Dẫn nhập
Đổi mới chính là những thay đổi, thay đổi có tính chất cách mạng. Cái cũ mất đi mà thay bằng cái mới thì nó lại khác, sau một thời gian thì được cái gì và không được cái gì sẽ hiện ra ngay. Nhưng đổi mới của Việt Nam có nhiều điểm so với thực tế, kinh tế có nhiều phạm trù khác nhau thì nó mất nên phải Đổi mới; trước đó vào năm đất nước được thống nhất (1975) đến tận năm nay là 45 năm Đổi mới (Đổi mới manh nha từ 1976), đó là những bước đầu của thể chế liên quan đến chính trị. Chính trị chỉ có tính định hướng, phần nhiều liên quan đến thể chế đã bộc lộ khá nhiều nhược điểm rất tai hại. Đổi mới ở Việt Nam sẽ nhấn mạnh phần kinh tế hơn phần chính trị.
Đổi mới là gì ? Trước đó người ta bảo mở ra cho biết hết các sự thật. Có nhiều người khi nghe những ý kiến trái chiều thì mỗi cá nhân sẽ có những phản ứng khác nhau: chấp nhận, hoặc không chấp nhận; quan điểm trái chiều là chuyện bình thường. Ở Việt Nam cứ thấy ý kiến trái chiều là lập tức tìm cách ngăn chặn bằng nhiều cách khác nhau, do đó không phát triển được. Rất công thức, dạy rất bài bản chỉ để tồn tại.
Có nhiều cách Đổi mới:
(1) cái cũ tự chết đi
(2) cái cũ tự thay đổi, điều chỉnh nhưng không dứt khoát
(3) đổi mới, rất dứt khoát. Đổi mới chắc chắn xảy ra cách mạng, chuyển biến một cách dứt khoát; tạo những thay đổi căn bản theo hướng mới.
Đây là một cách, và Đổi mới có tính căn cơ; Đổi mới có tính chất là một cuộc cách mạng. Về bản chất, đổi mới không do một người đảm đương sứ mệnh to lớn làm mà là do một lực lượng mới thực hiện được (nhưng thực ra bị bao phủ bởi những con người mới vào nhà bị bỏ hoang, lật nóc lên cho sáng). Đổi mới thực ra mới là nhúc nhích được chút thôi, không thể thay đổi hết chỉ một lần làm Đổi mới. Con người không thể thay đổi cái bản tính của mình; tất cả mọi thứ có thể thay đổi được, nhưng tư tưởng và tính cách là không thể thay đổi. Đứng trước sự tồn tại hay tồn vong thì phải thay đổi, chứ không còn con đường nào khác.
Có những thay đổi của lịch sử có những cách khác nhau. Đổi mới, cải cách chẳng qua cũng chỉ là những thay đổi. Mỗi cái cũ và mới sẽ quyết định số phận của nhau, và tạo ra những cái khác nhau. Vậy ai sẽ quyết định sự lựa chọn của cái cũ/mới ? Đó chính là chủ thể (sẽ quyết định) vì theo nguyên tắc, không ai yêu bản thân bằng chính bản thân mình cả. Xem văn kiện Đại hội Đảng bộ Tp. Hồ Chí Minh thì năm 1976 đã có viết (y chang như hiện nay, y sì những hạn chế không thể thay đổi được), sau khi diễn giải ra thì từ năm 1976 đã có những hạn chế đó
1. Bối cảnh của Đổi mới
Hệ thống xã hội chủ nghĩa đang tồn tại những mô hình theo kiểu Liên Xô, Việt Nam cũng học theo Liên Xô luôn. Nhưng đến năm 1978 Trung Quốc đã thấy và tiến hành cải cách; riêng Việt Nam rất ghét Trung Quốc nên không thay đổi. Người Việt có tính rất dở: khi không ưa ai đó thì tìm cách "thôi, không có gì tốt đẹp cả đâu". Hồi năm 1978 Việt Nam với Trung Quốc lục đục với nhau (thực ra từ 1973 đã lục đục rồi), nên Việt Nam cực đoan (chia tay là chia tay luôn, nhưng làm như thế rất thiệt)... bao nhiêu năm gắn bó như thế này, bây giờ lại như thế. Hành động rất cảm tính, không khôn ngoan. Hành động như thế thì ít ra phải xin lỗi người ta, nhưng tuỳ bản tính người ta có rộng rãi hay không để họ chấp nhận hay không chấp nhận tha lỗi. Trung Quốc từ năm 1978 tiến hành cải cách và thay đổi. Thời điểm năm 1978, kinh tế Trung Quốc chưa phải là phổ quát như thời kỳ 1986, nhưng họ trục trặc từ trước đó nên mô hình xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc có những trục trặc lớn. Trung Quốc là một nền văn minh, có lãnh thổ rộng và nó luôn là một cường quốc, rất có ảnh hưởng ra ngoài vì chiều hướng có gắn bó với nhau, điều đó không có nghĩa là Việt Nam sợ Trung Quốc, Việt Nam sẽ có cách thích ứng với tình hình đó. Khi có tranh chấp sẽ có những ảnh hưởng nhất định và đó là điều đương nhiên; công nghệ Trung Quốc cũng có những trở ngại nhất định, dù Trung Quốc phát triển mạnh với nền tảng máy móc hiện đại, nhưng Trung Quốc phát triển từ gốc nên không nước nào gây hại được quốc gia này. Trung Quốc phát triển công nghệ với giá rẻ, đặt hàng và làm một cách đồng bộ.
Trung Quốc cải cách từ năm 1978 trong khi nước này là kẻ thù truyền kiếp của Việt Nam: trong Hiến pháp 1980 ghi luôn Trung Quốc là kẻ thù của Việt Nam - rất mất bình tĩnh như thế. Cái gì của thế giới tư bản là không chơi. Trong cuộc chiến, với tâm thế của người chiến thắng: có gì ghê gớm bằng việc đánh bại đế quốc Mỹ đâu ? phải huy động sức mạnh mới đánh được. Lùa dân ra đi cấy lúa là chuyện nhỏ - tư duy như thế trong chiến tranh được mang vào sản xuất, xây dựng đất nước theo kiểu như vậy. Việt Nam chống quân Campuchia và Trung Quốc (1978 - 1979) thì có một thời kỳ dây dưa vào chiến tranh tổn hao tiền của và sức người đánh đuổi giặc qua tận bên đó. Tư duy như vậy rất tai hại. Nếu nhà nước không đổ quá nhiều của cải vào chiến tranh đó thì nước Việt đủ sức làm kinh tế. Ngày xưa đánh giặc như thế nào, thì mang cách đó đi xây dựng kinh tế đầy cảm tính chủ quan. Ngay trong Đại hội IV (1975), Tổng bí thư Lê Duẩn đã nói: "tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cần vài ba kế hoạch 5 năm (là trong 15 năm có thể làm được nhiều việc khó khăn)" => rất nôn nóng, đúng tâm lý của lãnh đạo vừa thắng kẻ thù số 1 của thế giới xong. Lý tưởng đến như thế, không có xấu nhưng không thực tế. Khi bắt tay vào xây dựng đất nước sau giải phóng, vướng nhiều việc như đánh nhau với nước ngoài ác liệt, đánh càng nhiều càng giỏi - nhưng ra làm ăn kinh tế thì không được. Sau khi chiến tranh kết thúc, những người chỉ huy đánh giặc trở thành những người chỉ huy kinh tế đất nước với trình độ không có, năng lực không có. Ra làm kinh tế với con số "0" tròn trĩnh trong đầu, thì anh đem cách đánh giặc ra làm kinh tế, cắt lúa (gặt lúa) quyết liệt quá cũng chết. Trình độ không có, hầu như không có sự chuẩn bị gì cả vì toàn lực đều dốc hết cho chiến tranh rồi, không có cái "khung" nào cả. Cán bộ giống như kiểu "đào tạo lại" từ cấp 1 lên đại học, bộc lộ hạn chế đến nay vẫn còn, phá huỷ nhiều thế hệ => Hình thành trong tâm lý, tư duy của xã hội, bị mang theo qua nhiều thế hệ.
Đổi mới mà cái gì cao quá sẽ bị thực tế bẻ gãy hết. Đổi mới không căn bản sẽ gây hậu quả nặng nề, đương nhiên cũng có những phản đối. Đổi mới của Việt Nam ở chỗ là đổi mới rộng rãi, mở ra mọi thứ những phải đồng bộ thì mới thực hiện được; dẫn đến toàn bộ hệ thống của Việt Nam phải sửa, phải đổi hết cho phù hợp với điều kiện thực tế đất nước. Khi luật pháp đã rõ ràng, thì mọi thứ sẽ thay đổi. Nhưng bao nhiêu năm thì mới thay đổi được ? Chế độ bao cấp giống như một cái tham khảo mà thôi. Trong cơ quan là mỗi người làm việc như nhau, công sức là của chung tập thể. Ai làm không được thì xử lý tập thể.
Như vậy cái việc Đổi mới ở Việt Nam rất nhiều vướng víu, nhiều khó khăn trước mắt. Nền kinh tế đặt ra yêu cầu Nhà nước phải thay đổi, thì buộc phải thay đổi. Sự vận động của nền kinh tế, của đất nước dẫn đến buộc phải Đổi mới. Muốn gì thì muốn, Nhà nước vì cái đó (tức cái lợi) phải thay đổi. Phải có kiến thức kinh tế thì Nhà nước mới Đổi mới được đất nước.
Xuất phát từ mô hình kế hoạch hoá tập trung nên Việt Nam phải có sở hữu tập thể. Sở hữu tập thể để xoá bỏ áp bức bóc lột, xoá bỏ tư hữu.
Trong phân phối lưu thông thì "ngăn sông cấm chợ"
Cơ chế "xin - cho" trên kế hoạch thì rất hợp lý, nhưng ra thực tế thì có quá nhiều phát sinh và từ chỗ "không thừa, không thiếu" chuyển sang tình trạng "cái thì thiếu, cái thì thừa"
Mô hình tổ chức sản xuất theo mô hình tập thể làm cho năng suất lao động giảm, vì nó thiếu tính dân chủ và không công bằng nên không phát huy được tính chủ động của nông dân. Tình trạng "cha chung không ai khóc" dẫn đến tình trạng năng suất giảm mạnh, tham nhũng liên miên và xã hội lâm vào khủng hoảng trầm trọng
Nhận thức của xã hội về cơ chế kế hoạch hoá tập trung và cơ chế thị trường:
1. Tại sao phải Đổi mới ?
- Cơ chế quản lý cũ kém hiệu quả (cơ chế kế hoạch hoá tập trung tự bản thân của nó bộc lộ nhiều hạn chế trong quá trình thực hiện). Năm 1954, miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cải cách ruộng đất vì họ có lý luận rõ ràng: từ thời Bắc thuộc thì tư tưởng Trung Quốc truyền vào mạnh, nhưng do chưa đủ sức tự chủ được dù tự tôn dân tộc rất cao, nên toàn vay mượn của nước ngoài (yếu tố con người là quan trọng). Pháp sau khi chiếm Việt Nam thì tiến hành triệt để khai thác thuộc địa đến mức Việt Nam bị cạn kiệt tài nguyên => nhấn mạnh yếu tố thương mại khi Pháp thu gom nhiều hàng hoá nhằm kích thích kinh tế thuộc địa theo kịp Anh, Mỹ...
Trong khai thác thuộc địa, tư bản người Hoa gắn nhiều quyền lợi với Pháp, nhưng cũng có một bộ phận đấu tranh để bảo vệ quyền lợi giai cấp của mình. Đầu thế kỷ XX tư tưởng dân chủ tư sản truyền vào nước ta và được trí thức phong kiến tiếp nhận. Khi giành độc lập thì lực lượng thành lập chính quyền mới hoàn toàn không được đào tạo về tư duy kinh tế. Thời chiến tranh thì họ làm vì lợi ích cá nhân nên mô hình kế hoạch hoá tập trung với tư tưởng "bình quân" không phát huy được tính tích cực của người Việt - nên việc nắm chính quyền mới phải thuộc về người có trình độ cao, viên chức cao cấp nhưng không có tư duy kinh tế nên ì ạch.
- Cơ chế của Việt Nam là: xoá bỏ tư hữu (sở hữu tư liệu sản xuất là quy luật, ai siêng thì có tư liệu sản xuất và ai không siêng thì không có tư liệu sản xuất, phân hoá giàu nghèo là hiển nhiên). Hơn nữa tâm lý của người Việt muốn tìm một con đường để giải phóng bản thân thì họ chủ trương lấy của người giàu chia cho người nghèo. Tâm lý của tư sản là tìm thấy sự công bằng qua việc thu lại rồi chia đều cho nhân dân, theo đó họ vận dộng giom lại để sản xuất lớn, đầu tư công nghệ, huy động nguồn lực - đòi hỏi người có tâm và có tầm. Mỗi người một trình độ khác nhau, nguốn lực khác nhau thì làm sao mà tập thể hoá được.
Vụ mua tivi ở An Viên: kê giá cao gấp 100 lần để chia chát quyền lợi => ăn cướp hợp pháp do cách làm ăn không công bằng vì chính người trong cuộc khai ra.
2. Mô hình nào ?
Mô hình kinh tế thị trường của chủ nghĩa tư bản, nó có nhiều ưu điểm mặc dù quá trình thực hiện rất khó khăn (Kim Ngọc ở Vĩnh Phúc là điển hình)
3. Kinh tế thị trường có ưu điểm và hạn chế gì ?
- Hạn chế: bất công xã hội, chênh lệch giàu nghèo
- Tích cưc: phát huy được năng lực của người dân, ai là người có năng lực đến đâu thì phát huy đến đó. Ở công ty tư bản thì chỉ khoảng 1/3 là trả lương cho công nhân, phần còn lại làm rất nhiều: tái sản xuất mở rộng và giữ lại việc làm, đầu tư khoa học công nghệ để tăng năng suất lao động, đóng thuế để phát triển và mở rộng. Kinh tế tư bản càng phát triển thì bóc lột tăng đến 4 lần (rất cao). Kinh tế thị trưởng thúc đẩy sức sản xuất phát triển, tạo động lực cho người lao động và hiệu quả kinh tế cao
=> đúng quy luật là vận hành, nhưng tương xứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Thời bao cấp thì Nhà nước tạo ra công ăn việc làm. Ngày nay nước ta có đổi mới để phát triển kinh tế nhưng nhà nước vẫn giữ lại mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Người mở đầu cho đường lối Đổi mới là Tổng bí thư Trường Chinh (Đại hội VI - sẵn sàng tạo điều kiện cho đổi mới) với Nghị quyết khoán 10 (1988) và đến 1997 đổi mới đi vào ổn định và có bước phát triển.
Thực tiễn đất nước sẽ quyết định hình thành chủ trương ở địa phương và sau đó là trung ương. Những hạn chế của cơ chế hợp tác xã chắc chắn lãnh đạo biết hết. Nói như ông Kim Ngọc: mô hình hợp tác xã khiến người dân thờ ơ với tư sản mà trước đây họ gắn bó nhiều với nó - họ gắn bó với tư sản vì họ tìm thầy nhiều lợi ích trong đó: làm bao nhiêu nộp hết cho Nhà nước, rất lãng phí. Ông Kim Ngọc trăn trở vì người dân thờ ơ với ruộng đất của mình (ruộng đất do cơ chế sở hữu tạo ra). Người dân không hăng hái sản xuất vì trong hợp tác xã không có sự công bằng nên họ chấp nhận đói chứ không làm, ruộng đồng cỏ mọc nhiều hơn lúa. Những hạn chế dó khiến Kim Ngọc quyết định khoán hộ, nhưng bị một bộ phận khiển trách vì đi ngược lại với chính sách "hợp tác xã" , trái với sự vận hành của cơ chế kinh tế thị trường (có người biết Kim Ngọc làm rất đúng, nhưng không ai dám phản đối vì muốn được yên thân). Thay vì đánh kẻng thì lúc này khoán (giao) hết ruộng, giống, phân bón cho nhân dân tự do sản xuất ; cuối nộp đủ số lượng theo quy định, phần còn lại thì ai làm nhiều hơn thì hưởng luôn phần đó - nhân dân hăng hái làm việc. Thời hợp tác xã là làm việc giản đơn, bắt chước mô hình của Liên Xô trước đây là mô hình kinh tế tập thể, kinh tế trang trãi, sẽ lập nên trang trại, thuê nhân công , mua máy móc và công nghệ khiến năng suất phát triển mạnh do quá trình hiện đại hoá sản xuất.
"Khoán chui" ở Hải Phòng tác động tích cực đến sản xuất nông nghiệp của xã Đoàn Xá nói riêng và nông nghiệp miền Bắc nói chung. Nhân dân phấn khởi, chính quyền xã có cái để báo cáo với cấp trên về việc làm trái với kế hoạch hoá tập trung, nên được lãnh đạo tỉnh cho phép làm luôn. Lãnh đạo tỉnh đã biết là trái với quy định trên, đó là người nhìn xa trông rộng, có ý định táo bạo vì quyền lợi chung của nhân dân xã. Trường Chinh là lãnh đạo quyết đoán, dám nhận trách nhiệm về mình; khi Trường Chinh thị sát thì nơi khoán có năng suất cao, nơi không khoán thì năng suất thấp và cỏ mọc đầy.
2. Bản chất của xã hội chủ nghĩa
Xã hội chủ nghĩa là một lý luận tốt đẹp, nhưng nếu không biết vận dụng đúng sẽ khiến người ta có cách nhìn khác về xã hội chủ nghĩa
Công nhân dù là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất mới tiến bộ, nhưng không thể nào là giai cấp tiên tiến vì nếu giỏi quá sẽ không làm công nhân. Công nhân ở phương Tây cũng phải cần trình độ để vận hành một cái máy, không có trình độ sẽ không làm được gì cả. Theo phép logic thì dốt sẽ nghèo, nhưng nghèo chưa chắc gì đã dốt; muốn giàu thì phải giỏi, công nhân không thể nào giỏi bằng ông chủ và nếu công nhân giỏi hơn ông chủ thì không cần làm thuê. Ở Canada chính phủ muốn tăng lương cho bác sĩ nhưng bị bác bỏ, phải đầu tư vào công cộng. Nền sản xuất phát triển và khoa học kỹ thuật có bước vượt trội sẽ khiến hình thành tầng lớp công nhân hiện đại có năng suất lao động tổng hợp tạo ra nhiều của cải vật chất to lớn.
Cách mạng tháng Mười thành công đã giải phóng giai cấp và chính quyền về tay giai cấp vô sản (Nga có nhiều tài nguyên sẵn có để làm giàu, còn ngày nay muốn phát triển phải có trí tuệ. Nga phát triển lên chủ nghĩa xã hội dựa trên tài nguyên sẵn có, nhưng được một thời gian đầu thì sụp đổ dần (Nhà nước Liên Xô thèm muốn xã hội chủ nghĩa, nhưng phi thực tế). Việt Nam giành độc lập khi công nhân bằng trình độ với nông dân, muốn xoá bỏ áp bức bóc lột thì phải diệt tư sản và địa chủ (xoá bỏ tư bản). Người dân XHCN không sợ thất nghiệp vì đã có Nhà nước tiến hành trợ cấp xã hội, nhưng rất ít người muốn được trợ cấp xã hội dù muốn tồn tại. Nhà nước xoá bỏ tư bản (bỏ địa chủ và tư sản) sẽ khiến xã hội được điều hoà (con người hài lòng với cuộc sống hiện tại) và xã hội văn minh được tạo ra – nhưng xã hội văn minh là một điều phi thực tế vì cuộc sống hiện nay chưa đảm bảo thì đừng nói gì đến cuộc sống văn minh.
Cách nghĩ của nhân dân là diệt tận gốc tư sản và địa chủ giúp xã hội điều hoà và cuộc sống được hài lòng hơn (họ được hài lòng về cuộc sống hiện tại). Nhưng diệt hết những người biết làm ăn, rồi đưa những người không biết làm ăn lên làm ăn và làm việc => rất lãng phí nguồn lực và bố trí sai vị trí làm việc nên cuối cùng là trì trệ. Theo suy nghĩ của số đông nhân dân thì rất nhân văn, nhưng theo suy nghĩ của sự phát triển thì rất phiến diện (đi ngược quy luật phát triển chung của lịch sử). Phải hiểu: áp bức bóc lột chỉ khi nền sản xuất phát triển, khoa học kỹ thuật có nhiều thành tựu, năng suất tăng vọt, của cải vật chất dồi dào, đáp ứng được nhu cầu vật chất và tinh thần của xã hội. Bóc lột để tăng năng suất, buôn bán; bên tư bản nếu bán mặt hàng nào không được thì phải bỏ đi vì khi giảm giá sẽ bão hoà, hàng không bán được nữa.
Thời bao cấp Việt Nam: hầu hết sản xuất và kiểm tra diễn ra theo đúng kế hoạch được sắp xếp dưới sự chỉ huy chung của Nhà nước. Cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung là Nhà nước quy định toàn bộ các hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế vận động phát triển tuân theo các quy định của Nhà nước mà không theo quy luật cung – cầu chung của thị trường.
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung:
- Kinh tế thị trường từ Trung ương đến tận cơ sở, mang tính quan liêu. Quan liêu là điều hành từ trên xuống dưới một cách máy móc, không căn cứ theo thực tiễn
- Theo kế hoạch thì không thừa, không thiếu nhằm giải quyết hết các hạn chế của cơ chế thị trường (tính xem cần bao nhiêu thì làm bấy nhiêu). Làm kế hoạch và giao cho cấp dưới làm => chủ quan, duy ý chí. Kế hoạch được Uỷ ban kế hoạch Nhà nước vạch ra, với ý muốn sản xuất tốt để tạo ra tổng cầu, nên giao chi tiêu hết cho địa phương làm để tạo ra sản phẩm. Nhà nước cung ứng phương pháp sản xuất, cung ứng vật liệu cho các địa phương làm. Ở các trường cần bao nhiêu giáo viên thì lập báo cáo về Sở, Sở căn cứ để tuyển dụng mà không cần biết nhà trường cần giáo viên như thế nào (làm lâu năm, có kinh nghiệm). Giao chỉ tiêu cho các địa phương, chính nó tạo ra tính quan liêu. Giao chỉ tiêu kèm theo vốn, nhân lực, vật tư cùng những điều kiện đúng chuẩn để rồi tạo ra sản phẩm nạp vào phân phối của Nhà nước; phân phối cho nhân dân thông qua mậu dịch quốc doanh -> hình thành chế độ tem, phiếu
Cơ chế thị trường:
- Vận hành theo quy luật cung – cầu
- Kế hoạch nằm trong thị trường, phải nghiên cứu thì mới làm được và không thì thôi
=> suy thoái: diễn ra thường xuyên ở các nước tư bản; không có tiền thì không mua được gì cả (lãng phí hàng hoá, vì hàng hoá không chịu bỏ thì không bao giờ bán được)
Vận hành theo kế hoạch như thế rất tốt. Nhưng nếu kế hoạch lập ra không đúng, điều kiện thực tế có vấn đề sẽ tạo ra những hậu quả không lường trước. Kế hoạch mang tính chủ quan của bản thân người ra kế hoạch đó, nó phù hợp với những người yếu thế và không giỏi. Khi chuyển trường công lập sang tự chủ thì có rất nhiều người lo, vì nhiều người làm cho Nhà nước không thể ra bên ngoài để làm thêm. Cơ chế thị trường thì làm việc sẽ được trả lương theo hiệu quả công việc; hiệu quả công việc là thước đo.
Bao cấp (theo kế hoạch) là nhìn vào sắc thái, tình cảm của cấp trên (cơ chế xin – cho) mà thực hiện nên “rất thụ động” (xin là cho liền, không còn động lực làm việc và tính làm biếng là phổ biến, nhiều lúc cho rồi mà không muốn làm). Hiệu trưởng một trường không cần lo quá nhiều cơ sở vật chất, số lượng học sinh… mà lo nhất là làm sao phải được lòng cấp trên. Khi được lòng cấp trên thì xin gì cũng được. Tính “quan liêu” thể hiện rõ ở người chỉ lập kế hoạch mà không căn cứ vào thực tế; “tính “bao cấp” là không cần lo gì hết, đã có Nhà nước lo hết, mình chỉ làm thôi (mà có khi cho sẵn nhưng không muốn làm, không thích làm). Bao cấp là một mô hình quá tuyệt vời, nhưng lại là một mô hình “lỗi” – vì đơn giản nó được thực hành bởi suy nghĩ mang tính chủ quan của người lập kế hoạch: động cơ của người nghĩ ra kế hoạch là rất tốt, mục tiêu là muốn mang lại những điều tốt đẹp nhưng cái sai lầm lớn nhất là mang tính chủ quan vì họ nghĩ rằng ai cũng tốt hết, ai cũng có khát vọng xây dựng xã hội tốt đẹp mà không nghĩ đến những kẻ ham hưởng lợi mà không bao giờ chịu lao dộng (chẳng làm gì mà đòi hưởng nhiều quyền lợi, không làm mà muốn “ăn” nhiều), bất chấp mọi thủ đoạn để đòi cho được quyền lợi.
Vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá thì: giao chỉ tiêu cho các địa phương rồi, theo kế hoạch thì phải cung cấp đủ vật tư và thiết bị; nhưng không nghĩ đến thực tế là nước ta còn nghèo, vật tư thiết bị thiếu rất nhiều, thiếu từ giống đến phân bón trồng lúa nên năng suất không cao, sản phẩm không nhiều => lập kế hoạch không sát với thực tế. Ở ngành dệt vải thì cung ứng vải thiếu rất nhiều nên đa số công nhân ngồi chơi, kết quả là năng suất thấp và thị trường khan hiếm hàng hoá.
Ở các nước tư bản, tư sản sẽ bóc lột vô sản về tư liệu sản xuất. Tư sản bỏ vốn ra mua máy móc, nhà xướng, nguyên liệu, người quản lý (hết 50% số vốn bỏ ra); 50% vốn còn lại để thuê nhân công. Khi trả công cho công nhân thì chủ tư bản chỉ trả 12,5% số tiền, vì họ là chủ sở hữu tư liệu sản xuất chính và là người phân phối sản phẩm (trả cho công nhân 12,5% thôi, còn lại hơn 70% bán được từ hàng hoá thì tư bản tiếp tục đầu tư thêm). Còn xã hội chủ nghĩa cho rằng cách làm đó là bóc lột, vì họ nghĩ rằng tư sản bóc lột nên nhiệm vụ chính phải xoá bỏ sự bóc lột đó. Còn muốn lập kế hoạch được để làm thì cái quan trọng nhất là phải đồng bộ; ở Việt Nam trước 1986 không đồng bộ được vì còn tồn tại sở hữu tập thể Nhà nước, chuyển hết toàn bộ sang công hết thì mới làm kế hoạch được. Việt Nam áp kế hoạch vào nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp và hình thành các Hợp tác xã nông nghiệp; quốc hữu hoá và tổ hợp sản xuất công nghiệp; xoá bỏ hoàn toàn việc “cho” trong mua bán lưu thông hàng hoá, áp dụng “mua” theo kế hoạch định trước (khái niệm “đặt gạch”: xếp hàng mua hàng hoá). Xoá bỏ tư hữu một cách cực đoan, áp vào sinh hoạt tập thể nên người dân có nhu cầu khác về hàng hoá. Cung ứng theo kế hoạch có đủ đâu, kế hoạch phân phối nguyên liệu, vật tư thì nơi nào cũng thiếu nên hình thành thị trường “chợ đen” đa dạng hàng hoá nên người dân thích mua ở chợ đen ấy (buôn lậu là khá phổ biến). Nhà nước ép người dân mua hàng hoá theo kế hoạch, “ngăn sông cấm chợ” khiến địa phương nào cũng lâm vào thiếu hàng hoá trầm trọng; hàng hoá khan hiếm nên “chợ đen” chính là nơi có hàng hoá đó, nó đẩy giá bán lên cao nên một hậu quả là lạm phát diễn ra). Kế hoạch rất lý tưởng vì không muốn ai phải thiếu gì cả, nhưng cung ứng thiếu rất nhiều nên sản xuất có đủ đâu (mô hình hợp tác xã không phù hợp, sản xuất ngày càng chây ì và không tạo ra sản phẩm).
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quá hoàn hảo nhưng không sát và đúng thực tế nên cuối cùng không vận hành được. Hệ thống sản xuất không đủ, vì sản phẩm gần 99% nộp hết cho Nhà nước phân phối rồi, người dân muốn đi mua cái gì đó thì nghịch lý ở chỗ: cái gì cần thì không có, cái gì không cần thì lại có; nên hàng hoá khan hiếm, người dân đói rất phổ biến (quyền lực của người bán hàng rất lớn) nên họ buộc phải mua hàng hoá khác, tạo điều kiện cho người bán hàng đẩy giá hàng hoá lên rất cao, bán với giá cắt cổ (Ở Trung Hoa Cộng hoà nhân dân, Đại nhảy vọt làm 6 triệu người chết đói; Đại cách mạng văn hoá làm 30 triệu người nữa chết mà lý tưởng của Mao Trạch Động cho đó là “tinh hoa” của ông ta; Polpot giết hại mất 3/6 triệu người dân Campuchia). Kết quả là năng suất lao động quá thấp vì nhân dân thờ ơ với ruộng đất, đơn giản là ruộng đất đó không phải của họ nên họ không muốn làm, không cố gắng tham gia vào sản xuất. Ruộng đất thuộc sở hữu chung nên không ai muốn có trách nhiệm gì cả, ai có quyền thì lấy về thôi; không khuyến khích người dân tham gia => tư duy của người Việt vì ai làm thì được hưởng, ai không làm cũng tương tự, nhưng họ không dám nói ra sự thật sợ bị thiệt thân.
Cơ chế kế hoạch hoá tập trung là kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể mang tính chất duy ý chí. Quy luật vận hành là kế hoạch tập trung
Cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể vẫn là chủ đạo; kinh tế tư nhân nhưng kinh tế nhà nước vẫn còn tồn tại và có ảnh hưởng lớn, vốn đầu tư nước ngoài. Quy luật vận hành là cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (quy luật cung – cầu)
Kinh tế Nhà nước là nền kinh tế duy nhất trở thành động lực đầu tàu và giữ vai trò chủ đạo. Nó được đầu tư nhiều, bảo trợ nhưng nó quá trì trệ, tham nhũng do tư duy duy ý chí định hướng xã hội chủ nghĩa, cuối cùng ngày càng lao dốc xuống thảm (cái nôi). Kinh tế tư nhân: không thừa người, là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế và là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Kinh tế tư nhân tự tồn tại, tự phát triển theo đúng quy luật phát triển. Kinh tế tư nhân từng bước được khẳng định bằng thực tiễn, theo cơ chế thị trường thì từng bước khẳng định được dẫn đến phát triển đường lối của Đảng. Như vậy thành phần kinh tế Nhà nước chính là “định hướng xã hội chủ nghĩa” và giữ vai trò chủ đạo (cái nói – đó chính là bản chất xã hội chủ nghĩa); thành phần kinh tế tư nhân chính là “cơ chế thị trường” và trở thành động lực phát triển kinh tế, được khẳng định qua thực tiễn (cái làm).
Kinh tế thị trường gắn với tư bản chủ nghĩa. Trong tư bản, lợi nhuận là yếu tố kích thích sự phát triển kinh tế. Tư bản chủ nghĩa bóc lột nhân công đều là đẩy lại nền kinh tế và giúp nền kinh tế phát triển; của cải không được dùng một cách lãng phí nên ít ai dám đem xài cho cá nhân. Họ (tư bản) mạo hiểm kinh doanh nên kinh tế phát triển nhanh là vì thế. Hiện nay một số người Việt gánh trên đầu nợ công 38 triệu/người (tăng cường cho người thu nợ và ra hạn trả nợ, không trả thì siết chặt việc thu), lý do vì suy nghĩ rất hay: cơ chế không thể thực hiện được vì nó không rõ ràng, và của chung tất nhiên không thuộc về ai cả - đó là quy luật. Người nào nắm giữ kinh tế mạnh sẽ có tiếng nói. Cổ phần hoá ở Việt Nam là quá trình chia chác với nhau: bán ra ngoài sản phẩm bị hư nát để tư nhân mua, sau đó tư nhân bỏ vốn lại thì làm sẽ rất hiệu quả. Thành phần kinh tế Nhà nước dù có sẵn hết, nhưng làm không đủ chi tiêu (làm nhiều mà trả lương ít ỏi) chứ đừng nói lời lãi. Mặc dù vậy, nhưng Nhà nước XHCN vẫn có giải pháp phát triển là mở hệ thống các trường nghề, khám chữa bệnh thì miễn phí (bệnh nặng thì thu một ít), chính sách nhà ở, giáo dục phổ thông trở xuống: giáo dục ngay từ gốc rễ để phổ cập toàn dân – vẫn giữ được ưu điểm của định hướng xã hội chủ nghĩa. Khuyết điểm là tạo ra sự cào bằng, không có động lực để phát triển. Còn Nhà nước TBCN chăm lo người nghèo khi nó đã giàu, còn khi chưa phát triển thì người dân rất khổ.
Nhìn nhận lại về mặt lý luận: có những cái chúng ta muốn nhưng không làm được, cái không thừa nhận nhưng nó phát triển (không thừa nhận kinh tế thị trường, nhưng nó vẫn phát triển và nhiều cái ưu việt hơn) buộc chúng ta phải thừa nhận và nhìn lại. Mọi sự tồn tại đều có lý do, không có lý do thì nó sẽ không tồn tại được. Nếu có kinh tế thị trường thì nó sẽ phát triển theo thực tiễn.
Kinh tế Nhà nước là động lực, đầu tàu và giữ vai trò chủ đạo cho sự phát triển chung của đất nước. Kinh tế tư nhân từ chỗ “không được xác định” (trước 1986) thì hiện nay nó là bộ phận quan trọng nhất, là động lực phát triển của nền kinh tế và nó được khẳng định bằng thực tiễn. Việt Nam chấp nhận cơ chế thị trường vì chắc chắn có phân biệt giàu – nghèo là rõ nét, nhưng Nhà nước vẫn giữ được bản chất xã hội chủ nghĩa của mình.
Thành tựu của Đổi mới ở Việt Nam
1. Ưu điểm
Các thành tựu đạt được về kinh tế, chính trị và xã hội là rất rực rỡ không ai có thể phủ nhận, nhưng Đổi mới ở Việt Nam là chưa đồng bộ. Theo TS Võ Đại Lược thì kinh tế Việt Nam được đổi mới rất nhanh mà chính trị đổi mới không kịp, hơn nữa sự thay đổi chính trị không phải là sự thay đổi chế độ. Đổi mới chính trị phải phù hợp với đổi mới kinh tế để cho có sự đồng bộ. Với đường lối Đổi mới của Đảng (1986) thì Việt Nam từ một nước khủng hoảng trở thành nước có thu nhập trung bình (số liệu cụ thể). Nhờ chính sách tiến bộ của Đảng mà các thành phần thấp trong xã hội có điều kiện phát triển, nhưng cũng tạo hệ luỵ là có sự không công bằng với giới trung lưu, mặc dù đường lối của Đảng rất ưu việt và mang tính nhân văn. Giáo dục bắt đầu có sự phát triển về chất, nhưng chưa theo kịp thế giới
2. Hạn chế:
Tham nhũng xuất phát trong cơ chế. Lãnh đạo các cấp phải thấy được và tìm cách thay đổi và khắc phục, những tiền đề phát triển sẽ tạo ra động lực
Phải thay đổi quản lý đất nước để theo kịp trong hoàn cảnh đất nước thay đổi, pháp luật cũng thay đổi và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển. Nhà nước nên có những chính sách, quy định cụ thể đối với kinh tế Nhà nước và chỉ giữ lại cái cần giữ, cái nào không giữ được thì cổ phần hoá. Có nhiều cái làm được sẽ thay đổi phù hợp theo thực tiễn
Giám sát trong xã hội rất lớn. Tỉ trọng tư nhân của người Việt rất lớn
Trong lịch sử xã hội tư bản, xâm lược thuộc địa là vết nhơ không thể nào gột rửa; bóc lột nhân dân một cách khủng khiếp trong quá trình tích luỹ tư bản. Chủ nghĩa Mác ra đời đã chỉ dẫn cho người lao động cách thoát khỏi ách bóc lột đó.
Chủ nghĩa tư bản muốn đội Mác – Angghen lên đầu vì họ cho rằng chính Mác – Angghen đã chỉ ra những bất cập và hạn chế của xã hội tư bản. Và Mác chỉ ra rằng những bất cập đó làm cho xã hội tư bản bị khủng hoảng, và chủ tư bản nhận ra rằng nếu bóc lột quá mức công nhân (bần cùng hoá công nhân) thì sẽ triệt tiêu sức mua, không làm ra được sẽ không bán được. Duy trì bần cùng hoá lao động mà nếu có vấn đề gì xảy ra thì tư bản không thể sản xuất được, không thể phát triển kinh tế và bần cùng hoá quá mức sẽ làm xã hội bất ổn, chắc chắn rằng phong trào đấu tranh của công nhân nổ ra sẽ lật đổ tư bản là điều chắc chắn. Lúc này tư bản nhận thấy rằng mình phải thay đổi bằng cách cải tiến công nghệ, trả lương có hạn chế với công nhân và phần tiền còn lại sẽ tiền thưởng về hiệu xuất; năng suất tăng thì tiền thưởng sẽ tăng lên – đó là cách xử lý của tư bản.
Còn vô sản thì nói dẹp hết tư bản đi, muốn làm được tư bản (tư sản) thì anh phải giỏi và nếu vô sản giỏi thì trở thành tư sản mất rồi – hai cách tiếp cận khác nhau. Tư bản cải tiến để năng suất tăng lên, dẫn đến chi phí thấp và hàng hoá ra rất nhiều, lương được tăng lên vùn vụt. Vô sản đòi đánh đổ hết tư sản, nhưng vô sản không thể nào làm được vì vô sản không biết cách quản lý, không có trình độ và không có tư duy… cuối cùng sản xuất trì trệ.