Cách mạng dân tộc dân chủ - chiến tranh nhân dân Việt Nam

Chương I : Lý luận về Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam

1.1. Khái niệm :

a. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân :

Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là một loại hình cách mạng không xa lạ gì trong lịch sử Việt Nam, được hình thành từ năm 1945 sau khi Cách mạng tháng Tám thành công. Hiện nay có khá nhiều định nghĩa về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Theo Số tay kiến thức lịch sử của Phan Ngọc Liên (tr. 41) thì định nghĩa : « Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là cuộc cách mạng mang tính chất nhân dân sâu sắc, nhằm đánh đổ thực dân phong kiến, xây dựng chế độ cộng hòa dân chủ rồi chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa ».

Tập bài giảng : Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam , tr. 9 của giảng viên Phạm Thị Thu Nga định nghĩa : « Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam là sự vận dụng lý luận cách mạng không ngừng của Marx – Lenine. Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu lý luận này trong cách mạng thế giới để xác định cách mạng Việt Nam với 3 loại cách mạng (Cương lĩnh Quốc tế Cộng sản) là : cách mạng xã hội chủ nghĩa (ở các nước tư bản) ; cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới (do giai cấp vô sản lãnh đạo nhân dân chống lại chế độ thống trị lỗi thời ở những nước độc lập – thuộc địa còn nhiều tàn tích chế độ cũ) ; cách mạng giải phóng dân tộc (diễn ra ở các nước thuộc địa còn nhiều tàn tích phong kiến – thực dân). Thời kỳ đầu khi Đảng ra đời, người ta không gọi là « cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân » mà gọi là « cách mạng tư sản dân quyền », đến Đại hội II của Đảng thì đổi lại là « cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân », tiền đề của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc Việt Nam thời kháng Mỹ cứu nước.

Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội, tập 1, tr. 356 cũng định nghĩa : «Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam là một loại hình đấu tranh dân tộc và giai cấp ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Nhiệm vụ của nó là đánh đổ ách thống trị của thực dân để giành độc lập cho đất nước, xóa bỏ mọi áp bức của chế độ phong kiến để đem lại quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Lực lượng cách mạng đó là nhân dân được tập hợp trong một mặt trận thống nhất. Tương quan lực lượng của các giai cấp và đảng phái chính trị của từng nước quy định cuộc cách mạng đó có thể do giai cấp tư sản hoặc do giai cấp công nhân, thông qua các đảng chính trị của giai cấp đó, nắm quyền lãnh đạo. Điều này quyết định mức độ triệt để cách mạng và xu thế phát triển tiếp theo sau khi cuộc cách mạng đó đã thắng lợi. Các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ do giai cấp tư sản lãnh đạo thắng lợi sẽ mở đường đưa đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa; nó thuộc phạm trù cách mạng dân chủ tư sản kiểu cũ. Các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm thực hiện triệt để các nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, dựa vào các lực lượng cách mạng của mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, lấy liên minh công nhân, nông dân và tiểu tư sản làm động lực, xây dựng và phát triển chế độ dân chủ nhân dân, mở đường đưa đất nước tiến dần từng bước theo con đường xã hội chủ nghĩa – đó chính là CMDTDCND. Do hoàn cảnh lịch sử, đất nước, giai cấp, xã hội của các nước khác nhau nên cuộc cách mạng nhằm chống đế quốc và phong kiến có những đặc điểm riêng biệt, song trong tiến trình phát triển, các nước thường tập trung lực lượng cách mạng để giải quyết nhiệm vụ dân tộc, một nhiệm vụ quyết định phần lớn yếu tố độc đáo của cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Yếu tố đó không những chỉ tác động đến công nhân, nông dân, tiểu tư sản mà còn có tác động đến cả giai cấp tư sản và địa chủ trong cuộc đấu tranh vì độc lập và tự do của dân tộc. Cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam tiến hành từ 1930 dưới ngọn cờ "độc lập tự do" của Hồ Chí Minh do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là một cuộc CMDTDCND. Cuộc cách mạng đó đã kết thúc thắng lợi vào mùa xuân 1975, mở ra một kỉ nguyên mới - cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Một số khái niệm khác mà chúng ta hay nhắc đến và sẽ gặp là khái niệm cách mạng nhân dân Việt Nam, cách mạng dân chủ nhân dân Việt Nam. Cách mạng nhân dân Việt Nam là cuộc cách mạng do toàn thể nhân dân Việt Nam tiến hành, mục đích là lật đổ ách thống trị tàn bạo của đế quốc và phong kiến để giành lại quyền lợi cho mình (tự do độc lập, quyền dân chủ). Cách mạng dân chủ nhân dân Việt Nam là cuộc cách mạng do toàn thể nhân dân Việt Nam tiến hành, mục đích là lật đổ ách thống trị tàn bạo của đế quốc và phong kiến để giành lại quyền tự do dân chủ. Cách mạng dân chủ nhân dân Việt Nam chỉ xuất hiện vào năm 1936 – 1939, khi phong trào vận động Dân chủ Đông Dương diễn ra sôi nổi của nhân dân (tất cả các tầng lớp, giai cấp) đòi quyền tự do dân chủ. Như vậy, điểm khác giữa cách mạng nhân dân Việt Nam, cách mạng dân chủ nhân dân Việt Nam là về lực lượng, nhiệm vụ của cách cuộc cách mạng. Về lực lượng, cách mạng nhân dân Việt Nam chủ yếu là do nhân dân tiến hành, nhưng dưới sự lãnh đạo của tư sản dân tộc yêu nước – vô sản ; liên hiệp các tầng lớp, giai cấp lại ; cách mạng dân chủ nhân dân là do vô sản lãnh đạo. Nhiệm vụ của 2 loại hình cách mạng trên khác nhau : cách mạng nhân dân Việt Nam thực hiện 2 nhiệm vụ dân tộc – dân chủ, cách mạng dân chủ nhân dân thực hiện nhiệm vụ dân chủ.

So với cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở những nơi khác, cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta có đặc điểm sau :

+ Điểm giống : Cách mang dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam diễn ra ở một nước thuộc địa và phụ thuộc ; rất giống với Trung Quốc, Ấn Độ, Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ ; mục đích cuối cùng là đánh đổ ách thống trị của thực dân để giành độc lập, lật đổ phong kiến để giành quyền dân chủ cho nhân dân ; lực lượng là nhân dân tập hợp trong mặt trận thống nhất.

+ Điểm khác

- Giai cấp lãnh đạo : Việt Nam là giai cấp vô sản mà đại diện là giai cấp công nhân (liên minh công nông) dưới sự lãnh đạo của một chính đảng thống nhất. Các nước khác là giai cấp tư sản (chủ yếu là tư sản dân tộc) lãnh đạo cách mạng qua một chính đảng.

- Lực lượng : chủ yếu vẫn là công nhân – nông dân. Tương quan lực lượng giữa giai cấp tư sản và vô sản quyết định tính triệt để của cách mạng. CMDTDCND do tư sản lãnh đạo sẽ giành thắng lợi, đưa đất theo con đường tư bản chủ nghĩa – nhưng không triệt để vì chưa giải quyết được vấn đề dân chủ (ruộng đất của nông dân, quyền lợi của các tầng lớp – đặc biệt là công, nông dân). CMDTDCND do tư sản lãnh đạo sẽ giành thắng lợi hoàn toàn và triệt để, đưa đất nước theo con đường XHCN – rất triệt để (giải quyết vấn đề dân tộc, dân chủ cho nhân dân.

b. Chiến tranh nhân dân :

Chiến tranh nhân dân: do quần chúng tiến hành vì lợi ích chung của nhân dân, do lực lượng vũ trang làm nòng cốt dưới sự lãnh đạo của giai cấp tiên tiến, chính đảng công nhân. Chiến tranh nhân dân được tiến hành dưới mọi hình thức, bằng tất cả vũ khí có trong tay để đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược bên ngoài và ách áp bức thống trị ở bên trong. Chiến tranh nhân dân Việt Nam là đặc thù của tình hình Việt Nam, là chiến tranh do toàn dân tiến hành bằng mọi cách: đấu tranh toàn diện để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.

Lực lượng tiến hành chiến tranh nhân dân: toàn dân đánh giặc, lực lượng vũ trang 3 thứ quân làm nòng cốt; lực lượng chính trị của quần chúng làm cơ sở để phát triển lực lượng vũ trang, tạo chỗ dựa vững chắc cho lực lượng vũ trang tiến hành hoạt động tác chiến; đồng thời lực lượng này (lực lượng chính trị) còn phối hợp với lực lượng vũ trang trong tấn công, phản công kẻ thù.

Đặc điểm của chiến tranh nhân dân là:

+ Sức mạnh chiến tranh nhân dân: sức mạnh dân tộc kết hợp sức mạnh thời đại; đánh địch ở mọi cách, mọi phương tiện

+ Tiến hành toàn diện trên các mặt trận: quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao…

Đặc điểm của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân: sự lãnh đạo của Đảng, do quân đội tiến hành và dân tộc thống nhất.

1.2. Chủ nghĩa Marx – Lenine về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chiến tranh nhân dân

1.2.1. Chủ nghĩa Marx – Lenine về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

Ngay từ khi bắt đầu có những nhận thức cơ bản về cách mạng ở giai cấp vô sản các nước trên thế giới, nhất là ở các thuộc địa – nó là khâu yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc và là nơi bùng nổ cách mạng mạnh mẽ nhất, Marx và Engels trong khi nghiên cứu thực tiễn cách mạng thế giới đã đề xuất ra lý thuyết « cách mạng không ngừng » trong những năm 1849 – 1850, tiền đề của cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam. Trong lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương gửi Liên đoàn những người Cộng sản vào tháng 3/1850 ([1]), Marx viết : “Lợi ích cua chúng ta là phải làm cho cách mạng trở thành cách mạng không ngừng, cho đến khi tất cả các giai cấp ít hay nhiều hữu sản đều bị gạt ra khỏi chính quyền nhà nước, cho đến khi chúng những ở một nước mà ở tất cả mọi nước thống bị trên thế giới, các hội liên hiệp những người vô sản do tiên bộ đến mức có thể chấm dứt sự cạnh tranh giữa những người vô san ở các nước đỏ. và ít nhất là tập trung nhưng lực lượng san xuất quyết định vào tay những người vô sản”. Vậy lý luận “cách mạng không ngừng” theo Marx và Engels là gì ? Theo hai ông, cách mạng không ngừng là một quá trình đấu tranh giai cấp quyết liệt, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau nhưng phát triển liên tục. Mỗi giai đoạn có những yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển tiếp theo để đi đến mục tiêu cuối cùng. Ở các quốc gia có chính quyền thối nát của phong kiến – tư sản đang cầm quyền thì giai cấp vô sản chính là giai cấp kiên quyết và có tinh thần cách mạng nhất. Họ có thể chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa một khi giai cấp đó giành được chính quyền.

Về sau, Lenin trong quá trình hoạt động cách mạng của mình đã vận dụng và phát triển thêm lý luận của Marx – Engels về sự chuyển hóa không ngừng từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lenin nhận định rằng, « sự phát triển không đều về kinh tế và chính trị là quy luật tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản » ([2]) và ông nhận thấy rằng chủ nghĩa xã hội sẽ toàn thắng chỉ trong 1 nước hay vài nước tư sản ; giai cấp vô sản sẽ là người lãnh đạo cách mạng vô sản, là giai cấp chính quyết định tiến trình cách mạng từ giai đoạn cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình làm cách mạng vô sản thì họ sẽ thực hiện liên tục – không có sự gián đoạn nào (từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lenin cũng nói rõ rằng, sau khi tiến hành xong cách mạng dân tộc dân chủ thì quá độ ngay sang cách mạng xã hội chủ nghĩa

Quá độ, theo Lenin đó là một thời kỳ đặc biệt, nó diễn ra rất dài và trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, đồng thời chú ý đến bước phát triển mạnh mẽ trong đời sống và đặc điểm của từng nước khi quá độ sang thời kỳ xã hội chủ nghĩa và đó là nghệ thuật khi chỉ đạo cách mạng vô sản: “Nhưng làm thế nào trên thực tế thực hiện được bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản cũ, quen thuộc, mà mọi người đã từng biết, sang chủ nghĩa xã hội mới chưa hình thành hẳn, chưa có một cơ sở vững chắc - đó là nhiệm vụ khó nhất. Trong trường hợp tốt nhất thì bước quá độ ấy cũng chiếm mất nhiều năm. Suốt cả thời kỳ đó, trong chính sách của chúng ta, lại chia ra thành nhiều bước quá độ nhỏ hơn nữa. Và tất cả cái khó khăn của nhiệm vụ chúng ta phải làm, tất cả cái khó khăn của chính sách và tất cả sự khéo léo của chính sách là ở chỗ biết tính đến những nhiệm vụ đặc thù của từng bước quá độ đó” ([3]). Qua đó ta có thể thấy được sự tài tình và sáng suốt của Lenin khi chọn con đường xã hội chủ nghĩa bằng cuộc cách mạng dân tộc dân chủ (qua 2 giai đoạn cụ thể) – đó là cuộc cách mạng diễn ra liên tục, không ngừng từ dân chủ tư sản sang xã hội chủ nghĩa; trong đó ông nhấn mạnh thời kỳ quá độ (ở Việt Nam thời kỳ 1930 – 1936 là thời kỳ quá độ, đúng hơn là sự chuẩn bị rất chắc chắn, có chọn lọc của Nguyễn Ái Quốc đã dần đưa cách mạng đến thành công sau này)

1.2.2. Chủ nghĩa Marx – Lenine về chiến tranh nhân dân.

Trước khi Hồ Chí Minh hình thành tư tưởng về « chiến tranh nhân dân », thì chủ nghĩa Marx – Lenin đã dần xuất hiện mầm mống của khái niệm này, nhưng chưa được rõ ràng và cụ thể lắm. Theo Marx – Engels, “Chiến tranh là hiện tượng chính trị xã hội có tính lịch sử, đó là cuộc đấu tranh vũ trang có tổ chức giữa các giai cấp, nhà nước (hoặc liên minh giữa các nước) nhằm đạt được mục đích chính trị của các giai cấp nhất định. Chiến tranh xuất hiện khi xã hội chưa có nhà nước và nó là sản phẩm của đối kháng giai cấp”([4]). Ở dậy, hai ông chỉ có nói chiến tranh là rất chung chung – chỉ các cuộc chiến tranh trên thế giới ; nhưng chúng ta sẽ xét khái niệm này dưới một ý nghĩa khác, đó là nó có ý nghĩa là cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, vô sản với phong kiến – thực dân. Chúng ta xét khái niệm nay trong bối cảnh là cuộc đấu tranh giai cấp – giữa vô sản với phong kiến, thực dân. Như vậy theo ý kiến của hai ông, khái niệm « chiến tranh » được dùng với nghĩa là cuộc đấu tranh giai cấp – đúng hơn là cuộc cách mạng, cuộc « chiến tranh » không khoan nhượng giữa vô sản với phong kiến – thực dân. Trong cuộc « chiến tranh » này (chúng tôi tạm dùng từ này để thống nhất các ý trong bài), hai ông đã đề cập vấn đề thành phần lãnh đạo, thành phần tham gia các cuộc cách mạng của các cuộc cách mạng. Thành phần lãnh đạo sẽ là giai cấp vô sản (nòng cốt là công nhân) do một chính đảng vô sản lãnh đạo. Về thành phần tham gia cách mạng, hai ông đã dựa vào sự quan sát thực tế cách mạng vô sản ở các nước mà cho rằng, cách mạng muốn thắng lợi cần có sự lãnh đạo của giai cấp vô sản (tiêu biểu là công nhân) và có sự liên kết giữa các tầng lớp, giai cấp với nhau. Mặc khác, đối với vấn đề cách mạng dân tộc ở thuộc địa thì F. Engels là người quan tâm nhiều nhất và có những suy nghĩ tích cực cho vấn đề này. Ông nói: “Một dân tộc muốn giành được độc lập cho mình thì không được tự giới hạn trong những phương thức thông thường (cách mạng theo khuôn khổ nhỏ hẹp) để tiến hành chiến tranh. Khởi nghĩa quần chúng, chiến tranh cách mạng, những đội du kích hoạt động ở khắp mọi nơi – đó là phương thức duy nhất của một dân tộc nhỏ chống một dân tộc lớn ([5]). Mặc dù cho rằng là liên minh giữa các tầng lớp, nhưng tầng lớp khác nhau của giai cấp tư sản dân tộc trong chiến tranh giải phóng dân tộc hành động không giống nhau. Bộ phận có liên hệ với tư bản tài chính và tư bản độc quyền nước ngoài, tức là tư bản mà Marx nói là “người không tổ quốc”, thì luôn công khai ra mặt phản bội cách mạng ([6]). Điều đó đã nói lên rằng, theo Marx - Engels thì cách mạng muốn giành thắng lợi phải có lãnh đạo của giai cấp tiến bộ (đó là giai cấp vô sản) và phải thực hiện liên minh với các tầng lớp khác nhau thì cách mạng mới giành thắng lợi được.

Về sau, Lenin đã nâng khái niệm này lên 1 bước mới. Về khái niệm chiến tranh, nếu như Marx – Engels định nghĩa chiến tranh là chung chung thì Lenin cụ thể luôn. Ông cho rằng, « chiến tranh là một cái gì đó hết sức muôn màu muôn vẻ và phức tạp, không thể nào đề cập chiến tranh trong một công thức rập khuôn chung” ([7]). Như vậy, ý của Engels muốn nói, chiến tranh không phải là cái gì chung chung như Marx nói, mà là tập hợp của nhiều loại chiến tranh khác nhau (“muôn màu muôn vẻ”), mỗi loại chiến tranh đó được tiến hành theo nhiều phương pháp, cách thức khác nhau. Vận dụng học thuyết của Marx – Engels về bản chất giai cấp trong chiến tranh, Lenin thừa nhận: “Theo quan điểm của chủ nghĩa Marx, trong mỗi trường hợp riêng biệt, đối với mỗi cuộc chiến tranh riêng biệt, cần phải xác định nội dung chính trị ([8]) của nó”. Dựa trên luận cứ này, Lenin cho rằng, nội dung chính trị sẽ quyết định tính chất của cuộc chiến và chiến tranh có hai loại: chính nghĩa và phi nghĩa. Loại chiến tranh ở Việt Nam (chiến tranh nhân dân – chiến tranh giải phóng dân tộc) mà chúng ta đang xét là “chiến tranh chính nghĩa”. Muốn là “chính tranh chính nghĩa”, lãnh đạo phải là giai cấp vô sản (không phải tư sản), dưới sự lãnh đạo của một đảng marxid được trang bị lý luận và tư tưởng cách mạng đầy đủ và đúng đắn để thể hiện thái độ đúng đắn đối với cách mạng của nhân dân. Đối với “chiến tranh nhân dân” ở nước thuộc địa, Lenin rất nhấn mạnh vai trò của các chính đảng marxid. Người cho rằng: “Đối với những người theo chủ nghĩa Marx, việc định rõ tính chất của chiến tranh quy định thái độ của mình đối với cuộc chiến tranh đó”([9]). Nhìn vào diễn biến và tương quan lực lượng hai bên trong cuộc chiến giữa tư sản và vô sản, các đảng Marxid phải luôn đứng về phía vô sản, có hành động kiên quyết đấu tranh, thậm chí là làm cuộc cách mạng lớn để chống lại chiến tranh xâm lược. Đối với chiến tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, những người thuộc đảng marxid “phải luôn đứng về phía những người bị áp bức và do đó họ không thể chông lại những cuộc chiến tranh nhằm mục đích đấu tranh chống áp bức theo khẩu hiệu dân chủ hoặc xã hội chủ nghĩa”([10]). Để có thể tiến hành chiến tranh chống lại lực lượng ngoại xâm và phản cách mạng, nhất thiết phải xây dựng quân đội vững mạnh; có chiến lược phù hợp để tập trung người dân thuộc đủ mọi tầng lớp để kết thành lực lượng vững mạnh (xây dựng Hồng quân Công nông ở Nga Xô viết năm 1918 là ví dụ cụ thể). Tư tưởng chủ đạo của Lenin là tiến công, tiến công không ngừng để đánh bại địch; nhưng khi đã tiến công mà thấy không chắc thắng thì phải lui quân, tiến hành phòng ngự để bảo toàn lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài về sau. Lenin nhận định: sẽ là một hành động của kẻ ngu xuẩn nếu chấp nhận một trận đánh mà biết mình sẽ thất bại. Vì thế, trong chiến trang phải tiến hành khởi nghĩa đúng lúc, chọn đúng thời cơ để tiến hành; và phải chuẩn bị kỹ càng phòng ngừa thế công hay nói cách khác phải tự vệ để tiến công, “một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ” . Từ việc bảo toàn lực lượng của Lenin đã hình thành “mầm mống” căn cứ địa cách mạng, hậu phương mà sau này được Nguyễn Ái Quốc (sau là Hồ Chí Minh) phát triển thành quan điểm quân sự (“chiến tranh nhân dân” hoàn chỉnh.

1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

Lý luận « cách mạng không ngừng » của Marx – Lenin được Hồ Chí Minh sau này áp dụng để hình thành tư tưởng về vấn đề dân tộc – dân chủ cho cách mạng Việt Nam sau này. Nó được hình thành khi Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ Chí Minh) đang ở Pháp (1917 – 1923). Người nhận thức được rằng ở Việt Nam lúc này, phong kiến và thực dân áp bức rất tàn bạo, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đang phát triển mạnh nên nó là mảnh đất tốt cho một thứ chủ nghĩa mới mà theo Người, đó là chủ nghĩa xã hội (hay chủ nghĩa cộng sản). Người nghĩ rằng, chủ nghĩa xã hội sẽ xảy ra ở Việt Nam và đó là điều tất yếu và hợp với quy luật lịch sử. Người viết : «Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi : Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi » ([11]). Để thực hiện được công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Người sẽ phải suy nghĩ và tìm ra phương cách thích hợp – cuối cùng Người cho rằng chỉ có cách mạng, và cách mạng mới giải quyết được vấn đề nan giải này. Hình thức cách mạng sẽ là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là cuộc cách mạng do nhân dân lãnh đạo, nhằm giải quyết hai vấn đề dân tộc ; dân chủ để từ đó tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Về tên gọi, khái niệm « cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân » xuất hiện trong Chính cương vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo với tên là « cách mạng tư sản dân quyền » ; Đại hội II 1951 thì đổi là « cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân », tạo tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa Bắc Việt Nam thời kháng Mỹ cứu nước. Về mặt nội dung, Hồ Chí Minh hết sức nhấn mạnh hai vấn đề cốt lõi là dân tộc và dân chủ, hai vấn đề này luôn song hành chứ không tách biệt nhau ra.

Cụ thể nhất là vấn đề « dân tộc » trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Vậy một vấn đề đặt ra là, trong hai nhiệm vụ « dân tộc » và « dân chủ » thì Hồ Chí Minh vì sao lại đưa vấn đề « dân tộc » lên trước, rồi mới tới « dân chủ ». Vấn đề này Người đặt ra từ lâu, từ khi Người còn bé mà phải sống trong một đất nước nô lệ - người dân Việt bị thực dân và phong kiến Nguyễn bóc lột và đàn áp tàn bạo nên một ý nghĩ đã lóe trong đầu của người thanh niên Nguyễn Tất Thành là làm thế nào để giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ ? Người có tham gia phong trào của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, nhưng không tán thành con đường cứu nước của họ ; thế là Người quyết định ra đi nước ngoài để tìm kiếm con đường giải phóng dân tộc. Ở Pháp, khi đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người đã ngộ ra và đã tìm thấy con đường cứu nước của mình – con đường để giải phóng dân tộc. Tư tưởng của Người được đúc kết thành các nội dung chính sau :

- Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi thì không còn con đường nào khác là cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh nêu ra luận điểm này không phải là không có căn cứ. Trước Hồ Chí Minh hơn 1 thế kỷ, Marx và Engels có đề cập rất kỹ về vấn đề cách mạng vô sản. Hai ông nhìn thấy được những mâu thuẫn không thể giải quyết được giữa tư sản và vô sản ; cũng như chính quốc và thuộc địa trong thời đại đế quốc chủ nghĩa; đồng thời còn nhận thấy « đằng sau những cuộc xung đột chính trị mang tính dân tộc, đằng sau khát vọng của những dân tộc muốn thống nhất dân tộc, đằng sau cuộc chiến tranh giữa quốc gia dân tộc và quốc gia bị nô dịch là cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp tư sản và vô sản, quý tộc ruộng đất và các tầng lớp xã hội khác. Vì thế, Các Mác và Ăngghen coi cách mạng xã hội chủ nghĩa là điều kiện để giải quyết vấn đề dân tộc »([12]). Lenin cũng nhận định : “mâu thuẫn cơ bản nhất của chủ nghĩa đế quốc là đấu tranh giữa tư sản và vô sản đã đến thời kỳ hiện thực cách mạng. Mâu thuẫn giữa đế quốc với thuộcđịa gắn liền với mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản cũng mang tính thời sự nóng bỏng của sự nghiệp cách mạng giải phóng” ([13]). Đến thời Hồ Chí Minh, Người đã tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lenin và có nhận thức đúng về chủ nghĩa đế quốc. Người chỉ rõ: chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là “một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”, phát triển nhịp nhàng với cách mạng vô sản”.

- Cách mạng muốn giành thắng lợi phải có Đảng lãnh đạo. Luận điểm này không phải không có căn cứ. Thế kỷ XIX, Công xã Paris thất bại là do chưa có chính đảng lãnh đạo nên trong lời kêu gọi công nhân thế giới, Mác kêu gọi cần phải có một chính đảng để lãnh đạo, giai cấp công nhân lãnh đạo và tư tưởng được lấy làm cốt trong Đảng. Hồ Chí Minh kế thừa quan điểm đó và làm rõ thêm: muốn làm cách mạng thì “Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công”([14]). Người cũng nói thêm: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”([15]). Hồ Chí Minh cũng đề cập nguyên tắc xây dựng Đảng: Đảng của giai cấp công nhân phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin.

- Cách mạng giải phóng là sự nghiệp của toàn dân, trên cơ sở liên minh công – nông. Hồ Chí Minh viết: cách mạng “là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc việc của một hai người”, vì vậy phải đoàn kết toàn thể các tầng lớp nhân dân trong nước Việt Nam là nông dân, công nhân; đồng thời “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng tập trung” (trích Sách lược vắn tắt) ([16]). Trong sự tập hợp rộng rãi đó, Người khẳng định cái cốt của nó là công – nông, vì “công nông là người chủ cách mệnh... công nông là gốc cách mệnh”([17]). Và trong khi thực hiện liên kết các tầng lớp nhân dân thì phải “rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp”([18]). Về sau, để thực hiện chiến lược đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương cần vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước, đang bị làm nô lệ trong một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc, đấu tranh giành độc lập, tự do.

- Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước chính quốc. Chúng ta xem xét quan điểm này. Chúng ta biết rằng: Đầu thế kỷ XX, trong phong trào Cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Quan điểm này vô hình trung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa. Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-1924), Hồ Chí Minh đã phân tích: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”([19]).

Vận dụng công thức của Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Hồ Chí Minh đi tới nhận định: cách mạng thuộc địa có thể được thực hiện được bằng sự nỗ lực của chính bản thân người dân thuộc địa. Trong “Đường kách mệnh”, Người nhận định: “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”([20]). Ngoài ra, Người cũng đã khảo sát và đánh giá rất khách quan tình hình chính quốc và thuộc địa. Nghiên cứu về đế quốc và thuộc địa, Người viết: ““tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các xứ thuộc địa. Đó là nơi chủ nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các nhà máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ nhân công rẻ mạt cho đạo quân lao động của nó, và nhất là tuyển những binh lính bản xứ cho các đạo quân phản cách mạng của nó”([21]) và “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc”. Nếu muốn phá bỏ, xóa bỏ “nọc độc” này của chủ nghĩa đế quốc thì nhiệm vụ đầu tiên của người cách mạng là phải thức tỉnh tư tưởng của quần chúng, kêu gọi quần chúng ở nước thuộc địa phải liên kết với nhau tạo thành một khối đoàn kết vững mạnh, dưới sự chỉ đạo của một Đảng Cộng sản có tư tưởng, đường lối rõ ràng về vấn đề thuộc địa để tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc; đó là điều mà các Đảng ở chính quốc (đế quốc) không làm được. Ở chính quốc vẫn có bóc lột, Đảng Cộng sản vẫn lãnh đạo nhân dân đấu tranh, thế nhưng có lẽ do đường lối không đúng, đặc biệt có một số chính đảng coi nhẹ đấu tranh giải phóng dân tộc, nên cách mạng ở chính quốc không thể thắng lợi. Một cuộc cách mạng muốn thắng lợi phải hội đủ nhiều yếu tố, trong đó yếu tố đoàn kết với các giai cấp trên thế giới để nhận được sự ủng hộ của nhân dân (các tầng lớp khác) thì họ không làm được. Ở các nước thuộc địa, chính vì bị ách thống trị tàn bạo của thực dân, nên họ được ý thức tư tưởng về giải phóng dân tộc (ở chính quốc khá mơ hồ, không rõ ràng về vấn đề này), tạo thuận lợi cho Đảng tiến hành đường lối cách mạng một cách chủ động, sáng tạo và phù hợp với thực tiễn đất nước, kêu gọi sự đồng lòng và nhất trí của nhân dân tạo nên sức mạnh để tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc. Do nhận thức được như thế, Hồ Chí Minh đã khẳng định: cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Đó là một khẳng định đúng, hiển nhiên đúng. Khi nhân dân thuộc địa tiến hành cách mạng giành thắng lợi rồi, họ có thể “giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”([22]).

Những luận điểm trên đây là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại đế quốc chủ nghĩa của Hồ Chí Minh. Nó có giá trị lý luận và thực tiễn rất to lớn và đã được thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam cũng như trên thế giới chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.

- Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân. Sở dĩ Người chọn phương pháp bạo lực cho cách mạng là vì theo Người, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc phải trải qua nhiều giai đoạn khó khăn, phức tạp. Do đó, trọng mọi tình huống phải sử dụng phương pháp hòa bình để giảm thiểu tổn thất của nhân dân. Tuy nhiên, nếu làm hết khả năng của mình mà vẫn không ngăn chặn được chiến tranh thì phải kiên quyết dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lược phản cách mạng. Trong con đường bạo lực cách mạng, Người nhấn mạnh hai vấn đề: (1) Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam; (2) Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Chúng ta đã biết rằng: Ngay từ đầu năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Hồ Chí Minh đã đề cập khả năng một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương; khởi nghĩa vũ trang phải có tính chất quần chúng rộng rãi (nhấn mạnh vai trò của quần chúng nhân dân, bài học kinh nghiệm từ công xã Paris và cách mạng vô sản Nga). Tại các Hội nghị Trung ương Đảng, đặc biệt là Hội nghị Trung ương VIII (1941), Người đã đặt vấn đề khởi nghĩa vũ trang, mở đầu có thể là bằng một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương... cho đến sau cuối là một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn. Và cũng ngay sau Hội nghị này, Người cùng với Trung ương Đảng chỉ đạo việc xây dựng căn cứ địa, huấn luyện cán bộ, lập ra lực lượng vũ trang; vạch kế hoạch cách mạng cụ thể và chớp thời cơ, chỉ đạo cách mạng đi tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám giành thắng lợi. Tuy nhiên, cũng có ý kiến phản biện rằng, giải phóng dân tộc không nhất thiết dùng phương pháp bạo lực, mà dùng phương pháp hòa bình (thương lượng) như Malaysia, Indonesia và một số quốc gia khác; vì các lý do: sợ nhân dân bị tổn thất lực lượng, các Đảng chưa ý thức được tầm quan trọng của nhân dân trong cách mạng.

Tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, ság tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh tính khoa học đúng đắn, tính cách mạng sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề « chiến tranh nhân dân »

Tiếp thu những quan điểm về « chiến tranh nhân dân » của Marx – Lenin, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) đã bước đầu dần hình thành vấn đề này, nhưng chưa cụ thể và rõ nét (thời 1930 – 1945 là thai nghén; 1945 về sau mới là hình thành và áp dụng thực sự). Áp dụng tư tưởng quân sự của Marx – Lenin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam từ 1930 – 1945, Hồ Chí Minh dần dần hình thành quan điểm về « chiến tranh nhân dân ». Trong Chính cương và Sách lược vắn tắt, Người có nêu 1 ý kiến, đó là lực lượng cách mạng phải bao gồm hết thảy các tầng lớp, giai cấp cụ thể - tư tưởng đoàn kết mọi người để tiến hành chiến tranh chống lại đế quốc, phong kiến (mầm mống của « chiến tranh nhân dân » - kêu gọi toàn dân cùng tham gia đánh giặc) nhưng do «chống đế quốc, phong kiến » quá triệt để nên bị thất bại. Về sau do sự phục hồi và phát triển của lực lượng cách mạng từ năm 1936 – 1939 mà nảy sinh tư tưởng : kêu gọi nhân dân, thành lập mặt trận để chống đế quốc, phong kiến ; tấn công địch bằng phương pháp bạo lực, nghị trường và báo chí. Mặt trận Việt Minh được thành lập đã tập hợp được đủ mọi tầng lớp – giai cấp, thành lập lực lượng vũ trang và căn cứ địa, đánh địch bằng khởi nghĩa vũ trang, báo chí, tác phẩm văn học..., tiến hành cách mạng tháng Tám thành công. Nhưng thời kỳ 1930 – 1945 (khái quát theo tiến trình lịch sử) thì khái niệm « chiến tranh nhân dân » chưa được thể hiện rõ là có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân chủ yếu là vấn đề nông dân (vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân), nông dân là chiếm 90% dân số và là giai cấp chịu ách áp bức nặng nề của phong kiến, đế quốc nên sớm có tinh thần cách mạng ; nông dân đã tham gia cách mạng rất đông đảo và nhiệt tình. Nhưng do tầm nhìn và cách suy nghĩ của một số nhà lãnh đạo Đảng còn hạn chế nên chưa liên kết được hết đối với nông dân để hình thành một khối thống nhất.

Năm 1945 – 1946, sau khi cách mạng tháng Tám thành công và bắt đầu xây dựng tiềm lực quân dân để bắt đầu cuộc kháng chiến thì tư tưởng Hồ Chí Minh về « chiến tranh nhân dân » đã hình thành hẳn và được đưa vào áp dụng ngay trong tình hình Việt Nam. Theo Người, Chiến tranh nhân dân là cuộc chiến tranh do toàn dân tiến hành với nòng cốt là lực lượng vũ trang (3 thứ quân) dưới sự lãnh đạo của giai cấp tiên tiến, chính đảng công nhân. Chiến tranh nhân dân được tiến hành toàn diện, đánh giặc bằng mọi hình thức và bằng tất cả vũ khí có trong tay; đánh địch bằng mọi qui mô: “từng người đánh, từng đơn vị đánh”; “đánh to, đánh nhỏ, khi tập trung khi phân tán”, và Người nhấn mạnh tác chiến du kích có vai trò quan trong quyết định thắng lợi của cách mạng. Người quán triệt chủ trương tiến công và tiến công; nhưng phải phòng ngự (trở về căn cứ địa, hậu phương) để bảo toàn lực lượng; chọn thời cơ thích hợp để tiến công đánh bại địch. Những điều đó, cuối cùng khái quát tư tưởng của Người về chiến tranh nhân dân – đó là cuộc chiến tranh của toàn dân; họ đấu tranh toàn diện để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.

Chương II : Sự hình thành đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, chiến tranh nhân dân của Đảng

2.1. Hoàn cảnh lịch sử

Sự hình thành đường lối cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc diễn ra trong một hoàn cảnh lịch sử phức tạp.

Về hoàn cảnh quốc tế :

- Vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do ở các nước tư bản đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc. Cùng với những mâu thuẫn vốn có giữa giai cấp vô sản và tư sản, trong lòng nước tư bản (và cả nước thuộc địa, phụ thuộc) xuất hiện những mâu thuẫn mới, trong đó có những mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc đang diễn ra ngày càng quyết liệt và mạnh mẽ. Sau khi cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất đã kết thúc, mặc dù đã thống nhất lại thế giới theo một trật tự mới – nhưng nhìn chung vẫn còn bất ổn do những xung đột và bất đồng về quyền lợi giữa các nước thắng trận cũng như các nước bại trận, góp phần tạo mầm mống cho cuộc chiến tranh thế giới kế tiếp sẽ bùng nổ vào 20 năm sau (theo lời tuyên bố của thủ tướng Anh Loyd George năm 1919). Về các nước thuộc địa, các đế quốc cũng thi hành chính sách thống trị khắc nghiệt đã làm nhân dân thuộc địa bất bình sâu sắc, mâu thuẫn diễn ra giữa đế quốc và thuộc địa là khó tránh khỏi.

- Giai cấp công nhân các nước phát triển mạnh mẽ về số lượng, chất lượng, có thành lập các chính đảng và vẫn tiến hành đấu tranh chống lại quyền lực của đế quốc. Do ảnh hưởng của phong trào công nhân thế giới, công nhân Nga đã phối hợp với nhân dân trong nước làm cuộc cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi, mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người – thời đại xã hội chủ nghĩa.

- Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản đã đóng vai trò to lớn đối với phong trào cộng sản trên thế giới.

Về hoàn cảnh trong nước thì:

- Sau thất bại của phong trào yêu nước theo các khuynh hướng chính trị khác nhau, cách mạng nước ta đang lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.

- Nhu cầu bức thiết đặt ra lúc này là cần phải tìm ra một đường lối cứu nước đúng đắn, đáp ứng được những nhu cầu của cách mạng Việt Nam và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Nhiều chiến sĩ yêu nước vẫn tiếp tục đi tìm đường cứu nước. Nguyễn ái Quốc là một trong những chiến sĩ đó.

2.2. Quá trình Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận chủ nghĩa Marx – Lenin và sự hình thành đường lối cách mạng dân tộc dân chủ, chiến tranh nhân dân ở Việt Nam

a. Tiểu sử Nguyễn Ái Quốc :

Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ Chí Minh) sinh ngày 19/5/1890, quê ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thuở nhỏ, Người có tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành. Lớn lên giữa lúc nước mất nhà tan, đau xót trước cảnh lầm than của đồng bào, Nguyễn Tất Thành sớm có chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc. Người khâm phục tinh thần yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa Thám, nhưng không đồng ý đi theo con đường của một người nào; Người cũng đã vượt qua sự hạn chế tầm nhìn của họ, đi tìm con đường cứu nước khác. Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành rời đất nước ra đi tìm đường cứu nước, xem các nước làm thế nào rồi trở về giúp đồng bào. Trên đường đi tìm đường cứu nước, Người đã ghé qua và khảo sát nhiều nước như Mỹ, Anh và Pháp; và cuối cùng Người kết luận: ở đâu cũng có hai loại người: người giàu và người nghèo, người áp bức và người bị áp bức. Càng ngày Người càng hiểu sâu sắc bản chất của chủ nghĩa đế quốc.

Cuối năm 1917 Nguyễn Tất Thành trở về Pháp. Tại nơi đây, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp, gửi Yêu sách 8 điểm đến Hội nghị Versailles . Tuy không có hồi âm nào, nhưng bản yêu sách lại tác động mạnh mẽ đến người Việt Nam và nước ngoài. Một người Việt Nam dũng cảm với tên gọi Nguyễn Ái Quốc lần đầu tiên đã dám đưa vấn đề chính trị của Việt Nam ra quốc tế, “đòi” cho Việt Nam có quyền lợi cơ bản chính đáng. Đây là dấu hiệu mới của cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam trên đường đi tới độc lập dân tộc ([23]). Trước đó 2 năm Cách mạng Tháng Mười Nga do Lenin lãnh đạo đã giành thắng lợi trọn vẹn dẫn tới xác lập nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên, điều đó khiến Nguyễn Ái Quốc rất hâm mộ – mong muốn tìm con đường cứu nước mới theo kiểu của Nga.

Sau sự kiện Yêu sách 8 điểm về nhân dân An Nam năm 1919 và thắng lợi cách mạng tháng Mười Nga, Nguyễn Tất Thành càng quyết tâm muốn tìm kiếm con đường cứu nước mới cho dân tộc – và việc tìm kiếm con đường này của Người đã phải trải qua quá trình rất khó khăn, nhiều thử thách thì mới tìm ra được con đường đúng dắn cho dân tộc. Trong năm 1919, các sự kiện kế tiếp nhau dồn dập đã thúc đẩy Nguyễn đi tìm con đường cứu nước mới: Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản ra đời, triển khai đường lối cách mạng vô sản (nhưng nội bộ vẫn có xung đột giữa đấu tranh bằng vũ lực >< đấu tranh bằng hòa bình (cải lương)). Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương và vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được đăng trên tờ báo L’ Humanité trong hai số ngày 16 đến ngày 17/7/1920. Nguyễn Ái Quốc đã bị cuốn hút vì tính chất cách mạng triệt để của nó, với những giải đáp thỏa đáng về con đường giải phóng các dân tộc thuộc địa, điều mà bấy lâu nay Nguyễn Ái Quốc đang ra sức tìm kiếm. Luận cương của V.I. Lênin như luồng ánh sáng khơi tỏ trí tuệ và tâm hồn người yêu nước và đem đến một nhãn quan, tư duy chính trị mới cho Nguyễn Ái Quốc. Từ đây, Người quyết chí đi theo con đường cách mạng mà V.I. Lênin đã vạch ra – đó là con đường cách mạng vô sản. Sự kiện này mở đầu cho quá trình phát họa đường lối cách mạng của Người – một đường lối chiến lược xuất sắc, giúp cách mạng Việt Nam giành thắng lợi trong những năm tiếp sau.

b. Quá trình hình thành đường lối về cách mạng dân tộc dân chủ, chiến tranh nhân dân ở Việt Nam

+ Hình thành đường lối về cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam

Sau khi đã tiếp thu và thấm nhuần tư tưởng của Lenin về vấn đề dân tộc, thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc đã tìm cách truyền bá chủ nghĩa Marx – Lenin vào Việt Nam, góp phần vào việc hình thành đường lối về cách mạng dân tộc dân chủ, chiến tranh nhân dân ở Việt Nam.

Về sự hình thành đường lối cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam, có lẽ Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên tiếp thu chủ nghĩa Marx – Lenin vào Việt Nam một cách sáng tạo để cho ra đời đường lối cách mạng dân tộc dân chủ. Do nhận thức chính xác và toàn diện về tình hình cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng thế giới, Nguyễn Ái Quốc xác định rằng vấn đề dân tộc là vấn đề đầu tiên và rất quan trọng trong việc hình thành đường lối cách mạng đầu tiên của Người, sau đó mới đến vấn đề dân chủ.

Như chúng ta đã biết, trong thời kỳ Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, Người nhận thấy rằng ách bóc lột của chủ nghĩa đế quốc đối với nhân dân bản xứ và nhân dân thuộc địa rất nặng nề, tất cả các tầng lớp nhân dân (tư sản, vô sản, tiểu tư sản...) cùng chịu chung nỗi nhục bị áp bức, sự mất đi tự do. Ngay giai cấp tư sản Việt Nam cũng khác với giai cấp tư sản phương Tây, mặc dù vẫn là giai cấp bóc lột nhưng không phải là giai cấp thống trị. Họ không phải là đối tượng cách mạng, mà trái lại, có thể trở thành lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc ([24]). Vì nhận thức ban đầu rất đúng đắn này, Người nhận định: cuộc cách mạng ở Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Điều đó không phải là không có lý do. Trong phong trào công nhân quốc tế, đã từng có luận điểm cho rằng “thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa là vấn đề nông dân”, mà nông dân phải gắn với cách mạng ruộng đất, vì thế phải nhấn mạnh cách mạng ruộng đất và đấu tranh giai cấp. Nhưng Người lại không nghĩ thế. Người cho rằng, yêu cầu bức thiết nhất, trước nhất của xã hội thuộc địa là phải tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc chứ chưa phải là đấu tranh giai cấp như trong các xã hội tư bản chủ nghĩa phương Tây. Đối tượng của cách mạng thuộc địa là chủ nghĩa thực dân, chứ không phải là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc nói chung. Vì thế, quan điểm Người nêu ra đã đối lập với quan điểm về đấu tranh giai cấp của Đảng Cộng sản Pháp, Quốc tế Cộng sản. Đồng thời, để định hướng cho đường lối chiến lược đúng đắn sắp tới của mình, Người nhận định: cách mạng Việt Nam sẽ theo con đường cách mạng vô sản – tức đi theo con đường của cách mạng vô sản Nga vĩ đại. Tại sao Người lại quyết định chỉ có cách mạng vô sản là giải phóng được dân tộc ta ? Điều này cũng có lý do: các cuộc cách mạng do trào lưu yêu nước mới mang ý thức hệ phong kiến đều thất bại, trong khi đó cách mạng tư sản ở nước Pháp (4 lần cách mạng) vẫn thất bại; nên Người kết luận: các cuộc cách mạng dù mang khuynh hướng phong kiến hay tư sản gì đều là thất bại vì nội dung tư tưởng không phù hợp (bất lực), với lại các cuộc cách mạng trên nổ ra đều phục vụ cho giai cấp lãnh đạo ra nó (phong kiến, tư sản), không đáp ứng nguyện vọng của dân tộc (nhất là nông dân), nên thất bại là tất yếu. Phân tích những điều kiện đó, Người cho rằng: chỉ có con đường vô sản mới đáp ứng yêu cầu giải phóng dân tộc mà thôi.

Sau khi đã xác định được con đường cho cách mạng Việt Nam, Người đã tích cực nghiên cứu và xây dựng hoàn chỉnh đường lối chiến lược cách mạng ở Việt Nam; vấn đề dân tộc là vấn đề cấp bách – giải phóng được nhân dân khỏi ách nô lệ của phong kiến và thực dân xong rồi mới được nghĩ đến vấn đề dân chủ. Trong các bài báo, tạp chí (Sự thật Nga, Le Paria…) và thậm chí là sách vở (Bình đẳng, Vực thẳm thuộc địa, Bản án chế độ thực dân Pháp…), Người kịch liệt công kích chế độ thực dân Pháp tàn bạo ở Đông Dương đã công khai thi hành chính sách đàn áp, hủy diệt mọi quyền lợi của dân tộc, kêu gọi nhân dân đứng lên giành độc lập dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản. Mãi đến năm 1927, hệ thống đường lối cách mạng của Người đã được hoàn chỉnh trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” (1927). Nội dung như sau:

Thứ nhất, vạch rõ bản chất phản động của chủ nghĩa thực dân nhưng được ngụy trang bằng cái gọi là “khai hóa văn minh”. Chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của nhân dân lao động thế giới, là kẻ thù trực tiếp của nhân dân thuộc địa. Người khơi dậy mạnh tinh thần yêu nước, thức tỉnh tinh thần phản kháng dân tộc, kêu gọi nhân dân các nước thuộc địa phải dựa vào lực lượng của bản thân mình, phải tự mình đứng lên giải phóng cho mình.

Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận cách mạng của thời đại - cách mạng vô sản. Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng giai cấp công nhân. “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới. Vì vậy, phải tiến hành cách mạng một cách triệt để”([25]).

Thứ ba, Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng vô sản ở “chính quốc” có quan hệ khăng khít với nhau như hai cái cánh của thời đại, luôn phải thực hiện khẩu hiệu của Lênin: vô sản toàn thế giới liên hiệp lại. Một điểm sáng tạo trong đường lối của Nguyễn Ái Quốc, đó là cách mạng dân tộc ở thuộc địa phải hoạt động độc lập và không phụ thuộc vào cách mạng ở chính quốc.

Thứ tư là về đường lối chiến lược thì cách mạng thuộc địa tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc rồi tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Song nhiệm vụ trước mắt và quan trọng hàng đầu là hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của “dân tộc cách mệnh” đánh đổ đế quốc và bọn phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc.

Thứ năm là về giai cấp lãnh đạo và lực lượng cách mạng: Giải phóng dân tộc là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của vài người. Tuy nhiên, trong đó “công - nông là người chủ cách mệnh”, “là gốc cách mệnh”, “còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ cũng bị tư bản áp bức song không cực khổ bằng công-nông, ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mạng của công-nông thôi”. Đây là một nhận thức sáng suốt, một chủ trương đúng đắn, không phải người macxít nào thời đó cũng quan niệm được rõ ràng như vậy.

Thứ sáu, đi đôi với đại đoàn kết dân tộc, cách mạng Việt Nam phải thực hiện đoàn kết quốc tế. “Cách mạng An Nam cũng là một bộ phận trong cách mạng thế giới. Ai làm cách mạng thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”. “Dân An Nam là đương lúc tranh đấu với đế quốc chủ nghĩa... phải cần anh em trong thế giới giúp giùm”. Tuy nhiên, không được ỷ lại vì đây là cuộc cách mạng của chúng ta, vì chúng ta: “muốn người ta giúp cho thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã ”.

Thứ bảy về phương pháp tiến hành cách mạng: do quần chúng được giác ngộ cách mạng, nên phải dùng phương pháp bạo lực cách mạng mạng mà trước hết là bạo lực chính trị của quần chúng: “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng chống lại”.

Cuối cùng là thành lập chính Đảng Cách mạng – được đặt lên hàng đầu. Cách mạng muốn thắng lợi, trước hết phải có Đảng cách mạng, “Đảng có vững cách mạng mới thành công...Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt...Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn”.

Với tác phẩm Đường Kách mệnh, Người đã xây dựng hoàn chỉnh đường lối cách mạng của dân tộc Việt Nam. Chúng ta nhận thấy trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã áp dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Marx – Lenin vào lý luận cách mạng Việt Nam; vấn đề độc lập dân tộc là xuyên suốt trong toàn nội dung tác phẩm Trong tác phẩm, Người nhận định: đường lối chiến lược là giành độc lập cho dân tộc (giải phóng khỏi ách áp bức của giai cấp thống trị - đòi tự do cho dân tộc) trước nhất rồi mới có thể tiến lên giai đoạn kế tiếp của cách mạng – giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngoài ra, Người còn nêu các phương pháp để thực hiện vấn đề dân tộc (hay độc lập dân tộc) là: thực hiện đoàn kết dân tộc (liên kết nông dân, công nhân, tiểu tư sản, phú nông, trung nông…) trong đó công – nông làm nòng cốt đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản; thành lập chính Đảng cách mạng, dùng phương pháp bạo lực cách mạng và thực hiện đoàn kết quốc tế, thì mới giúp cách mạng tiến tới thành công được.

Như vậy ta nhận định rằng, cho đến năm 1927 với sự ra đời của “Đường Kách Mệnh”, đường lối cách mạng dân tộc dân chủ của Nguyễn Ái Quốc đã dần được hình thành; nhưng có điểm chú ý là trong thời kỳ này, vấn đề dân tộc là vấn đề được đặt lên hàng đầu – vấn đề dân chủ sẽ là vấn đề được thực hiện về sau này. Tuy nhiên do hoàn cảnh lịch sử dân tộc, vấn đề dân tộc của Nguyễn Ái Quốc chưa được áp dụng triệt để vào Việt Nam vì lý do nó quá mới, vượt quá tầm hiểu biết của đại đa số người dân; mặc khác, tư tưởng phong kiến – tư sản còn tồn tại khá nặng nề; giai cấp công nhân (trong liên minh công – nông) đang trong giai đoạn hình thành và phát triển, chưa đủ sức làm nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng Việt Nam nên vấn đề dân tộc chưa được thực hiện đầy đủ ở Việt Nam thời kỳ 1921 – 1929, đó là điều tất yếu.

Trải theo tiến trình lịch sử Việt Nam thời kỳ này, ta thấy do ảnh hưởng của việc tiếp thu chủ nghĩa Marx – Lenin nên nhiều tổ chức (tiền Đảng Cộng sản) được thành lập như Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (6/1925), Việt Nam Quốc dân Đảng (12/1927) và Tân Việt Cách mạng Đảng (7/1928) được thành lập liên tục trong suốt từ 1925 – 1928. Trong đó Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (6/1925) là tổ chức đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc thành lập ở Quảng Châu, được Người dùng làm nơi tuyên truyền đường lối cách mạng mới của mình vào Việt Nam. Tại tổ chức mới này, Người thành lập ban chấp hành gồm 9 người; một hệ thống tổ chức chặc chẽ từ Tổng bộ - Kỳ bộ - Tỉnh bộ - Huyện bộ - Chi bộ ([26]); ban hành chiến lược cách mạng cụ thể dưới sự chỉ dẫn của Nguyễn Ái Quốc (xuất bản tài liệu, mở lớp dạy học, cử người đi tuyên truyền sâu vào lòng quần chúng nhân dân). Tuy nhiên, do thành phần lực lượng quá phức tạp và tư tưởng chính trị lúc này còn nặng về tư sản (khó tiếp thu tư tưởng mới) nên tổ chức này cuối cùng bị phân hóa: phe tư sản – phe vô sản. Phe tư sản đi vào con đường cải lương và thỏa hiệp, phe vô sản thì đi theo đường lối của Nguyễn Ái Quốc, tích cực chuẩn bị những điều kiện thích hợp cho việc thành lập chính đảng vô sản sau này. Còn hai tổ chức còn lại, mặc dù được thành lập với mục tiêu giải phóng dân tộc; nhưng do hạn chế tư tưởng và thời đại nên thất bại là tất yếu. Sự thất bại của Việt Nam Quốc dân Đảng ở khởi nghĩa Yên Bái (2/1930) đánh dấu sự cáo chung của sự thất bại xu hướng tiểu tư sản – nhường chỗ cho xu hướng mới là xu hướng vô sản.

+ Hình thành đường lối về chiến tranh nhân dân ở Việt Nam

Tiếp thu những quan điểm về « chiến tranh nhân dân » của Marx – Lenin, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) đã bước đầu dần hình thành vấn đề này, nhưng chưa cụ thể và rõ nét (thời 1930 – 1945 là thai nghén, hình thành ; 1945 về sau mới là áp dụng thực sự). Áp dụng tư tưởng quân sự của Marx – Lenin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam từ 1930 – 1945, Hồ Chí Minh dần dần hình thành quan điểm về « chiến tranh nhân dân ». Trong Chính cương và Sách lược vắn tắt, Người có nêu 1 ý kiến, đó là lực lượng cách mạng phải bao gồm hết thảy các tầng lớp, giai cấp cụ thể - tư tưởng đoàn kết mọi người để tiến hành chiến tranh chống lại đế quốc (mầm mống của « chiến tranh nhân dân » - kêu gọi toàn dân cùng tham gia đánh giặc) nhưng do «chống đế quốc, phong kiến » quá triệt để nên bị thất bại. Về sau do sự phục hồi và phát triển của lực lượng cách mạng từ năm 1936 – 1939 mà nảy sinh tư tưởng : thành lập mặt trận để chống đế quốc, phong kiến. Mặt trận Việt Minh được thành lập đã tập hợp được đủ mọi tầng lớp – giai cấp, thành lập lực lượng vũ trang và căn cứ địa, tiến hành cách mạng tháng Tám thành công ; nhưng thời kỳ 1930 – 1945 (khái quát theo tiến trình lịch sử) thì khái niệm « chiến tranh nhân dân » chưa được thể hiện rõ là có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân chủ yếu là vấn đề nông dân (vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân), nông dân là chiếm 90% dân số và là giai cấp chịu ách áp bức nặng nề của phong kiến, đế quốc nên sớm có tinh thần cách mạng ; nông dân đã tham gia cách mạng rất đồng đảo và nhiệt tình. Nhưng do tầm nhìn và cách suy nghĩ của một số nhà lãnh đạo Đảng còn hạn chế nên chưa liên kết được hết đối với nông dân để hình thành một khối thống nhất. Mãi đến năm 1945 – 1946, đường lối « chiến tranh nhân dân » này mới hình thành và hoàn chỉnh dần dần theo tiến trình của cuộc chiến.

2.3. Vấn đề dân tộc, dân chủ trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng và Luận cương chính trị tháng 10/1930

Trước việc chủ nghĩa Marx – Lenin ngày càng thâm nhập sâu vào quần chúng nhân dân và phong trào đấu tranh của công nhân – nông dân ngày càng phát triển mạnh, tôn chỉ và khẩu hiệu của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên không còn phù hợp với tình thế bây giờ nữa ([27]), những người cộng sản cấp tiến trong Kỳ bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên quyết tâm thành lập các chính đảng cộng sản. Thực hiện ý định của mình, họ đã thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên (3/1929), đồng thời thành lập ngay 3 tổ chức Đảng đầu tiên là Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (8/1929) và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (11/1929). Ba tổ chức Đảng đầu tiên kể từ lúc ra đời đã ra Tuyên ngôn, Điều lệ và nhiều văn kiện khác mà trong những văn kiện đó, những người cộng sản nêu rõ: kêu gọi nhân dân làm cách mệnh đánh đổ giai cấp phong kiến và thực dân để giành độc lập; xây dựng chính quyền công nông đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và thực hiện quyền dân chủ cho nhân dân ([28]). Qua những văn kiện ban đầu của các tổ chức Đảng, mặc dù nội dung còn khá sơ sài nhưng nó đã phần nào nhắc đến vấn đề dân tộc (chống phong kiến, đế quốc), dân chủ (thực hiện quyền dân chủ cho nhân dân) một cách sơ lược, với mục đích cuối cùng là vận động người dân theo cách mạng. Tuy nhiên, mặc dù chiến lược của 3 tổ chức Đảng là phù hợp thực tiễn, nhưng do tầm nhìn và nhận thức còn hạn chế và tổ chức còn phân tán cho nên rất khó tránh khỏi những nhược điểm của thời kỳ mới ra đời.

Trước tình thế đó, một yêu cầu của cách mạng Việt Nam được đặt ra: đó là thống nhất 3 tổ chức Đảng thành một Đảng Cộng sản duy nhất để thống nhất luôn nội dung kết hợp vấn đề dân tộc và dân chủ - vốn có mầm mống sơ khai từ 3 tổ chức đầu tiên này. Dựa trên tinh thần Chỉ thị của Quốc tế Cộng sản ngày 27/10/1929 về việc thống nhất các tổ chức thành một chính đảng duy nhất, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm về nước và tại Hương Cảng (Trung Quốc), với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Người triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam từ ngày 3/2/1930 – 7/2/1930. Sau 5 ngày thảo luận sôi nổi, tự phê bình và kiểm điểm nghiêm túc những khuyết điểm đã qua, Hội nghị đã hoàn toàn nhất trí việc hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thông qua Chính cương, Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Những văn kiện này có ý nghĩa như Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ([29]).

Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên này, Người đã vạch ra đường lối cơ bản của cách mạng Việt Nam là trải qua hai giai đoạn: trước làm cách mạng tư sản dân quyền (cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân), sau thì làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn cách mạng này nhất thiết phải thực hiện cùng lúc và nối tiếp nhau, không bức tường nào ngăn cách. Chính cương vắn tắt của Đảng ghi rõ: “chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền ([30]) cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” ([31]). Trong giai đoạn đầu của cuộc cách mạng tư sản dân quyền, nhiệm vụ chung là phải đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến, tư sản phản cách mạng, làm cho nước Việt Nam được độc lập, thành lập chính phủ và quân đội công nông binh, tịch thu ruộng đất của đế quốc và phong kiến chia cho dân cày nghèo, tiến hành “cách mạng ruộng đất”, thực hiện “người cày có ruộng”, mở mang công thương nghiệp, thi hành luật ngày làm 8 giờ ([32]). Như vậy ta có thể nói các nhiệm vụ và mục tiêu cách mạng trên bao hàm nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến và tay sai phản cách mạng để giành độc lập cho toàn thể dân tộc (thực hiện nhiệm vụ dân tộc) – đó là nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất. Thực hiện xong nhiệm vụ dân tộc thì mới thực hiện tiếp nhiệm vụ dân chủ (vấn đề chia ruộng đất cho nông dân; quyền tự do dân chủ trong công nhân, nông dân…). Hai nhiệm vụ ấy quan hệ khăng khít và không thể tách rời nhau: "có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa".

Cũng theo Nguyễn Ái Quốc, lực lượng cách mạng chủ yếu là công nhân và nông dân, “Công nhân là gốc cách mệnh”. Cách mạng đồng thời “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông…để lôi kéo họ về phe vô sản giai cấp. Còn với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam mà chưa lộ rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho họ trung lập” ([33]). Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, đứng về phía mặt trận cách mạng gồm các dân tộc thuộc địa bị áp bức và giai cấp công nhân trên thế giới. Ngoài ra, Người cũng khẳng định Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp (tức giai cấp công nhân), lấy chủ nghĩa Marx – Lenin làm tư tưởng nòng cốt. Đảng có nhiệm vụ thu phục, lôi kéo các giai cấp và tầng lớp nhân dân về phe vô sản giai cấp; đoàn kết họ, tổ chức họ chống lại đế quốc và tay sai phản cách mạng.

Tóm lại, Cương lĩnh chính trị đầu tiên tuy còn sơ lược, nhưng đã nêu được những nội dung cơ bản của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh thể hiện sự sáng tạo thiên tài của Nguyễn Ái Quốc về vấn đề dân tộc và dân chủ, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Vấn đề dân tộc, đó là kêu gọi nhân dân đấu tranh nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến và tay sai phản cách mạng để giành độc lập cho dân tộc; rồi tới luôn vấn đề dân chủ (ruộng đất, quyền của công dân). Hai vấn đề này luôn gắn kết và bổ sung cho nhau theo quy luật: Có giải phóng được dân tộc thì mới giải quyết vấn đề dân chủ; không giải phóng dân tộc thì sẽ không thể có dân chủ, do đó cách mạng không giành được thắng lợi. Dân tộc là gốc của quốc gia, là nhân tố tạo nên quốc gia và một loạt các vấn đề khác mà trong đó, vấn đề dân chủ được đặt lên cao sau dân tộc; do đó thực hiện giải phóng dân tộc, xong mới tới dân chủ là hợp quy luật. Đồng thời, hai vấn đề trên phải thực hiện cùng lúc, giải phóng dân tộc rồi mà không giải quyết dân chủ thì cũng như không – cách mạng không thành công, và ngược lại. Có thể nói Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã kết hợp biện chứng yếu tố dân tộc và giai cấp, trong đó nổi bật lên là yếu tố dân tộc, là tư tưởng độc lập tự do - đó là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh. Nội dung của nó sẽ được ứng dụng trong cao trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh (thực hiện nhiệm vụ dân tộc – dân chủ cùng lúc).

Một văn kiện kế tiếp cũng nói về vấn đề dân tộc – dân chủ là Luận cương chính trị tháng 10/1930 của Trần Phú. Về nội dung, Luận cương Trần Phú xác định những vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng Đông Dương: lúc đầu là cách mạng tư sản dân quyền, sau đó sẽ tiếp tục phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa; hai nhiệm vụ chống phong kiến và đế quốc luôn gắn bó khăng khít với nhau (“có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa thì mới phá tan được phong kiến” – và ngược lại) ([34]); động lực chính của cách mạng chính là công nhân và nông dân, lãnh đạo chính của cuộc cách mạng chính là giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản. Như vậy, qua nội dung thì chúng tôi nhận định: Luận cương của Trần Phú quá nhấn mạnh vào vấn đề giai cấp (mâu thuẫn giai cấp (vấn đề ruộng đất) chính là nguồn gốc của cách mạng) mà quên đi vấn đề cốt lõi là vấn đề dân tộc. Chính vì quá quan tâm mạnh vấn đề giai cấp nên ông chỉ chú trọng hai giai cấp chính là công nhân và nông dân thôi, chưa chú trọng đến các giai cấp, tầng lớp khác như tiểu tư sản, trung – tiểu địa chủ, không nhận thức được khả năng cách mạng của các giai cấp, tầng lớp đó để lôi kéo họ về phe vô sản giai cấp.

Tuy thế, trong quá trình diễn tiến cách mạng thì Đảng sẽ căn cứ vào hoàn cảnh cách mạng cụ thể mà thực hiện, nếu như nhiệm vụ chống đế quốc là cần kíp cho lúc hiện thời, còn vấn đề giải quyết ruộng đất tuy quan trọng nhưng chưa phải trực tiếp bắt buộc, thì có thể trước trung đánh đổ đế quốc rồi sau mới giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân. Nhưng cũng có khi vấn đề ruộng đất và phản đế phải liên tiếp giải quyết, vấn đề này giúp cho vấn đề kia. Nói tóm lại trong hai nhiệm vụ cơ bản mang tính chiến lược và xuyên suốt của tiến trình cách mạng là vấn đề dân tộc và dân chủ thì vấn đề nào hệ trọng hơn cần kíp hơn thì cần tập trung lực lượng của cả dân tộc mà đánh cho toàn thắng. Đây là một nhận thức đúng đắn của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng và đã được chứng minh trong thực tiễn.

Chương III : Quá trình vận dụng vấn đề cách mạng dân tộc dân chủ chiến tranh nhân dân trong thực tiễn cách mạng Việt Nam

3.1. Khái quát về quá trình vận dụng vấn đề dân tộc dân chủ trong thực tiễn kháng chiến chống Pháp ở Việt Nam từ 1930 – 1954

3.1.1. Giai đoạn 1 : 1930 – 1945

3.1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử

Từ giữa những năm 30 của thế kỉ XX, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) đã kết thúc, nhưng hậu quả vẫn còn tác động nặng nề đến nhiều nước tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn xã hội vốn có trong lòng mỗi nước tư bản và mâu thuẫn giữa các nước đế quốc ngày càng gay gắt. Trong khi đó, Liên Xô đang xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, hoàn thành công nghiệp hóa và đang tiến hành tập thể hóa nông nghiệp. Quảng Châu công xã (Trung Quốc) thắng lợi. Ngoài ra, sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới có ảnh hưởng tích cực đến cách mạng Việt Nam.

Tình hình thế giới tác động đến Việt Nam rất rõ. Nhân dân Việt Nam lâm vào tình trạng đói khổ trầm trọng. Trong khi đó, cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân đảng lãnh đạo vào năm 1930 đã bị thất bại. Chính quyền thực dân tiến hành một chiến dịch khủng bố dã man những người yêu nước. Ngoài ra, vào đầu năm 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với tổ chức chặt chẽ và cương lĩnh chính trị đúng đắn, nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam, quy tụ lực lượng và sức mạnh toàn dân tộc Việt Nam, kịp thời lãnh đạo nhân dân bước vào một thời kì đấu tranh mới.

Chính hoàn cảnh lịch sử này đã thúc đẩy Đảng vừa ra đời đã vận dụng ngay vấn đề dân tộc dân chủ trong cuộc cách mạng sắp tới của mình.

3.1.1.2. Sự vận dụng lý luận về vấn đề dân tộc dân chủ trong đường lối của Đảng với cách mạng Việt Nam từ 1930 – 1945

Như đã nói ở phần 2.3, vấn đề dân tộc – dân chủ đã được đề cập trong Chính cương, Sách lược vắn tắt của Nguyễn Ái Quốc và Luận cương chính trị của Trần Phú. Chúng ta hãy xem xét vấn đề này của hai văn kiện trên được ứng dụng ra sao trong thực tiễn cách mạng 1930 – 1945, mở đầu là cao trào cách mạng 1930 – 1931 – đỉnh cao là ở Nghệ Tĩnh.

Trước khi Xô Viết Nghệ Tĩnh bắt đầu, hàng loạt các phong trào đấu tranh của nhân dân đã nổ ra, mở đầu là cuộc đấu tranh của 5.000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng (3/1930), của 4.000 công nhân nhà máy sợi Nam Định, nhà máy đóng tàu Ba Son, nhà máy diêm Bến Thủy (4/1930). Nhân ngày Quốc tế Lao động 1/5, Đảng đã phát động phong trào đấu tranh rộng lớn khắp cả nước. Công nhân, nông dân và các tầng lớp khác hưởng ứng, Tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Sài Gòn đều xuất hiện cờ đỏ búa liềm, truyền đơn đòi tăng lương, giảm giờ làm. Ở Bắc Kỳ, Nam Kỳ và Trung Kỳ, phong trào nổ ra mạnh mẽ.

Nhưng mạnh hơn và nổi bật hơn cả là phong trào cách mạng ở Nghệ - Tĩnh. Phong trào ở Nghệ Tĩnh nổ ra đầu tiên ở Vinh – Bến Thủy, về sau lan sang Hưng Nguyên, Nghi Lộc, Nam Đàn, Quỳnh Lưu... với trên 1 vạn người tham gia. Những người biểu tình đưa yêu sách, đập phá công đường và buộc bọn quan lại phải hứa thực hiện những đòi hỏi dân chủ của dân. Cuối tháng 8 đầu tháng 9/1930, đợt sóng đấu tranh lại diễn ra dữ dội ở khắp các huyện thị ở Nghệ Tĩnh.

Ngày 12/9/1930, đợt sóng cách mạng càng dâng cao hơn nữa. Có 8.000 nông dân kéo về phủ lị của huyện Hưng Nguyên và trương các khẩu hiệu như: Bỏ sưu thuế, bớt giờ làm, chống khủng bố trắng, bồi thường cho các gia đình bị tàn sát trong cuộc bạo động Yên Bái,... thậm chí là chia lại ruộng đất, Đả đảo chủ nghĩa đế quốc, Đả đảo phong kiến. Đoàn biểu tình này xếp hàng dài hơn 1 cây số, tập trung kéo về thành phố Vinh. Trên đường đi, đoàn biểu tình có lúc dừng lại để diễn thuyết và chỉnh đốn đội ngũ. Dòng người càng đi càng được bổ sung thêm cho đến khi đến gần Vinh con số đã lên tới 30.000 người và xếp hàng dài tới hơn 4 cây số. Hoảng sợ, công sứ Pháp ở Vinh là Guilleminet điều quân sang đàn áp. Chúng huy động quân đội, máy bay ném bom vào đoàn biểu tình làm 217 người chết và 125 người bị thương. Tuy nhiên, việc đàn áp tàn bạo đó của Pháp không ngăn được cuộc đấu tranh của nhân dân Nghệ - Tĩnh. Họ vẫn tiến lên và tiến liên tục, bọn quan lại hoảng sợ bỏ trốn, nhân dân Nghệ Tĩnh đã thành lập chính quyền cho riêng mình.

Mặc dù Đảng chưa có chủ trương lập chính quyền lúc này, nhưng các chi bộ Đảng ở địa phương đã nhanh chóng xây dựng chính quyền mới. Và có thể nói, vấn đề dân tộc và dân chủ trong văn kiện của Đảng được ứng dụng trong phong trào này và họ (quân dân cách mạng) thực hiện hai vấn đề này song song với nhau: vừa giành độc lập dân tộc rồi là làm luôn cải cách dân chủ. Cụ thể chúng ta thấy, các đoàn biểu tình của nhân dân giương cao khẩu hiệu Bỏ sưu thuế, bớt giờ làm, chống khủng bố trắng, bồi thường cho các gia đình bị tàn sát trong cuộc bạo động Yên Bái,.. là ý muốn được độc lập dân tộc. Họ muốn đánh bại ách đô hộ của Pháp và phong kiến để giành lấy quyền tự do cho mình. Sau khi giành được độc lập dân tộc rồi, họ làm luôn bước kế tiếp: thi hành chính sách dân chủ cho nhân dân. Điều này thể hiện rõ trong chính sách về chính trị, kinh tế, văn hóa của chính quyền Xô viết Nghệ Tĩnh.

Về chính trị, các Xô viết ban bố quyền tự do dân chủ cho nhân dân (nhân dân tự do hội họp, lập hội). Các tầng lớp nhân dân tham gia tích cực vào các tổ chức chính trị như Nông hội, Đội tự vệ, Đoàn Thanh niên Cộng sản, Phụ nữ Giải phóng… phát huy quyền làm chủ của mình trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ chính quyền Xô viết. Về kinh tế, các Xô viết bãi bỏ các loại sưu thuế vô lý do đế quốc – phong kiến đặt ra; tự chia lại ruộng đất, khai thông thủy lợi cho nhân dân cày cấy. Các Xô viết quy định mức tô là 2/3 với tá điền, 1/3 là địa chủ; các thứ lễ tết, phục dịch không công của tá điền cho chủ ruộng bị bãi bỏ. Sản phẩm thu được từ ruộng đất đã chia cho nhân dân thì trích một phần đưa vào quỹ chung – trợ giúp người nghèo, còn lại thì chia đều cho nhân dân. Về văn hóa – xã hội, chính quyền Xô viết tổ chức cho nhân dân học chữ quốc ngữ; những phong tục tập quán lạc hậu như đình đám, rượu chè, hút sách… bị bãi bỏ.

Qua đó ta có thể thấy, chính sách của chính quyền Xô viết ở Nghệ Tĩnh đã thực hiện nghiêm túc hai vấn đề được Đảng vạch ra từ đầu: vấn đề dân tộc – dân chủ; thực hiện hai vấn đề này cùng lúc. Tuy nhiên khi phong trào diễn ra và đang bị đế quốc đàn áp, các chính quyền Xô viết mắc sai lầm về chiến lược: kêu gọi nhân dân “đào tận gốc, trốc tận rễ bọn trí, phú, địa, hào” để giành tự do cho nhân dân, mà không biết rằng trí, phú, địa, hào là lực lượng rất đông đảo và có từ lâu đời, có thế lực. Nếu cách mạng lợi dụng và lôi kéo lực lượng này vào tham gia cách mạng thì cách mạng chắn chắn sẽ giành được thắng lợi và tạo lập chính quyền vững chắc. Nhưng do sai lầm về chiến lược, cụ thể nhất là sai lầm về đường lối do ảnh hưởng của Luận cương chính trị Trần Phú cho rằng công – nông làm được cách mạng, các giai cấp, tầng lớp khác thì ‘không có khả năng cách mạng” nên bị thất bại. Một lý do khác dẫn tới thất bại là việc thực hiện 2 vấn đề (hay hai nhiệm vụ) dân tộc – dân chủ song song nhau thì ngoài mặc thuận lợi thì cũng có những hạn chế. Dân chủ hạn chế nhiều nhất: mức tô không bình đẳng, quyền hội họp dành cho công – nông, các tầng lớp khác không có quyền hội họp. Chính sách còn hạn chế, chưa đủ sức thu hút toàn dân hình thành liên minh công nông vững chắc; nên thất bại của phong trào là điều đã được Đảng dự đoán trước. Cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ thoái trào từ 1932 – 1935.

Thời kỳ 1932 – 1935 là thời kỳ thoái trào của cách mạng, nhưng cũng chính là thời kỳ Đảng bắt đầu có sự thay đổi, điều chỉnh chiến lược cách mạng của mình. Dưới ánh sáng của Đại hội I Đảng Cộng sản Đông Dương họp ở Ma Cao (Trung Quốc) tháng 3/1935; Đại hội VII Quốc tế Cộng sản (7/1935) tại Liên Xô, Đảng đã chính thức có sự điều chỉnh đường lối cách mạng của mình – đặt vấn đề dân chủ lên hàng đầu (dân tộc là thứ yếu – không quan trọng). Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VI (6/1936) khẳng định nhiệm vụ quan trọng là chống đế quốc và phong kiến, giành độc lập cho dân tộc (đòi dân chủ, dân sinh và hòa bình). Để đạt được mục tiêu đó, Đảng tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ đế quốc Pháp”, “tịch thu ruộng đất cho dân cày” và chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương (đến tháng 3/1938 đổi thành Mặt trận Dân chủ Đông Dương) bao gồm các giai cấp, đảng phái, dân tộc… khác nhau. Có thể nói, chủ trương thành lập Mặt trận rộng rãi bao gồm nhiều tầng lớp khác nhau tham gia không trái quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp của Marx – Lenin; đây là sự vận dụng sáng tạo sự kết hợp đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta; tuy nhiên trong lúc thực hiện thì Đảng lại nghiên về phía dân chủ hơn phía dân tộc.

Trong văn kiện “Chung quanh vấn đề chiến sách mới” (10/1936) Đảng đã dũng cảm phê phán phê phán quan điểm của Luận cương chính trị tháng 10/1930 và nêu một quan điểm mới: “Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết hợp với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng…, nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng” ([35]). Như vậy, quan điểm đó thế hiện mục tiêu đòi dân sinh, dân chủ cho nhân dân và đó chính là quan điểm đúng đắn, sáng tạo. Một điểm mới nữa đó là Đảng ra khẩu hiệu ủng hộ cách mạng vô sản quốc tế (ủng hộ Mặt trận Nhân dân, chính phủ phái tả Pháp).

Chủ trương cách mạng của Hội nghị VI được vận dụng cụ thể trong cao trào cách mạng 1936 – 1939. Mở đầu là phong trào Đại hội Đông Dương (hay Đông Dương đại hội), và phong trào này mang tính dân chủ rõ hơn tính dân tộc. Phong trào này diễn ra dưới nhiều hình thức mang tính dân chủ rõ rệt: đấu tranh đòi tự do, dân sinh; đấu tranh nghị trường và đấu tranh báo chí. Trong cuộc đấu tranh đòi tự do, dân sinh, Đảng vận động nhân dân thảo “dân nguyện” gửi tới phái đoàn Quốc hội Pháp sang điều tra tình hình Đông Dương để tiến tới triệu tập Đông Dương đại hội (8/1936). Đồng thời, Đảng thành lập 600 ủy ban hành động ở khắp nước, kêu gọi nhân dân mít tinh, hội họp, biểu tình. Mặc dù bị cấm đoán, nhưng phong trào đòi dân chủ của nhân dân ta vẫn phát triển và chính quyền Pháp Đông Dương đã phải nhượng bộ: cho công nhân ngày làm 8 giờ, chế độ tiền lương tối thiểu, chế độ học việc và chế độ nghỉ đẻ cho nữ công nhân có con bú trong thời gian làm việc; nới lỏng quyền tự do báo chí, thả tù chính trị…. Năm 1937, nhân dịp phái viên của Chính phủ Pháp là J. Godar sang điều tra tình hình Đông Dương và J. Brevié sang làm Toàn quyền Pháp Đông Dương thay Graffeuil, Đảng tổ chức mít tinh để “đón rước Godar”, thực chất là biểu dương lực lượng. Đi tới đâu, họ cũng biểu tình đòi dân chủ. Ngày 1/5/1938, họ mít tinh lớn ở Hà Nội và thu hút hàng vạn người tham gia. Trong đấu tranh nghị trường, báo chí, Đảng đưa người ứng cử vào Viện Dân biểu Bắc Kỳ, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, Viện Dân biểu Trung Kỳ để phô trương lực lượng; dùng báo chí để truyền truyền ứng viên ứng cử, tuyên truyền đường lối của Đảng vào trong lòng nhân dân. Qua các cuộc đấu tranh đó, Đảng đã rút ra một số kinh nghiệm về công tác lãnh đạo nhân dân, đường lối chiến lược cho cách mạng về sau này.

Sau cao trào 1936 – 1939, cách mạng Việt Nam đã rút ra được những bài học kinh nghiệm về chiến lược, phương pháp cũng như cách thức đấu tranh cho cách mạng về sau. Sau sự kiện Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và phát xít Nhật bắt đầu xâm lược Đông Dương, đe dọa sự tồn tại của thuộc địa Pháp Đông Dương, thì lúc này Đảng đã có sự thay đổi chiến lược đúng đắn; sự thay đổi này góp phần định hướng phát triển của cách mạng Việt Nam dẫn tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 sau này.

Ngày 6/11/1939, chỉ hai tháng sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ VII họp ở Bà Điểm (Hóc Môn). Trong Hội nghị, Đảng ta xác định nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam là đấu tranh chống đế quốc – thực dân, giành độc lập cho dân tộc. Hội nghị tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất” và thay vào đó là “tịch thu ruộng đất của đế quốc, địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc” chia cho dân cày; khẩu hiệu lập Chính phủ Công nông binh bị thay thế bằng khẩu hiệu lập Chính phủ Cộng hòa. Nghị quyết Hội nghị ghi rõ: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập”([36]). Về mục tiêu, phương pháp, Đảng chuyển từ đấu tranh dân chủ (Hội nghị VI) sang đấu tranh giải phóng dân tộc; hoạt động hợp pháp sang hoạt động bí mật. Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương (thay Mặt trận Dân chủ Đông Dương). Vấn đề giải phóng dân tộc về sau được củng cố rất vững chắc vào Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (1/1941) ở Cao Bằng. Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (1/1941) xác định nhiệm vụ trước mắt là giải phóng dân tộc. Nghị quyết Hội nghị viết rõ: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và phản điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”, vậy thì cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”. Nghị quyết cũng chỉ rõ: “trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn mãi chịu kiếp trâu ngựa, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được” ([37]). Hội nghị quyết định sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp – Nhật thì sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng 5 cánh làm cờ toàn quốc. Hội nghị cũng thành lập Mặt trận Việt Minh, các hội Phản đế và xác định hình thái cách mạng là khởi nghĩa từng phần lên Tổng khởi nghĩa. Thực hiện chiến lược sáng suốt của Đảng, ta đã thành lập Mặt trận Việt Minh (5/1941) để thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia; thành lập các Hội Cứu quốc để tập trung nhân dân lại thành 1 khối thống nhất, dùng các Hội này như một cách để tuyên truyền sâu rộng chủ nghĩa Marx và tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc vào Việt Nam. Đồng thời để củng cố chủ trương của mình, đảng đã thành lập các căn cứ địa và Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Tháng 8/1945, ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng, Đảng ta đã chớp thời cơ thuận lợi và tiến hành cuộc Cách mạng tháng Tám thành công vang dội, dẫn tới xác lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 2/9/1945.

Như vậy, có thể thấy rằng cho đến thời điểm này, để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này thì nhiệm vụ dân tộc đã được đưa lên hàng đầu cần tập trung giải quyết còn nhiệm vụ dân chủ (ruộng đất) tạm để lại phía sau. Điều này cũng có cơ sở, và đó là sự chuyển hướng cách mạng rất linh hoạt, sáng tạo phù hợp với tình hình lúc đó. Như chúng ta thấy rõ, trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta đã xác định hai nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến là không thể tách rời nhau. Trải qua thực tế đấu tranh cách mạng, Đảng đã nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ của hai vấn đề đó và xác định: Tuy hai nhiệm vụ không thể tách rời nhau nhưng nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực hiện từng bước với những khẩu hiệu cụ thể như: giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất công, chia ruộng đất của bọn phản động cho nông dân nghèo, tiến tới cải cách ruộng đất để thực hiện mục tiêu cuối cùng và quan trọng: độc lập dân tộc và người cày có ruộng.

3.1.2. Giai đoạn 2 : 1945 - 1954

3.1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử

Sau khi thành lập được ít lâu, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã gặp nhiều thuận lợi cũng như khó khăn vô cùng phức tạp. Về thuận lợi, với thắng lợi của cách mạng tháng Tám thì Đảng ta trở thành Đảng duy nhất lãnh đạo chính quyền trong cả nước. Nhân dân Việt Nam có lòng yêu nước nồng nàn, truyền thống chống giặc ngoại xâm ; truyền thống đó sẽ được phát huy khi nhân dân trở thành người chủ để thừa hưởng thành quả mình đạt được do cách mạng đem lại, nên có quyết tâm cao độ trong việc xây dựng và bảo vệ chế độ mới. Sau Thế chiến II, chủ nghĩa xã hội trở thành một hệ thống của thế giới và phong trào giải phóng dân tộc đang phát triển mạnh ; về cơ bản thì nó có lợi cho cách mạng Việt Nam.

Tuy nhiên, cách mạng Việt Nam cũng có những thách thức nghiêm trọng : Chính quyền còn non trẻ, lực lượng quân sự chưa được củng cố vững chắc. Kinh tế bị kiệt quệ, 95% dân số mù chữ. Ngoài ra, quân đội nước ngoài liên tiếp tràn vào nước ta : quân Tưởng vào chiếm giữ Bắc Bộ, một phần lớn Bắc Trung Bộ (tới vĩ tuyến 16) ; ở phía Nam quân Anh tiến vào, tiếp tay với 6 vạn quân Nhật còn đang giải giáp, mở đường cho Pháp quay trở lại xâm lược Đông Dương. Nhà nước ta đứng trước tình trạng « ngàn cân treo sợi tóc ». Chính trong tình thế cực kỳ khó khăn này, Đảng và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã có những quyết sách mang tính trọng đại, đưa « con thuyền » Việt Nam vượt qua môi khó khăn trở ngại để vươn tới thắng lợi.

3.1.2.2. Sự vận dụng lý luận về vấn đề dân tộc dân chủ, chiến tranh nhân dân trong đường lối của Đảng với cách mạng Việt Nam từ 1945 – 1954

Trước tình hình cực kỳ khó khăn như vậy, ngay sau khi giành độc lập thì chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã vận dụng lý luận về vấn đề dân tộc dân chủ áp dụng vào thực tiễn. Sau khi đã giành được độc lập dân tộc trong cuộc cách mạng tháng Tám 1945, nhân dân Việt Nam bắt tay vào xây dựng chính quyền mới trong tình thế « ngàn cân treo sợi tóc » rất nguy ngập. Điều này hợp quy luật là : sau khi giành được chính quyền là phải xây dựng và củng cố, nếu không mọi thành quả đạt được sẽ bị quân giặc lấy mất. Đúng như lời Lenin căn dặn : giành được chính quyền đã khó, nhưng giữ được chính quyền lại càng khó hơn, cho nên Đảng và Chính phủ Lâm thời vừa chống họa ngoại xâm, vừa xây dựng củng cố chính quyền non trẻ mới thành lập. Tháng 3/1946, ngay sau khi Quốc hội khóa I thành lập ít lâu, Quốc hội đã họp phiên đầu tuyên bố thành lập chính phủ liên hiệp kháng chiến ; thành lập quân đội để bảo vệ chính quyền. Ngoài ra, chính phủ cũng đã giải quyết được nạn đói, nạn dốt, giải quyết những khó khăn về tài chính, điều này tạo niềm tin và cơ sở để nhân dân vững tin với cách mạng, cùng chính phủ và Đảng chuẩn bị vào cuộc chiến đấu mới, không cân sức giữa ta và địch.

Sau khi củng cố được tương đối ổn định chính quyền, Đảng và chính phủ đã lao ngay vào cuộc đấu tranh quân sự ở miền Nam, đấu tranh ngoại giao ở miền Bắc. Ở miền Nam, sau khi quân Pháp vào đánh chiếm Sài Gòn vào ngày 23/9/1945, quân dân khắp nơi tự động nổi lên chống lại chúng. Chỉ trong một tuần lễ vào tháng 9/1945, quân dân Sài Gòn – Chợ Lớn đã đẩy địch vào tình trạng khó khăn : 138 xí nghiệp và công sở lớn, 22 kho tàng, 4 chợ, 30 tàu lớn, 200 xe hơi bị đốt phá. Gần 300 tên giặc bị tiêu diệt ([38]). Trong khi đó ở miền Bắc, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã thực hiện một sách lược rất « mềm dẻo, đã đưa nước nhà vượt qua muôn vàn khó khăn tưởng như không sao vượt nổi. Lúc thì tạm hòa với Tưởng để rảnh tay đối phó với thực dân Pháp, lúc thì tạm hoãn với Pháp để đuổi cổ quân Tưởng và quét sạch bọn phản động tay sai của Tưởng, giành thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, điều mà Đảng biết chắc là không thể nào tránh nổi. Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đó đã được ghi vào lịch sử cách mạng của nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược Leninid về lợi dụng những mâu thuẫn trong nội bộ hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên tắc ([39]) »

Như vậy cho tới thời điểm trước khi Toàn quốc kháng chiến vào ngày 19/12/1946, chính phủ ta tuy mới thành lập sau khi Cách mạng tháng Tám thắng lợi đã có những hoạt động tích cực trong việc xây dựng, bảo vệ chính quyền non trẻ. Theo một quy luật chung, sau khi giành được độc lập cho dân tộc thì phải thành lập ngay nhà nước để củng cố thành quả cách mạng đã đạt được. Để thực hiện được điều này, Đảng và chính phủ đã phải tập hợp toàn dân không phân biệt tầng lớp, giai cấp để bầu cử thành lập chính phù mới theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu – thể hiện quyền dân chủ của người dân trong việc bầu cử đại biểu vào Quốc hội. Nhưng trong thời kỳ này, do phải giải quyết vấn đề giữ chính quyền nên vấn đề dân tộc là trên hết, dân chủ có thực hiện nhưng là thứ yếu. Giành được độc lập dân tộc đã có rồi, nhưng để giữa vững những thành quả đạt được trong khi đã có chính quyền ngày càng khó hơn – vấn đề dân tộc thời kỳ 1945 – 1946 là luôn đặt lên trên hết.

Sau khi ký với ta hai bản Hiệp ước Sơ bộ và Tạm ước Fontainebleau, thực dân Pháp bội ước, âm mưu đánh chiếm lại nước ta. Dựa vào viện binh và sự hỗ trợ từ Anh – Mỹ, Pháp mở rộng xâm lược ra Bắc Bộ nhằm đánh chiếm Hà Nội và các vùng khác ở Tây Bắc. Phía ta đã nhiều lần hòa hoãn với Pháp, tìm cách đẩy lùi không cho chiến tranh được xảy ra, nhưng vô hiệu. Trong nước, ta xúc tiến cho lực lượng vũ trang phòng thủ và sẵn sàng chiến đấu ở Thủ đô, đồng thời khẩn trương xây dựng các khu (xây dựng thành 12 khu, 1945 – 1946) và về sau thì cử người lên vùng Việt Bắc thành lập An toàn khu Trung ương Việt Bắc (phạm vi là Thái Nguyên (Định Hóa, Yên Sơn, Chợ Đồn), một phần tỉnh Bắc Kạn và một phần tỉnh Tuyên Quang). Ở miền Nam, mặc dù chiến tranh còn đang diễn ra, nhưng Đảng đã chỉ thị cho các tỉnh phía Nam lập căn cứ địa chống Pháp. Kết quả là các căn cứ địa được thành lập như Trà Vong (Tây Ninh, năm 1949 đổi là Dương Minh Châu), chiến khu D (Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước....), chiến khu Đồng Tháp Mười.... ; các căn cứ địa ra đời đã củng cố và giữ gìn lực lượng vũ trang của ta trong thời kỳ đầu kháng chiến chống quân Pháp của nhân dân Nam Bộ. Nhưng càng về sau, Pháp tăng cường khiêu khích quân dân ta mạnh hơn. Trước tình hình đó, hội nghị Ban thường vụ Trung ương Đảng họp ở làng Vạn Phúc, Hà Đông (18 – 19/12/1946) đã quyết định phát lệnh toàn quốc kháng chiến (lúc 20 giờ, 19/12/1946) ; đồng thời đề ra đường lối chiến lược mới của Đảng trong thời chiến.

Khi Trung ương Đảng ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến vào 19/12/1946 phát động toàn dân trên khắp nước kháng chiến chống Pháp, Đảng đề ra tiếp những văn kiện quan trọng để kịp thời chỉ đạo toàn dân tích cực chuẩn bị kháng chiến. Trong “Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc” (25/11/1945) của Ban chấp hành Trung ương Đảng, mục tiêu của cách mạng giai đoạn này vẫn là dân tộc giải phóng, cuộc cách mạng ấy vẫn đang tiếp diễn vì nước ta chưa hoàn toàn độc lập, dân ta chưa hoàn toàn được tự do; cho nên một trong những công việc quan trọng trong tình hình này là phải đánh giặc, giành độc lập dân tộc. Vấn đề dân chủ thời kỳ này (1945 – 1946) cũng chưa được chú ý, chỉ tập trung vào Thông tư giảm tô 25% cho tá điền của Bộ Nội vụ (11/1945), thực hiện tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian cho nông dân thiếu ruộng, chia lại ruộng đất cho công bằng và dân chủ cho cả nam và nữ. Tạm giao ruộng đất bỏ hoang cho nông dân thiếu ruộng cày cấy. Nhiệm vụ chống đế quốc được đặt lên hành đầu, vấn đề ruộng đất chưa được tiến hành triệt để, mà làm dần dần từng bước đem lại ruộng đất cho nông dân. Lúc này cần giữ vững tinh thần đoàn kết giữa các giai cấp, tầng lớp, đoàn thể, tôn giáo, đảng phái nhằm tập trung sưc mạnh chống lại đế quốc.

Tháng 3/1947, Tổng bí thư Trường Chinh đã kịp thời tổng kết cuộc chiến đầu và viết một loạt bài đăng liên tiếp trên 11 số báo Sự thật (sau đổi thành báo Nhân dân) tuyên truyền đường lối kháng chiến, sau được tập hợp trong cuốn Kháng chiến nhất định thắng lợi (xuất bản năm 1947). Trong tác phẩm này, lần đầu tiên Đảng đề đường lối “chiến tranh nhân dân” – một sáng tạo quan trọng trong chiến lược kháng Pháp của Đảng. Chiến lược “chiến tranh nhân dân” được đề ra dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Marx – Lenin về vấn đề chiến tranh và nhân dân (tập hợp người dân thành một lực lượng thống nhất), vốn bị đề cập một cách mơ hồ vì nhiều lý do khác nhau, đến đây thì mới được hình thành và đem ra ứng dụng trong thực tế. “Chiến tranh nhân dân” là cuộc đọ sức khốc liệt giữa một bên là toàn dân thi hành cuộc “chiến tranh chính nghĩa” chống lại “chiến tranh phi nghĩa” của thực dân Pháp. Để cuộc chiến này thành công thì không còn cách nào khác là dựa vào sức lực của toàn dân, toàn quân; với điều kiện đó chúng ta sẽ tạo thành một thế trận cả nước cùng đánh giặc, mỗi người dân là một chiến sĩ và mỗi làng xã là một pháo đài ([40]).

Ta tiến hành kháng chiến toàn diện về mọi mặt: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa…; đánh lâu dài (vừa đánh vừa phòng ngự, bồi dưỡng sức dân; lợi dụng tình hình quốc tế có lợi để giành thắng lợi từng bước…). Đúng như lời nhận định của Trường Chinh thì chiến tranh Việt Nam “là một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình” ([41]). Đây là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới. Chiến lược cách mạng lúc này là tập trung cho cuộc đấu tranh giành và giữ nền độc lập. Cũng trong cuốn Kháng chiến nhất định thắng lợi, Trường Chinh viết: “Các bạn cho rằng cuộc kháng chiến này có tính chất dân tộc và dân chủ như thế nào thì nó phải vừa đánh đuổi thực dân vừa phải tịch thu ruộng đất chia cho dân cày. Chúng tôi xin trả lời: Không! Cuộc kháng chiến này chỉ hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước, củng cố và mở rộng chế độ cộng hòa dân chủ. Nó không tịch thu ruộng đất của địa chủ phong kiến chia cho dân cày chỉ tịch thu các hạng tài sản của Việt gian phản quốc bổ sung ngân quỹ kháng chiến hay gia đình các chiến sĩ hi sinh”.

Chính nhờ đường lối chiến lược đúng đắn đó, cách mạng nước ta bước vào giai đoạn khó khăn và gian khổ: vừa kháng chiến, vừa kiến quốc; nhằm mục đích thực hiện nhiệm vụ chung và thiên liêng: giải phóng, giành độc lập cho dân tộc. Ở miền Bắc, sau những trận đánh nhau quyết liệt với Pháp tại Hà Nội, quân dân Hà Nội thực hiện “tiêu thổ kháng chiến” rút dần về vùng núi xa xôi, hẻo lánh để trú chân. Tại nơi đây, Trung ương Đảng thiết lập An toàn khu Trung ương Việt Bắc, dời quân đội và nhân dân, trang thiết bị, vũ khí lên An toàn khu chuẩn bị cho kháng chiến sắp tới. Ở căn cứ địa Việt Bắc, về chính trị là xây dựng các Ủy ban kháng chiến hành chính ở các tỉnh, huyện ; các tổ chức chính trị trong khu vực căn cứ, và giáo dục nhân dân tình đoàn kết, yêu thương nhau, có tư tưởng vững chắc. Về quân đội, Việt Bắc đã xây dựng lực lượng vũ trang, dân quân tự vệ, du kích thành một lực lượng vững mạnh. Về kinh tế, văn hóa – giáo dục thì Việt Bắc chú trọng xây dựng thành một khối vững mạnh, quy tụ toàn dân không phân biệt nghề nghiệp, tầng lớp, thứ bậc trong xã hội tham gia xây dựng. Chính nhờ chuẩn bị kỹ lưỡng, toàn diện về mọi mặt, quân dân ta đã liên tiếp đánh thắng Pháp ở trận Việt Bắc (1947), chiến tranh Biên giới 1950 và một loạt các chiến dịch lớn nhỏ khác nhau.

Ở miền Nam, hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Đảng, quân dân miền Nam đã chiến đấu rất mạnh mẽ chống địch ngay khi chúng vừa bước chân vào Sài Gòn – thủ phủ của Nam Bộ. Trước sức tấn công mạnh mẽ của địch, quân dân miền Nam rút về vùng cao, vùng rừng núi hẻo lánh và hiểm trở lập các căn cứ địa – còn gọi là hậu phương tại chỗ. Mục đích của thành lập căn cứ địa nhằm làm nơi đứng chân của cơ quan lãnh đạo và lực lượng vũ trang, làm nơi phòng ngự và là bàn đạp tiến công của quân dân ta trên các mặt trận xung quanh, mặt trận ở cửa ngỡ Sài Gòn – Chợ Lớn. Các chiến khu được thành lập thời kỳ này có chiến khu Dương Minh Châu (1948), chiến khu D (1946) ở Tây Ninh – Bình Phước, Đồng Nai, chiến khu Minh Đạm, Xuyên Phước Cơ ở Bà Rịa - Vũng Tàu, chiến khu Đồng Tháp Mười (1946) và chiến khu U Minh ở vùng đất cực Nam của Nam Bộ. Sau khi các chiến khu được thành lập, Đảng bộ ở các địa phương chỉ đạo quân dân ở các chiến khu xây dựng, củng cố hệ thống chính trị - quân sự - kinh tế và xã hội. Về chính trị, cơ quan lãnh đạo tối cao của cách mạng miền Nam là Khu ủy Sài Gòn – Gia Định thì đóng ở vùng Sài Gòn – Gia Định ; tháng 9/1945 thì dời xuống Đồng Tháp Mười ; năm 1949 thì chuyển xuống chiến khu U Minh. Về quân sự, ở các chiến khu đã hình thành những lực lượng vũ trang đầu tiên như chi đội 11 của chiến khu Dương Minh Châu (về sau thành trung đoàn chủ lực mạnh nhất ở Tây Ninh – trung đoàn 311), chi đội 25 An Điền ở chiến khu Đồng Tháp Mười (1946) và các lực lượng vũ trang ở các chiến khu khác. Các lực lượng vũ trang vừa ra đời đã giúp nhân dân căn cứ địa xây dựng tổ chức chính trị, phát triển kinh tế và văn hóa xã hội. Tuy nhiên, miền Nam sự hình thành căn cứ địa hơi khác miền Bắc ở chỗ: miền Nam đã hình thành các căn cứ địa trong lòng đô thị Sài Gòn (gọi là “vùng lõm căn cứ”) như chiến khu An Phú Đông, địa đạo Củ Chi – Bến Cát, địa đạo Phú Thọ Hòa… Riêng ở miền Nam, người ta thấy có 3 loại căn cứ địa : căn cứ địa lãnh đạo, căn cứ địa lực lượng vũ trang, căn cứ lõm đô thị (lõm căn cứ) đóng ở các đô thị lớn ; thường gọi là mật khu. Căn cứ địa lãnh đạo là nơi đứng chân của các cơ quan lãnh đạo tối cao (Trung ương Cục, Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam). Căn cứ lực lượng vũ trang là nơi đóng quân của các lực lượng vũ trang tinh nhuệ (Nhuận Đức, Bến Đình... ở Củ Chi) ; các « lõm căn cứ » ở trong lòng đô thị Sài Gòn như mật khu Hố Bò, Đồng Dù . Căn cứ địa chỉ huy là căn cứ lớn, nơi đặt các cơ quan đầu não chỉ đạo cách mạng toàn miền Nam như Dương Minh Châu, chiến khu D, chiến khu Đồng Tháp Mười và chiến khu U Minh. Trong khi đó, các tỉnh phía Bắc (từ Quảng Trị trở ra) có hoặc rất ít căn cứ địa. Ở Quảng Tị thì Tỉnh ủy đóng trong địa đạo Vịnh Mốc ; Hà Nội có địa đạo Nam Hồng (huyện Đông Anh)…. Dựa vào sự phát triển mạnh về tiềm lực quân sự, kinh tế, xã hội; lực lượng vũ trang trong căn cứ đã tiến hành tiến công và chống trả các cuộc càn của địch vào căn cứ địa. Ví dụ, ở chiến khu Dương Minh Châu, lực lượng vũ trang của chiến khu đã đánh bại cuộc càn của Pháp – Hòa Hảo vào càn quét căn cứ (1948) ([42]); ở chiến khu Đồng Tháp Mười, tiểu đoàn bộ binh 307, 309 và tiểu đoàn chủ lực Nam Bộ phối hợp với nhau đánh bại cuộc càn quét của 3.000 quân Pháp – ngụy vào chiến khu Đồng Tháp Mười (6/1949) ([43]). Ở chiến khu D, quân dân miền Đông vừa giữ vững căn cứ - lập hành lang liên hoàn căn cứ, vừa tổ chức chống địch càn quét. Quân dân ta đã chiến đấu anh dũng, đánh bại cuộc tấn công của địch ở trận La Ngà (1948); đánh tan nát một loạt các tháp canh của hệ thống tháp canh của De Latour ([44]) nhằm bao vây, tiêu diệt chiến khu này. Chiến dịch hạ tháp canh De Latour của quân dân chiến khu D đã chứng tỏ lực lượng của ta đã vững mạnh đủ sức mở những cuộc tiến công lớn đánh bại địch trên quy mô lớn.

Đến năm 1950, sau thắng lợi của chiến dịch Biên giới Thu – đông thì cách mạng nước ta từ giai đoạn cầm cự ban đầu chuyển sang phản công toàn diện với Pháp, kéo dài từ năm 1950 – 1954. Sự kiện mở đầu cho giai đoạn này đó là việc Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ II (2/1951) ở Chiêm Hóa (Tuyên Quang) được khai mạc đã đề ra đường lối chiến lược mới cho cách mạng Việt Nam. Trong báo cáo “Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội” do Tổng bí thư Trường Chinh trình bày tại Đại hội Đảng Lao động Việt Nam đã kế thừa và phát triển đường lối cách mạng trong các cương lĩnh trước đây của Đảng thành đường lối cách dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối đó được thể hiện ở nội dung cơ bản sau:

- Tính chất xã hội: Xã hội Việt Nam có 3 tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến. Ba tính chất đó đang đấu tranh lẫn nhau. Nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn đó đang được giải quyết trong quá trình kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và bọn can thiệp.

- Nhiệm vụ cách mạng: nhiệm vụ cơ bản lúc này của cách mạng nước ta là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược giành độc lập dân tộc và thống nhất thực sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau, nhưng nhiệm vụ chính trước mắt là hoàn thành giải phóng dân tộc. Cho nên lúc này phải tập trung lực lượng vào việc kháng chiến để giành thắng lợi trước bọn đế quốc. Văn kiện Đại hội Đảng cũng nói rõ: Cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân. Cách mạng Việt Nam do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một quá trình lâu dài, và đại thể trải qua ba giai đoạn:

+ Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc.

+ Giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân.

+ Giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội.

Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau mà mật thiết liên hệ xen lẫn với nhau, nhưng mỗi giai đoạn có nhiệm vụ trung tâm. Trong giai đoạn lúc này, nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên trên hết. Trường Chinh khẳng định: Nhiệm vụ giải phóng dân tộc bao gồm nhiệm vụ phản đế và nhiệm vụ phản phong kiến. Hai nhiệm vụ này phải làm đồng thời nhưng nhiệm vụ phản phong kiến phải làm từng bước để vừa phát triển lực lượng cách mạng vừa giữ vững được khối đại đoàn kết dân tộc.

- Đặc điểm cách mạng: giải quyết những nhiệm vụ cơ bản đó thì nhân dân ta nắm vai trò động lực, công-nông, trí thức làm nền tảng và giai cấp công nhân lãnh đạo. Cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ là “cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhưng đó không còn là cuộc cách mạng dân chủ tư sản lối cũ và cũng không phải là cách mạng xã hội chủ nghĩa mà là cách mạng dân chủ tư sản lối mới tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa” ([45]).

Một điểm nữa ở giai đoạn này đó là cách mạng Việt Nam có sự liên minh với các nước xung quanh mà tiêu biểu nhất là Lào và Campuchia – thể hiện tinh thần đoàn kết anh em trong 3 nước Đông Dương, một điều mà ngay từ khi mới thành lập Đảng đã có nhắc đến tinh thần đoàn kết anh em. Trong Tuyên ngôn của mình, Đảng ta tuyên bố "Dân tộc Việt Nam đoàn kết chặt chẽ với hai dân tộc Miên, Lào và hết sức giúp đỡ hai dân tộc ấy cùng nhau kháng chiến chống đế quốc xâm lược, giải phóng cho tất cả các dân tộc Đông Dương. Nhân dân Việt Nam đứng trên lập trường lợi ích chung mà hợp tác lâu dài với hai dân tộc Miên, Lào trong kháng chiến và sau kháng chiến...([46]). Chính tinh thần đoàn kết chặc chẽ của quân dân 3 nước Đông Dương, cộng với sự viện trợ vô tư của Liên Xô và Trung Quốc đã giúp cách mạng giành nhiều thắng lợi vang dội trên đất Việt Nam, đất bạn (chiến dịch Thượng lào 1953) và toàn thắng ở chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử (7/5/1954).

Đồng thời với những chiến thắng vang dội của quân dân ta trên mặt trận quân sự để đánh thắng giặc Pháp, giành độc lập cho đất nước, cho dân tộc; trong giai đoạn này thì vấn đề dân chủ được đặt ra để giải quyết quyền lợi của nông dân, đó là vấn đề ruộng đất. Có giải quyết được ruộng đất mới giải quyết được vấn đề dân tộc. Marx đã từng nhận xét xác đáng: "cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc", cho nên Việt Nam bắt chước cải cách “thổ địa cách mạng” của Trung Quốc để tiến hành cải cách. Tại hội nghị Trung ương lần thứ tư (1/1953) vấn đề cách mạng ruộng đất đã được Đảng đưa ra và tiến hành thực hiện giảm tô, chuẩn bị tiến tới cách mạng ruộng đất. Hội nghị đã khẳng định: “muốn cho kháng chiến hoàn toàn thắng lợi, dân chủ nhân dân được thực hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi kinh tế và chính trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân” ([47]). Đến Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (11/1953) Đảng quyết định phát động quần chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến, cải cách ruộng đất để kháng chiến đi đến thắng lợi. Cải cách ruộng đất phải làm từng bước tùy điều kiện mà nơi làm trước nơi làm sau. “cải cách ruộng đất là cuộc cách mạng nông dân, một cuộc giai cấp đấu tranh ở nông thôn, rất rộng lớn gay go và phức tạp. Cho nên chuẩn bị thật đầy đủ, kế hoạch phải thật rõ ràng, lãnh đạo phải thật chặt chẽ” ([48]). Tháng 12/1953, cải cách ruộng đất được tiến hành đầu tiên ở Thái Nguyên, sau thì lan sang các xã khác, các tỉnh lỵ khác. Trải qua 6 lần cải cách, cách mạng đã thành công – chia được ruộng đất cho 8 triệu dân cày. Theo số liệu điều tra trong 3035 xã đã qua cải cách ruộng đất thì nông dân sử dụng đến 70,7 % ruộng đất, địa chủ chỉ còn chiếm 18% ([49]). Quan trọng hơn trong quá trình thực hiện cải cách từng bước mặt trân dân tộc được giữ vững đoàn kết, tăng cường sức mạnh cho sản xuất phục vụ cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Trong khi miền Bắc tiến hành giải quyết vấn đề dân tộc, dân chủ thì miền Nam phải trải qua trận lụt kinh hoàng chưa từng thấy vào năm 1952, xóa sổ gần như hết lương thực, hậu cần, cơ sở vật chất; cách mạng Nam Bộ gặp nhiều khó khăn nghiêm trọng. Lợi dụng cơ hội thuận lợi đó, địch tiến hành các cuộc càn quét vào căn cứ Dương Minh Châu, chiến khu D và một loạt các chiến khu khác và gây cho quân dân miền Đông (cũng như miền Tây) gặp nhiều khó khăn nghiêm trọng. Tuy nhiên, quân dân Nam Bộ đã cố gắng vượt qua mọi khó khăn (tự túc lương thực, đào đường giao thong) và đánh bại các cuộc càn quét của địch vào chiến khu. Đầu năm 1953, khi Pháp rút dần quân ra Bắc chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ sắp tới, Bộ Tư lệnh Phân liên khu Miền ra Nghị quyết án về căn cứ địa, vạch ra những đường lối chiến lược quan trọng của Đảng cho quân dân Nam Bộ trong việc xây dựng, củng cố và mở rộng căn cứ địa. Thực hiện Nghị quyết, quân dân Nam Bộ (với mọi phương tiện trong tay) đã tích cực củng cố và mở rộng căn cứ địa, đồng thời tổ chức cuộc Tổng tấn công toàn diện vào các căn cứ của địch bên trong và ngoài căn cứ; cuộc chiến đấu kéo dài đến khi Việt Nam ký hiệp định Geneve thì chấm dứt. Quân dân ta thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp.

Trong giai đoạn 1951 – 1954, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ đó là: nhiệm vụ dân tộc tiến hành kháng chiến chóng thực dân Pháp đi đến thắng lợi bằng chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu” và thực hiện nhiệm vụ dân chủ tiến hành cải cách ruộng đất ở nông thôn chia ruộng đất cho nông dân. Như vậy, giai đoạn này Đảng đã kiên trì dường lối được vạch ra trong “Cương lĩnh chính trị” (1930) đó là dân tộc dân chủ vừa là mục tiêu vừa là nội dung của quá trình cách mạng. Hai nhiệm vụ này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến mặc dù phải đố phó với nhiều kẻ thù, nhiều thách thức nhưng Đảng, Chính phủ vẫn rất quan tâm đến vấn đề dâ chủ, cải thiện đời sống cho nhân dân đặc biệt là nông dân nghèo. Hai nhiệm vụ này luôn song hành với nhau trong tiến trình cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng từ 1930 đến nay. Ở miền Nam thì Đảng vẫn tiến hành chiến tranh với Pháp, kêu gọi nhân dân cùng đánh giặc, cải cách dân chủ chưa thể hiện rõ.

3.2. Khái quát về quá trình vận dụng vấn đề dân tộc dân chủ trong thực tiễn kháng chiến chống Mỹ ở Việt Nam từ 1954 – 1975

3.2.1. Hoàn cảnh lịch sử

Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương được ký kết đã kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đối với ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Thực hiện hiệp định, quân ta đã đình chiến với địch, tập kết chuyển quân và chuyển giao khu vực. Tháng 10/1954, quân ta vào tiếp quản thủ đô Hà Nội trong không khí tưng bừng của ngày hội giải phóng. Tháng 1/1955, Trung ương Đảng và Chính phủ về ra mắt ở thủ đô. Quân Pháp thất bại buộc rút dần quân ra khỏi nước ta và đến tháng 5/1955 thì rút hết.

Pháp rút hết rồi, Mỹ thực hiện chiến lược toàn cầu nhằm xác lập ảnh hưởng, phạm vi thống trị của nó trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Mục tiêu chính của chiến lược này là: tiêu diệt chủ nghĩa xã hội, dập tắt phong trào giải phóng dân tộc và lôi kéo các nước Tây Âu, Nhật Bản vào ảnh hưởng của mình. Để thực hiện chiến lược, Mỹ đẩy mạnh viện trợ các nước Tây Âu, Nhật Bản, thiết lập các khối liên minh quân sự, tăng cường quân đội và vũ khí hiện đại để gây ảnh hưởng ra bên ngoài – trọng điểm là Việt Nam ([50]). Ở Việt Nam, Mỹ đã nhảy vào và lập ra chính quyền Việt Nam Cộng hòa ngang nhiên phá hoại hiệp định Geneve. Chúng thực hiện âm mưu chia cắt Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa và căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông Nam Á

Chính trong hoàn cảnh đó, sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam vẫn chưa trọn vẹn. Đất nước bị chia thành 2 miền với hai nhiệm vụ cách mạng khác nhau:

+ Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ trước nhất là xây dựng miền Bắc toàn diện về mọi mặt, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam. Miền Bắc là hậu phương lớn và là chỗ dựa căn bản nhất cho toàn dân tộc kháng Mỹ cứu nước.

+ Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân miền Nam có nhiệm vụ trước mắt là đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ và tay sai, miền Nam là tiền tuyến lớn, chiến trường chính của cuộc kháng chiến.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc có ý nghĩa quyết định nhất đến toàn bộ sự phát triển của cách mạng miền Nam, trước hết với sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Cuộc đấu tranh chống Mỹ ở miền Nam có tính quyết định trực tiếp đối với việc giải phóng miền Nam, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc. Thực tế, cả hai miền cùng thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong suốt 21 năm ròng rã với nhiệm vụ chung: giải phóng miền Nam, xây dựng và bảo vệ nền dân chủ ở miền Bắc, tiến tới thống nhất Tổ quốc ([51]).

3.2.2. Những sự điều chỉnh đường lối cách mạng – sự sáng tạo của Đảng ta trong thực tiễn giải quyết vấn đề dân tộc dân chủ trong cách mạng Việt Nam 1954 – 1975

Do là nước ta bị chia thành 2 miền cho nên sẽ có hai đường lối cách mạng khác nhau. Chúng ta tìm hiểu cụ thể từng miền để thấy rõ điều chỉnh đường lối cách mạng – sự sáng tạo của Đảng ta trong thực tiễn giải quyết vấn đề dân tộc dân chủ và chiến tranh nhân dân ở Việt Nam.

a. Miền Bắc : khôi phục kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội vững chắc để làm hậu phương vững chắc giúp cách mạng miền Nam. Trong suốt thời gian từ 1954 – 1975, miền Bắc vừa thực hiện nhiệm vụ dân chủ, vừa thực hiện nhiệm vụ dân tộc và dân chủ với hai giai đoạn chính : 1954 – 1965 là giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc ; 1965 – 1975 là giai đoạn miền Bắc vừa chiến đấu chống cuộc phá hoại của Mỹ, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thời kỳ này hơi phức tạp và khác rất nhiều so với thời kỳ 1945 – 1954.

+ 1954 – 1965 : giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Giai đoạn này được đánh dấu bằng một loạt các quyết định quan trọng : tháng 9/1954, Bộ Chính trị đề ra chủ trương là phục hồi kinh tế để tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tại Hội nghị lần thứ 7 (3/1955) và lần thứ 8 (8/1955) Trung ương Đảng nhận định: Mỹ - ngụy lúc này đang ra sức phá hoại nền hòa bình vừa giành được. Muốn chống Mỹ - ngụy, điều đầu tiên là phải củng cố miền Bắc, đẩy mạnh đấu tranh của nhân dân miền Nam. Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (12/1957) tái xác định: “Mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng của toàn Đảng, toàn dân hiện nay là: Củng cố miền Bắc, đưa miền bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục thực hiện đấu tranh để thống nhất nước nhà trên cơ sơ độc lập và dân chủ bằng phương pháp hòa bình”([52]). Hai nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa đều quan trọng.

Để thực hiện, Đảng đã tiến hành 5 đợt cải cách ruộng đất liên tục từ 1953 – 1956 và đạt nhiều thắng lợi rực rỡ : ta đã tịch thu, trưng thu, trưng mua 81 vạn ha ruộng đất, 10 vạn trâu bò và 2 triệu nông cụ các loại do giai cấp địa chủ chiếm giữ chia cho hơn 2 triệu hộ nông dân lao động (chiếm khoảng 72,8% số hộ ở nông thôn miền Bắc)([53]). Tuy nhiên trong khi thực hiện, Đảng ta đã mắc nhiều sai lầm đáng tiếc mà nguyên nhân chủ yếu là do không nắm vững vấn đề dân tộc và giai cấp ở nước ta, áp dụng máy móc kinh nghiệm nước ngoài vào Việt Nam một cách đơn giản.

Song song với cải cách ruộng đất, Đảng cũng tiến hành khôi phục kinh tế và đạt nhiều thành công rực rỡ: Về nông nghiệp, nhân dân sản xuất được 4 triệu tấn lương thực (1956); Về công nghiệp, ta đã khôi phục được 29 xí nghiệp cũ, xây mới 55 xí nghiệp mà chủ yếu là trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng. Kết quả: giá trị tổng sản lượng công nghiệp quốc doanh tăng từ 28 tỷ đồng năm 1955 lên 232 tỉ đồng năm 1957; Về thươngnghiệp, nhà nước đẩy mạnh phát triển mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán; ngoại thương đúng nghĩa kể từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập đến thời điểm này; Về văn hóa – giáo dục thì cũng phát triển nhanh chóng: Từ năm 1955 đến 1957, miền Bắc có hơn 1 triệu người thoát nạn mù chữ, số người được bổ túc văn hóa cấp 1 và cấp 2 tăng nhanh; năm học 1956 - 1957, miền Bắc có 606.000 học sinh vỡ lòng, 3.664 sinh viên. ([54]).

Sau cải cách ruộng đất sẽ tới cải tạo chủ nghĩa xã hội. Những thắng lợi mới của công cuộc khôi phục kinh tế từ 1954 - 1957 đã cho phép miền Bắc bước sang một thời kỳ mới - thời kỳ cải tạo Xã hội chủ nghĩa nhằm tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Trong thư chúc mừng năm mới ngày 01/01/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Thời kỳ khôi phục kinh tế đã kết thúc và mở đầu thời kỳ phát triển kinh tế một cách có kế hoạch. Đó là tiến bộ mới trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta… phát triển kinh tế, văn hóa, tức là dần dần xây dựng chủ nghĩa xã hội"([55]). Nhân dân miền Bắc cải tạo trên nhiều mặt: nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp … và đạt nhiều thắng lợi to lớn. Về nông nghiệp, ta đã tiến hành thí điểm hợp tác hóa nông nghiệp; đó là xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp (1960 là 4 vạn hợp tác xã nông nghiệp) và gần 6.000 nông trường quốc doanh. Về công nghiệp, ta đưa tư sản vào làm việc (trong 3 năm 1957 – 1960 là gần 3.000 hộ tư sản tham gia hoạt động công nghiệp); trực tiếp quản lý 672 xí nghiệp (trong đó 172 xí nghiệp là trung ương quản lý, còn lại số đông là địa phương quản lý). Về chính trị, ta cũng có những bước tiến mới. Cụ thể, ta đã kiện toàn được bộ máy nhà nước; sửa đổi Hiến pháp 1946 để cho ra Hiến pháp 1959. Hiến pháp gồm 10 chương với 112 điều. Nội dung chính của Hiến pháp nói về hình thức chính thể Nhà nước (Dân chủ Cộng hòa) có thêm vào bản chất nhà nước, chế độ kinh tế, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân([56]), quyền làm chủ của công dân.

Năm 1960 đánh dấu một giai đoạn mới của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng việc Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng khai mạc vào tháng 9/1960 tại thủ đô Hà Nội. Về dự Đại hội có 500 đại biểu chính thức và ủy viên dự khuyết thay mặt cho hơn 50 vạn đảng viên cả nước. Đại hội đã họp và thông qua những quyết định quan trọng cho cách mạng Việt Nam. Về nhiệm vụ cách mạng, Đại hội xác định cách mạng Việt Nam sẽ có hai giai đoạn cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai nhiệm vụ đó có quan hệ khăng khích với nhau; cách mạng xã hội chủ nghĩa miền Bắc có ý nghĩa quyết định nhất đến toàn bộ sự phát triển của cách mạng miền Nam, trước hết với sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Cuộc đấu tranh chống Mỹ ở miền Nam có tính quyết định trực tiếp đối với việc giải phóng miền Nam, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc.

Đối với miền Bắc, Đại hội III đã đề ra được đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa là: kêu gọi nhân dân trong nước, đồng thời đoàn kết với quốc tế để tạo điều kiện cho cải tạo, củng cố miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc cho cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi. Đường lối này được cụ thể qua kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965), với khuynh hướng phát triển công nghiệp nặng trước, rồi tới các ngành công nghiệp nhẹ và các ngành kinh tế khác, cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của người dân, củng cố quốc phòng. Nhờ thực hiện kế hoạch cụ thể, nên cho đến năm 1964 miền Bắc đã bảo đảm được lương thực cơ bản và tự giải quyết được 90% hàng tiêu dùng, đồng thời bắt đầu có tích lũy từ trong nước.

+ 1965 – 1975 là giai đoạn quân dân miền Bắc vừa chiến đấu chống cuộc phá hoại của Mỹ, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội để tạo tiềm lực – hậu phương vững chắc chi viện cho miền Nam.

Một điều mà quân dân miền Bắc chưa bao giờ thực hiện, đó là vừa chiến đấu vừa xây dựng trong tình trạng địch dùng lực lượng quân sự mạnh nhất, vũ khí tối tân nhất nhằm tiêu diệt « chỗ dựa vật chất, tinh thần » của cách mạng miền Nam. Thời kháng Pháp, nhân dân hai miền cùng kháng Pháp theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Miền Bắc thì vừa xây dựng vừa đánh giặc trong lúc chiến sự diễn ra không khốc liệt gì nhiều (miền Bắc đánh Pháp vài trận lớn như trận Việt Bắc 1947, 1949 ; biên giới 1950) ; đánh xong rồi rút quân về. Mặc khác, miền Bắc lại có An toàn khu Việt Bắc bất khả xâm phạm, cho nên địch khó có khả năng mở những cuộc tấn công lớn, quyết định vào khu « đặc biệt » này. Ngoài ra, việc khai thông Biên giới Việt – Trung sau chiến thắng Biên giới 1950 đã tạo điều kiện cho nước ta có quan hệ hữu nghị với Trung Quốc và Liên Xô, tạo điều kiện cho hai nước này viện trợ về vũ khi, trang thiết bị, vật dụng cần cho cuộc chiến ở Việt Nam tiến lên và giành thắng lợi trọn vẹn trong cuộc chiến. Lực lượng ở miền Nam thời kháng Pháp tương đối ổn định, căn cứ địa còn tự cung tự cấp được và chưa có sự viện trợ từ bên ngoài. Lần này khác với thời kháng Pháp, Mỹ có lực lượng tinh nhuệ, vũ khí tối tân nên khả năng mở rộng xâm lược là hiển nhiên ; cho nên miền Bắc thời kỳ này khó khăn hơn lần trước : vừa đánh giặc, vừa xây dựng tiềm lực để củng cố chủ quyền, chi viện miền Nam.

Về phía Mỹ, sau thất bại trong “chiến tranh đặc biệt”, Mỹ mở chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam; nhưng trong lúc đánh quân dân miền Nam thì Mỹ mở cuộc tấn công phá hoại miền Bắc nhằm phá hoại miền Bắc - hậu phương lớn của cách mạng miền Nam. Để kiếm cớ tấn công miền Bắc, Mỹ gây ra “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, chính thức mở cuộc tấn công phá hoại miền Bắc. Chúng huy động hàng nghìn máy bay tối tân, thuộc 50 loại khác nhau, trong đó có cả máy bay B52, F111 cùng các loại vũ khí hiện đại và các lực lượng hải quân thuộc Hạm đội 7 đóng ở Thái Bình Dương ; các căn cứ hải quân ở Philippines (San Subic và San Clark), miền Nam Việt Nam (Cam Ranh, Đà Nẵng), Singapore, tấn công vào miền Bắc để phá hoại cơ sở vật chất, kỹ thuật và đồng thời ngăn cản miền Bắc phục hồi kinh tế, chi viện cho miền Nam.

Dự đoán được âm mưu của địch, Đảng và Chính phủ đã đề ra phương án đối phó. Hội đồng quốc phòng kêu gọi toàn dân tăng cường công tác phòng thủ, trị an, sẵn sàng chiến đấu. Tháng 7/1966, Hồ Chủ tịch kêu gọi toàn dân cùng hợp sức chống giặc Mỹ (tấn công khắp nơi và bằng mọi vũ khí hiện có). Trong hơn 4 năm (từ 05/8/1964 - 01/11/1968), quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 3.234 máy bay Mĩ (trong đó có 6 máy bay B52, 3 máy bay F.111) diệt và bắt sống hàng nghìn giặc lái Mĩ; bắn chìm và bị thương 43 tàu chiến và tàn biệt kích. ([57]). Vừa chiến đấu, quân dân miền Bắc vừa thi đua sản xuất, chuyển kinh tế thời binh sang thời chiến; chú trọng phát triển kinh tế địa phương nhằm bảo đảm cho mỗi vùng, miền, mỗi địa phương chủ động hơn trong việc duy trì và đẩy mạnh sản xuất, tự cung, tự cấp những mặt hàng thiết yếu trong điều kiện chiến tranh ác liệt. Nhờ chủ trương đúng đắn của Đảng, nên nhân dân phát động cao trào tăng gia sản xuất, sản xuất nhiều hàng tốt và chất lượng để viện trợ cho cách mạng miền Nam. Nhờ sự cố gắng của nhân dân, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thời chiến đạt nhiều thành tựu lớn: trong nông nghiệp, số hợp tác xã tăng gấp 3 lần và sản lượng mỗi hợp tác xã luôn mức 5 tấn/ha/năm. Các cơ sở công nghiệp, y tế và giáo dục được khôi phục lại cả.

Những thành quả trên còn là một nguồn lực đánh kể giúp cho miền Bắc làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn đối với miền Nam. Tính chung sức người, sức của từ miền Bắc chi viện cho miền Nam trong 4 năm (1965 - 1968) tăng gấp 10 lần so với thời kỳ trước: hơn 30 vạn cán bộ, bộ đội, hàng chục vạn tấn vật chất, vũ khí đạn dược, quân trạng, quân dụng, xăng dầu, thuốc men … Sự chi viện to lớn đó đã góp phần quyết định thắng lợi của quân dân ta ở miền Nam trong cuộc chiến đấu chống “chiến tranh cục bộ” của quân Mỹ và quân Sài Gòn.

Thời kỳ tiếp theo là thời kỳ khó khăn cho 2 miền Nam – Bắc khi Mỹ thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 – 1975), mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương (trong đó có miền Bắc nước ta). Chúng huy động quân đội Sài Gòn (thay chân quân Mỹ đang rút dần về nước), tranh bị vũ khí hiện đại và thực hiện quyết sách “Bình định” – đánh vào nông thôn miền Nam rộng lớn – “xương sống” chủ yếu của cách mạng miền Nam lúc đó. Cách mạng miền Nam mất đất, mất dân và lâm vào tình thế khó khăn, nguy khốn. trong lúc Mỹ thực hiện chiến lược mới ở miền Nam thì miền Bắc, dù bị Mỹ tàn phá nghiêm trọng nhưng vẫn phục hồi lại – tạo chỗ dựa và tiềm lực vững chắc cho cách mạng miền Nam.

Tháng 10/1968, Hội nghị Bộ Chính trị họp đã ra Nghị quyết kêu gọi quân dân miền Bắc phải kịp thời khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc ngay sau khi chiến tranh phá hoại kết thúc. Khi Bác Hồ mất năm 1969, Ngươi đã để lại Di chúc cho toàn Đảng, toàn quân dân kêu gọi họ “phải đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”([58]). Thực hiện Di chúc của Người, quân dân miền Bắc tích cực phục hồi kinh tế để chi viện cho miền Nam với các chính sách thiết thực như: mở 3 cuộc vận động chính trị lớn vào cuối năm 1969 bao gồm: lao động sản xuất; phát huy dân chủ và tăng cường chế độ làm chủ tập thể của quần chúng xã viên ở nông thôn; nâng cao chất lượng Đảng viên, kết nạp Đảng viên lớp Hồ Chí Minh. Nhờ đó mà kinh tế miền Bắc đã phục hồi nhanh chóng về các mặt, tạo tiềm lực kinh tế cho viện trợ cách mạng miền Nam. Trong chi viện miền Nam, quân dân miền Bắc đưa 20 vạn quân, cán bộ cùng 17 vạn tấn lương thực viện trợ cho miền Nam.

Cuộc tiến công chiến lược 1972 của quân dân ta ở miền Nam đã đẩy quân Sài Gòn vào tình thế khó khăn, chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh của Mĩ đứng trước nguy cơ bị phá sản. Trước tình thế đó, Mỹ ra lệnh ném bom bắn phá miền Bắc, bắt đầu từ tháng 5 và kéo dài đến tháng 12/1972. Trong cuộc tập kích chiến lược vào Hà Nội vào 12 ngày đêm cuối 1972, Mỹ huy động 700 lượt B52, 3.884 lượt máy bay chiến thuật, trút bom ồ ạt xuống các khu đông dân, bệnh viện, trường học, bến xe, nhà ga … với 10 vạn tấn bom. Song do có chuẩn bị trước nên quân dân miền Bắc đánh tan cuộc tập kích này, buộc Mỹ ngồi vào bàn đàm phán tại hội nghị Paris.

Đồng thời với tấn công quân sự ở miền Bắc, ta tấn công Mỹ về ngoại giao. Tháng 5/1968, cuộc thương lượng chính thức giữa hai bên (Việt Nam và Mĩ) đã họp phiên đầu tiên tại Paris. Tháng 1/1969 mở hội nghị 4 bên ở Paris. Trong hội nghị, Việt Nam đã khẳng định lập trường không thay đổi của mình rằng: Trước hết, Mĩ phải chấm dứt không điều kiện hoạt động ném bom và mọi hành động chiến tranh khác trên toàn miền Bắc, sau đó mới bàn đến các vấn đề khác. Đến 1972, để vượt qua cuộc tranh cử tổng thống vào đầu tháng 11 năm 1972, Ních-xơn đã dùng thủ đoạn lùi bước trên bàn đàm phán và xuống thang chiến tranh để xoa dịu dư luận Mĩ. Hội họp nhiều lần, bất ngờ đến giữa 1972, Nixon phá ngang, đòi xét lại bản Hiệp định đã được thỏa thuận, theo hướng có lợi cho chúng. Nhưng cuộc tập kích chiến lược vào Hà Nội vào 12 ngày đêm cuối 1972 đã làm thất bại âm mưu của chúng, buộc chúng ngồi vào bàn đàm phán ở hội nghị Paris lịch sử.

b. Miền Nam : thực hiện cuộc chiến tranh nhân dân chống lại Mỹ - ngụy, giành độc lập dân tộc để tiến tới thống nhất đất nước

+ Giai đoạn 1954 – 1960 : địch thực hiện « chiến lược Eisenhower » đẩy cách mạng ta vào thời kỳ khó ; nhưng ta vẫn vượt qua, phục hồi lực lượng và đánh bại địch ở cao trào Đồng khởi.

Lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Để thực hiện âm mưu nói trên, trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, ngày 7-7-1954, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về Sài Gòn làm Thủ tướng Chính phủ bù nhìn thay Bửu Lộc. Ngày 17/7/1955, theo chỉ đạo của Mỹ, Diệm tuyên bố không hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước và ngày 23/10/1955 đã tổ chức cái gọi là "trưng cầu dân ý" để phế truất Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống.

Sau khi dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, Mỹ - Diệm đã liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét để bình định miền Nam, áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. Thực chất, đây là một cuộc chiến tranh đơn phương đẫm máu chống lại nhân dân miền Nam trong tay không có vũ khí. Với chính sách "tố cộng", "diệt cộng", loại cộng sản ra ngoài vòng pháp luật để trừng trị, và với khẩu hiệu "thà giết nhầm hơn bỏ sót", chúng thẳng tay đàn áp tất cả các lực lượng chống đối. Chỉ tính đến cuối năm 1955, hàng chục vạn cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng đã bị bắt và bị giết hại.

Tình hình lúc bấy giờ đã đặt ra cho Đảng nhiều khó khăn gấp bội. Để giải quyết khó khăn này, Đảng chủ trương cho nhân dân miền Nam đấu tranh trong hòa bình ([59]). Ở Sài Gòn – Chợ Lớn, công nhân và trí thức đã tổ chức nhiều cuộc Mittinh đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, hiệp thương tổng tuyển cử nhưng đã bị chính quyền Diệm đàn áp và khủng bố. Tiếp sau đó, phong trào chống “trưng cầu dân ý”, chống bầu cử Quốc hội, đòi hiệp thương tổng tuyển cử tự do thống nhất đất nước, chống khủng bố, chống chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”, đòi quyền tự do dân chủ… lại tiếp tục dâng cao và lan rộng từ thành thị đến nông thôn. Đồng thời với đấu tranh chính trị, Xứ ủy Nam Bộ đã “xé rào”thực hiện chiến lược “bạo lực cách mạng” của Lê Duẩn ngay trước khi Trung ương Đảng chưa cho phép. Thực hiện chiến lược này, Xứ ủy đã Nam Bộ ra Nghị quyết tái lập căn cứ địa (12/1956) theo đó thì căn cứ địa Đông Bắc (chiến khu D) và Tây Bắc (chiến khu Dương Minh Châu) được phục hồi, với mục đích duy trì lực lượng vũ trang, giữ vững hành lang chi viện miền Bắc theo đường Trường Sơn (khai thông năm 1959). Nhờ tái lập căn cứ địa kịp thời, quân dân ta tập trung đủ lực lượng, mở cuộc phản công đánh bại lực lượng phản động trong giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo; đánh tan địch ở Minh Thanh (10/1957), Trại Be (9/1957), Dầu Tiếng (8/1958), ám sát hụt Ngô Đình Diệm….

Như vậy ta có thể nhận định rằng thời kỳ này, ta có tổ chức hình thức “chiến tranh nhân dân’, nhưng điều đó chưa xảy ra bởi vì chúng ta phải tuân thủ hiệp định – giữ vững và đấu tranh với Mỹ - ngụy trong hòa bình; điều này phù hợp với tình hình Trung Quốc và Liên Xô lúc đó là chính sách “chung sống hòa bình” của Khrushev (Liên Xô) – cùng hòa bình, không bạo lực; hơi khác với thời Pháp đánh Nam Bộ 1945 – 1946, quân dân Nam Bộ chưa cần chủ trương của Đảng đã cùng Xứ ủy Nam Bộ kháng chiến mà thôi. Đến thời kháng Mỹ thì quân dân miền Nam không dám tấn công – sợ vi phạm hiệp định, sợ phật ý chủ trương hòa bình của 2 nước đồng minh anh em lớn là Trung Quốc và Liên Xô; nếu Việt Nam làm thế thì có ảnh hưởng lớn đến tính hiệu lực và uy tín của Hiệp định, bị các nước xung quanh gây khó khăn…. Mãi đến Hội nghị Trung ương 15 thì mới khai thông bế tắt này.

Nhờ tinh thần soi sáng bất diệt của Nghị quyết 15, toàn dân miền Nam từ Bình Định xuống các tỉnh phía Nam đã tiến hành cuộc Đồng khởi lớn vào năm 1959 – 1960. Trong sự kiện này, một nghệ thuật quân sự nữa được phát huy: lợi dụng lúc địch lơi lỏng phòng thủ đã tiến hành cuộc Đồng khởi toàn diện cho toàn dân. Nhân dân các tỉnh lỵ miền Nam, một số tỉnh miền Trung đấu tranh với 2 lực lượng: quân sự, chính trị (rất rộng lớn – tập hợp sức mạnh của toàn dân); nó luôn kết hợp và thực hiện cùng lúc với nhau, đã tạo nên một sức mạnh tổng hợp rất lớn của toàn dân phá hoại từng mảng lớn của Mỹ - ngụy, giành chính quyền về tay mình (hàng nghìn xã, thôn ở các tỉnh, thành phố được giải phóng; nhiều xã giải phóng liên tiếp lớn mạnh về lực lượng – trở thành vùng giải phóng) và đồng thời thực hiện quyền dân chủ cho nhân dân (nhưng còn hạn chế). Đây là một sự sáng tạo độc đáo của Xứ ủy Nam Bộ trong việc sử dụng lực lượng tại chỗ của mình, dùng lực lượng này để phát huy tinh thần của họ tiến hành đánh Mỹ - ngụy giành chính quyền về cho mình. Sau Đồng khởi, tháng 12/1960 Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời; tiếp đó tháng 1/1961 Trung ương Cục đã ra đời để chỉ đạo cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới.

+ Giai đoạn 1960 – 1968; nhân dân miền Nam đánh bại hai chiến lược của địch

Sau thất bại ở Đồng khởi, Mỹ - ngụy thay đổi chiến lược sang chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. Trong cuộc chiến tranh này, Mỹ sử dung hai kế hoạch là kế hoạch Staley – Taylor (1961 – 1962) thực hiện trong 18 tháng và kế hoạch Johnson – McNamara (1965 – 1968). Trong kế hoạch Staley – Taylors (1961 – 1962), Mỹ - ngụy dồn 17 triệu dân vào 16.000 ấp chiến lược để tách cách mạng với dân (chính sách “tát nước bắt cá”), lập vùng chiến thuật để tập trung quân đội, lực lượng tinh nhuệ nhất để đàn áp cách mạng miền Nam. Để thực hiện, Tổng thống Diệm ra sắc lệnh 13/4/1961 lập 3 vùng chiến thuật (I, II, III); sắc lệnh 8/12/1963 lập 4 vùng chiến thuật (I, II, III và IV); phạm vi của nó trải dài từ Quảng Trị đến hết các tỉnh Nam Bộ. Trong khi đó, Trung ương Cục (thành lập 10/1/1961) chậm xử lý đối phó, tầm lãnh đạo còn kém nên cách mạng miền Nam rơi vào thời kỳ khó khăn chưa từng thấy trong 1962 – 1963: chi viện vũ khí trên đường Trường Sơn trên bộ và biển bị chặn đứng, lương thực luôn bị thiếu do địch tiến hành chiến tranh hóa học (1962 – 1971) phá trụi hết, căn cứ địa bị thu hẹp dần và lực lượng bị tổn thất nặng nề.

Trước tình thế khó khăn này, Trung ương Cục đã củng cố lại chiến trường: lập các quân khu (từ 1961 – 1972 là 5 quân khu: quân khu 7, quân khu 8, quân khu 9, quân khu Sài Gòn – Chợ Lớn và quân khu 10). Củng cố được quân khu, ta đồng thời đã củng cố hệ thống căn cứ vững mạnh kéo dài trong các tỉnh miền Đông Nam Bộ, lớn nhất là liên căn cứ Dương Minh Châu – chiến khu D (từ Tây Ninh đến Bình Phước) là căn cứ mạnh, trung tâm của cách mạng miền Nam thời kháng Mỹ; ngoài ra, ta còn củng cố hành lang chi viện Trường Sơn vào Nam qua quân khu 10 (Bình Long, Bình Phước), mở đường Trường Sơn biển ghé qua cảng Sihanoukville để chuyển hàng viện trợ, chuyển tiền vào miền Nam. Nhờ có sự chuẩn bị tích cực này, quân dân miền Nam thời kỳ kháng Mỹ có điều kiện tiến hành cuộc « chiến tranh nhân dân » một cách rộng rãi và toàn diện ; cuộc « chiến tranh nhân dân » của họ thời này có nhiều điểm khác so với thời kháng Pháp trước đó. Thứ nhất, trong thời kháng Pháp, quân dân Việt Nam chỉ sử dụng « sức mạnh dân tộc », dùng sức dân là chính và mang tính tự cung tự cấp, chưa có sự giúp đỡ từ bên ngoài ; mãi đến năm 1950 thì Việt Nam mới thông thương được với bên ngoài sau chiến thắng Biên giới 1950 ; thế nhưng đến thời kháng Mỹ, quân dân hai miền kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại ; liên minh (quan hệ hữu nghị) với các nước, tìm kiếm sự ủng hộ của các nước cho những thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Thứ hai là về phương pháp đấu tranh. Kháng Pháp là chủ yếu đấu tranh quân sự (du kích chiến và nửa vận động chiến) để tạo thế và lực trong các chiến trường ; đấu tranh ngoại giao thì mãi đến 1953 mới mở - làm cầu nối cho thắng lợi chung của cả nước trong kháng Pháp. Đến thời kháng Mỹ, phương pháp đấu tranh lại khác xa. Quân dân miền Nam đấu tranh về quân sự trên 3 vùng chiến lược, 3 thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ), hỗ trợ tốt cho đấu tranh chính trị giành thắng lợi ở các đô thị lớn. Trong tình hình đang thắng lớn trên mặt trận quân sự, năm 1968 – 1969 chính phủ mở mặt trận ngoại giao ; đấu tranh ngoại giao với Mỹ để kêu gọi sự ủng hộ của quốc tế, dư luận Mỹ và loài người tiến bộ buộc Mỹ rút quân, chấm dứt chiến tranh xâm lược ở Việt Nam. Thứ ba là về lực lượng. Kháng Pháp, lực lượng chính quy chưa có, chỉ là du kích – đánh du kích là chính, kết hợp nửa vận động chiến. Đến thời kháng Mỹ, quân dân miền Nam đã có quân chủ lực (Quân Giải phóng miền Nam) cho nên dùng cách đánh chính là chủ lực chiến (dùng chủ lực mình >< chủ lực địch), đánh trên ngoại giao và hỗ trợ nước bạn cùng chống Mỹ xâm lược.

Nhờ có chiến lược đúng đắn, quân dân miền Nam giành thắng lợi trên nhiều mặt trận:

Mặt trận chính trị: nhân dân 6 tỉnh miền Đông Nam Bộ (Bình Dương, Bình Long, Phước Long, Biên Hòa, Tây Ninh, Gia Định) nổi dậy đánh trả cuộc càn của Sài Gòn (tháng 3/1962); tháng 5/1963, tăng ni, Phật tử ở Sài Gòn – Chợ Lớn tuần hành phản đối chính quyền Diệm; đồng thời phối hợp với lực lượng vũ trang. Trên mặt trận quân sự, quân ta đánh bại địch ở trận kho xăng Nhà Bè (1962), đánh thắng địch ở Cà Mau, Mỹ Tho, Sóc Trăng; đặc biệt, với số quân ít hơn địch 10 lần, ta đánh bại địch ở trận Ấp Bắc (đánh bại sư đoàn tinh nhuệ nhất của địch). Chiến thắng Ấp Bắc chứng tỏ quân dân miền Nam có khả năng đánh bại hoàn toàn chiến lược chiến tranh đặc biệt và chiến thuật “thiết xa vận”, “trực thăng vận” của Mĩ – ngụy.

Những thắng lợi của ta trên mặt trận quân sư, chính trị đã làm cho mâu thuẫn nội bộ chính quyền ngụy trở nên sâu sắc và Mĩ nhận thấy Ngô Đình Diệm với nền chính trị độc tài không thể giúp Mĩ trong cuộc xâm lược Việt Nam. Và Mĩ đã quyết định “thay ngựa giữa đường”. Ngày 01/11/1963, Mĩ đã ủng hộ nhóm tướng lĩnh ngụy do tướng Dương Văn Minh cầm đầu làm đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm. Chính quyền Sài Gòn lâm vào khủng hoảng triền miên.

Thất bại ở chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, Mỹ huy động khoảng hơn 1 triệu quân Mỹ - chư hầu cùng nhiều trang thiết bị hiện đại đã tiến vào Đà Nẵng và dần tiến sang các vùng khác trên đất Việt Nam và Lào, Campuchia, đồng thời âm mưu mở rộng chiến tarnh phá hoại miền Bắc; với mục đích cứu Sài Gòn khỏi sụp đổ và mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương.

Trước âm mưu mở rộng chiến tranh ở Đông Dương của Mỹ - ngụy, nhân dân hai miền Nam – Bắc cùng nhau kháng chiến chống quân xâm lược. Riêng miền Nam, quân dân miền Nam đánh bại Mỹ ở Vạn Tường (8/1965), Playme, Đất Cuốc (11/1965). Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 (12/1965), Đảng xác định nhiệm vụ chung của cả nước là đánh Mỹ, cứu nước; nhiệm vụ này là nhiệm vụ thiên liêng của dân tộc ta. Thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết Hội nghị, quân dân miền Nam xuất sắc đánh bại 2 cuộc phản công mùa khô của địch (1965 – 1967), giữ vững chiến trường và vùng giải phóng; chuẩn bị mọi mặt cho cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968 sắp tới. Trong khi miền Nam đánh thắng giặc và càng đánh thì càng mạnh thêm thì miền Bắc cũng nhanh chóng phục hồi tiềm lực quân sự, chuẩn bị đón đầu cuộc tấn công phá hoại miền Bắc của Mỹ. Họ bắt hạ hơn 3.000 máy bay, bắt hàng trăm giặc lái. Đồng thời miền Bắc cũng tiến hành sơ tán dân về vùng hẻo lánh để bảo vệ họ, đồng thời phát động phong trào “Ba sẳn sàng”, “Ba đảm đang”, hằng ngày đêm làm việc để tạo lương thực và sản phẩm cung cấp cho miền Nam ruột thịt.

Sau thất bại ở cuộc phản công mùa khô 1966 – 1967, bộ máy điều hành chính phủ Mỹ bị phân hóa – nhưng phái hiếu chiến vẫn còn mạnh nên Mỹ quyết định tăng cường quân, dự định đánh quân dân miền Nam một lần nữa. Nhưng chúng chưa kịp hành động thì ta đã ra tay trước. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 (1/1968), Đảng ta quyết định mở cuộc tấn công bất ngờ vào quân địch ở các đô thị nhằm mục đích: tiêu diệt và làm tan rã sinh lực địch, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ để buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh và ký hiệp ước hòa bình ở Paris. Thực hiện Nghị quyết, quân giải phóng bất ngờ tấn công quân địch ở các đô thị lớn như Sài Gòn, Chợ Lớn – tấn công bất ngờ để buộc địch đầu hàng vô điều kiện. Đánh địch 3 đợt để làm địch “thất điên bát đảo”, nhưng do chưa chuẩn bị kỹ lực lượng, tư tưởng chủ quan của cán bộ lãnh đạo – chưa đánh giá đúng lực lượng địch, nên cuộc tấn công bị thất bại. Tuy nhiên, cuộc tấn công này có tác động rất lớn là thúc đẩy Mỹ phải xuống thang chiến tranh, bắt đầu đàm phán với Việt Nam tại hội nghị Paris.

Cũng giống như thời kỳ trước, thời kỳ này ở miền Nam cũng tiếp tục vừa kháng chiến – vừa xây dựng. Khác với thời kỳ trước, thời kỳ này là thời kỳ Mỹ thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, huy động lực lượng mạnh và tinh nhuệ nhất tiến hành quốc sách “bình định”, chiếm nông thôn miền Nam để đẩy quân dân ta về phía biên giới – căn cứ địa, chiến khu, lực lượng bị tổn thất nặng nề. Vượt qua mọi khó khăn, thử thách, nhân dân miền Nam chủ động đánh trả những đòn đích đáng vào Mỹ - ngụy ở khắp các nông thôn, đô thị từ rừng núi đến đồng bằng. Việc Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam ra đời (thay Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam) đã lãnh đạo nhân dân miền Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Về chính trị, chính phủ này thiết lập quan hệ ngoại giao với 21/23 nước, được các tổ chức, quốc gia trên thế giới ủng hộ cho sự nghiệp cách mạng ở miền Nam; là cơ quan duy nhất có tư cách pháp lý trong việc đàm phán ở Paris . Về quân sự, tổ chức các trận tấn công vào quân Mỹ - ngụy. Khi Mỹ đảo chính lật đổ chính phủ trung lập ở Campuchia và đưa 10 vạn quân sang mở rộng chiến tranh ở Campuchia rồi lan sang toàn Đông Dương, quân dân miền Nam theo sự lãnh đạo của Chính phủ Lâm thời đã liên minh với Lào, Campuchia đánh bại các cuộc càn quét của Mỹ ngụy (chiến dịch Lam Sơn 719, Toàn thắng 1-71…), giải phóng được một vùng rộng lớn ở Đông Bắc Campuchia, khơi thông lại đường Hồ Chí Minh trên bộ - trên biển sau hơn 2 năm gián đoạn vì bị địch phong tỏa. Hàng loạt hàng hóa, trang thiết bị và tiền mặt được miền Bắc chuyển ồ ạt vào cung cấp cho miền Nam, khiến cách mạng miền Nam càng thêm mạnh. Ở các vùng nông thôn miền Nam, do địch kéo hết quân sang chiến đấu bên Campuchia nên vùng này bị bỏ ngỏ, quân giải phóng tràn vào và giải phóng hết cả. Cùng với đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị diễn ra liên tục. Ở đô thị, sinh viên xuống đường đòi quyền tự do dân chủ, tổng bãi công của công nhân chống thuế….liên tục diễn ra, làm Mỹ - ngụy hết sức lúng túng.

Trước thời điểm bầu cử Tổng thống Mỹ 1972, quân dân miền Nam thực hiện theo Chỉ thị của Trung ương quyết định mở cuộc tấn công 1972, với mục đích làm địch bất ngờ và phải rút khỏi cuộc chiến, hòa đàm ở Paris. Quân ta tấn công địch trên 3 hướng Trị - Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Tuy bất ngờ nhưng Mỹ - ngụy với lực lượng còn nguyên vẹn, đã quyết định trả đũa. Chúng tập trung quân ở Quảng Trị để phản kích miền Nam và tấn công phá hoại miền Bắc. Sau hơn 3 tháng trời tấn công, quân ta thất bại (mất lực lượng nhiều), nhưng nó có ý nghĩa quyết định đến đàm phán ngoại giao ta – Mỹ. Thất bại về chiến lược ở miền Nam, Mỹ quyết định “phá ngang” cuộc đàm phán Paris, đồng thời tiến công phá hoại miền Bắc vào giữa 1972 để trả thù cho thất bại trước đó, nhưng lần này huy động lực lượng mạnh – tinh nhuệ và máy bay B52 nhiều nhất dồn vào cuộc chiến với mục đích đánh bại Hà Nội, đưa nó về thời “đồ đá”. Thế nhưng, quân dân ta với lòng quả cảm của mình đã nhanh chóng đánh bại cuộc tấn công phá hoại Hà Nội 12 ngày đêm cuối 1972 (18/12 – 29/12/1972), buộc Mỹ xuống thang chiến tranh, để rồi ký hiệp định Paris và phải rút khỏi Việt Nam.

Sau khi Mỹ rút quân khỏi Việt Nam, quân dân miền Nam tiếp tục chiến đấu đánh gục luôn ngụy Sài Gòn, giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước. Lúc đầu do còn chủ quan, ta bị mất đất và mất dân; nhưng nhờ sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng, quân dân miền Nam đã tiến hành cuộc Tổng tấn công mùa Xuân 1975, đánh bại và buộc chính quyền Sài Gòn đầu hàng, thống nhất miền Nam – Đất nước cuối cùng đã hoàn toàn thống nhất.

Chương IV : Lý luận về Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và chức năng của Mặt trận

4.1. Hoàn cảnh lịch sử ; sự ra đời Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

4.1.1. Hoàn cảnh lịch sử :

4.1.1.1. Chính sách đàn áp của Mỹ - Diệm :

Sau khi kí hiệp định Giơnevơ về Việt Nam (1954) lập lại hòa bình ở Việt Nam cũng như Đông Dương. Nhưng nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền Nam, Bắc lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Những đế quốc Mĩ đã âm mưu biến nước ta thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự của Mĩ trong khu vực Đông Nam Á – Thái Bình Dương để nô dịch các nước Xã hội chủ nghĩa và nhân dân tiến bộ nên chúng đã dần dần hất cẳng thực dân Pháp nhảy trực tiếp vào miền Nam và dựng lên một chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm vô cùng phản động, phát xít.

Để đàn áp cách mạng miền Nam, Mỹ - Diệm tiến hành ráo riết xây dựng, cũng cố và tăng cường lực lượng cố vấn quân sự của mình ở miền Nam (gọi tắt là MAAG): “một bộ phận của bộ máy xâm lược Đông Dương trước đây được mở rộng từ 200 tên lên tới 3000 tên (nay chúng định tăng thêm 1000 tên nữa) và được phát triển từ một phái đoàn huấn luyện quận sự thành một bộ máy chiến tranh xâm lược với đủ các bộ tham mưu, hậu cần, tình báo… nắm chặt quân đội Diệm ([60])”. Mặc khác, chúng tăng cường viện trợ vũ khí, trang thiết bị, xây dựng gấp rút nhiều căn cứ quân sự, chủ yếu là căn cứ không quân và hải quân cho quân đội Sài Gòn. Theo thống kê, “Hiện nay (tức năm 1955 – 1956) ở miền Nam Việt Nam có 170 sân bay quân sự, trong đó có nhiều sân bay tiếp nhận máy bay phản lực hạng nặng như: Tân Sơn Nhất, Biên Hòa, Đà Nẵng, Phú Bài, Chu Lai, v.v… 11 căn cứ hải quân trong đó có Nhà Bè, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Nha Trang, Quy Nhơn, v.v”([61]).

Đồng thời với củng cố tiềm lực quân sự, Mỹ - ngụy đã cho quân đội thẳng tay đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân bằng các chính sách “tố cộng, diệt cộng”, “bình định về quân sự” để “tiêu diệt cộng sản nằm vùng, diệt trừ tận gốc cộng sản”, “giết nhầm còn hơn bỏ sót”, phá hoại lực lượng cách mạng miền Nam còn lại, vừa làm cho nhân dân thấy hoang mang dao động xa rời cách mạng. Trong những năm 1956 – 1958, chúng tiến hành các chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” rất tàn bạo: chiến dịch Đinh Tiên Hoàng (từ 5/6 đến 29/12/1955) trong các tỉnh Cần Thơ, Lonh Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá, Hà Tiên; Chiến dịch Trương Tấn Bửu (từ 7/1 đến 12/1957) trong phạm vi các tỉnh miền Đông Nam Bộ; chiến dịch để thực hiện “Kế hoạch Nguyễn Trãi” (9/1958 đến 2/1959) ở miền Tây Nam Bộ, trong các tỉnh An Giang, An Xuyên, Kiến Giang, Phong Dinh, Vĩnh Long; chiến dịch dân vận ở Tây Nguyên, ở miền tây tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi”([62]). Trong các chiến dịch này, có hàng nghìn người dân vô tội bị bắt và bị giết hại.

Chúng dùng nhiều thủ đoạn để tra tấn, đàn áp và giết hại đồng bào miền Nam một cách man rợ: “mổ bụng, môi gan, khoét mắt, cắt lưỡi, xẻo từng miếng thịt… chôn sống một lúc hàng mấy chục người như Chợ Được, hoặc đầu độc một lúc 6000 người như trại giam Phú Lợi, hoặc tàn sát, triệt hạ cả một thôn như ở Hướng Điền”([63]). Chúng còn lập ra “trại huấn chính, trại dinh điền, khu trù mật, ấp chiến lược, với một chế độ giam cầm hết sức hà khắc. Không những ở Sài Gòn, ở các tỉnh có nhà tù mà ngay ở quận, xã cũng có. Một tỉnh nhỏ bé như Phú Yên, chỉ có 250.000 dân, có tới 109 nhà tù và trại giam”([64]); lập tòa án để xét xử người dân Nam Bộ theo luật 10/59 – bộ luật rất phản động của chính quyền Sài Gòn khi đó. Theo đạo luật, chính quyền Sài Gòn đem xét xử bất kì ai với thủ tục đặc biệt của tòa án quân sự đặc biệt. Chúng không điều tra hay xác minh người đó có cộng sản hay không, chúng lê chiếc máy chém thời Pháp thuộc để lại đi khắp miền Nam chém giết đồng bào ta và những người yêu nước một cách dã man.

Như vậy: các chính sách đàn áp của chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm rất dã man chống lại loài người với các hình thức tra tấn như: mổ bụng, moi gan, khoét mắt, cắt lưỡi, xẻo từng miếng thịt… điển hình là bộ luật ra đời vào tháng 5/1959 chúng đã đưa máy chém đi khắp miền Nam với khẩu hiệu “Giết nhầm còn hơn bỏ sót”, cũng nằm trong chính sách “tố cộng, diệt cộng” của Mỹ - Diệm, các chính sách đó đều gây cho nhân dân ta nổi căm hờn, và đều bị nhân dân tiến bộ trên thế giới lên án và bùng lên cao trào Đồng Khởi chống Mĩ và tay sai.

4.1.1.2. Cao trào Đồng khởi:

Những chính sách đàn áp tàn bạo của đế quốc Mỹ cùng với bè lũ bán nước Ngô Đình Diệm đã bùng lên một cao trào đấu tranh chống Mỹ - Diệm cứu nước, nhà của nhân dân miền Nam Việt Nam trong những năm 1959 đến 1960 với các cuộc khởi nghĩa nổi dậy. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 15 của Bộ Chính trị (1/1959) ([65]) đã có bước chuyển hướng lực lượng cách mạng quan trọng từ đấu tranh chính trị nhưng bây giờ có sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang để giành chính quyền. Dưới sự soi sáng của Nghị quyết 15, các phong trào đấu tranh của nhân dân đã nổ ra mạnh mẽ.

Mở đầu cho phong trào đấu tranh của nhân dân giai đoạn 1959 – 1960 là các cuộc nổi dậy của nhân dân Vĩnh Thạnh (Bình Định), Bắc Ái (Bình Thuận) phá ách kìm hẹp của địch. Tháng 8/1959, nhân dịp tẩy chay cuộc bầu cử do chính quyền Ngô Đình Diệm tổ chức, quân dân xã Trà Phong, huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) nổi dậy đánh các đồn bót địch, diệt quân địch và giành chính quyền về tay mình. Tiếp nối thắng lợi ở Trà Bồng, nhân dân các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Đức Phổ… thuộc tỉnh Quảng Ngãi; các tỉnh khác như Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk đã liên tiếp nổi dậy, thành lập các đội tự vệ vũ trang đánh địch để diệt ác giành quyền làm chủ.

Ở Nam Bộ, nhân dân khắp nơi nổi dậy phá kìm, phá khu trù mật ở Chơn Thành, Dương Minh Châu, Bến Cầu. Lực lượng vũ trang ra đời ở nhiều nơi. Đặc biệt ở Bến Tre, theo chỉ thị của Trung ương, ngày 17/1/1960 nhân dân 3 xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh của huyện Mỏ Cày tỉnh Bến Tre đã quật khởi nổi dậy chống địch với vũ khí thô sơ, nhân dân nhất tề đứng lên diệt ác, phá đồn, đập tan bộ máy chính quyền địch ở thôn xã và làm chủ xã, ấp quê mình. Phong trào lan nhanh ra các huyện lân cận như: Giồng Trôm, Châu Thành, Ba Tri, Thạnh Phú…chỉ trong vòng một tuần đã có 22 xã được giải phóng, 29 xã đã diệt ác, vây đồn, giải phóng nhiều xã, ấp, thu nhiều súng đạn.

Sau Đồng khởi Bến Tre được 9 ngày, quân dân Tây Ninh (đóng tại căn cứ Dương Minh Châu) dưới sự chỉ huy của Nguyễn Hữu Xuyến đã bất ngờ tấn công đồn địch ở Tua Hai vào rạng sáng 26/1/1960 (từ 23 giờ đêm 25/1 đến 0 giờ 30 phút sáng 26/1), tiêu diệt và bắt sống 500 quân Sài Gòn và thu được 1500 súng các loại. Sau chiến thắng Tua Hai, nhân dân liên tiếp nổi dậy ở Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Bà Rịa, Long Thành, Gia Định.

Kết quả, sau cuộc Đồng khởi mạnh mẽ của quân dân ta từ 1959 – 1960, nhân dân miền Nam đã giành được những thắng lợi vang dội: 1.383/2.627 xã toàn miền Nam, có 865/1.193 xã của Nam Bộ và 3.200/5.721 thôn của vùng núi Khu V đươc giải phóng, không còn chính quyền địch. Trên 60% thôn ấp ở Nam Bộ,trên 70% số dân ở Tây nguyên được giải phóng, giành lại 30 vạn ha ruộng đất cho nông dân. Ủy ban nhân dân tự quản đã được thiết lập trên 1373 xã, chiếm hơn 50% tổng số xã của toàn miền Nam ([66]). Trong cuộc Đồng khởi rộng lớn đó, đã có hàng triệu người dân tham gia đấu tranh mà trong đó, đấu tranh ở Sài Gòn là lớn nhất; lực lượng vũ trang từ trong cao trào cũng tăng dần lên (trong năm 1960 ở Nam Bộ là hơn 25.000 người – bao gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương); ở Trung Bộ có 750 xã có lực lượng vũ trang địa phương. Thắng lợi của phong trào Đồng khởi đã giáng một đòn mạnh vào bọn Mỹ - Diệm, góp phần đánh bại “chiến lược Eisenhower” của Mỹ - Diệm, làm Mỹ - ngụy hoang mang cực độ; sự kiện đó đã buộc địch chuyển sang chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”.

Đồng thời, thắng lợi của Đồng khởi đã chứng minh một cách hùng hồn tính đúng đắn, sáng tạo về đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng ta sát với tình hình thực tế và điều kiện mới đã được Nghị quyết 15 của trung ương Đảng vạch ra. Qua phong trào, cán bộ và lực lượng vũ trang được củng cố, tập dượt về trách nhiệm vai trò lãnh đạo phong trào phát triển, nuôi dưỡng giáo dục, khơi sâu lòng, căm thù, phát động ý chí, tinh thần dũng cảm, trí tuệ cách mạng cho nhân dân. Mặc khác, thắng lợi của phong trào Đồng Khởi đã dẫn đến một sự kiện lịch sử trong đấu tranh chống Mĩ cứu nước đó là sự ra đời của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (ngày 20/12/1960).

4.1.2. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời

Do những đòi hỏi về giai cấp lãnh đạo lực lượng cách mạng miền Nam đang phát triển ngày một dâng cao và nhu cầu giữ gìn thành quả của cách mạng vừa giành lại được; cuối năm 1960, Xứ ủy Nam Bộ đã mời những lãnh đạo chủ chốt ở Nam Bộ họp bàn xúc tiến thành lập Mặt trận thống nhất. Sau một thời gian dài họp bàn, cân nhắc kỹ về lực lượng , cương lĩnh, mục tiêu chiến đấu của mặt trận…, cuối cùng tại Hội nghị họp vào tối 19/12/1960, Xứ ủy Nam Bộ đã tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, vào đêm ngày 20/12/1960 tại Suối Chò, xã Tân Lập, huyện Châu Thành (nay là huyện Tân Biên), tỉnh Tây Ninh.

Về thành phần lãnh đạo Mặt trận, những người trong cuộc họp ngày 20/12 đã đề ra Ủy ban Trung ương lâm thời gồm:

- Nguyễn Văn Linh.

- Phùng Văn Cung.

- Huỳnh Tấn Phát.

- Nguyễn Văn Hiếu.

- Trần Bửu Kiếm.

- Trần Bạch Đằng.

- Hòa Thượng Thích Thiên Hào.

- Ngọc đầu sư Nguyễn Văn Ngợi ([67]).

Sau khi Mặt trận ra đời, Ủy ban Trung ương Lâm thời ra Chương trình 10 điểm, hiệu triệu nhân dân đứng lên chống Mĩ cứu nước, cứu nhà và tự cứu mình. Về nội dung, Chương trình 10 điểm tuyên bố: đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của Mỹ và tay sai, xây dựng nền kinh tế độc lập, giảm tô thuế cho nông dân, xây dựng nền dân chủ rộng rãi và văn hóa tiến bộ, bình đẳng dân tộc, thiết lập nền ngoại giao hòa bình – trung lập, chống đế quốc để bảo vệ hòa bình thế giới ([68]). Về sau, hòa cùng không khí sôi nổi của cách mạng miền Nam, hàng loạt các tổ chức cũng tham gia Mặt trận là:

- Thông Tấn Xã;

- Quân giải phóng miền Nam Việt Nam

- Hội phụ nữ giải phóng MNVN

- Ủy ban tự trị Dân Tộc Tây Nguyên

- Hội những người công giáo kính chúa yêu nước MNVN.

- Hội lục hòa phật tử MNVN …([69]).

Khi mặt trận ra đời đã nêu cao ngọn cờ lãnh đạo nhân dân và lực lượng yêu nước đấu tranh cho hòa bình, phát triễn lực lượng, thu hút đông đảo quần chúng đi theo và tin tưởng vào cách mạng Việt Nam chống lại giặc ngoại xâm và bọ tay sai gian án của chế độ gia đình trị (Ngô Đình Diệm), chống chiến tranh, lập lại hòa bình, độc lập, để thực hiện mục tiêu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

4.2. Chức năng của Mặt trận

Ngay từ khi ra đời, Mặt trận đã đoàn kết đông đảo các tầng lớp nhân dân, các đảng phái, đoàn thể, dân tộc, tôn giáo, các nhân sĩ yêu nước để cùng nhau chống Mĩ, cứu nước. Mặt trận nhận được sự ủng hộ của đồng bào miền Bắc, của kiều bào ta ở nước ngoài, của bạn bè quốc tế và nhân dân tiến bộ Mĩ, uy tín của Mặt trận ngày một nâng cao. Mặt trận trở thành đại diện chân chính và duy nhất của nhân dân miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận, phong trào đấu tranh của nhân dân chống ách xâm lược của Mỹ - ngụy phát triển mạnh.

Về chiến trường miền Nam, trong giai đoạn từ 1961 – 1965 Mỹ thực hiện chiến lược « chiến tranh đặc biệt » với quyết sách « Ấp chiến lược » (strategic hamlet) đánh vào nông thôn là « xương sống » của cách mạng miền Nam. Từ đó, nhân dân ta tiến hành kháng Mỹ và liên tiếp đánh bại các cuộc hành quân càn quét của địch ; lớn nhất là chiến thắng Ấp Bắc năm 1963 đã đánh bại lực lượng chủ lực rất mạnh của địch, từ đó chuyển sang chiến lược « Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào ». Ở các đô thị, đồng bào cũng đứng lên đấu tranh ngay trong sào huyệt của địch.

Trước nguy cơ thất bại, Mỹ - ngụy buộc phải chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” (local war), đưa 50 vạn quân Mỹ vào xâm lược miền Nam thì, trong tuyên bố của mình vào tháng 3/1965, Mặt trận nói rõ Mỹ là kẻ gây chiến, là kẻ thù không đội trời chung của nhân dân Việt nam, vì thế toàn dân vũ trang quyết chiến thắng giặc Mỹ và bọn Việt gian bán nước. Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận, quân dân miền Nam đã liên tiếp tấn công phủ đầu vào quân Mỹ ở trận Núi Thành (Quảng Ngãi), Vạn Tường (Quảng Ngãi), Bàu Bàng (Thủ Dầu Một); sau đó đánh tan tành đạo quân 1,6 triệu người của Mỹ - đồng minh và ngụy trong 2 đợt phản công mùa khô (1965 – 1967), tiêu diệt hơn 25 vạn tên và phá hủy nhiều trang thiết bị, vũ khí của chúng. Thất bại sau 2 cuộc phản công mùa khô đã làm Mỹ - ngụy nao núng; uy tín của mặt trận trong nước và trên trường quốc tế ngày càng nâng cao. Tháng 8/1967, trong sự biến chuyển của tình hình thế giới, Mặt trận đã họp hội nghị bất thường và đề ra Cương lĩnh chính trị năm 1967.

Trong Cương lĩnh chính trị 1967, Mặt trận đề ra những nội dung có tính nguyên tắc, làm nền tảng lãnh đạo cách mạng sau này. Có 4 nội dung lớn sau:

+ Đoàn kết toàn dân chống Mỹ cứu nước. Cương lĩnh xác định: kẻ thù của cách mạng là bọn xâm lược và tay sai bán nước. Mục tiêu của cách mạng: đoàn kết toàn dân, kiên quyết đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mĩ, đánh đổ ngụy quyền tay sai của chúng, thành lập chính quyền liên hợp dân tộc và dân chủ rộng rãi, xây dựng miền Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập và phồn vinh, tiến tới hòa bình thống nhất tổ quốc. Mặt trận sẵn sàng liên hiệp với các tổ chức, chính đảng để chống giặc.

+ Xây dựng miền Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập và phồn vinh. Cương lĩnh quy định: thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi, xây dựng nền kinh tế vững mạnh và ổn định đời sống nhân dân, xây dựng văn hóa – giáo dục rộng rãi, tôn trong tự do – tín ngưỡng, xây dựng và mở rộng lực lượng vũ trang, thực hiện nam nữ bình quyền và tăng cường đoàn kết dân tộc, quốc tế.

+ Lập lại quan hệ bình thường với hai miền Nam Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc. Cương lĩnh khẳng định: hai miền sẽ được thống nhất thành một mối, tiến trình thống nhất nước nhà sẽ theo biện pháp hòa bình và không có can thiệp bên ngoài; khi chưa thống nhất hai miền phải cùng chống giặc, bảo vệ Tổ quốc.

+ Thi hành chính sách ngoại giao hòa bình và trung lập. Cương lĩnh xác định: đặt quan hệ ngoại giao với các nước, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội, theo nguyên tắc tôn trong độc lập và toàn vẹn lãnh thổ; tăng cường quan hệ hữu nghị với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đấu tranh góp phần bảo vệ hòa bình thế giới ([70])….

4.2.1. Đối nội

a. Xây dựng cơ cấu tổ chức trong Mặt trận :

Đồng thời với thành lập Ủy ban Trung ương Lâm thời, Mặt trận cũng đã bước đầu tạo lập cơ cấu tổ chức rõ ràng. Ngoài Ủy ban Trung ương, còn có Uỷ ban Mặt trận ở các địa phương. Uỷ ban Mặt trận địa phương được tổ chức ở 4 cấp: cấp khu, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Đến năm 1962 đã có 38/41 tình thành miền Nam có Ủy ban Mặt trận địa phương. Ở Tây Nguyên, Đại hội đại biểu nhân dân B6 tổ chức tại khu rừng Dak Mâm để thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Đại hội đã bầu ra Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng B6 gồm 34 thành viên do cụ Y Bih Aleo làm chủ tịch. Như vậy, cả một hệ thống mặt trận được thành lập hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương đã góp phần tập hợp khối đoàn kết các giới, các dân tộc, tôn giáo, các thành phần chính trị ở các địa phương, vừa thay nhiệm vụ của chính quyền cách mạng xử lý những công việc của các đơn vị hành chính kháng chiến. Ủy ban Mặt trận các cấp, các địa phương đã giương cao ngọn cờ đoàn kết, hòa hợp dân tộc để tập hợp đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đặc biệt đi sâu tuyên truyền, giáo dục, vận động tầng lớp trên, lôi kéo họ đứng vào Mặt trận nhân dân chống Mĩ, cứu nước. Ủy ban Mặt trận dân tộc Giải phóng địa phương các cấp thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng ở cấp mình. Dưới ngọn cờ đoàn kết cứu nước của Mặt trận Giải phóng, phong trào cách mạng miền Nam đã giữ vững và phát triển mạnh mẽ.

b. Mặt trận lãnh đạo toàn dân chống giặc chống các chiến lược chiến tranh của Mỹ, thực hiện giải phóng miền Nam

Thắng lợi của Cao trào Đồng khởi làm cho chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ đứng trước nguy cơ bị phá sản. Để cứu nguy, ngay từ đầu năm 1961 Mỹ đã đề ra chiến lược “chiến tranh đặc biệt” với quyết sách « Ấp chiến lược » (strategic hamlet) đánh vào nông thôn - « xương sống » của cách mạng miền Nam. Thực hiện chiến lược này, Mỹ triển khai kế hoạch Staley – Taylors với mục đích « bình định » nông thôn trong 18 tháng. Chiến tranh của Mỹ - Diệm ở miền Nam càng trở nên khốc liệt khi địch tiến hành hàng nghìn cuộc hành quân càn quét, dùng bom đạn và chất độc hóa học, trực thăng, xe cơ giới để lùa dân vào các « ấp chiến lược ».

Trước tình hình đó, theo Chỉ thị của Tổng cục Quân ủy, các lực lượng vũ trang miền Nam đã hợp nhất, thành lập Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (12/1961) – lực lượng vũ trang chính quy của miền Nam. Sau khi thành lập không lâu, Quân Giải phóng kết hợp với nhân dân tổ chức nhiều trận đánh lớn nhỏ, tiêu diệt hàng nghìn tên địch: năm 1961 đánh 15.525 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 28.968 tên địch và nhiều phương tiện chiến tranh khác; năm 1962 cũng tổ chức đánh nhiều trận lớn nhỏ, loại khỏi vùng chiến 35.000 tên (có 400 tên Mĩ). Đầu năm 1963, quân dân miền Nam đánh bại địch ở trận Ấp Bắc oanh liệt (2/1/1963). Thắng lợi của trận Ấp Bắc đã làm phá sản chiến thuật “trực thăng vận” và “thiết xa vận” của địch, mở đầu cho việc Mặt trận phát động cao trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công”. Cùng với tấn công quân sự, phong trào phá ấp chiến lược trở nên mạnh mẽ: trong năm 1963, ta đã phá hoàn toàn 2.895/6.164 “ấp chiến lược” do địch lập ra; phá đi phá lại 5.950 lần ấp. Nhân dân đã giành quyền làm chủ ở 12.000/17.000 thôn ấp miền Nam, giải phóng hơn 5/14 triệu dân miền Nam. Do tác động mạnh mẽ của phong trào đấu tranh của nhân dân, tín đồ Phật giáo, quần chúng Sài Gòn xuống đường đấu tranh. Bất lực trong việc phản công chống lại làn sóng đấu tranh của quân dân Việt Nam, Mỹ thực hiện “thay ngựa đổi dòng”: đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm (1/11/1963) và đưa người khác lên thay. Tuy nhiên sự “thay ngựa đổi dòng” này của Mỹ đã không củng cố được chính quyền Sài Gòn mà còn làm nó khủng hoảng trầm trọng. Chỉ trong vòng một năm rưỡi, từ tháng 11 năm 1963 đến tháng 6 năm 1965 đã xảy ra 14 cuộc đảo chính và phản đảo chính giữa bọn tay sai Mỹ.

Trước tình hình khủng hoảng sâu sắc trong chính quyền Sài Gòn, tháng 1/1964 Mặt trận đã tổ chức Đại hội lần 2 để động viên nhân dân tiến hành kháng chiến toàn diện chống Mỹ - tay sai cướp nước, giành thắng lợi hơn nữa cho cách mạng về sau này. Đại hội cũng kêu gọi mọi người dân Việt Nam không phân biệt giai cấp, tầng lớp xã hội ở trong và ngoài nước cùng đoàn kết với nhau chống Mỹ, giành lại nền độc lập và tự do cho cả nước. Đại hội nhất trí bầu Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận.

Cuối năm 1964, Bộ Chính trị giao cho Quân ủy Trung ương chuẩn bị kế hoạch chiến lược và tranh thủ thời cơ đánh bại ngụy trước khi Mỹ đổ bộ vào miền Nam. Cuối tháng 12/1964 – đầu tháng 1/1965, quân dân miền Nam tấn công quân địch ở Bình Giã; đây cũng là lần đầu tiên chủ lực của miền Nam đánh chủ lực mạnh của Sài Gòn (cấp trung đoàn) Chiến dịch Bình Giã thắng lợi góp phần tạo bước ngoặc trong so sánh lực lượng và cục diện chiến trường có lợi cho chiến tranh cách mạng, nó chứng tỏ lực lượng vũ trang quân giải phóng miền Nam và xu hướng thất bại của chiến tranh đặc biệt, đúng như nhận định của Tổng bí thư Lê Duẩn: “đến trận Bình Giã thì Mĩ thấy thua ta trong chiến tranh đặc biệt” ([71]).

Trước nguy cơ bị thất bại hoàn toàn của chế độ thực dân mới ở miền Nam, để cứu vãn tình thế, Mĩ đã ồ ạt đưa quân viễn chinh cùng với vũ khí và trang thiết bị kĩ thuật hiện đại vào Việt Nam, đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Việt Nam, chuyển nhanh sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và mở rộng phá hoại miền bắc. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 11 (3/1965) và hội nghị lần thứ 12 (12/1965) của Ban chấp hành trung ương Đảng nêu cao quyết tâm động viên lực lượng của toàn đảng, toàn quân, toàn dân: “Kiên quyến đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mĩ trong bất kì tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà”.

Nhờ sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn của Mặt trận, quân dân miền Nam đã tổ chức nhiều cuộc tấn công và đánh bại địch ở nhiều nơi như Núi Thành (5/1965 – Quảng Nam), Vạn Tường (8/1965 – Quảng Ngãi), 2 cuộc phản công mùa khô (1965 – 1967). Qua các chiến thắng trên, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ đang ngày càng trưởng thành, đã cùng toàn dân bám sát địch, tiêu diệt và tiêu hao chúng trên khắp các chiến trường. Cuối năm 1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp, quyết định “Tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mĩ, cứu nước”. Thực hiện quyết tâm chiến lược đó, đêm giao thừa tết Mậu Thân (đêm 30 rạng 31 tháng 1 năm 1968) quân và dân miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dậy trên toàn miền. Mặc dù không giành được thắng lợi mỹ mãn, nhưng cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968 như “một đòn sét đánh” đối với bọn trùm xâm lược Mĩ làm choáng váng cả nước Mĩ và chấn động dư luận thế giới. Cũng bằng cuộc Tổng tấn công này, quân và dân ta đã giáng một đòn vào chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mĩ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, phải chuyển hướng chiến lược “phi Mĩ hóa chiến tranh”, rút dần quan Mĩ về nước, chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, cử người đàm phán với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Hội nghị Pari, mở ra cục diện “vừa đánh vừa đàm” kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự- chính trị -ngoại giao cho cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Cay cú sau thất bại ở chiến lược “chiến tranh cục bộ”, Mỹ chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Theo tinh thần của Học thuyết Nixon, Mỹ đã thực hiện “nhỏ giọt” việc rút quân về quân, đồng thời tăng cường quân đội mạnh, kinh tế mạnh cho chính quyền Sài Gòn. Lực lượng Sài Gòn tăng từ 70 vạn (1969) lên 1,1 triệu người (1971), có nhiều trang thiết bị vào loại mạnh nhất thế giới với hơn 1.100 máy bay chiến đấu các loại, gần 200 xe tăng; chiến lược “bình định” được đưa lên thành quốc sách. Cách mạng miền Nam rơi vào tình thế hết sức khó khăn: mất đất (mất căn cứ địa), mất dân… và phải lùi về vùng hẻo lánh nơi biên giới Đông Nam Bộ và Campuchia.

Đáp lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, tại vùng căn cứ Tà Nốt thuộc trung ương cục miền Nam (căn cứ R); ngày 6/6/1969 Đại hội đại biểu quốc dân được triệu tập và khai mạc đã tuyên bố thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sau vụ Lonnol đảo chính ở Campuchia (18/3/1970) – cắt đứt con đường chi viện từ Bắc vào Nam qua con đường cảng Sihanoukville; nơi đứng chân tạm thời của cách mạng miền Nam, ngay trong tháng 4/1970, Hội nghị cấp cao 3 nước Đông Dương ra tuyên bố chung về quan hệ láng giềng ba nước Đông Dương, can kết giúp đỡ lẫn nhau trên cơ sở tôn trọng hòa bình và toàn ven lãnh thổ.

Từ năm 1970 – 1971, trước việc quân Mỹ - ngụy điên cuồng mở 3 cuộc hành quân lớn: Lam Sơn 719, Toàn thắng 1/71, Quang Trung 4 nhằm tiêu diệt bằng được liên minh 3 nước, phá hoại căn cứ và diệt hoàn toàn cách mạng Đông Dương, quân dân miền Nam dưới sự chỉ đạo của Chính phủ Lâm thời đã nhanh chóng phản công, đánh bại quân địch và giải phóng khoảng 10 tỉnh lớn vùng Đông Bắc Campuchia với 4,5 triệu dân, mở rộng vùng giải phóng và hậu phương vững chắc cho cách mạng tiến tới giành thắng lợi về sau này. Đầu năm 1972, phát huy thế tiến công có từ 1971, quân Giải phóng phối hợp du kích mở “cuộc tiến công chiến lược 1972” trên 3 hướng chiến lược: Trị - Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Tuy thất bại nặng, nhưng cuộc tiến công này của quân Giải phóng có ý nghĩa cực kỳ to lớn: chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” bước đầu bị phá sản, Mỹ buộc phải xuống thang chiến tranh. Nhưng với bản chất hiếu chiến của mình, chúng không cam chịu thất bại và mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, đỉnh cao là cuộc tập kích trên không ở Hà Nội 12 ngày đêm cuối năm 1972. Với tinh thần chiến đấu ngoan cường, quân dân miền Bắc đã đánh tan cuộc tập kích của địch tại Hà Nội, buộc Mỹ xuống thang và ký kết với ta tại Hội nghị Paris lịch sử.

Sau Hiệp định Paris 1973, quân dân miền Nam lại thực hiện kế hoạch chiến lược còn lại trong kháng chiến giành độc lập dân tộc: đánh bại quân ngụy, giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nước. Tại hội nghị Bộ Chính trị tháng 10/1974, ta đã đề ra kế hoạch giải phóng miền Nam trong 2 tháng – trước mùa mưa. Với phương châm chỉ đạo “mạnh bạo, bất ngờ, chủ động, linh hoạt”, quân dân miền Nam đã mở nhiều cuộc phản công đánh bại địch (1974 – 1975); đến tháng 3 – 4/1975 thì mở 3 chiến dịch giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, quân ta công kích đánh chiếm Sài Gòn – thủ phủ của ngụy quyền Sài Gòn. Lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, quân ta đánh chiếm dinh Độc Lập, Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng. Miền Nam hoàn toàn giải phóng.

c. Mặt trận với việc xây dựng và quản lý vùng Giải phóng, hậu phương tại chỗ cho cách mạng miền Nam

Ngay từ khi ra đời, Mặt trận đã xác định phải đánh địch trên 3 vùng chiến lược: đô thị, nông thôn đồng bằng và miền núi, nhằm mục đích huy động lực lượng toàn dân vào cuộc chiến, không cho địch biến vùng Nam Bộ thành hậu phương an toàn của chúng.

Vùng rừng núi là căn cứ địa vững chắc của cách mạng, nơi đứng chân của lực lượng chính quy để có thể tiến đánh, bẻ gãy các đạo quân chủ lực của địch. Rừng núi phối hợp nông thôn để uy hiếp địch từ đô thị. Vùng nông thôn đồng bằng chính là hậu phương tại chỗ lớn của cách mạng, là nơi cung cấp tiềm lực kinh tế - quân sự cho cách mạng; là nơi quân Giải phóng kết hợp với du kích địa phương, quần chúng ở đô thị để đánh bại cuộc “bình định” của địch, làm chủ nông thôn để lập hành lang chiến lược giữ vững căn cứ địa, áp sát đô thị và giao thông huyết mạch của địch. Vùng đô thị là trung tâm kinh tế, đầu não của địch. Ở nơi này quân dân cần đấu tranh chính trị kết hợp đấu tranh vũ trang ở nông thôn để diệt địch ngay trong căn cứ của chúng.

Như chúng ta đã biết thì ngay sau Đồng khởi, nhiều thôn xã (6.000 xã, thôn) của nhân dân miền Nam được giải phóng. Ở những vùng giải phóng, chính quyền cách mạng sở tại đã lấy 2/3 số ruộng đất mà địch chiếm thời kỳ cải cách điền địa (17 vạn ha) chia cho nông dân. Và sau khi Mặt trận ra đời, các vùng giải phóng được giải phóng và phát triển. Mặt trận đã thiết lập một cơ cấu tổ chức hoàn chỉnh; đứng đầu là Ủy ban Trung ương Mặt trận. Ở các vùng giải phóng, Ủy ban Mặt trận kiêm nhiệm một chức năng đặc biệt – quản lý vùng giải phóng. Ủy ban Mặt trận chăm lo đời sống nhân dân (chia ruộng đất cho nhân dân: 2,1 triệu ha), thực hiện quyền tự do dân chủ trong nhân dân. Các đoàn thể như Hội Thanh niên Giải phóng, Hội Phụ nữ Giải phóng và Hội Nông dân Giải phóng đã có chân và là nòng cốt của Ủy ban Mặt trận. Các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa vẫn được phát triển, nhiều quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân được thực hiện. Ngoài ra, Ủy ban Mặt trận cũng đã thành lập lực lượng vũ trang để bảo vệ vùng giải phóng. Trong năm 1962 – 1965 đã có gần 2 vạn thanh niên gia nhập Quân Giải phóng. Vùng Giải phóng thực sự trở thành hậu phương vững chắc của cách mạng miền Nam.

4.2.2. Đối ngoại.

Trong suốt thời gian hoạt động của mình, Mặt trận đã và đang thực hiện những chính sách đối ngoại tích cực nhằm tăng cường sự ủng hộ của các quốc gia và tổ chức quốc tế.

1. Thực hiện những chuyến thăm ngoại giao, tham dự các hội nghị quốc té để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân các nước, các cường quốc tư bản, các tổ chức quốc tế trên thế giới. Ngay từ khi ra đời, Mặt trận đã đề ra chiến lược đối ngoại tích cực, có lợi cho cách mạng miền Nam : tuyên truyền, giải thích sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, lên án hành động xâm lược của Mỹ - ngụy và đồng thời tranh thủ sự ủng hộ nhiệt tình của các tổ chức tiến bộ, các nước và các tổ chức quốc tế với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân miền Nam. Ngày 16/3/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Bây giờ ngoại giao của nhân dân ta vừa là một mà vừa là hai; vừa là hai mà lại vừa là một. Ta vừa có ngoại giao của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vừa có ngoại giao của Mặt trậnDân tộc Giải phóng. Hai cái vừa là hai mà vừa một, vừa là một mà lại vừa là hai. Hai khối đó phải kết hợp chặt chẽ với nhau”([72]).

Để tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã cử nhiều đoàn đại biểu đi thăm các nước anh em, bạn bè, dự nhiều hội nghị quốc tế, đưa tiếng nói của nhân dân miền Nam đang chiến đấu tới các diễn đàn, các cơ quan thông tấn báo chí quốc tế. Thông qua các Hội nghị quốc tế, các phái đoàn của Mặt trận đã tố cáo chiến tranh xâm lược của Mỹ và tay sai; làm sáng tỏ đường lối, chủ trương của Mặt trận trước bạn bè quốc tế; đóng góp những quan điểm về việc đánh giá đế quốc Mĩ, về mối quan hệ đúng đắn giữa đấu tranh giải phóng dân tộc và đấu tranh bảo vệ hòa bình thế giới. Trước thiện chí của Mặt trận, nhiều tổ chức quốc tế đã công khai ủng hộ Mặt trận. Tháng 11/1964, Hội nghị quốc tế đoàn kết với nhân dân miền Nam chống đế quốc Mĩ xâm lược họp ở Hà Nội với 64 đoàn đại biểu và 12 tổ chức quốc tế, đã ra tuyên bố: “Hoàn toàn ủng hộ cuộc đấ tranh anh dũng của nhân dân miền NamViệt Nam chống đế quốc Mĩ xâm lược và tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, giành độc lập, dân chủ…([73]).

Từ những hoạt động trên, dư luận quốc tế từ chỗ ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân miền Nam Việt Nam đến chỗ đặt niềm tin, tin tưởng rằng nhân dân miền Nam Việt Nam sẽ đánh bại quân Mỹ và tay sai. Tháng 9/1964, Chính phủ Campuchia công nhận địa vị pháp lý của Mặt trận; từ 1965 – 1967, Mặt trận đã mở các cơ quan đại diện của mình ở các nước xã hội chủ nghĩa. Như vậy ta có thể nhận định, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chẳng những được xem là một tổ chức yêu nước, dân chủ, hùng mạnh mà còn được đối xử như một chính phủ, một nhà nước có đủ tính cách hợp pháp.

2. Thúc đẩy phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam, chống chiến tranh xâm lược của Mĩ ở Việt Nam. Như chúng ta đã biết, cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã trờ thành đề tài lớn, thu hút được sự quan tâm của các nước, các tổ chức quốc tế. Ở châu Á, châu Âu (ngay cả châu Mỹ), nhiều quốc gia (xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa) công khai ủng hộ cách mạng miền Nam. Đồng thời, cùng với thắng lợi của quân và dân ta trên chiến trường và phong trào ủng hộ Việt Nam chống chiến tranh xâm lược của Mĩ nổ ra khắp thế giới, phong trào phản chiến trên đất Mĩ cũng có bước phát triển mới. Từ sau khi Mỹ thảm bại và phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc, chiến trường chuyển sang tình thế mới; Mặt trận bắt đầu thực hiện thêm một chức năng nữa mà chúng tôi sẽ nói ở ý tiếp theo.

3. Tạo thế “vừa đánh vừa đàm”, đấu tranh trên mặt trận ngoại giao ở hội nghị Paris.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân năm 1968 gây chấn động lớn không chỉ trên tòan miền Nam mà còn ảnh hưởng lớn đến cả nước Mĩ. Ngày 31/3/1968, Tổng thống Mĩ Johnson thừa nhận sự thất bại bước đầu của chiến lược chiến tranh cục bộ, chấp nhận ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra.

Lúc này, hòa theo hoạt động ngoại giao của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì Mặt trận đã xúc tiến đàm phán với địch tại hội nghị Paris. Ngày 16/12/1968, đòan đại biểu chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam do ông Trần Bửu Kiếm, ủy viên đoàn chủ tịch kiêm trưởng ban đã đến Pari. Tại hội nghị, ông Trần Bửu Kiếm nhấn mạnh: lập trường thống nhất của Việt Nam trong hội đàm là: “Mặt trận dân tộc giải phóng là đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam có đủ thẩm quyền giải quyết mọi vấn đề liên quan đến miền Nam Việt Nam ”, Mặt trận phải có tiếng nói trong đàm phán tại Pari.

Sau khi Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập, hoạt động ngoại giao vẫn tiếp tục và gặt hai nhiều kết quả to lớn. Cụ thể, ngay sau khi ra đời, Chính phủ đã được 23 nước công nhận và 21 nước đặt quan hệ ngoại giao. Ít lâu sau, chủ tịch Huỳnh Tấn Phát được quốc trưởng Sihanouk mời sang thăm Campuchia, chuyến thăm đã làm thắt chặt thêm quan hệ giữa hai chính phủ. Ngay trong năm 1969, “chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ đã dẫn đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng Lâm thời lần lượt đi thăm các nước: Liên Xô, Trung Quốc, Lào, Ba Lan, Hungary, Cộng hòa Dân chủ Đức, Nam Tư, Algeria, Nam Tư, Cộng hòa Ai Cập, Senegal, Uganda, Tarzania. Sự phát triển ngoại giao giữa Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam với nhiều quốc gia và tổ chức trên thế giới càng góp phần thúc đẩy xu hướng chống Mĩ và chủ nghĩa thực dân mới, phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mĩ ở Việt Nam, tiếp tục tác động trực tiếp mạnh mẽ đến quá trình đàm phán tại Paris”([74]).

Trong năm 1972, nhiều hội nghị quốc tế đã diễn ra: Hội nghị thế giới vì hòa bình và độc lập của nhân dân Đông Dương (13/2/1972) tổ chức tại Versailles (Pháp) với sự tham gia của hàng tram đại biểu các nước; Hội nghị Bộ trưởng các nước Bắc Âu (2/9/1972); Hội nghị Ủy ban quốc tế điều tra tội ác chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam và Đông Dương (10-16/10/1972) tổ chức tại Copenhagen (Đan Mạch)… Các hội nghị đều ra Tuyên bố ủng hộ Việt Nam, đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam và chiến tranh Đông Dương. Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao các nước Không liên kết họp tại Georgetown của Guyana (8/1972) đã nhất trí thông qua nghị quyết lên án Mĩ, đòi Mĩ phải đáp ứng những đề nghị hòa bình mà phía Việt Nam đưa ra ở Hội nghị Paris. Tại Hội nghị này, Chính phủ Cách mạng Lâm thời đã được công nhận là thành viên chính thức của Phong trào Không liên kết ([75]). Năm 1972, Đại hội lần thứ 24 của Đảng Cộng sản Liên Xô ra lời kêu gọi tự do hòa bình cho nhân dân Đông Dương. Các hội nghị khác cũng ra tuyên bố ủng hộ Việt Nam, đòi Mĩ chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam. Trong khi ở miền Nam, quân đội Mỹ - ngụy phải chống cự rất vất vả trước các đợt tấn công của quân Giải phóng, tại Mỹ các phong trào phản chiến của nhân dân, văn nghệ sĩ đòi Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Trước sức ép của dư luận Mĩ và thất bại liên tiếp trên chiến trường miền Nam Việt Nam, ngày 16 tháng 5 năm 1972, Thượng viện Mĩ thông qua dự luật cắt giảm chi phí quân sự trong vòng 9 tháng để tăng thêm sức ép buộc Chính phủ Mĩ đưa ra cam kết rút quân viễn chinh.

Đồng thời với có ảnh hưởng lớn trong quốc tế, Mặt trận cũng đã xúc tiến hòa đàm ở hội nghị Paris. Trong phiên họp ngày 26/10/1968 của Hội nghị Bốn bên ở Paris của Mỹ - Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cho phép Mặt trận Giải phóng và Chính quyền Cách mạng Lâm thời tham gia đàm phán. Ngày 3 tháng 11 năm 1968, ủy ban trung ương Mặt trận Giải pháp ra tuyên bố về giải pháp chính trị cho miền Nam Việt Nam, gồm 5 điểm chính ([76]). Ngày 16/12/1968, đại biểu của Mặt trận là Trần Bửu Kiếm đã đến tham dự, ra tuyên bố: Lập trường thống nhất của Việt Nam trong hội đàm là: “Mặt trận Dân tộc Giải phóng, người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam có thẩm quyền giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến miền Nam Việt Nam” ([77]).

Hơn 1 tháng sau, ngày 5/8/1969, Chính phủ Cách mạng Lâm thời (lúc này thay thế Mặt trận) ra Tuyên bố 10 điểm, với nội dung chính là 10 giải pháp chính cho vấn đề Việt Nam:

  1. Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh, dân tộc, dân chủ.

  2. Thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi, tiến bộ.

  3. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, cải thiện dân sinh.

  4. Thực hiện giảm tô, tiến tới giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân, làm cho người cày có ruộng.

  5. Xây dựng nền văn hoá, giáo dục dân tộc dân chủ.

  6. Xây dựng một quân đội bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân.

  7. Thực hiện dân tộc bình đẳng, nam nữ bình quyền, bảo vệ quyền lợi chính đáng của ngoại kiều và kiều bào.

  8. Thực hiện chính sách ngoại giao hoà bình, trung lập.

  9. Lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc.

  10. Chống chiến tranh xâm lược, tích cực bảo vệ hoà bình thế giới.

Giải pháp toàn bộ mười điểm của Mặt trận Giải phóng là một sang kiến quan trọng, hợp tình hợp tình hợp lí cho một giải pháp về vấn đề miền Nam Việt Nam, đã thể hiện đầy đủ tinh thần hòa hợp dân tộc, chính sách đại đoàn kết của Mặt trận trong sự nghiệp chống Mĩ, cứu nước. giải pháp này đảm bảo quyền dân tộc quyền tự quyết nhận dân miền Việt Nam, đảm bảo một nền hòa bình lâu dài ở Việt Nam, tạo điều kiện cho đế quốc Mĩ chấm dứt cuộc chiến tranh ở Việt Nam trong danh dự. đây cũng là lần đầu tiên Mặt trận thay mặt nhân dân hai miền đưa ra giải pháp toàn bộ về vấn đề Việt Nam. Riêng Kissinger cũng phải thừa nhận: “Riêng việc tồn tại một kế hoạch hòa bình của cộng sản mặc dù bản than nó là một sự bất ngờ đã gây ra ngay lập tức sự phản ứng trong Quốc hội, trong các phương tiện truyền thông và trong dư luận công chúng. Họ gây sức ép với chính phủ đừng bỏ qua cơ hội đó” ([78]).

Tại phiên họp ngày 10 tháng 9 năm 1969, đại diện Chính phủ Cách mạng Lâm thời công bố: “Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris về Việt Nam do bà Nguyễn thị Bình, Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là trưởng đoàn và các ông Nguyễn Văn Tiến, Đinh Bá Thi làm Phó trưởng đoàn. Việc đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam chính thức thay thế Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam để ngồi vào bàn đàm phán đã thể hiện tính pháp lí của cách mạng miền Nam, tăng them sức mạnh trên bàn đàm phán cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Tại phiên họp thứ 22 của Hội nghị, đây là phiên họp đầu tiên có mặt Chính phủ Cách mạng Lâm thời, Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình đã tuyên bố: “Sự hoan nghênh nồng nhiệt của đồng bào trong nước, cũng như sự công nhận, đồng tình và ủng hộ của nhiều chính phủ và dư luận tiến bộ trên thế giới đối với Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, càng làm nổi bật tính chất đại diện chân chính hợp pháp vai trò và uy tín to lớn của Chính phủ Cách mạng Lâm thời, người có thẩm quyền và tiếng nói quyết định trong mọi vấn đề thuộc về Miền nam Việt Nam ([79]).

Ngày 17 tháng 9 năm 1970, trên cơ sở giải pháp toàn bộ mười điểm, đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời đưa ra “Giải pháp tám điểm”, nói rõ thêm, khẳng định việc rút quân và thả thù binh phải cùng một lúc. Ngày 10 tháng 12 năm 1970, bà Nguyễn thị Bình còn đưa ra Đề nghị ba điểm, nội dung của Đề nghị này rất quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề tiếp theo, kể cả việc gợi ra những lợi ích thiết thực cho phía Mĩ. Nội dung Đề nghị ba điểm là:

1. Nếu Mĩ tuyên bố rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam trước ngày 30 tháng 6 năm 1971 thì sẽ ngừng bắn giữa quân Giải phóng và quân Mĩ.

2. Sẽ ngừng bắn giữ quân Giải phóng với các lực lượng của một chính quyền Sài Gòn không có Thiệu, Kì, Khiêm và tán thành hòa bình, độc lập, trung lập, dân chủ và thỏa thuận thành lập một Chính phủ lien hiệp lâm thời ba thành phần ở miền Nam Việt Nam.

3. Các bên cùng nhau định ra các biện pháp nhằm thi hành những điều kiện đã thỏa thuận ([80])

Tại phiên họp công khai lần thứ 119, ngày 1 tháng 7 năm 1971, bà Nguyễn Thị Bình đưa ra Kế hoạch hòa bình bảy điểm của Chính phủ Cách mạng Lâm thời, trong đó có hai điểm đáng chú ý nhất:

_ Việc thành lập Chính phủ liên hiệp có sự hòa hợp dân tộc rộng rãi để làm nhiệm vụ khi hòa bình được lập lại.

_ Vấn đề các lực lượng vũ trang Việt nam ở miền Nam sẽ do các bên Việt Nam cùng nhau giải quyết, Mĩ không cần phải đế ý đến vấn đề này.

Khi quân Mỹ bắt đầu cuộc tập kích phá hoại miền Bắc vào năm 1972, Chính phủ Cách mạng Lâm thời đã ra tuyên bố nhấn mạnh, nguyên tắc giải quyết vấn đề nội bộ miền Nam Việt Nam phải xuất phát từ tình hình thực tế có hai chính quyền, hai quân đội và ba lực lượng chính trị, do đó cần phải thành lập ở miền Nam một Chính phủ hòa hợp dân tộc lâm thời gồm ba thành phần ngang nhau để đảm đương công việc trong thời gian quá độ, tiến tới tổng tuyển cự thật tự do dân chủ thống nhất đất nước. Tại hội nghị, đoàn đại biểu của Chính phủ Lâm thời tranh thủ họp báo, họp chính thức để lên án, vạch trần thực chất chiến lược “Việt Nam hóa” chiến tranh, phơi bày sự dã man của chính sách “Bình định” của Mĩ và chính quyền Sài Gòn đang thi hành ở miền Nam, tố cáo việc Mĩ tăng cường mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương; để tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.

Ngày 8 tháng 10 năm 1972, nhằm thúc đẩy quá trình đàm phán, Chính phủ Cách mạng Lâm thời đưa ra bản dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở miền nam Việt Nam”. Tuy nhiên, phía Mỹ lật lọng, dây dưa và đã mở chiến dịch “Linebarker II” 12 ngày đêm cuối năm 1972 để bắn phá Hà Nội; tuy nhiên cuộc tập kích nay bị đập tan và Mỹ phải xuống thang chiến tranh, nối lại đàm phán ở hội nghị Paris. Và cuối cùng vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, bà Nguyễn thị bình đã cùng các Bộ trưởng Ngoại giao các bên tham dự Hội nghị Paris kí kết vào văn bản Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình tại Việt Nam. Tinh thần mà hiệp định và các nghị định thư kèm theo là : “Hoa Kì và các nước khác tôn trọng độc lập chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam; Hoa kì sẽ không dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam ; Hoa kì cam kết tôn trọng những nguyên tắc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân miền nam Việt nam và có trách nhiệm đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam”. ([81]).

Việc kí kết thành công Hiệp định Paris là một trong những thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước vĩ đại của nhân dân Việt Nam, là một thành công về mặt ngoại giao rất xuất sắc của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, được nhiều nước trên thế giới nhiệt liệt chúc mừng và ca ngợi. Đảng Cộng sản Syria viết: “Thắng lợi vĩ đại này là nhờ ở sự lãnh đạo sang suốt và đúng đắn mà tiêu biểu là Đảng lao động Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống can thiệp xâm lược của Mĩ”(2)….([82]).

Sau khi hiệp định Paris được ký kết, Mỹ rút khỏi Việt Nam nhưng chính quyền Việt Nam Cộng hòa không thừa nhận, ngang nhiên phá hoại hiệp định. Tiếp theo, chúng tăng cường quân đội, mở hơn 1 vạn cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng của cách mạng Việt Nam; cách mạng miền Nam lại rơi vào thế khó khăn. Thực hiện nghiêm Nghị quyết của Đảng năm 1974, các lực lượng vũ trang đã giải phóng và đánh trả các cuộc hành quân của địch, thậm chí chủ động đánh vào căn cứ các cuộc xuất phát hành quân của địch, không những lấy lại vùng bị chiếm mà còn giải phóng them nhiều vùng và nhiều hành lang chiến lược.

Phối hợp với đấu tranh quân sự, nhân dân ta còn đấu tranh về mặt chính trị và ngoại giao. Đấu tranh chính trị nhằm đòi Mĩ-Thiệu thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Paris, đòi thực hiện các quyền dân chủ, đòi lật đổ thiệu. Đấu tranh ngoại giao nhằm tố cáo hành động vi phạm Hiệp định Paris của Mĩ-Thiệu.

Lúc này, nhiệm vụ của ngoại giao Việt Nam cơ bản là:

_ Phối hợp đấu tranh quân sự, chính trị, đấu tranh thi hành Hiệp định Paris, góp phần làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch.

_ Đấu tranh chống sự dính líu can thiệp của Mĩ, cô lập chính quyền Sài Gòn.

_ Tiếp tục tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới.

_ Đẩy lùi khá năng Mĩ ngăn cản việc giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Để thực hiện, Chính phủ Cách mạng Lâm thời đã tiến hành họp báo hoặc tham gia các diễn đàn nhằm tố các tội ác chiến tranh của đế quốc Mĩ và hành động vi phạm Hiệp định Paris của Mĩ và Chính quyền Sài Gòn.

Hoạt động tranh thủ quốc tế và cuộc đấu tranh ngoại giao của Mặt trận và Chính phủ Cách mạng Lâm thời phối hợp với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm cho dư luận Mĩ và dư luận thế giới hiểu rõ trắng-đen, thấy rõ Mĩ và Chính quyền Sài Gòn phá vỡ Hiệp định Paris, phá vỡ hòa bình, còn Chính phủ Cách mạng Lâm thời và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định.

Nhờ đánh giá đúng tình hình mà Bộ Chính trị họp đã quyết định giải phóng miền Nam trong năm 1975. Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra tuyên bố: xóa bỏ hoàn toàn ngụy quyền và bộ mày chiến tranh kìm kẹp của ngụy” ([83]). Tuyên bố này thực chất là một tối hậu thư buộc địch đầu hàng. Cùng ngày chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn và kết thúc thắng lợ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam thông nhất đất nước sau 21 năm chia cắt.

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình là dẫn dắt nhân dân miền Nam chống Mĩ, cứu nước đi đến thắng lợi, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Từ khi ra đời, Mặt trận đã làm một phần chức năng của chính quyền dân chủ nhân dân. Sau khi có Chính phủ Cách mạng lâm thời, Mặt trận giữ vai trò trụ cột và làm hậu thuẫn cho chính quyền cách mạng, không ngừng đẩy mạnh hoạt động trên cả ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao, tiến tới Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Sau khi miền Nam đã thống nhất, cuối năm 1975 thì Mặt trận ở miền Nam đã cùng các tổ chức chính trị khác họp Hội nghị Hiệp thương chính trị để thống nhất hai miền. tháng 7/1976, Quốc hội khóa VI nước Việt Nam thống nhất đã chính thức thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở hợp nhất chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng 12/1976, Đại hội IV của Đảng được thành lập. Trong Nghị quyết của mình, Đại hội xác định: “Mặt trận dân tộc giải phóng Miền nam Việt Nam thống nhất trong cả nước bào gồm nhiều chính Đảng, đoàn thể, giai cấp, tầng lớp khác nhau, lấy tầng lớp công nông làm cơ sở, do đảng ta lãnh đạo, mang tính chất yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, mục tiêu chung của mọi thành viên trong mặt trận là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa, Mặt trận có nhiệm vụ củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết các dân tộc anh em, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong xã hội, phát huy nhiệt tình cách mạng và tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân, động viên toàn dân thi đua xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta” ([84]). Dưới ánh sáng của Đại hội IV, Mặt trận đề ra các mục tiêu và phương hướng là:

1. Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, động viên nhân dân tích cực tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội.

2. Động viên nhân dân ra sức phấn đấu, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

3. Tích cực tham gia xây dựng nền văn hóa mới và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa:

4. Chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

5. Thực hiện nam nữ bình đẳng, dân tộc bình đẳng và tôn trọng tính ngưỡng.

6. Tích cực tham gia xây dựng nền Quốc phòng toàn dân vững mạnh, giữ gìn an ninh trính trị, quốc gia.

7. Tăng cường tình đoàn kết và quan hệ họp tác giữa nhân dân ta và thế giới

8. Đoàn kết rộng rãi các lực lượng và yêu chủ nghĩa xã hội.

Ngày 30/1/1977, Mặt trận tuyên bố giải tán và sát nhập vào Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

[1] K. Marx, F. Engels (2004), Các Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 7, NXB Chính trị quốc gia, tr. 346 – 347.

[2] V.I.Lenin, Toàn tập, tập 26, NXB Chính trị quốc gia, tr. 447.

[3] V.I.Lenin, Toàn tập, tập 40, NXB Chính trị quốc gia, tr. 119 – 120.

[4] Chủ nghĩa Marx – Lenin bàn về chiến tranh và quân đội, NXb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr. 11.

[5] K. Marx và F. Engels, Toàn tập, tập 6, tr. 416.

[6] Chủ nghĩa Marx – Lenin bàn về chiến tranh và quân đội, NXb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1976, tr. 201.

[7] V.I.Lenin, Toàn tập, tập 35, NXB Sự thật, Hà Nội, tr. 345 – 346.

[8] Nội dung chính trị, theo Lenin đó là: tính chất giai cấp, nguyên nhân chiến tranh, điều kiện lịch sử…; theo Chủ nghĩa Marx – Lenin bàn về chiến tranh…., tr. 128.

[9] V.I.Lenin (1973), Những bài viết và nói về quân sự, tập 1, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 23.

[10] V.I.Lenin (1963), Toàn tập, tập 23, NXB Sự thật, Hà Nội, tr. 250.

[11] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 28

[12] B. N. Ponomariov (2004), Phong trào công nhân quốc tế - những vấn đề lịch sử và lý luận, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, tr. 989 – 990.

[13] Hoàng Trang (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. NXB Lao động. tr. 35.

[14] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 267 – 268.

[15] Trần Dân Tiên (1986), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, NXB Sự thật, Hà Nội, tr. 31.

[16] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 3, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.3

[17] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 3, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.266

[18] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 3, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 3

[19] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 1, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.1, tr.273, 274.

[20] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 293

[21] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, tr. 274

[22] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 1, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.36

[23] Lê Thị Của (2013), Quan hệ giữa Quốc tế Cộng Sản với Nguyễn Ái Quốc (1919 – 1943), Đề tài nghiên cứu khoa học, Đại học Sài Gòn, tr. 9.

[24] Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, Nguyễn Ái Quốc viết, “tư bản bản xứ không có thế lực gì ta không nên nói cho họ đi về phe đế quốc được”. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr. 1.

[25] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1981, tr. 116.

[26] Phạm Xanh (2009), Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lenin ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 139.

[27] Lê Duẩn (1960), Mấy đặc điểm của cách mạng Việt Nam, NXB Sự thật, Hà Nội, tr. 41.

[28] Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr, 216, 404, 429.

[29] Nguyễn Khánh Toàn (2004), Lịch sử Việt Nam (1858 – 1945), tập 2, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 313 – 315.

[30] Cách mạng tư sản dân quyền : là cuộc cách mạng do giai cấp tư sản lãnh đạo nhằm thủ tiêu giai cấp phong kiến thiết lập nên nhà nước TBCN. Thế nhưng ở Việt Nam, giai cấp lãnh đạo nhân dân có nhiệm vụ thủ tiêu giai cấp phong kiến không phải là giai cấp tư sản mà là giai cấp vô sản tiến lên xây dựng chế độ cộng sản => đây là cuộc cách mạng tư sản kiểu mới, cách mạng tư sản dân quyền.

[31] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2 (1925 – 1930), NXB Sự thật, Hà Nội, 1981, tr. 295

[32] Phần này được viết theo 2 tài liệu: Lịch sử Việt Nam tập 2 (1858 – 1945) của Nguyễn Khánh Toàn, tr. 315 và Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay của Trần Bá Đệ, tr. 112 – 113.

[33] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, sđd, tr. 298.

[34] Văn kiện Đảng , tập 1 (1930 – 1945), Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Hà Nội, 1977, tr. 68

[35] Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội,, tr. 152

[36] Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 536.

[37] Đảng cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 113

[38] Viện Sử học (2000), Lịch sử Việt Nam (9/1945 – 1950), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 16.

[39] Lê Duẩn (1972), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập, tự do vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, NXB Sự thật, Hà Nội, tr. 16.

[40] Trần Bá Đệ (2010), Giáo trình lịch sử Việt Nam, tập 6 (1945 – 1954), NXB ĐHSP, Hà Nội, tr. 67.

[41] Trường Chinh (1976), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, tập 2,, NXB Sự thật, Hà Nội, tr. 142.

[42] Thái Nguyễn Đức Minh Quân (và những người khác) (2010), Lịch sử hình thành và phát triển của chiến khu Dương Minh Châu (1948 – 1975), tiểu luận khoa học, Đại học Sài Gòn, tr. 15.

[43] Chi tiết trận đánh, xin xem trong: Quân khu 9 (2002), Một số đợt hoạt động của quân và dân đồng bằng sông Cửu Long trong 30 năm kháng chiến (1945 – 1975), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 12 – 37.

[44] Hồ Sĩ Thành (2003), Chiến khu Đ, NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 34.

[45] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 12, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 434

[46] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 12, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 441

[47] Nguyễn Viết Thông (2009), Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị quốc

Gia, Hà Nội, tr. 297.

[48] Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 14, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 379.

[49] Theo Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (chủ biên) (2006), Đại cương lịch sử Việt Nam, toàn tập, NXB Giáo dục, tr. 926.

[50] Hà Minh Hồng (2005), Lịch sử Việt Nam cận hiện đại (1858 – 1975), NXB Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, tr. 171.

[51] Hồ Sĩ Khoách (2005), Lịch sử Việt Nam 1945 – 1975, NXB Đại học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, tr. 155- 156.

[52] Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 18, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 772.

[53] Viện kinh tế học (1968), Cách mạng ruộng đất ở Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội, tr. 136.

[54] Lê Mậu Hãn (chủ biên) (1998), Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, tr. 144.

[55] Hồ Chí Minh (1996), Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 3

[56] Nguyễn Đức Hòa (2013), Lịch sử nhà nước – pháp luật Việt Nam (đề cương bài giảng), lưu hành nội bộ, ĐHSG, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 37.

[57] Lê Mậu Hãn (chủ biên) (1998), Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, tr. 219.

[58] Hồ Chí Minh (1996), Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 512.

[59] Nhân ngày ngừng bắn ở Nam bộ (01/8/1954), 50.000 đồng bào Sài Gòn – Chợ Lớn, phần lớn là công nhân nhà đèn, bến cảng và các tầng lớp tiểu thương, tri thức, học sinh, quần chúng lao động, đã xuống đường biểu tình mừng hòa bình, đòi thi hành Hiệp định Giơ – ne – vơ. Tại Đà Nẵng có 25.000 người, tại Huế có 15.000 người tham gia biểu tình mừng hòa bình.

Cũng trong ngày 01/8/1954, được sự chỉ đạo của Khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn, các đại biểu tri thức và lao động đã thành lập “phong trào hòa bình Sài Gòn – Chợ Lớn”, ra tuyên bố nêu rõ tôn chỉ, mục đích của phong trào là đấu tranh cho hòa bình ở Đông Dương được củng cố, quyền tự do dân chủ được đảm bảo, nước Việt Nam được thống nhất bằng tổng tuyển cử tự do trong cả nước.

Tại Sài Gòn, phong trào lan rộng ra Đà Nẵng, Huế. Phong trào thu hút nhiều tri thức tên tuổi tham gia, như luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, giáo sư Phạm Huy Thông, Nguyễn Văn Dưỡng, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba, bác sĩ Lê Khắc Khuyến, Võ Đình Cường,…(Trần Bá Đệ, Giáo trình Lịch sử Việt Nam 1945 – 1975, Nxb ĐHSP, HN, 2007, Tr. 138).

[60] Lê Minh (1961), Tội ác đẫm máu của Mỹ - Diệm, Nxb Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, tr. 12

[61] Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (1965), Mặt trận Dân tộc Giải phóng là Người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam, Nxb Sự Thật, Hà Nội, tr. 9.

[62] Lê Minh (1961), Tội ác đẫm máu… ,Tài liệu đẵ dẫn, tr. 27 – 28.

[63] Ủy ban Trung Ương Mặt Trận Dân tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (1965), Mặt Trận Dân tộc…, Tài liệu đã dẫn, tr. 10.

[64] Ủy ban Trung Ương Mặt Trận Dân tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (1965), Mặt Trận Dân tộc…, Tài liệu đã dẫn, tr. 11.

[65] Trên thực tế, Hội nghị này diễn ra trong 2 đợt: đợt 1 từ 12 – 22/1/1959 là Hội nghị Trung ương mở rộng; đợt 2 từ 10 – 15/7/1959 chỉ có các Ủy viên Trung ương, thông qua văn bản Nghị quyết 15. Theo Chiến tranh cách mạng Việt Nam: thắng lợi và bài học, NXB QĐND, Hà Nội, 2000, tr. 146.

[66] Hà Minh Hồng – Trần Nam Tiến, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (1960- 1977), Nxb Tổng Hợp Tp HCM, 2010, tr 35- 37.

[67] Hà Minh Hồng – Trần Nam Tiến (2010), Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng …, sách đã dẫn, tr. 46.

[68] Trần Bạch Đằng (1993), Chung một bóng cờ (về Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 962.

[69] Hà Minh Hồng – Trần Nam Tiến (2010), Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng …, sách đã dẫn, tr. 51.

[70] Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (1967), Cương lĩnh chính trị, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 15, 48, 49.

[71] Hà Minh Hồng – Trần Nam Tiến (2010), Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng …, sách đã dẫn, tr. 79 – 80.

[72] Hồ sơ lưu trữ của Bộ Ngoại giao. Dẫn theo Bộ Ngoại giao, Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 88

[73] Trương Minh Đăng (2010) (và những người khác), Lịch sử hình thành, phát triển và vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam từ 1960 đến 1977, Tiểu luận khoa học, Đại học Sài Gòn, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 25.

[74] Viện sử học, Ủy ban khoa học xã hội(1985), số liệu của Ủy ban Thống nhất thuộc Hội đồng Chính phủ, Sức mạnh của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Hà Nội, tr. 33-34.

[75] Nguyễn Thị Bình (1993), “Những năm tháng hoạt động quốc tế sôi nổi của Mặt trận”, Chung một bóng cờ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 374.

[76] 5 điểm chính là:

(1) Miền Nam phấn đấu để đánh thắng Mỹ, giành độc lập – dân chủ cho nhân dân;

(2) Đế quốc Mỹ phải cút khỏi Việt Nam, hủy bỏ các trang thiết bị quân sự và rời khỏi Việt Nam;

(3) nhân dân miền Nam quyết định công việc nội bộ của mình, thành lập Chính phủ liên hiệp và Tổng tuyển cử tự do;

(4) nhân dân miền Nam sẽ tự quyết việc thống nhất đất nước, từng bước theo nguyên tắc hòa bình;

(5) miền Nam thực hiện chính sách ngoại giao trung lập; quan hệ hữu nghị với các nước trên cơ sở hòa bình. Theo Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2005), Lịch sử Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam-giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, thời kì 1955-1975, Hà Nội, tr. 291

[77] Tuyên bố của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc Mĩ phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom, bắn phá trên toàn lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Công hòa(11/1968), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1968, tr. 7.

[78] Lưu Văn Lợi (1997), Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 323

[79] Trần Văn Giàu (1978), Miền nam giữ vững thành đồng, tập 5, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 241

[80] Nguyễn Thành Lê (1998), Cuộc đàm phán Paris về Việt Nam 1968-1973, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 57.

[81] Hiệp địnnh về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam, Vụ Thông tin Báo chí Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hà Nội, 1973, tr.8, 10, 12, 25

[82] Thế giới ca ngợi thắng lợi lịch sữ của Việt Nam, Sđd, tr.129

[83] Hà Minh Hồng, Trần Nam Tiến(2010), Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam(1960-1977), Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh,tr. 187.

[84] trích “Đại Hội Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam”. Xem trong Trương Minh Đăng (2010), tài liệu đã dẫn, tr. 43.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Ngoại giao (2004), Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Chiến tranh cách mạng Việt Nam: thắng lợi và bài học, NXB QĐND, Hà Nội, 1977.

3. Trường Chinh (1976), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, tập 2,, NXB Sự thật, Hà Nội.

4. Lê Thị Của (2013), Quan hệ giữa Quốc tế Cộng Sản với Nguyễn Ái Quốc (1919 – 1943), Đề tài nghiên cứu khoa học, Đại học Sài Gòn, Tp. Hồ Chí Minh.

5. Lê Duẩn (1972), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng vì độc lập, tự do vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, NXB Sự thật, Hà Nội.

6. Lê Duẩn (1960), Mấy đặc điểm của cách mạng Việt Nam, NXB Sự thật, Hà Nội.

7. Trương Minh Đăng (2010) (và những người khác), Lịch sử hình thành, phát triển và vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam từ 1960 đến 1977, Tiểu luận khoa học, Đại học Sài Gòn, Tp. Hồ Chí Minh.

8. Trần Bạch Đằng (1993), Chung một bóng cờ (về Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Trần Bá Đệ (2010), Giáo trình lịch sử Việt Nam, tập 6 (1945 – 1954), NXB ĐHSP, Hà Nội.

11. Trần Bá Đệ (2002), Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

12. Trần Văn Giàu(1978), Miền Nam giữ vững thành đồng, tập 5, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

13. Nguyễn Đức Hòa (2013), Lịch sử nhà nước – pháp luật Việt Nam (đề cương bài giảng), lưu hành nội bộ, ĐHSG, Tp. Hồ Chí Minh

14. Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam, Vụ Thông tin Báo chí Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hà Nội, 1973.

15. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Hà Minh Hồng – Trần Nam Tiến (2010), Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (1960- 1977), Nxb Tổng Hợp Tp HCM.

17. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam(1967), Cương lĩnh chính trị, Nxb Sự thật, Hà Nội.

18. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 1, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 3, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. V.I.Lenin, Toàn tập, tập 26, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. V.I.Lenin, Toàn tập, tập 40, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Nguyễn Thành Lê (1998), Cuộc đàm phán Paris về Việt Nam 1968-1973, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. Lưu Văn Lợi (1997), Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội

26. K. Marx, F. Engels (2004), Các Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 7, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Lê Minh (1961), Tội ác đẫm máu của Mỹ - Diệm, Nxb Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội.

28. B. N. Ponomariov (2004), Phong trào công nhân quốc tế - những vấn đề lịch sử và lý luận, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Thái Nguyễn Đức Minh Quân (và những người khác) (2010), Lịch sử hình thành và phát triển của chiến khu Dương Minh Châu (1948 – 1975), tiểu luận khoa học, Đại học Sài Gòn.

30. Quân khu 9 (2002), Một số đợt hoạt động của quân và dân đồng bằng sông Cửu Long trong 30 năm kháng chiến (1945 – 1975), NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội

31. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (chủ biên) (2006), Đại cương lịch sử Việt Nam, Toàn tập, NXB Giáo dục, Hà Nội.

32. Hoàng Trang (2004), Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. NXB Lao động, Hà Nội.

33. Trần Trọng Tân (2010), “Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, Tạp chí Mặt Trận, số 86.

34. Hồ Sĩ Thành (2003), Chiến khu Đ, NXB Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

35. Nguyễn Viết Thông (2009), Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội

36. Trần Dân Tiên (1986), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, NXB Sự thật, Hà Nội.

37. Nguyễn Khánh Toàn (2004), Lịch sử Việt Nam (1858 – 1945), tập 2, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

38. Tuyên bố của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc Mĩ phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom, bắn phá trên toàn lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Công hòa(11/1968), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1968.

39. Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (1965), Mặt trận Dân tộc Giải phóng là Người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam, Nxb Sự Thật, Hà Nội.

40. Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2005), Lịch sử Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam-giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, thời kì 1955-1975, Hà Nội.

41. Văn kiện Đảng , tập 1 (1930 – 1945), Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Hà Nội, 1977.

42. Viện Sử học (2000), Lịch sử Việt Nam (9/1945 – 1950), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

43. Viện sử học, Ủy ban khoa học xã hội(1985), số liệu của Ủy ban Thống nhất thuộc Hội đồng Chính phủ, Sức mạnh của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội.