, Vương Quốc, Ích Nguyên Đường, Ngô Quý Thích....

Thứ ba là rượu dâu. Theo sách Khâm định Ðại Nam hội điển sự lệ, từ năm 1812, vua Gia Long (1802 – 1820) đã ra chỉ dụ yêu cầu tỉnh Quảng Bình, vào tháng 3 âm lịch hàng năm, phải xuất công quỹ mua sẵn 50 bát quan đầy rượu làm từ quả dâu rừng, đựng vào 20 cái chum, rồi sai lính trạm chở vào kinh đô nộp cho bộ Lễ vào trước ngày 29 tháng 3 để dâng cúng trong lễ tế hưởng mùa hạ. Sau lễ tế hưởng, số rượu dâu còn lại được nhập vào kho trong hoàng cung để vua dùng quanh năm.

Thứ tư là rượu trắng. Rượu trắng dùng ngâm thuốc là loại rượu đặc biệt riêng có của thôn An Truyền (tên xưa gọi là làng Chuồn), thuộc xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ngày xưa rượu làng Chuồn thường được cung tiến cho nhà vua để dâng cúng trong các dịp lễ lớn như Lễ Tế giao, lễ tế Đàn xã tắc, trong các miếu thờ…Không những thế, vua còn dùng để chiêu đãi quan lại, hoàng thân quốc thích trong những dịp tổ chức yến tiệc. Từ làng Chuồng lan rộng ra làng rượu gạo Vinh Thanh, Dương Sơn

b. Trà, lá

Uống trà là thói quen lâu đời của người Việt. Theo Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ thì trong các miếu thờ, cứ tới hai ngày sóc và vọng thì dâng trà vào các bàn, mỗi bàn hai chén trà Tàu. Triều đình quy định với sứ thần Trung Hoa đến phải cấp 7 cân trà Tàu, trong đó có 1 cân thượng hạng và 6 cân hảo hạng. Thời Minh Mạng đã bắt các tỉnh nộp vào cung 11 loại trà Tàu, duy trì đến hết triều Nguyễn

=> những nhận xét về Gia Long: rước voi - giày mả, cõng rắn - cắn gà; các vua triều Nguyễn là "bán nước"; triều Nguyễn "phản động" vì đánh bại triều đại "tiến bộ" là Tây Sơn.

- Ngày 28/11/1787, Nguyễn Ánh ký hiệp ước Versailles. "Đây là một bản hiệp ước bán nước, trong đó Nguyễn Ánh đã bán rẻ một phần lãnh thổ của Tổ quốc và cả chủ quyền quốc gia cho chủ nghĩa tư bản Pháp" (Lịch sử Việt Nam tập 1, 1971).

- Trong bài viết "Phong trào nông dân trong xã hội phong kiến nước ta" trong tập san Sử Địa số 3 (10/1954), Minh Tranh viết: "triều đình nhà Nguyễn (từ đầu thế kỷ XIX) tiêu biểu cho những thối nát phản động nhất của chế độ phong kiến. Nó rắp tâm kìm hãm bước tiến của xã hội lại. Những khả năng phát triển của nền kinh tế tư hữu của nông dân bị thu hẹp bằng chính sách cướp ruộng đất, chính sách tô hiện vật".

- Quyển Lịch sử Việt Nam, tập 1 của Uỷ ban Khoa học xã hội (1971) nhận định: "triều Nguyễn là vương triều phong kiến cuối cùng dựng lên bằng một cuộc chiến tranh phản cách mạng nhờ thế lực xâm lược cua nước ngoài... Triều Nguyễn là một vương triều tối phản động (...). Chính quyền nhà Nguyễn hoàn toàn đối lập với nhân dân và dân tộc. Nó chỉ đại diện cho quyền lợi của những thế lực phong kiến phản động, tàn tạ, nó không có cơ sở xã hội nào khác ngoài giai cấp địa chủ".

=> khuynh hướng nhìn nhận và đánh giá triều Nguyễn như trên được nảy sinh, xác lập trong những năm 1954 - 1956 và mạnh nhất sau thập niên 70, trở thành quan điểm chính thống trong biên soạn các sách giáo khoa đại học và phổ thông.

3.2. Thực tế lịch sử và cách nhìn nhận mới về vai trò của các vua triều Nguyễn

- Thái độ phê phán triều Nguyễn có nguyên nhân sâu xa từ bối cảnh chính trị của đất nước lúc bấy giờ, và cả cách vận dụng phương pháp luận sử học của các nhà nghiên cứu. Vì sao trong thời gian dài quan điểm này vẫn tồn tại ? đó là mục tiêu giành độc lập dân tộc là cao nhất.

Năm 1989, Hội thảo "Sử học trước yêu câu đổi mới đất nước" tổ chức tại Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh nêu ra ba quan điểm:

+ Khuynh hướng giáo điều, công thức trong vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chừng và chủ nghĩa duy vật lịch sử

+ Khuynh hướng "chính trị hoá lịch sử" dùng lịch sử để minh hoạ một số quan điểm chính trị có sẵn, tự hạ thấp tính độc lập và sáng tạo của khoa học lịch sử

+ Khuynh hướng "hiện đại hoá lịch sử" theo ý nghĩa là trình bày lịch sử quá khứ như hiện đại, không tôn trọng tính đặc trưng của từng thời kỳ lịch sử

Gần 30 năm qua, nhiều công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài đều thống nhất khai thác những nguồn tư liệu phong phú, phân tích và xử lý một cách khoa học để nâng cao nhận thức về thời kỳ này một cách khách quan; từ đó trả lại các giá trị khách quan và đích thực cho các triều vua và các nhân vật lịch sử, nêu cao những cống hiến tích cực và đồng thời phân tích những mặt hạn chế, tiêu cực

Chương 4: Vấn đề canh tân đất nước dưới triều Nguyễn

4.1. Giải thích các thuật ngữ

- Canh tân: đổi mới, sửa đổi, đổi ra mới (theo KTTĐ: Kim thư từ điển)

- Canh cải: sửa đổi, cải hoán

- Cải cách: Theo Kim thư từ điển là "đổi mới, cách tân (thay đổi, bỏ lối cũ theo lối mới). Còn theo Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông là "đổi mới cho tiến bộ hơn, cho phù hợp với sự tiến bộ chung của xã hội mà không đụng tới nền tảng của chế độ hiện hành; có cải cách toàn diện (Đổi mới 1986), cải cách một số mặt (Khúc Hạo, Hồ Quý Ly, Lê Thánh tông...)

- Canh trương: điều chỉnh dây đàn/thay đổi mở mang

- Cách mệnh: (1) thay đổi một triều vua; ngày xưa Thiên tử nhận mệnh trời, thay triều đại và đặt cho tên mới; (2) chỉ việc thay đổi mạnh mẽ mau chóng về một phương diện, một lĩnh vực nào đó, như Công nghiệp cách mệnh; (3) chuyên chỉ sử dụng võ lực để lật đổ một chính quyền, tổ chức hoặc trật tự cũ; như Chánh trị cách mệnh, xã hội cách mệnh; dùng bạo động mà thay đổi cuộc chính trị. Nghĩa rộng là thay đổi cuộc nọ ra cuộc kia: Văn học cách mệnh, Phong tục cách mệnh

- Cách mạng: (1) hình thức đấu tranh giai cấp cao nhất dẫn đến một cuộc biến đổi căn bản, chuyển đổi chế độ xã hội cũ đã lỗi thời sang một chế độ xã hội mới tiến bộ hơn; (2) sự đổi mới hẳn, sự đổi mới về bản chất (cách mạng khoa học - kỹ thuật); (3) chỉ sự tiến bộ nhất, sự phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội (tư tưởng cách mạng, hành động cách mạng) (Theo Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông của Phan Ngọc Liên)

- Cải tổ (perestroyka): tổ chức lại theo những nguyên tắc mới và yêu cầu mới, có nội dung và hình thức khác trước nhằm làm cho xã hội tốt hơn (trong thực tế có những cuộc cải tổ không làm được điều này mà còn gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của xã hội như Cải tổ Liên Xô trước đây)

- Duy tân: thuộc về sự cải cách, đổi mới. Cải cách theo chế độ duy tân (KTTĐ)

- Đổi mới: là thay đổi hoặc thay đổi làm cho tốt hơn, tiến bộ hơn so với trước (theo Nguyễn Như Ý, Đại từ điển tiếng Việt)

4.2. Bối cảnh lịch sử của việc canh tân đất nước

- Thế giới có chuyển biến lớn: nhiều nước phương Tây tiến hành thành công cuộc cách mạng tư sản, xác lập hoàn toàn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào đầu thế kỷ XIX sau cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII. Do nhu cầu cần nguyên liệu, thị trường mới nên các nước tư bản phương Tây tiến hành xâm lược thuộc địa. Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha xâm lược nhiều thuộc địa ở tây bán cầu và một phần bán đảo, dẫn đến hiệp định Tordesillas 1494 chia thành hai vùng Đông và Tây. Về sau Hà Lan và Anh, Pháp không chấp nhận điều này, họ liên tục xâm lược ra bên ngoài và đến thế kỷ XIX, Anh là đế quốc có hệ thống thuộc địa "mặt trời không bao giờ lặn".

- Thế nước thời Nguyễn suy sụp về nhiều mặt, Việt Nam lúc này nằm trong tầm ngắm của Pháp. Anh không muốn "ngắm" Việt Nam lý do nước ta quá nghèo, chẳng có gì để đầu tư. Năm 1847 Pháp bắt đầu gây hấn và đến 1858 chính thức xâm lược, buộc triều Nguyễn ký 4 hiệp ước; đến 1884 triều Nguyễn chính thức đầu hàng hoàn toàn trước Pháp.

4.3. Tiền đề cải cách và canh tân đất nước

Lịch sử triều Nguyễn trải qua một quá trình đầy cam go và phức tạp

- Những mâu thuẫn nội tại của xã hội, làm bùng nổ các cuộc khởi nghĩa: khởi nghĩa của người Thái và Mường do Lê Duy Lương lãnh đạo ở Hoà Bình, Thanh Hoá (1833 - 1838); khởi nghĩa của Tạ Văn Phụng (1861 - 1865); khởi nghĩa Cao Bá Quát (1854 - 1856)...

- Đói lớn ở nhiều nơi, nhiều nhất ở miền Bắc (1819, 1824, 1827, 1840, 1856, 1860, 1864; ở Nghệ - Tĩnh, đồng bằng châu thổ sông Hồng); ở miền Nam đói lớn do giá gạo tăng vọt (1844)

- Bão lớn ở miền Bắc (1856 - 1857) khiến nơi này bị đói lớn

- Năm 1852 thì ở Bắc Ninh, Sơn Tây có nạn châu chấu

- Năm 1863 đói lớn khắp cả nước

- Năm 1865 thì đói lớn ở miền Bắc, vùng Vĩnh Long và An Giang đại hạn

- Triều Nguyễn thực hiện chặt chẽ "trọng nông, ức thương" trong kinh tế. Nông nghiệp mang tính tự cung tự cấp, bị triều đình độc quyền cả muối và gạo. Tiểu thủ công nghiệp hầu như không phát triển, vì người dân làm thủ công ra sản phẩm thì tiền bán được đều đầu tư vào nông nghiệp, mua ruộng đất sống an nhàn. Thương nghiệp không phát triển do triều Nguyễn độc quyền buôn bán (không đánh thuế với Trung Quốc, nhưng hàng nước ngoài thì đánh thuế cao. Thương nhân nước ngoài vào buôn bán bị nhiều thủ tục mang tính phiền hà, nhũng nhiễu của quan lại địa phương)

- Nền tảng tư tưởng của triều Nguyễn là Nho giáo với "chỗ dựa" chính là Trung Quốc; lấy Trung Quốc làm khuôn mẫu và làm mô hình xây dựng chính quyền và xã hội. Nhưng "chỗ dựa" Trung Quốc không an toàn vì Trung Quốc suy yếu hẳn sau thời Càn Long, hơn nữa Trung Quốc âm mưu cùng Pháp "chia phần" ở Việt Nam (sau năm 1869). Các nước phương Tây chỉ cần "hạ" Trung Quốc là Việt Nam yếu luôn. Các quan niệm Nho giáo trên thực tế đã kìm hãm, làm cho đất nước bất ổn và không còn khả năng tập hợp lực lượng

- Xã hội thời Nguyễn được hình thành theo thứ bậc là: sĩ (tức người đi học, đi thi), nông, công, thương. Trên sĩ là tầng lớp quan liêu (quan lại được bổ nhiệm bằng khoa cử). Quan niệm của người dân thời kỳ đó là đi học chỉ để làm quan; làm quan để cho có công danh, quyền lợi (quyền lợi lớn) và quan kiêm rất nhiều việc. Nho giáo chú trọng chữ nghĩa, sách "thánh hiền" và ông chồng làm quan thì vợ được hưởng lây, khoa học kỹ thuật không bao giờ quan tâm (Minh Mạng đóng chừng 3 tàu hơi nước rồi thôi). Hơn nữa, người dân Việt Nam coi trong "chủ nghĩa kinh nghiệm" vì kinh nghiệm mình làm lúc nào cũng đúng, truyền bá khoa học kỹ thuật, cách mới nào để làm nông thì họ chống đối và coi thường khoa học kỹ thuật - "kinh nghiệm" là đủ, làm được thì "phất lên" còn "thất bát" thì chịu trận (gắn liền với nông nghiệp). Đại bộ phận trí thức Nho giáo bị ràng buộc bởi quan hệ vua - tôi, hệ tư tưởng Nho giáo bất di bất dịch không thay đổi vì chính bản thân người dân Việt muốn an phận ở ruộng đồng, dù đi xa làm ăn thì họ ít nhiều cũng trở về làng làm nông (làm thủ công nhiều, nhưng sản phẩm bán ra thì mua ruộng đất về sống an nhàn). Bị ràng buộc bởi các quan hệ trong Nho giáo nên trí thức Việt Nam thời Nguyễn có quyền lợi gắn chặt với quyền lợi của triều đình, rất bảo thủ (các vua Nguyễn phần lớn chịu ảnh hưởng bởi hai quan điểm của hai nhóm quan lại: nhóm quan lại cấp tiến, nhóm quan lại bảo thủ. Tự Đức là một ông vua bị đánh giá quá nhiều bởi vì tư tưởng không rõ rệt của ông ta: lúc đầu thì hào hứng kháng chiến lắm, đến năm 1860 khi Pháp dàn mỏng lực lượng ra còn đúng 1.400 tên ở Gia Định - cơ hội vàng đã đến, nhưng triều đình bỏ qua và muốn hoà hoãn với Pháp mà thôi (Nguyễn Bá Nghi 1861 ra chữ "hoà" vì ông ta quá ngại vũ khí hiện đại của Pháp. Với vũ khí hiện đại của Pháp thì triều đình không bao giờ đánh lại được đâu, hoà đi. Trong các bản điều trần gửi Hoàng đế, Nguyễn Trường Tộ cũng có đề cập chữ "hoà" (điều này khiến nhiều người hiểu lệch lắm), nhưng theo ông đó là "hoà" có sách lược, tận dụng hoà hoãn để ta chuẩn bị lực lượng phản công quân giặc ra khỏi bờ cõi). Người nông dân bị trói buộc vào giáo lý Nho giáo hà khắc, vừa bị kiểm soát bởi các phong tục tập quán của những cộng đồng nơi họ cư trú (hương ước).

- Hệ thống giáo dục và thi cử dưới thời Nguyễn được xây dựng để đào tạo ra một quan lại cho có danh vị, có quyền lợi; không hề đào tạo ra chuyên gia (nên suy ra triều Nguyễn không có tư duy kinh tế)

- Thời Minh Mạng, ông rất muốn canh tân đất nước nên đã cho người đi học kỹ thuật đóng tàu máy hơi nước, đến thời Thiệu Trị và Tự Đức thì không chú trọng nữa. Nước ta không chú trọng khoa học kỹ thuật vì nền kinh tế tự nhiên (làm đủ ăn đủ) nên việc mua sắm máy móc là thừa thãi và nông dân Việt không có nhu cầu tiếp thu kỹ thuật mới, không có nhu cầu mua sắm máy móc mới.

4.4. Một số cuộc cải cách tiêu biểu

4.4.1. Cải cách Minh Trị (Nhật Bản)

a. Hoàn cảnh

Nước Nhật trước năm 1868 thuộc quyền cai trị của chế độ phong kiến Mạc phủ Tokugawa (1603 - 1868). Sau khi đánh bại các lãnh chúa chống đối tại trận Sekigahara (1600), Yeyasu buộc Thiên hoàng Nhật phong mình làm Shogun (Tướng quân) năm 1603). Chính thức nắm quyền lực, Yeyasu chia đất nước thành các phiên (han), đứng đầu là các daimyo (đại danh). Đề phòng các lãnh chúa sẽ chống lại lần nữa, Shogun ban hành chế độ "con tin" để ràng buộc lòng trung thành của các lãnh chúa, chia các lãnh chúa thành 3 hạng là: Shinpan là họ hàng của Shogun, fudai daimyo và tozama daimyo. Sợ tozama sẽ nổi dậy, các Shogun ban hành chế độ sankin-kotai (luân phiên trình diện). Thời kỳ đầu của Tokugawa, ngoại thương Nhật Bản phát triển mạnh, nhất là khu vực Đông Nam Á. Năm 1635, sợ hoạt động buôn bán làm ảnh hưởng đến tình hình Nhật Bản, Shogun ban hành lệnh đóng cửa, chỉ mở duy nhất cửa Deshima cho người Hà Lan vì Shogun nghĩ rằng, người Hà Lan không gây hại gì đến nước mình => hình thành phái "Hà Lan học".

Giữa thế kỷ XIX, các nước lớn là Nga, Mỹ (1853) liên tục "gõ cửa" Nhật Bản. Nhận thức được phương Tây đang đe doạ đến mình, chính quyền Nhật chấp nhận ký các hiệp ước bất bình đẳng với các nước phương Tây (sau 1911 thì Nhật thoát khỏi hoàn toàn các hiệp ước bất bình đẳng này, hàng rào thuế quan được dỡ bỏ) để họ giành thời gian củng cố quyền lực. Khi nào quyền lực mạnh thì họ sẽ đàm phán với các hiệp ước đã ký kết. Hai phái cấp tiến và bảo thủ chống nhau quyết liệt từ sau sự kiện Đại lão Ii Naosuke bị ám sát (1860), cuộc đấu tranh không mệt mỏi của các han (Choshu, Satsuma) cải cách cuối cùng đã đánh bại hoàn toàn lực lượng của Mạc phủ, buộc Shogun cuối cùng là Yoshinobu phải từ chức để trao trả quyền lực cho vị Thiên hoàng nhỏ tuổi Meiji (Minh Trị thiên hoàng) vào tháng 1/1868.

Vai trò của người đứng đầu trong cuộc cải cách (duy tân) Minh Trị quan trọng. Thiên hoàng Minh Trị mạnh mẽ và quyết đoán, nhưng đằng sau nhà vua là một lực lượng lớn các daimyo ủng hộ ông - đó là những người còn rất trẻ, dưới 40 tuổi và từng du học ở nước ngoài về. Nhật Bản có nền tảng kinh tế tốt và xã hội ủng hộ tư tưởng đổi mới để đẩy chủ trương đổi mới đi xa hơn. Cải cách Minh Trị tập trung cho sự phát triển kinh tế nhưng vẫn giữ nguyên chế độ chính trị, giữ được địa vị và quyền lợi của các daimyo.

b. Nội dung của cải cách Minh Trị

+ Về tôn giáo: chính quyền Minh Trị lúc đầu tách Phật giáo ra khỏi Shinto (Thần đạo), rồi cấm luôn cả Công giáo (1868 - 1873). Từ năm 1880 trở đi, Thần đạo, Phật giáo và Công giáo được thừa nhận và phát triển.

+ Về chính quyền trung ương Tokyo: Năm 1885, Nhật hoàng bãi bỏ chế độ Daijokan (Thái chính đại thần) và thiết lập mô hình Nội các. Đứng đầu chính phủ là Thủ tướng, dưới đó là các Bộ trưởng (tto Hirobumi là Thủ tướng đầu tiên). Ngày 11-2-1889 Hiến pháp Nhật Bản được ban hành. Hiến pháp quy định người thống trị quốc gia là Thiên hoàng, đó là thần thánh bất khả xâm phạm. Thiên hoàng có quyền tuyệt đối trong mọi lĩnh vực

+ Về chính quyền địa phương: năm 1869, các daimyo của hai phe ủng hộ và chống triều đình Thiên hoàng đã dần quy thuận trung ương với lời hứa sẽ giữ lại quyền lưc sau khi trả đất cho Thiên hoàng (274 phiên (han) quy thuận Thiên hoàng), chính quyền Thiên hoàng ở Tokyo (sau đây gọi tắt là chính quyền Tokyo) tiến hành bãi bỏ hết các phiên và chia thành 72 huyện (ken) và 3 phủ (Kyoto, Tokyo, Osaka). Đến năm 1888 có 1 do (đạo), 3 phủ, 43 huyện như ngày nay. Các quan chức do chính quyền trung ương bố nhiệm. Các daimyo trước đây sẽ được hưởng một khoản trợ cấp rất lớn từ chính phủ.

+ Về ngoại giao: Đàm phán xóa bỏ các hiệp ước bất bình đẳng -Từ 1871-1873 phái đoàn 48 người sang Mỹ và Châu Âu đàm phán nhưng không thành công. Năm 1874 Nhật Bản tấn công Đài Loan. Năm 1879 đổi tên quần đảo Ryukyu thành Okinawa, buộc nhà Thanh phải bồi thường chiến phí cho Nhật. Tháng 9-1875, dùng quân sự thị uy Seoul (Triêu Tiên), buộc vua Triều Tiên ký Giang Hoa. Từ 1892-1893 các cuộc đàm phán với phương Tây để xóa bỏ các hiệp ước bất bình đẳng nhưng cũng thất bại nốt. Sau chiến tranh Nga Nhật, Nhật đạt được thảo thuận với các nước phương Tây phục hồi hoàn toàn quyền tự chủ về thuế quan vào năm 1911.

+ Về điều chỉnh xã hội: chính quyền Tokyo quy định tên gọi mới cho các tầng lớp xã hội. Quý tộc cao cấp gọi là Hoa tộc (Kazoku), các võ sĩ cầm kiếm gọi là shizoku, bình dân (nông, công, thương) gọi là heimin. Từ 1870, heimin được phép mang họ một đặc quyền chỉ dành cho võ sĩ và tầng, lớp trên. Heimin cũng được phép kết hôn với các tầng lớp trên kể cả kazoku, được mặc lễ phục, cưỡi ngựa nếu muốn. Từ 1871 kazoku và shizoku bị tước quyền đeo kiếm.

+ Về kinh tế: Thiên hoàng lệnh thủ tiêu toàn bộ những khác biệt về thuế khóa, đo lường, tiền tệ... lấy đồng yen là tiền tệ quốc gia. Nhà nước đảm bảo quyền tự do buôn bán, tự do đi lại, tự do lưu thông hàng hóa cho người dân. Năm 1870 thành lập Bộ Công nghiệp, năm 1874 thành lập Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính. Mời các chuyên gia quốc tế sang giúp phát triển một số lĩnh vực ưu tiên như sản xuất tơ sợi, quân nhu... Chính phủ bán lại cho tự nhân quản lý một số công ty như: Mitsui, Mitsubishi. Đối với nông nghiệp: Bãi bỏ hình thức sở hữu phong kiến trước đây; thừa nhận quyền sở hữu ruộng đất cho những người có chủ quyền thực tế và ban hành chế độ thuế mới bằng hình thức thu tiền

+ Về quân đội: Thiên hoàng cải tổ quân cận vệ đặt dưới sự lãnh đạo của chính phủ (1871). Năm 1873 ông ban bố lệnh thành lập lực lượng vũ trang trên cơ sở nghĩa vụ quân sự toàn dân (trước đây chỉ có samurai được đi lính). Áp dụng phương pháp tổ chức và huấn luyện của phương tây.

+ Về giao thông liên lạc: Năm 1876 Nhật Bản có đường điện thoại nối Tokyo Yokohama (chỉ 1 năm sau khi điện thoại được phát minh ở Canada). Đường xe lửa đầu tiên khánh thành năm 1872 nối Tokyo - Yokohama; 1874 nối Osaka - Kobe; 1877 Kyoto -Osaka; 1889 toàn bộ tuyến Tokaido nối Tokyo-Kobe được sử dụng.

+ Về giáo dục: Nhật Bản quyết tâm theo đuổi mô hình giáo dục của phương Tây. Năm 1868: 40% đàn ông, 10% phụ nữ biết chữ. Năm 1871 Bộ Giáo dục được thành lập. Năm 1872 ban hành chế độ giáo dục thống nhất trong cả nước. Ban đầu Nhật áp dụng chế độ quản lý giáo dục của Pháp. Chính phủ Nhật áp dụng chính sách cưỡng bức giáo dục không phân biệt. Trẻ em đến tuổi phải đến trường ít nhất 3 năm. Năm 1875 đã có 54% nam, 19% nữ học xong tiểu học 6 năm. Chính phủ xây dựng hệ thống trường từ tiểu học đến đại học. Đưa thanh niên ra nước ngoài học tập. Riêng 1873 đã có 373 học sinh đi học ở nước ngoài chủ yếu là Mỹ, Anh. Mời hàng ngàn chuyền gia ở nhiều lĩnh vực: kỹ thuật, quân sự, tài chính, luật pháp, giáo dục, y' tế... sang Nhật giảng dạy và được trả lương rất cao (Anh, Đức, Mỹ, Pháp).

+ Về văn hoá: Tiếp nhận luồng tư tưởng của phương Tây. Trong hai thập niên đầu Minh Tr,ị tư tưởng Âu hóa, tiếp thu văn minh phương Tây đã thấm vào mọi tầng lớp người dân. Năm 1871 quy định đàn ông phải cắt tóc ngắn. Năm 1872 chính phủ quy định dung Âu phục trog các lễ chính. Tháng 11-1872, Chính phủ quyết định bãi bỏ Âm lịch chuyển sang dùng dương lịch.

* Hậu quả: từ 1868 đến 1884 có 888 cuộc khởi nghĩa chống chính quyền. Sự phản ứng của tầng lớp cựu võ sĩ - Năm 1877, cuộc nổi dậy của 40.000 võ sĩ bất mãn. Chính phủ điều 60.000 quân nghĩa vụ đến đàn áp. Sau 6 tháng hầu hết các viên chỉ huy đều tử trận, người đưng đầu là Saigo đã phải tự sát. Đây là cuộc khởi nghĩa chống đối chính quyền lớn nhất và cuối cùng của tầng lớp võ sĩ Nhật Bản

4.4.2. Cải cách ở Xiêm (Thái Lan)

Nước Xiêm trước thời triều đại Chakri luôn bị nước ngoài nhòm ngó. Các quốc vương Xiêm của vương quốc Ayutthaya cảnh giác trước hoạt động của các nước phương Tây khi họ đến buôn bán và lập thương điếm, chặn đứng thành công âm mưu của viên thương nhân Faulkon (1688) muốn cướp nước Xiêm về tay Pháp. Đầu thế kỷ XIX, Anh và Pháp tăng cường ảnh hưởng sang vương quốc Xiêm. Sau khi đánh bại quân Myanmar (1824), Anh bắt đầu nhòm ngó nước Xiêm; và người Pháp cũng nhiều lần nhòm ngó Xiêm. Quốc vương Mongkut (1824 - 1851) là người mở đầu cho cải cách ở Xiêm (Thái Lan). Mongkut và con trai là vua Chulalongkon rất tài giỏi, từng đi du học nước ngoài nên hai ông hiểu rất rõ thế lực của các nước phương Tây; trong khi đó triều Nguyễn không nắm được thông tin của thế lực phương Tây, đến lúc chiến sự xảy ra cũng chẳng biết thực lực quân Pháp như thế nào ?

Người dân Xiêm (Thái Lan) đa số theo Phật giáo Tiểu thừa nên họ rất cởi mở, chủ động xoá bỏ tầng lớp nô lệ. Hơn nữa, Xiêm có thuận lợi là "vùng đệm" của Anh và Pháp. Hai nước này tranh giành quyền lợi ở Xiêm không phân thắng bại buộc phải thoả thuận để cùng nhau buôn bán. Xiêm chấp nhận ký kết các hiệp ước bất bình đẳng để nhượng đất đai ở Lào và Campuchia, nhượng khá nhiều quyền lợi cho các đế quốc Anh và Pháp, nhưng vẫn giữ được nền độc lập.

4.4.3. Cải cách ở Trung Quốc

Cải cách bắt đầu từ năm 1842 sau khi quân Mãn Thanh thất bại trong chiến tranh thuốc phiện. Nhân vật nổi bật là Lý Hồng Chương, Tăng Quốc Phiên, Tả Tông Đường, Quách Sùng Đào, Tăng Quốc Thuyên, Trương Chi Động... Các quan lại tiên tiến đã bắt đầu tiến hành cải cách, nổi bật là phái Dương vụ của Tăng Quốc Phiên, Tả Tông Đường; phái "bách nhật Duy tân" của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu. Phái Dương vụ tiến hành cải cách quân sự bằng cách xây dựng các xưởng quân cơ ở An Khánh, Thượng Hải, Tô Châu; đến cuối những năm 80 có hạm đội hải quân rất mạnh (tốp 8 thế giới) là hạm đội Bắc Dương, về sau bị quân Nhật đánh tan trong chiến tranh Nhật - Trung (1894 - 1895). Khang Hữu Vi tiến hành cải cách Trung Quốc theo mô hình Nhật Bản (1898) và nhanh chóng được vua Quang Tự đồng tình; chủ yếu là viết sách báo. Phái duy tân của Khang nhanh chóng bị Từ Hi thái hậu đàn áp, có 6 "quân tử tuẫn nạn". Khang Hữu Vi trốn sang Nhật, về sau có gặp cụ Phan Bội Châu và cụ Phan được gợi ý (do ông muốn cầu viện Nhật, mà người khác bảo cách này không an toàn) nên cụ Phan sang gặp những người có uy tín lớn ở Nhật như Bộ trưởng Giáo dục Nhật là Khuyển Dưỡng Nghị (Inukai Tsuyoshi) và bá tước Okuma Shigenobu (Đại Ôi Trọng Tín), cựu Thủ tướng Nhật năm 1898.

Cải cách ở Trung Quốc thất bại do: tầng lớp tư sản và quý tộc tư sản hoá có thế lực yếu (cơ sở kinh tế quyết định sự hình thành các tầng lớp), các đề nghị cải cách lẻ tẻ và sự ủng hộ ít ỏi của đại bộ phận sĩ phu, quan lại cấp tiến

4.5. Quá trình thực hiện cải cách, canh tân dưới thời các vua Nguyễn

4.5.1. Cải cách của Nguyễn Trường Tộ

Ông là một giáo dân Công giáo. Lúc nhỏ ông học chữ Nho với thân phụ Nguyễn Quốc Thư (là một thầy thuốc) và một số thầy giáo khác. Sau khi thôi học, ông mở lớp dạy chữ Hán tại gia và tại Nhà chung Xã Đoài. Học tiếng Pháp với Giám mục Gauthier (Ngô Gia Hậu).

Giữa năm 1861, thông qua Nguyễn Bá Nghi thì ông gửi triều đình bản "Hòa từ". Đến giữa 1863, ông gửi lên triều đình 3 văn bản: Tế cấp luận, Giáo môn luận, Thiên hạ phần hợp đại thế luận:

+ Tế cấp luận là bàn về những việc cần làm ngay đề tự lực, tự cường, phát triển đất nước. Theo Nguyễn Trường Tộ: Tế cấp luận là thâu tóm trí khôn của thiên hạ 500 năm nay, đầu có phải chuyện một ngày mà có thể làm hết được... Nếu đem ra thực hành hàng trăm năm cũng chưa hết (một phần kế hoạch này phản ánh trong Tế cấp bát điều).

Nguyễn Huệ là kẻ phi thường,

Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu,

Ông đà chí cả mưu cao,

Dân ta lại biết cùng nhau một lòng.

Cho nên Tàu dẫu làm hung,

Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà

Gia Long lại dấy can qua,

Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài.

Tự mình đã chẳng có tài,

Nhờ Tây qua cứu, tính bài giải vây.

Nay ta mất nước thế này,

Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà,

Khác gì cõng rắn cắn gà,

Rước voi dầy mả, thiệt là ngu si.

- Năm 1806, sách Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định có đoạn: "Sách Nhất thống dư địa chí đã làm xong. Trước là vua sai Thượng thư Binh bộ Lê Quang Định kê cứu sách vở bản đồ cả nước, các thành dinh trấn đạo từ Kinh sư vào nam đến Hà tiên, ra Bắc đến Lạng Sơn (...). Lúc ấy biên cương tuy ngày một mở mang đến phương Nam nhưng ở ngoài Bắc cò họ Lê là láng giềng thân cận (...) năm Tân Dậu (1801) trở lại kinh đô cũ, niên hiệu Gia Long năm Nhâm Tuất (1802) dẹp yên miền Bắc. Bờ cõi đó đây sau hơn 200 năm nay thu về một mối, Bắc cho đến Lạng Sơn, Nam cho đến Hà Tiên... tất cả 31 trấn dinh đạo lớn nhỏ đều theo về thanh giáo, đất đai rộng rãi bao la đó, thực mà nói từ xưa đến nay chưa bao giờ có được".

2.2. Tiêu chí và quan điểm thống nhất đất nước

- Lãnh thổ

- Chính quyền

- Ý chí

- Thời điểm hay quá trình ?

- Sách Việt sử khảo lược của Dương Kỵ (Nxb Tiến hoá, Sài Gòn xuất bản năm 1949) có đoạn: "đến năm 1787, ba anh em Tây Sơn lại chia Đàng Trong thành 3 khúc, mỗi người đế vương một nơi, không thuộc về nhau lại còn khai chiến với nhau... Vậy thì ở đời Tây Sơn, nước Đại Việt chưa thống nhất, chỉ gắng gỏi đau khổ đi đến thống nhất thôi".

- Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim có đoạn: "Vua Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn là ông vua anh dũng, lấy võ lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn học (...). khi vua Thế Tổ Cao Hoàng nhà Nguyễn cất quân ra Bắc, lòng người theo phục, chỉ một tháng trời mà bình được đất Bắc Hà, đem giang sơn về một mối, nam bắc một nhà, làm cho nước ta thành một nước lớn ở phương nam vậy".

- Năm 1955, GS Lê Thành Khôi trong quyển Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 1858 (bản dịch từ bản gốc tiếng Pháp năm 1955) có đoạn: "sau hai thế kỷ chia cắt, quốc gia được tái thống nhất nhờ nỗ lực của cả một dân tộc. Họ Nguyễn đã sát nhập vào vương quốc của họ Lê vùng châu thổ sông Mekong chiếm được của Chân Lạp. Tây Sơn đã dọn đường cho thống nhất, nhưng Gia Long mới là nhà vua đầu tiên trị vì trên một đất nước Việt Nam không chia cắt trải dài từ Trung Quốc đến vịnh Thái Lan".

- Trong cuốn The smaller dragon, J. Buttinger (1968) cho rằng: "năm 1786, khi Hà Nội thuộc về chế độ miền Nam, Việt Nam đã được thống nhất"

- Một linh mục người Canada là Gérard Gagnon đến truyền giáo ở Việt Nam năm 1932 đã viết: "vào năm 1802, Nguyễn Ánh thống nhất giang sơn và lấy hiệu là Gia Long... Nước Việt Nam đã giành độc lập, mở rộng giang sơn, thống nhất bờ cõi Bắc Trung Nam, tự hào nhìn ngắm tương lai" (Gagnon, Hồn Việt, Đà Lạt, 1959)

- Trong Việt sử tân biên, quyển 4 (1961), Phạm Văn Sơn bình luận: "Nghe lại dèm pha đã giết một tướng (Đỗ Thanh Nhơn), con người Nguyễn Ánh hẳn là đa nghi lắm; sau này thống nhất đất nước còn giết nhiều huân thần nữa thì đã hiểu".

- Trong 82 năm Việt sử (1802 - 1884), Nguyễn Phương (Huế, 1963) viết: "Tây Sơn đã một thời vùng vẫy Nam Bắc. Họ đã giết chúa Nguyễn, diệt họ Trịnh, dập tắt nhà Lê. Họ đã đại phá quân Thanh, làm cho danh tiếng Đại Việt lừng lẫy đến Thiên triều (...). Nhưng sự nghiệp của Tây Sơn lại không được bền bỉ. Họ không có tài tổ chức, thiếu óc đoàn kết, anh trị một khu, em làm chủ một vùng. Tất cả đó làm cho họ, oanh liệt thì oanh liệt thật, nhưng chóng suy tàn (...). Nguyễn Ánh cuối cùng đã gầy dựng được cơ đồ cũ, thống nhất được giang sơn, một mình với đế hiệu Gia Long, cai trị trên một lãnh thổ to rộng hơn bao giờ hết".

- Trong Việt Nam thời bành trướng Tây Sơn, Nguyễn Phương (1968) đã viết: "Tây Sơn đã cáo chung trước sự thống nhất của vua Gia Long (...). Với ba mươi năm ngang dọc trên dải đất đã có sẵn, việc của Tây Sơn phần nhiều là củng cố chống xâm lăng... Tây Sơn không độc đáo trong mở nước, vì nước đã mở trước Tây Sơn. Tây Sơn không độc đáo trong việc giữ nước, vì nạn xâm lăng của Tôn Sĩ Nghị không to tát, cũng không toàn diện như nhiều lần xâm lăng của thời qua".

- Trong Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập 3 (1960), nhóm tác giả gồm Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm viết: "Nguyễn Ánh bị lực lượng nông dân Tây Sơn mấy lần đánh cho tan tành, nhưng vẫn cố bám lấy cái quyền lợi ích kỷ bóc lột của y, của tập đoàn phong kiến họ Nguyễn. Y tìm mọi cách đánh lại phong trào Tây Sơn không từ một hành động bỉ ổi nào. Một trong những nguyên nhận dẫn đến thất bại của Tây Sơn là: không thực hiện được triệt để nhiệm vụ thống nhất quốc gia, không bảo vệ được khối thống nhất lực lượng (...). Bè lũ phong kiến thống trị triều Nguyễn càng ngày càng đi sâu vào con đường phản động, phục hồi và ra sức củng cố mối quan hệ sản xuất cũ và cố bóp nghẹt lực lượng sản xuất mới đã manh nha phát triển hồi thế kỷ XVIII (...). Mọi chính sách, luật lệ, thuế khoá, tổ chức của nhà Nguyễn ban hành đều nhằm bãi bỏ tất cả những thắng lợi mà người dân đã giành được từ trước đó, và đều nhằm bảo vệ đặc quyền của tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn được tha hồ đàn áp bóc lột nhân dân, thu vét hết các của cải về kho để ăn chơi hoang phí vô độ".

- Trong bài viết "Ai đã thống nhất Việt Nam ? Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh ?" đăng trong tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 51, 1963, GS Văn Tân viết: "cuộc nội chiến do Nguyễn Ánh gây ta và tiếp tục dưới sự giúp đỡ của nước ngoài là cuộc phiến loạn làm tổn thất đến sản xuất của nhân dân, và độc lập thống nhất của dân tộc. Nguy hại nhất cho lợi ích của dân tộc là Nguyễn Ánh đã hai lần mượn lực lượng quân sự ngoại quốc về đánh trả người trong nước. Hành động này, ông cha chúng ta gọi là "cõng rắn cắn gà nhà"". Phản hồi lại ý kiến của GS Văn Tân, Nguyễn Phương trong tạp chí Đại học, số 35 - 36, 1963 viết: "Nguyễn Ánh đã đánh bại Tây Sơn, thống nhất sơn hà và thành lập triều đại họ Nguyễn, một triều đại độc lập trên một lãnh thổ Việt Nam rộng lớn chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam". Trước ý kiến của Nguyễn Phương, Hải Linh trong tạp chí Đại học, số 36 nhận định: "cho rằng phong trào Tây Sơn chưa bao giờ thống nhất đất nước, nếu khống phải là một sự xuyên tạc có ý thức thì cũng là một nhận xét không khách quan, không phù hợp với thực tế lịch sử (...). Nguyễn Ánh và triều Nguyễn nói chung đã không củng cố được nền tảng thống nhất quốc gia mà trái lại, còn làm suy yếu và huỷ hoại nền tảng đó. Anh em Tây Sơn chia nước thành 3 khu vực cai quản và do đó hình thành trên mỗi khu vực một chính quyền riêng. Nhưng đó không phải là những quốc gia riêng biệt mà chỉ là những khu vực hành chính trong phạm vi quốc gia, một nước mà thôi (...). Suy tôn những tên phản nước hại dân như Nguyễn Ánh làm "anh hùng dân tộc", Nguyễn Phương đã xuyên tạc lịch sử một cách trắng trợn và tự lột trần mục đích chính trị phản động là phục vụ cho bọn cướp nước và bán nước".

- Trong quyển Lịch sử cận đại Việt Nam, tập 1 của Nxb Giáo dục (1959), nhóm tác giả Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm và Nguyễn Văn Sự viết: "Nguyễn Ánh không từ một thủ đoạn phản quốc nào để tìm cách chiếm lại ngai vàng: lúc đầu hắn xin viện binh của phong kiến Xiêm, tạo cơ hội cho bọn sát hại nhân dân ta suốt một dãy từ Hà Tiên, Rạch Giá đến Vĩnh Long; sau khi quân Xiêm bị Nguyễn Huệ tiêu diệt ở Định Tường (Rạch Gầm), hắn lại cầu xin sự "giúp đỡ" của bọn thực dân Tây Âu (...) Tây Sơn thắng lợi đã mở ra nhiều hi vọng và triển vọng cho sự phát triển của lực lượng sản xuất theo hướng tư bản chủ nghĩa. Nhưng dựa vào thế lực tư bản Pháp, Nguyễn Ánh đã đánh thắng Tây Sơn rồi lên ngôi Hoàng đế, và chế độ phong kiến tối phản động về mọi mặt lại được khôi phục, cho nên mầm mống khủng hoảng đã không bị thủ tiêu mà còn sớm xuất hiện, lực lượng sản xuất bị kìm hãm; sự kìm hãm đó càng về sau càng khắc nghiệt, đến thời Tự Đức thì sự gắt gao ngu xuẩn nhất (...) Có thể nói rằng chế độ nhà Nguyễn thành lập là sự thắng trận của tập đoàn phong kiến phản động có tư bản ngoại quốc giúp đỡ đối với Tây Sơn là một chế độ tương đối tiến bộ về nhiều mặt".

- Quyển Lịch sử Việt Nam, tập 1 của Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam (1971) viết: "với thắng lợi oanh liệt của phong trào Tây Sơn, các tập đoàn thống trị trong nam ngoài bắc đều bị quét sạch. Sau hơn hai thế kỷ bị phân chia bởi các bè phái phong kiến, nền thống nhất đất nước lại được khôi phục. Lần đầu tiên, sự thống nhất được thực hiện trên phạm vi rộng lớn từ Bắc Hà vào tận Gia Định (tức lãnh thổ Việt Nam ngày nay). Đây là một thành tựu vĩ đại của phong trào cách mạng nông dân Tây Sơn mà vinh quang thuộc về nhân dân ta và thủ lĩnh kiệt xuất là Nguyễn Huệ"

- GS Văn Tạo trong bài viết "Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn" trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 6, 1978 đã viết: "khởi nghĩa Tây Sơn đã giải quyết trọn vẹn vấn đề độc lập dân tộc, thống nhất thực sự đất nước và bước đầu giải quyết được một số yêu cầu và cải thiện đời sống của nông dân (...) Cho đến nay vẫn còn có người chứng minh rằng, tuy Nguyễn Huệ đã mở đầu cho việc thống nhất đất nước, nhưng đến Gia Long thì đất nước mới thực sự được thống nhất (...) Nhiệm vụ của giới sử học nước ta là chứng minh cho sứ mạng đấu tranh thống nhất đất nước của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Cuộc khởi nghĩa ấy không những thống nhất được lãnh thổ mà còn đoàn kết và thống nhất được giữa các dân tộc đa số và thiểu số, tạo sự nhất trí về chính trị và tinh thần của toàn dân - nhất trí về yêu cầu độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và cải thiện đời sống cho nông dân".

- GS Nguyễn Khánh Toàn trong quyển Lịch sử Việt Nam, tập 2 (1985) viết: "triều Nguyễn được dựng lên là kết quả của những cuộc chiến tranh của các thế lực phong kiến suy đồi được tư bản Pháp giúp sức, phản kích lại phong trào Tây Sơn, một phong trào đấu tranh cho quyền lợi của nông dân và dân tộc".

2.2. Quá trình đấu tranh thống nhất đất nước

- Xu hướng ly khai: chiến tranh Nam - Bắc triều từ 1533 - 1592, ly khai khỏi chính quyền Lê - Trịnh của họ Nguyễn vào năm 1558. Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát đã "xuống chiếu đại xá trong nước (...) Nhà nước ta, phát tích từ Ô Châu, vâng mệnh dựng nước. Thầm nghĩ nước chưa thống nhất, giặc chưa dẹp yên, vẫn gắng noi gương tiên tổ. Ngờ đâu người đều đồng tâm, thần báo điềm tốt, ân cần khuyên giục xưng Vương

Năm 1771, Nguyễn Nhạc phất cờ khởi nghĩa, chiếm Quy Nhơn (1773) rồi hoà quân Trịnh, được chúa Trịnh phong làm "Tây Sơn hiệu trưởng tráng tiết tướng quân" cùng phối hợp đánh quân chúa Nguyễn. Năm 1776, sau khi quân Trịnh rút về được một năm, Nguyễn Nhạc xưng làm Tây Sơn vương; năm 1778 Nguyễn Nhạc xưng làm Hoàng đế (Thái Đức đế) đóng đô ở thành Hoàng đế (Quy Nhơn), phong em mình là Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân.

Năm 1776 đến 1785, nghĩa quân Tây Sơn tiến vào Gia Định 5 lần: lần thứ nhất là quân của Nguyễn Lữ tiến vào tận Gia Định và cả Long Hồ (1776) rồi rút lui khiến Đỗ Thanh Nhơn lập tức chiếm lại Gia Định. Tháng 3/1777, Tây Sơn đánh thẳng vào Gia Định và bắt giết hai chúa Nguyễn là Định vương Thuần và Tân chính vương Dương. Năm 1782, 1783, Tây Sơn vào Gia Định. Năm 1784 Tây Sơn vào Gia Định đánh bại quân Xiêm (1785). Năm 1789 - 1790, quân Nguyễn Ánh chiếm lại được Gia Định, lập thành "Gia Định kinh". Sau khi vua Quang Trung mất, Nguyễn Ánh đem quân vây Quy Nhơn (1793), vua Quang Toản đem quân vào cứu và thừa cơ chiếm luôn Quy Nhơn khiến bác mình là Nguyễn Nhạc uất ức mà qua đời. Năm 1799, Nguyễn Ánh chiếm hoàn toàn Quy Nhơn và đổi tên thành Bình Định.

Trong Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập 3 (1960), GS Phan Huy Lê nhận định: "có một sự thật lịch sử cần ghi nhận là, trong khoảng thời gian từ sau khi Nguyễn Huệ chiếm được Thăng Long ngày 21/7/1786 cho đến khi Nguyễn Nhạc rút quân về nam ngày 10/8/1786, quân Tây Sơn đã kiểm soát cả nước, bao gồm cả Đàng Trong và Đàng Ngoài. Đây cũng là lúc phong trào Tây Sơn phát triển lên quy mô toàn quốc và công cuộc lập lại nền thống nhất quốc gia đang mở ra một triển vọng mới".

2.3. Vai trò của Nguyễn Huệ (Tây Sơn) và Nguyễn Ánh đối với công cuộc thống nhất đất nước

- Trong Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập 3 (1960), GS Phan Huy Lê viết: "Phong trào Tây Sơn do Nguyễn Huệ trực tiếp chủ trương và lãnh đạo đã xoá bỏ được tình trạng đất nước bị chia cắt kéo dài trên hai thế kỷ, bước đầu lập lại nền thống nhất quốc gia. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử đất nước được thống nhất gần như tương xứng với lãnh thổ Việt Nam hiện đại."

- Trong quyển Lịch sử Việt Nam từ nguyên thuỷ đến năm 1858, hai tác giả là Trương Hữu Quýnh và Nguyễn Cảnh Minh (1999) nhận định: "kể từ năm 1771 đến cuối thế kỷ XVIII, một cuộc khởi nghĩa có tính chất địa phương ở Đàng Trong mở rộng và phát triển thành cả một phong trào, phong trào nông dân Tây Sơn thực sự làm nên cả một sự nghiệp huy hoàng cho dân tộc. Nhưng sự tồn tại ngắn ngủi đó không đủ để đưa đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng suy tàn của cả một chế độ. Năm 1802, đất nước được thống nhất dưới triều đại mới, song vẫn không bước sang được thời đại mới (...). Trong những năm đầu thời Gia Long, đất nước mới thống nhất lại suốt từ nam chí bắc, nhà vua buộc phải thi hành biện pháp phân quyền tạm thời..."

- Trong quyển Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn (The Tây Sơn Uprising - dịch giả Lê Nguyễn), tác giả George Dutton (2019) nhận định: "cuộc tiến quân vượt ranh giới sông Gianh của quân Trịnh năm 1774 va sau đó là Tây Sơn diệt họ Trịnh năm 1786 đều không thống nhất được Việt Nam. Cuộc chinh phạt của Tây Sơn về phía bắc đã tạo ra các bộ phận khác nhau. Triều Nguyễn trước sau vẫn thừa hưởng một lãnh thổ bị chia rẽ cao độ. Chế độ mới tìm cách giải quyết thông qua phương thức cai trị đất nước là ba khu vực khác nhau...".

- Trong quyển Lịch sử Việt Nam, tập 2 (2005), nhóm tác giả gồm GS Phan Huy Lê, Nguyễn Hải Kế, Vũ Văn Quân, Nguyễn Quang Ngọc, Nguyễn Thừa Hỷ viết: "dưới triều Nguyễn, nền thống nhất quốc gia được xác lập trọn vẹn. Năm 1786 quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy, sau khi đánh tan mấy vạn quân Trịnh ở Phú Xuân đã vượt sông Gianh ra bắc. Thế chia cắt Đàng Trong - Đàng Ngoài tuy đã chấm dứt, nhưng nền thống nhất mà phong trào Tây Sơn tạo ra còn nhiều hạn chế, với việc ba anh em Tây Sơn mỗi người cai trị một vùng. Với sự thành lập triều Nguyễn, đất nước được thống nhất trọn vẹn với một lãnh thổ trải dài từ Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau".

- Gs Văn Tạo (2005) viết: "công lao to lớn mở đường cho sự thống nhất đất nước sau bao nhiêu năm nội chiến chia cắt là của Nguyễn Huệ - Quang Trung. Nhưng việc hoàn tất và củng cố thống nhất đó lại được tiến hành tiếp nối từ Nguyễn Ánh - Gia Long đến Minh Mệnh".

- Trong bài "Nguyễn Huệ - Quang Trung trong lịch sử Tây Sơn và lịch sử dân tộc" để tổng kết Hội thảo Tây Sơn - Thuận Hoá với anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ (Huế, 2008), GS Phan Huy Lê kết luận: "phong trào Tây Sơn đã có một số cống hiến đáng kể trên con đường lặp lại nền thống nhất quốc gia là: (1) xoá bỏ tình trạng phân liệt Đàng Trong - Đàng Ngoài kéo dài trên 2 thế kỷ; (2) lật đổ chính quyền chúa Nguyễn và chúa Trịnh lúc suy đồi mà sự tồn tại và tranh chấp bằng chiến tranh đã từng diễn ra và không thể kết thúc thắng lợi của một bên để dẫn đến sự thống nhất quốc gia (...). Chính trên cơ sở này, sau khi Quang Trung mất, triều Tây Sơn suy yếu, Nguyễn Ánh đã đánh bại vương triều Nguyễn Nhạc rồi vương triều Quang Toản để lập lại chính quyền trên phạm vi cả nước, hoàn thành công cuộc thống nhất quốc gia. Bề ngoài có vẻ như một nghịch lý khi hai kẻ thù không đội trời chung lại góp phần tạo nên một thành tựu chung của sự nghiệp thống nhất đất nước (...). Nhưng nghịch lý đó lại là sự thật, nằm trong xu thế phát triển khách quan của lịch sử và yêu cầu thống nhất của dân tộc trong tiến trình lịch sử cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX".

- Trong quyển Lịch sử Việt Nam, tập 4 (2017), GS Trần Thị Vinh viết: "khởi nghĩa Tây Sơn phát triển thành phong trào nông dân rộng lớn, vươn lên gánh vác sứ mệnh lịch sử của dân tộc. Đó là, đánh đổ chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chính quyền chúa Trịnh cũng như chế độ quân chủ của vua Lê ở Đàng Ngoài; đập tan cuộc xâm lược của quân Xiêm ở phía nam, quân xâm lược Mãn Thanh ở phía bắc, bảo vệ độc lập dân tộc, xoá bỏ tình trạng chia cắt đất nước, bước đầu đặt nền móng cho sự thống nhất nước nhà (...). Triều đại Tây Sơn kết thúc và công cuộc khôi phục chế độ phong kiến của nhà Nguyễn đã giành được thắng lợi hoàn toàn".

- Trong quyển Lịch sử Việt Nam, tập 5 (2017), TS Trường Thị Yến viết: "Sau khi thành lập, vương triều Nguyễn đã thừa hưởng được thành quả to lớn của phong trào nông dân Tây Sơn trong sự nghiệp thống nhất đất nước, làm chủ một lãnh thổ trải dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, bao gồm cả Đàng Trong và Đàng Ngoài (...) Nhà Tây Sơn tồn tại trong một thời gian ngắn, trên thực tế quyền lực bị phân tán nên chưa có điều kiện và khả năng tạo nên một mô hình tổ chức chính quyền thống nhất".

Chương 3: Triều Nguyễn với vấn đề độc lập dân tộc

3.1. Các đánh giá trước đây về triều Nguyễn

- Trong Việt Nam quốc sử khảo (1909), Phan Bội Châu viết: "các triều Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê đều có thay họ đổi giòng cả. Nhà này mất thì nhà kia lên. Đó gọi là nhà. Nước Đại Nam, nước Đại Việt Nam từ thời Hùng Vương đến nay tuyệt nhiên sông núi không có gì đổi dời cả, cho nên gọi là nước (...) Sở dĩ gọi là nước vì có chủ quyền, có nhân dân, có đất đai. Nếu ba thứ ấy còn thì nước còn là nước, ba thứ ấy mất thì không còn là nước nữa. Lấy một trong ba thứ ấy đem cho người ngoài thì gọi là giặc của nước, lấy cả ba thứ ấy đem tất cho người ngoài thì là đầu sỏ của giặc nước".

Theo Phan Bội Châu, có ba loại là "giặc của nước":

+ Hồ Quý Ly: đoạt ngôi nhà Trần, cầu nhà Minh sắc phong, cắt 59 thôn châu Lộc Bình cho lệ thuộc vào phủ Tư Minh (nhà Minh)

+ Mạc Đăng Dung: đoạt ngôi nhà Lê, lấy hai châu Thạch Tích, Niêm Lăng và bốn động Cổ Sâm, Tư Lẫm, Kim Lặc và Liễu Cát dâng cho nhà Minh

+ Tự Đức và Từ Dụ: vì ham sống yên phận đã đem một lúc cả ba thứ nói trên cho lũ giặc. Thật là một tên giặc đầu sỏ lớn.

Cũng theo Phan Bội Châu, nước ta có nhiều điều tệ, trong đó có bốn tội lớn:

+ Một là ngoại giao hẹp hòi

+ Hai là nội trị hủ bại

+ Ba là dân trí bế tắc

+ Bốn là vua tôi trên dưới tự tư tự lợi

- Trong tờ báo Việt Nam độc lập số 117 (2/1942), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc viết: "Trước khi vua Gia Long bán nước ta cho Tây, nước ta vẫn là nước độc lập (...). Vì muốn giành làm vua mà Gia Long đem nước ta bán cho Tây. Thế là giang san gấm vóc tan tác tiêu điều; con Lạc cháu Hồng hoá làm trâu ngựa".

- Trong bài thơ Lịch sử nước ta, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (1942) viết:

* Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ nhất

Tiến đồn nghe đến giặc Tây,

Tiềm mưu còn rắp đợi ngày xuất chịnh

Có tên Nguyễn Chỉnh tài danh,

Nhân khi tao loạn đem mình hàng Tậy

Cơ quan mưu lược vẽ bầy,

Cam lòng nước cũ, mượn tay người ngoại

* Nguyễn Huệ trả quyền Lê Hiển tông

Nguỵ Tây vốn kẻ hung tà,

Còn e người chốn Bắc hà khó xọng

Phù Lê có biểu mật phong,

Mặt ngoài trung nghĩa, trong lòng gian phị

* Quân Tây sơn ra Bắc lần thứ hai

Bốn phương lại động khói lang,

Nguỵ Tây riêng mặt bá vương một trời,

Nhạc, Qui Nhơn; Lữ, Đồng nai;

Quảng Nam, Nguyễn Huệ; trong ngoài chia nhạu

- Đại Việt sử ký tục biên ghi chép sự việc Nguyễn Huệ đến gặp việc vua Lê Hiển Tông sau khi tiến quân ra Bắc Hà: "Tôi lần này đến đây là bởi ý trời. Vả như quân chúng tàu thuyền của tối rong ruổi đến đây cũng như việc nước lụt rút xuống, gió nam nổi lên, có phải sức tôi làm được đâu. Trời cho bệ hạ thống nhất bờ cõi, tôi sao dám mưu lợi kể công". Hoàng đế Hiển Tông: "tính sâu sắc trầm lặng, hay biết trước. Ngày thường vua nói với cung nhân rằng: Trẫm đến tuổi già tất thảy sự nhất thống, nhưng đây không phải là phúc của Hoàng gia".

- Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái (hồi thứ 6) chép việc Nguyễn Nhạc gặp vua Lê: "Tôi vì giận kẻ cường thần hiếp chế nhà vua, nên phải làm việc tôn phò. Nếu là đất của họ Trịnh, một tấc tôi cũng không để; còn đất của nhà Lê, thì một tấc tôi cũng không dám lấy. Tôi nghĩ rằng nước ta đây mới dẹp yên, còn có nhiều việc cần phải sửa sang, vì vậy tôi phải ra để giúp đỡ nhà vua. Sau khi bốn phương đã phẳng lặng, anh em tôi lại xin rút về nước. Bây giờ chỉ mong nhà vua chấn chỉnh giường mối triều đình, giữ yên bờ cõi, cùng nước tôi đời đời kết nghĩa láng giềng, như thế là phúc cho cả hai nước vậy". Về việc Gia Long về Phú Xuân, hồi thứ 17 của sách này viết tiếp: "vua Gia Long về kinh đô Phú Xuân, sửa lễ cáo miếu dâng tù, đem bọn vua tôi Quang Toản ra dùng cực hình giết chết, rồi bố cáo cho khắp cả nước đều biết (...). Từ đấy Nam, Bắc yên vui, cõi bờ chung hiệp, cơ đồ sẽ thống nhất muôn đời vậy".

- Sách Đại Nam thực lục, tập 1 (2004) có đoạn: “Tháng 5 năm Tân Dậu (1801) thống lĩnh thượng đạo Thanh Hóa là Hà Công Thái sai người dâng biểu mật nói việc quân. Vua dụ rằng: Ta nay đã thu phục Kinh đô cũ, giặc Nguyễn Quang Toản đã chạy về Bắc, đã ứng cho điều quân thượng đạo Lưu Phước Tường hội với nước Vạn Tượng đánh Nghệ An. Ngươi nên đem quân bản bộ đánh Thanh Hóa, đợi ta sắp đặt tạm xong sẽ tiến đánh Bắc Hà để thống nhất đất nước, ngươi nên cố gắng”. Cũng sách này có đoạn tiếp theo: "Vâng soạn bộ sách Thực lục chính biên về Thế tổ Cao hoàng đế đã xong, xin đem khắc in, dùng để sáng tỏ việc lớn. Trộm nghĩ từ xưa những vị đế vương nối trời dựng nước, đời nào cũng có chế tác, đều có sử riêng đời ấy, mà sử thì có chính biên để nêu cái nghĩa lớn nhất thống vậy". Để đề cao vai trò của nhà Nguyễn, cũng sách này viết thêm: "Thái tổ Gia dụ hoàng đế dựng nghiệp cõi Nam, thần truyền thánh kế hơn 200 năm, chứa đức chồng nhân kể đã lâu lắm. Từ thuở Tây Sơn nổi

loạn, nhà Lê mất ngôi, thì trời mở đường cho thánh nhân dấy lên. Kính nghĩ, Thế tổ Cao hoàng đế ta, ứng mệnh trời thuận lòng người, dẹp tắt mối loạn, xoay lại đường chính, khôi phục kinh cũ, thống nhất nước nhà, dư đồ nhất thống, quy mô rộng xa, vừa trung hưng vừa sáng nghiệp, tỏ công trước để về sau, cơ nghiệp lâu dài hàng ức muôn năm của nước Đại Nam ta gây nền từ đó".

- Quyển quốc sử là Khâm định Việt sử thông giám cương mục có đoạn: "Năm Nhâm Tuất (1802), niên hiệu Gia Long thứ 1 triều ta (Thanh, năm Gia Khánh thứ 7). Thế tổ Cao hoàng đế ta diệt được Tây Sơn, thống nhất bờ cõi".

Đứng đầu Tỉnh là Tổng đốc (2a), Tuần phủ (3a), Bố chính (3a), Án sát (3b) và Lãnh binh (3a đến 4b). Giúp việc là Án sát ty và Bố chính ty chia nhau giữ việc hành chính, thuế khoá và hình luật. Nhân viên các ty: Thông phán (6b), Kinh lịch (7a), Thư lại (8a - 9a) và Vị nhập lưu thư lại

Cả nước có 77 phủ, gồm 53 phủ của 12 tỉnh ở phía bắc, 23 phủ của 12 tỉnh phía nam và Phủ Thừa Thiên. Phủ Thừa Thiên do Đề đốc kinh thành (3a) và Phủ doãn (3a), giúp việc là Phủ thừa (4a)

Cấp huyện: có 12 tối yếu khuyết, 37 yếu khuyết, 62 trung khuyết, 72 giản khuyết

Cấp châu: có 2 yếu khuyết, 8 trung khuyết, 40 giản khuyết

Năm 1835, triều đình can thiệp bằng cách bỏ thế tập và giao cho quan đầu Trấn chọn người có năng lực ở địa phương ra quản lý. Đến năm 1835, triều đình ban hành chế độ lưu quan với việc trực tiếp cứ người từ trung ương đến trấn nhiệm

Cấp xã: Đúng đầu là Xã trưởng. Giúp việc cho Xã trưởng là Xã đoàn gồm Lão nhiêu, Lão hạng, Hưu quan, Tộc trưởng, Trưởng họ... được tập hợp trong Hội đồng kỳ mục và Hội đòng tộc biểu.

Chương 2: Triều Nguyễn với vấn đề thống nhất đất nước

2.1. Quan điểm về thống nhất đất nước từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX

- Lê Ngô Cát (Đinh Hợi 1827 - Ất Hợi 1875), đỗ cử nhân năm 1848, làm giáo thụ phủ Kinh Môn (Hải Dương) ít lâu bổ tri huyện Thất Khê (Lạng Sơn) rồi thăng Hàn lâm viện biên tu. Năm 1858, làm việc ở Quốc sử quán, sau làm án sát Cao Bằng. Trong năm Kỷ Tỵ 1859, ông được Phan Thanh Giản đề cử, cùng với Trương Phúc Hào dự vào việc hiệu đính Việt sử ca hay Sử kí quốc ngữ ca tức Đại Nam quốc sử diễn ca. Tập sử bằng thơ này viết vào cuối thời Lê, sau được Lê Ngô Cát sửa lại. Năm 1873, 1873, Phạm Đình Toái có sửa chữa nữa, bốn phần rút lấy một, rồi Phan Đình Thực và các danh sĩ lại nhuận sắc thêm. Xong Phạm Đình Toái cho khắc ván in ở Nghệ An, có quan Bình chuẩn Đặng Huy Trứ tiếp sức). Xin trích lược vài đoạn: