Minh sử - An Nam liệt truyện (Trương Đình Ngọc biên soạn)

Năm (Hoằng Trị) thứ mười (năm 1497), (Lê) Hạo chết, truy thụy là Thánh Tông, cả thảy hai lần đổi niên hiệu, mười năm hiệu Quang Thuận, hai mươi tám năm hiệu Hồng Đức. Con là Huy nối ngôi, còn có tên là Tranh, sai sứ báo tang, (vua Minh) sai Hành nhân là Từ Ngọc đến cúng tế. Rồi ban mũ bì biện, dây buộc kim tê cho Huy. Sứ thần của Huy nói: "Quốc chủ nhận phong vương mà được ban mũ không khác với bầy tôi, xin đổi lại." Quan bộ Lễ nói: "An Nam có tiếng là được phong vương nhưng thực là bầy tôi của Trung Quốc. Vương nối ngôi mới lập, phải ban cho mũ áo bì biện, khiến cho bên ấy không làm mất ngôi cao chủ tể của một nước, lại ban cho thường phục nhất phẩm là khiến cho bên ấy không quên cái nghĩa theo thờ Trung Quốc. Nay bên ấy xin đổi là làm loạn phép cũ, không nên nghe theo. Nhưng đấy không phải là tội của sứ thần mà là quan Thông sự (phiên dịch) dẫn lời ấy tấu xằng, nên trừng trị." Vua đặc cách tha cho. Năm thứ mười bảy (năm 1504), Huy chết, truy thụy là Hiến Tông, đổi niên hiệu một lần là hiệu Cảnh Thống. Con là Khiên, còn có tên là Kính Phủ thay lập, ở ngôi được bảy tháng thì chết, truy thụy là Túc Tông. Em là Nghị, còn có tên là Tuyền lập.

Năm (Chính Đức) thứ mười một (năm 1516), Xã đường thiêu hương quan là Trần Cảo cùng hai con là Bỉnh-Thăng làm loạn, giết Chửu mà tự lập, nói dối là dòng dõi họ Trần làm vương thủa trước, lại xưng là Đại Ngu Hoàng Đế, đổi niên hiệu là Ứng Thiên, giáng Chửu làm Linh Ẩn Vương. Bầy tôi của Chửu làm Đô lực sĩ là Mạc Đăng Dung lúc đầu theo giúp Cảo, sau cùng đại thần của họ Lê là bọn Nguyễn Hoằng Dụ dấy binh đánh Cảo. Cảo thua chạy, bắt được Bỉnh và bộ chúng của Cảo là bọn Trần Toại. Cảo cùng Thăng chạy đến đạo Lạng Sơn, chiếm lấy ba phủ Tràng Ninh-Thái Nguyên-Thanh Tiết để tự giữ. Bọn Đăng Dung bèn cùng lập anh của Chửu con của Hạo là Huệ làm vua, đổi thụy cho Chửu là Tương Dực Đế. Chửu ở ngôi bảy năm, một lần đổi niên hiệu là Hồng Thuận. Huệ muốn xin phong vương nhưng do nước loạn không sang được, lại vì Đăng Dung có công được phong làm Võ Xuyên Bá, tổng đốc các quân thủy-lục. Đăng Dung đã nắm binh quyền, ngầm nuôi chí khác. Bầy tôi của họ Lê là bọn Trịnh Tuy thấy Huệ chỉ có ngôi hão, bèn lập riêng người trong họ (Lê) là Dậu Bảng, phát binh đánh đô thành (Thăng Long). Huệ chạy ra ngoài. Đăng Dung đánh phá bọn Tuy, bắt giết được Dậu Bảng, càng cậy công chuyên quyền, rồi ép lấy mẹ của Huệ, đón Huệ về, tự xưng làm Thái phó Nhân Quốc Công. Năm (Chính Đức) thứ mười sáu, phát binh đánh Trần Cảo, Cảo thua chạy chết.

Năm Gia Tĩnh thứ nhất (năm 1522), Đăng Dung tự xưng là An Hưng Vương, mưu giết Huệ, mẹ Huệ báo cho Huệ biết, bèn cùng bầy tôi là Đỗ Ôn Nhuận lẻn đi để tránh, đến ở phủ Thanh Hoa. Đăng Dung lập em thứ của Huệ là Khoáng, rồi dời đến ở phủ Tràng Khánh đạo Hải Đông. Vào lúc Thế Tông lên ngôi, sai bọn Biên tu là Tôn Thừa Ân, Cấp sự trung là Du Đôn mang chiếu thư sang dụ nước ấy. Đến huyện Long Xuyên, nghe tin nước ấy loạn to, đường đi không thông, bèn quay về. Năm (Gia Tĩnh) thứ tư, mùa hạ, Huệ sai sứ đi tắt sang cống cùng xin phong, bị Đăng Dung ngăn chặn. Năm sau, mùa xuân, Đăng Dung hối lộ cho Phán quan Khâm châu là Đường Thanh, cầu phong cho Khoáng. Tổng đốc (Lưỡng Quảng) là Trương Đính bắt Thanh chết ở trong ngục. Năm (Gia Tĩnh) thứ sáu, Đăng Dung sai bộ chúng là bọn Phạm Gia Mô giả làm chiếu nhường ngôi của Khoáng, soán lấy ngôi vua, đổi niên hiệu là Minh Đức, lập con là Phương Doanh làm Hoàng thái tử. Làm thuốc độc giết Khoáng, truy thụy là Cung Hoàng Đế. Năm sau, sai sứ sang cống, đến thành Lạng Sơn thì bị đánh mà về. Năm (Gia Tĩnh) thứ chín, Đăng Dung nhường ngôi cho Phương Doanh, tự xưng là Thái thượng hoàng, dời đến ở các phủ Đô Trai-Hải Dương để làm ngoại viện cho Phương Doanh, soạn văn đại cáo có năm mươi chín điều ban bố trong nước. Phương Doanh đổi niên hiệu là Đại Chính. Năm đó, tháng chín, Lê Huệ chết ở phủ Thanh Hoa, nước mất.

Năm (Gia Tĩnh) thứ mười lăm (năm 1536), mùa đông, hoàng tử được sinh, sắp ban chiếu cho An Nam biết. Quan bộ Lễ là Hạ Ngôn nói: "An Nam không sang cống đã hai chục năm, bầy tôi trấn thủ Lưỡng Quảng bảo là bọn Lê Huệ-Lê Khoáng đều là con cả đáng được lập của Lê Chửu, còn bọn Mạc Đăng Dung-Trần Cảo là bầy tôi soán nghịch của nước ấy, nên sai sứ sang xét hỏi, tìm ra đúng kẻ có tội. Vả lại sứ giả lúc trước đã vì đường đi không thông, nay nên tạm dừng đi sứ." Vua thấy người An Nam phản nghịch đã rõ, nên nhanh sai sứ sang hỏi tội, bèn lệnh cho Ngôn hội bộ Binh bàn việc đánh dẹp. Ngôn cùng quan bộ Binh là bọn Trương Toản sa sức nói rằng: "Bầy tôi phản nghịch cướp ngôi, không lo chầu cống, phải nên đến đánh. Xin sai hai quan Cẩm y đến xét sự thật trước, hạ lệnh cho bầy tôi trấn thủ Lưỡng Quảng-Vân Nam sắm chứa lương thực để đợi quân triều đình đến." Vua hạ chiếu cho phép, rồi sai bọn Thiên hộ là Đào Phượng Nghi-Trịnh Tỉ chia ra đến Quảng Tây-Vân Nam, xét tìm kẻ có tội, hạ lệnh quan lại trấn thủ các tỉnh Tứ Xuyên-Quý Châu-Hồ Quảng-Giang Tây sắm sửa binh lương, đợi ngày đi đánh. Hộ bộ thị lang là Đường Trụ dâng sớ ra sức nói bảy điều không nên (dùng binh), lời này chép rõ ở trong truyện về người này, cuối sớ có nói: "An Nam tuy loạn nhưng vẫn vâng chiếu lệnh, sắm phương vật, đến cửa ải xin vào. Bầy tôi trấn thủ (biên giới) vì thấy họ tên không khớp mới chống lại. Đấy là bên ấy muốn cống nhưng không được, không đáng trách tội không sang cống." Hạ lệnh cho bộ Binh xét, cũng cho là như thế, bèn sai đợi quan xét hỏi về mới bàn chuyện ấy (dùng binh).

Năm (Gia Tĩnh) thứ mười sáu (năm 1537), người An Nam là Lê Ninh sai người trong nước là bọn Trịnh Duy Liêu đến kinh, kể hết tội soán nghịch của Đăng Dung, nói: "Ninh là con của Huệ. Huệ chết, người trong nước lập Ninh làm thế tôn, quyền chủ việc nước. Thường mang thư đến chỗ bầy tôi ở biên giới cáo nạn nhưng đều bị Đăng Dung chặn giết. Xin phát binh hỏi tội, dẹp trừ giặc nước." Bấy giờ Nghiêm Tung đứng đầu bộ Lễ, bảo là lời ấy chưa nên tin hết, xin đi hỏi kĩ, đợi quan đi xét hỏi về tấu, bèn nghe theo. Rồi gọi bọn Phượng Nghi về, sai hai bộ Lễ-Binh hội bầy tôi bàn việc, khép Đăng Dung vào mười tội lớn, xin triều đình xử đoán, hẹn ngày đi đánh. Bèn gọi Hữu đô ngự sử là Mao Bá Ôn bấy giờ đang ở nhà đến làm Tham tán quân vụ, sai bọn Hộ bộ thị lang là Hồ Liễn-Cao Công Thiều đi nhanh đến Vân-Quý-Lưỡng Quảng trước để điều động binh lương, lấy bọn Đô đốc thiêm sự là Giang Hoàn-Ngưu Hoàn làm Tả-Hữu phó tổng binh, cùng phát binh đi đánh, sai đại tướng của quân ấy đợi lệnh sau. Bộ Binh lại vâng chiếu lệnh, ban bố hai mươi điều nên làm khi dùng binh. Chỉ có Thị lang là Phan Trân chống lại cho là không nên, dâng sớ gấp gáp can ngăn. Vua giận, cách chức của Trân. Tổng đốc Lưỡng Quảng là Phan Đán cũng đi nhanh dâng sớ xin dừng lệnh trước, nói: "Triều đình vừa phát binh hỏi tội thì Đăng Dung liền sai sứ sang xin cống, nên nhân đó mà nghe theo, dừng lại xem sự biến để đợi nước ấy tự quyết định." Nghiêm Tung-Trương Toản xem ý vua, ra sức nói là không nên tha, lại nói là Lê Ninh ở Thanh Đô (Thanh Hóa) mưu đồ khôi phục mà Đán nói nước ấy tự yên định, dâng biểu xin cống, quyết không nên nghe theo. Sớ của Đán bèn bị gạt đi. Tháng năm, Bá Ôn đến kinh, tấu dâng sáu điều phương lược, cho rằng không thể cùng làm việc với Đán, xin đổi người khác, vua khen ngợi nghe theo. Kịp lúc bộ Binh bàn lấu lên, vua lại chợt đổi ý giữa chừng, cho là Lê Ninh thật giả chưa rõ, hạ lệnh quan lại trấn thủ ba tỉnh (Lưỡng Quảng-Vân Nam) phải tùy tình thế mà vỗ về, các đại thần tham tán-đốc binh lương đều tạm dừng, Đán được điều dùng việc khác, lấy Trương Kinh thay Đán. Bấy giờ bọn Ngự sử là Từ Cửu Cao, Cấp sự trung là Tạ Đình Cừ cũng nói lời đổi ý, cũng xin bãi binh đánh miền nam.

Tháng tám, Tuần phủ Vân Nam là Uông Văn Thịnh bắt được gián điệp và đại cáo mà Đăng Dung soạn gửi về, vua cả giận, sai quan lại trấn thủ ở biên giới vẫn nghe theo chiếu lệnh đánh dẹp lúc trước. Bấy giờ Văn Thịnh chiêu nạp bầy tôi cũ của họ Lê là bọn Võ Văn Uyên, thu được bản đồ đường tiến binh vào nước ấy, bảo là có thể phá được Đăng Dung, bèn dâng về triều đình. Tuần án Quảng Đông là Dư Quang nói: "Họ Mạc soán ngôi họ Lê cũng như họ Lê soán ngôi họ Trần, không đáng để xét kĩ. Chỉ nên kể tội họ không đến chầu, sai phải xưng thần sang cống, không nên đi đánh nơi xa làm cho Trung Quốc mệt mỏi. Thần đã sai sứ sang dụ, nếu bên ấy đến theo thì nên nhân đó mà vỗ về." Vua cho là Quang khinh suất, cắt bổng lộc một năm. Văn Thịnh liền truyền hịch đến An Nam, bảo rằng nếu Đăng Dung trói mình theo hàng, dâng cả bản đồ thì tha cho không giết. Do đó cha con Đăng Dung sai sứ mang biểu đến xin hàng, lại gửi thư đến cho Văn Thịnh và Kiềm Quốc Công là Mộc Triều Phụ, kể rõ việc họ Lê suy loạn, Trần Cảo phản nghịch, mình với Phương Doanh có công được người trong nước nương về, còn đất đai mà mình có thì đã chép trong Nhất thống chí, xin được chuộc tội, sang cống như cũ. Bấy giờ là năm (Gia Tĩnh) thứ mười bảy, tháng ba, bọn Triều Phụ tấu lên thì Lê Ninh đã vâng chiếu lệnh cũ, sợ triều đình sẽ thu nạp biểu xin hàng của Đăng Dung, bèn kể rõ số quân mã và chuyện soán nghịch trước sau của nước ấy, vạch đường lối tiến binh thủy-lục báo cho vua biết. Vua lại hạ lệnh cho bộ Binh hội bầy tôi bàn việc, đều nói là không nên tha cho họ Mạc, phải nên cho quân vào đánh, xin suy xét lấy Hàm Ninh Hầu là Cừu Loan làm Tổng đốc quân vụ, lấy Bá Ôn vẫn làm Tham tán, vua nghe theo. Trương Kinh dâng sớ nói: "Có sáu đường tiến binh vào An Nam, phải dùng đến ba chục vạn quân, một năm dùng được một trăm sáu mươi vạn (thạch) lương, phí làm thuyền, mua ngựa, làm võ khí, khao quân lại khoảng hơn bảy chục vạn (tiền). Huống chi ta điều đại quân lội vào nơi nước lửa, vất vả ở nơi xa lạ, không nên không xét kĩ." Sớ vừa tấu lên thì quan Tri châu Khâm là Lâm Hi Nguyên lại ra sức bày kể việc có thể đánh lấy được Đăng Dung. Bộ Binh không quyết được, lại xin triều đình bàn việc. Kịp lúc bàn xong, vua không vui, nói: "Trẫm nghe nói các quan khanh bàn luận đều bảo là không nên dấy binh. Các ngươi làm việc giúp nước mà dùng dằng không chủ quyết được, lại đều giao cho triều đình, đã không đồng lòng mưu việc nước thì thôi vậy. Nay giao cho Loan-Bá Ôn dùng việc."

Năm (Gia Tĩnh) thứ mười tám, sách lập Hoàng thái tử, sắp ban chiếu cho An Nam biết, bèn lấy Hoàng Oản làm Lễ bộ thượng thư, lấy Học sĩ Trương Trị làm phó đi sứ đến nước ấy. Lệnh vừa xuống, Phương Doanh bèn sai sứ dâng biểu xin hàng, cùng dâng bản đồ đất đai, sổ hộ khẩu để đợi triều đình phân xử, cả thảy có năm mươi ba phủ, bốn mươi chín châu, một trăm bảy mươi sáu huyện. Vua nhận lấy, hạ lệnh hai bộ Lễ-Binh cùng bàn việc. Đến tháng bảy, Oản vẫn chưa đi, vì trái ý vua mà bị cách chức, bèn dừng đi sứ. Trước đây, lời bàn nên đi đánh dẹp xuất từ Hạ Ngôn, đến đây vua đã trách tội Oản, nhân đó cáu giận nói: "Việc đánh An Nam vốn là từ một người mà mọi người đều hùa theo. Lại khuyên ta nghe lời, cùng nói lời a dua. Việc nên đánh hay nên bỏ nước ấy, bộ Binh phải hội nghị tấu lên." Do đó bọn (Trương) Toản và bầy tôi lo sợ, xin làm như chiếu lệnh lúc trước, vẫn sai bọn Loan-Bá Ôn xuống đánh phía nam, nếu cha con Đăng Dung bó tay theo hàng không có lòng khác thì tha cho không giết. Vua nghe theo. Đăng Dung nghe tin, cả mừng.

Năm (Gia Tĩnh) thứ mười chín, bọn Bá Ôn đến Quảng Tây, truyền hịch dụ nếu theo về thì tha tội. Bấy giờ Phương Doanh đã chết. Đăng Dung liền sai sứ xin hàng. Tháng mười một, dẫn bốn mươi hai người bọn con trong họ là Văn Minh và bộ chúng vào ải Trấn Nam, buộc đầu đi chân trần, bò quỳ rập đầu ở trên đàn, dâng biểu hàng. Bá Ôn đọc thư tha tội, (Đăng Dung) lại bò quỳ đến cửa quân vái lạy, dâng bản đồ đất đai sổ quân dân, xin vâng chính sóc, mãi làm phiên thần. Bọn Bá Ôn nêu rõ oai đức, sai về nước đợi lệnh. Gửi sớ về, vua cả mừng, hạ lệnh lấy nước An Nam làm An Nam đô thống sứ ti, trao chức Đô thống sứ cho Đăng Dung, đeo hàm nhị phẩm, ấn bạc. Các chế độ soán nghịch cũ đều bãi bỏ, đổi mười ba đạo thành mười ba tuyên phủ ti, đều đặt chức Tuần phủ, Đồng tri, Phó sứ, Thiêm sự, nghe theo lệnh Đô thống sứ sắp đặt. Tỉnh Quảng Tây hằng năm cấp cho lịch Đại Thống, vẫn ba năm cống một lần làm lệ thường. Lại sai xét việc thật giả của Lê Ninh, nếu đúng là dòng dõi của họ Lê thì cắt cho bốn phủ mà Ninh chiếm giữ để lo việc cúng tế, nếu không đúng thì thôi. Lệnh xuống, Đăng Dung sợ hãi nghe theo.

Năm (Gia Tĩnh) thứ hai mươi hai, Đăng Dung chết, con của Phương Doanh là Phúc Hải nối ngôi, sai Tuyên phủ đồng tri là bọn Nguyễn Điển Kính đến chầu. Năm (Gia Tĩnh) thứ hai mươi lăm, Phúc Hải chết, con là Hoành Dực thay. Trước đây, Đăng Dung lấy người huyện Thạch Thất là Nguyễn Kính làm con nuôi, phong làm Tây Ninh Hầu. Kính có con gái gả cho con thứ của Phương Doanh là Kính Điển, (Kính) nhân dịp thông dâm với người vợ họ Võ của Phương Doanh, nắm được binh quyền. Kịp lúc Hoành Dực lập mới năm tuổi, Kính càng chuyên quyền làm việc. Con thứ của Đăng Dung là Trung Chính và Văn Minh tránh đến phủ Đô Trai, bộ chúng là bọn Nguyễn Như Quế-Phạm Tử Nghi cũng tránh về ở thôn làng. Kính phát binh đến phủ Đô Trai, bọn Trung Chính-Văn Minh-Tử Nghi chống lại, không thắng, bọn Văn Minh dẫn gia thuộc chạy sang Khâm châu, còn Tử Nghi thu tàn quân trốn ở đạo Hải Đông. Kính nói dối là Hoành Dực đã chết để lừa đón Trung Chính về lập ngôi, phạm vào Khâm châu, bị Tham quân là Du Đại Du đánh bại, giết chết. Vào lúc Hoành Dực mới lập, sai sứ là bọn Lê Quang Bí sang cống, đến phủ Nam Ninh thì quan lại trấn thủ phủ ấy báo về. Quan bộ Lễ cho rằng nước ấy nội loạn, danh phận chưa định, nên dừng việc đi sứ mà sai quan lại trấn thú ở biên giới xét kĩ kẻ đáng được lập ngôi. Đến năm (Gia Tĩnh) thứ ba mươi thì việc đã rõ, sai phong chức Đô thống sứ cho Hoành Dực, sai đến cửa ải nhận lệnh. Kịp lúc đầu mục là Lê Bá Li và bầy tôi của Lê Ninh là Trịnh Kiểm hợp binh đến đánh, Hoành Dực trốn đến phủ Hải Dương, không thắng được lại về. Bấy giờ bọn Quang Bí ở lại Nam Ninh tới mười lăm năm, bọn cùng đi sứ đợt ấy chết mất quá nửa. Hoành Dực cầu bầy tôi giữ ở biên giới xin lập, vua hạ chiếu cho vào kinh, còn ấn Đô thống sứ thì đợi Hoành Dực đến cửa ải thì mới cấp cho. Năm (Gia Tĩnh) thứ bốn mươi ba, Hoành Dực chết, con là Mậu Hợp lập. Năm Vạn Lịch thứ nhất (năm 1573), trao cho chức Đô thống sứ. Năm (Vạn Lịch) thứ ba, sai sứ sang tạ ơn, chúc mừng vua lên ngôi, dâng phương vật, lại cống mà các năm trước còn thiếu.

Bấy giờ họ Mạc dần suy, họ Lê lại nổi, dấy binh đánh nhau, nước ấy càng nhiều việc. Lúc trước vào lúc Lê Ninh chiếm lấy phủ Thanh Hoa vẫn tiếm xưng hiệu đế, vào năm Gia Tĩnh thứ chín thì đổi niên hiệu là Nguyên Hòa, được bốn năm thì bị Đăng Dung đánh, trốn sang nước Chiêm Thành. Người trong nước lập em của Ninh là Hiến, đổi niên hiệu là Quang Chiếu. Đến năm (Vạn Lịch) thứ mười lăm mới biết Ninh còn sống, đón về Thanh Hoa, sau dời đến ở bên sông Tất Mã. Ninh chết, bầy tôi là bọn Trịnh Kiểm lập con của Ninh là Sủng. Sủng chết, không có con, người trong nước lập cháu đời thứ tư của Lê Huy là Duy Bang. Duy Bang chết, con của Kiểm là Tùng lập con của Duy Bang là Duy Đàm, nối đời ở Thanh Hoa, tự làm một nước.

Năm Vạn Lịch thứ mười chín, Duy Đàm dần mạnh, dấy binh đánh Mậu Hợp, Mậu Hợp thua chạy đến huyện Gia Lâm. Năm sau, mùa đông, Tùng dụ thổ nhân làm nội ứng, đoạt lấy ấn Đô thống sứ của Mậu Hợp, nhiều thân đảng bị hại. Bấy giờ có Mạc Đôn Nhượng trốn đến huyện Phòng Thành cáo nạn. Tổng đốc (Lưỡng Quảng) là Trần Cừ báo lên. Tùng lại bắt được Đôn Nhượng, thế càng lớn. Con của Mậu Hợp là Kính Cung cùng tông tộc là bọn Mạc Lí Tốn trốn đến châu Tư Lăng tỉnh Quảng Tây, còn Mạc Lí Cơ trốn đến Khâm châu. Chỉ còn Mạc Kính Bang có hơn chục vạn quân nổi dậy ở đạo Kinh Bắc đánh đuổi các quân bộ chúng của họ Lê là bọn Phạm Bạt Tụy-Phạm Bách Lộc. Đôn Nhượng lại được về. Bộ chúng bèn tôn Kính Bang làm Đô thống sứ, những kẻ trốn ở các châu Tư Lăng-Khâm châu đều được về. Họ Lê lại phát binh đánh châu Nam Sách, do đó Kinh Bang bị giết, thế họ Mạc càng suy. Có bọn Kính Cung-Kính Dụng đóng giữ ở các phủ Lạng Sơn-Cao Bằng, bọn Kính Chương đóng giữ phủ Tân An đạo Hải Đông, sợ họ Lê ép bắt, bèn chạy đến vùng Long châu-phủ Bằng Tường, vua sai thổ quan kể tình trạng những kẻ đó. Duy Đàm cũng gõ cửa ải xin sang cống, ban cho ấn vàng Quốc vương.

Năm (Vạn Lịch) thứ hai mươi mốt, bọn Tuần phủ Quảng Tây là Trần Đại Khoa dâng tấu nói: "Nước Man đổi họ như thay cờ, không đáng xét kẻ phản phục của nước làm nghịch thuận, chỉ nên xét kẻ nào phản ta phục ta làm nghịch thuận. Nay Duy Đàm dẫu mưu đồ khôi phục nhưng Mậu Hợp vốn là phiên thần của triều đình, há lại không được vâng mệnh mà điềm nhiền bỏ đi được. Trộm xét tội họ Lê tự ý dấy binh, không thể không hỏi tới. Con cháu nối dòng họ Mạc cũng không thể không giữ lại. Noi theo việc cũ của triều đình, cho họ Lê theo phục mà vẫn giữ gìn họ Mạc, so với bọn ở sông Tất Mã cũng không bị cắt đứt việc cúng tế. Kế này là hơn cả." Triều đình bàn nghe theo lời ấy. Năm sau, Đại Khoa liền sai sứ đến xét hỏi, Kính Dụng bèn sai sứ đến cửa quân cáo nạn, lại xin binh. Năm sau, mùa thu, Duy Đàm cũng sai sứ sang tạ tội, cầu phong. Bấy giờ Đại Khoa đã làm Tổng đốc Lưỡng Quảng, cùng với Tuần phủ Quảng Tây là Đái Diệu trao việc cho Tả giang phó sứ là Dương Dần Thu, Dần Thu bàn kế rằng: "Không chống họ Lê cũng không bỏ họ Mạc, kế ta đã định rồi." Sai sứ đến hai nơi xét hỏi, đem việc bọn Kính Cung xin ở lại phủ Cao Bình đến báo, còn Duy Đàm cũng nhiều lần sai sứ đến cầu phong. Dần Thu bèn hẹn với họ (Lê-Mạc), cùng báo cho quan Đốc-Phủ. Gặp lúc Kính Chương dẫn bộ chúng đến huyện Vĩnh An, bị họ Lê đánh bại, các phủ Tân An-Hải Đông đều mất, do đó bàn việc phong tước càng quyết chắc.

Bấy giờ Duy Đàm mượn tiếng khôi phục, không muốn theo việc Đăng Dung tự xử, không có ý trói mình vào ải. Dần Thu lại sai sứ sang dụ Duy Đàm, sứ giả của Duy Đàm đến báo làm như ước hẹn, đến hẹn bỗng lại nói với quan lại giữ ải rằng: "Quân lính đói mệt, đồ cống chưa sắm đủ. Vả lại họ Mạc là kẻ thù của ta còn chặn ở phủ Cao Bằng, cho nên chưa dám nghe lệnh." Rút cuộc bỏ đi giữa chừng. Bọn Đại Khoa dâng sớ về, bảo là bị bầy tôi nước ấy là bọn Trịnh Tùng chuyên quyền gây nên. Duy Đàm lại sai sứ đến cửa ải, nói rõ mình không bỏ trốn. Bọn Đại Khoa lại sai sứ sang dụ, Duy Đàm bèn vâng mệnh.

Năm (Vạn Lịch) thứ hai mươi lăm, (Duy Đàm) sai sứ sang hẹn, Dần Thu hẹn đến tháng tư. Đến hẹn, Duy Đàm đến ngoài cửa ải, quan phiên dịch hỏi sáu việc. Đầu là việc tự ý giết Mậu Hợp, đáp rằng: "Trả thù gấp nên không kịp xin lệnh." Thứ đến thân thế của Duy Đàm, đáp rằng: "Là thế tôn, tổ là Huy, triều đình từng phong tước cho." Thứ đến Trịnh Tùng, đáp rằng: "Đấy là bầy tôi nhiều đời của họ Lê, không làm loạn họ Lê." Thứ đến sao lại bỏ trốn, đáp rằng: "Vì lễ vật còn chưa đủ, không phải trốn." Thứ đến sao lại dùng ấn vương, đáp rằng: "Tạm quyền làm ra, xin hủy ngay." Chỉ còn việc cắt đất phủ Cao Bằng cho họ Mạc là vẫn chống nhau không dứt, lại dụ Duy Đàm rằng: "Đều là bầy tôi vâng chức cống. Họ Lê khi xưa náu được ở sông Tất Mã, nay họ Mạc há lại không náu được ở phủ Cao Bằng sao?" Bèn vâng lệnh, trao cho đồ nghi trượng vào ải, sai giữ lấy nó. Duy Đàm dẫn bộ chúng đến ải vào trướng phủ, đều như lệ cũ thời Đăng Dung. Lại gặp Dần Thu, xin dùng lễ chủ-khách, nhưng (Dần Thu) không nghe, lấy lễ bốn lần lạy rồi về. An Nam lại yên. Vua hạ chiếu trao chức Đô thống sứ cho Duy Đàm, ban lịch hẹn cống đều như lệ cũ thời họ Mạc. Trước đây, từ thời Lê Lợi đến thời Mạc Đăng Dung có lệ dâng tượng vàng thay người, đều buộc đầu trói mặt, Duy Đàm đã khôi phục lại danh chính, dùng tượng đứng vững mà thảnh thơi. Quan trấn thủ ghét chuyện ấy, sai đổi lại, vẫn để dáng cúi chầu, khắc trên lưng tượng ấy rằng: "Thế tôn họ Lê nước An Nam thần là Lê Duy Đàm không được bò cúi ở cửa trời, cung tiến người vàng thay người, tạ lỗi xin ân." Từ đó, họ Lê lại có nước An Nam, còn họ Mạc chỉ giữ được một quận Cao Bằng.

Năm (Vạn Lịch) thứ hai mươi bảy, Duy Đàm chết, con là Duy Tân lập, Trịnh Tùng nắm lấy quyền. Gặp lúc thổ tù là Phan Ngạn làm loạn, Duy Tân cùng Trịnh Tùng dời về giữ phủ Thanh Hóa. Năm (Vạn Lịch) thứ ba mươi tư, sai sứ vào cống, trao cho chức Đô thống sứ. Bấy giờ nhiều tông tộc họ Mạc ẩn náu ở bờ biển, nơi nơi đều tiếm xưng danh hiệu công-hầu-bá, xâm lấn biên cảnh, Duy Tân cũng không ngăn được. Quan trấn thủ biên giới sai sứ sang xét hỏi, nhiều lần phát binh dẹp trừ, dẫu có lúc phá diệt nhưng biên cảnh thường bị gây hại. Duy Tân chết, con là Duy Kì lập. Năm Thiên Khải thứ tư (năm 1624), phát binh đánh Mạc Kính Khoan, chiếm lấy được, giết con cả của hắn, bắt thê thiếp và con nhỏ của hắn đem về. Kính Khoan cùng con thứ trốn vào trong núi rồi về lấy lại Cao Bằng, thế càng yếu. Nhưng rút cuộc vào thời nhà Minh, hai họ (Lê-Mạc) chia giữ, rút cuộc không thể theo về một mối.

1. Mao Bá Ôn, Uông Văn Thịnh liệt truyện

Mao Bá Ôn tên chữ là Nhữ Lệ, người huyện Cát Thủy. Tổ là Siêu làm Tri phủ Quảng Tây. Năm Chính Đức thứ ba, Bá Ôn thi đỗ Tiến sĩ, trao chức Thôi quan phủ Thiệu Hưng. Chuyển làm Ngự sử, Tuần án Phúc Kiến-Hà Nam. Thế Tông lên ngôi, Trung quan là bọn Trương Duệ-Trương Trung bị khép tội chết, phe đảng chúng là bọn Tiêu Kính-Vi Bân ngầm hoãn tội chúng. Bá Ôn xin giết Kính-Bân, bọn trung quan im hơi. Đầu năm Gia Tĩnh, chuyển làm Đại lí tự thừa. Chuyển làm Hữu thiêm đô ngự sử, Tuần phủ Ninh Hạ. Lí Phúc Đạt ra khỏi ngục, bị tội khi làm Đại lí tự thừa khép nhầm tội người ấy mà bị cách chức về nhà. Lại được tiến cử làm quan cũ, làm Tuần phủ Sơn Tây, rồi chuyển làm quan ở Thuận Thiên nhưng đều chưa đến nhận chức. Đổi làm Lí viện sự, chuyển làm Tả phó đô ngự sử. Bị người nhà Triệu Phủ là Hựu Lương bới móc, lại bị giải chức đợi xét hỏi. Xong, bị cách chức.

Năm (Gia Tĩnh) thứ mười lăm, mùa đông, Hoàng tự được sinh, sắp ban chiếu cho người nước ngoài biết. Lễ bộ thượng thư là Hạ Ngôn cho rằng người nước An Nam lâu ngày không chầu cống, không nên sai sứ sang, xin đánh nước ấy. Vua bèn gọi Bá Ôn đến làm Hữu đô ngự sử, cùng Hàm Ninh Hầu là Cừu Loan sắm binh đợi lệnh. Lấy việc tang cha để từ chối, vua không nghe. Năm sau, tháng năm thì đến kinh, dâng phương lược có sáu điều. Gặp lúc thế tôn vua An Nam là Lê Ninh sai bồi thần là bọn Trịnh Duy Liêu đến kể việc phản nghịch của Mạc Đăng Dung, xin dấy binh phạt tội. Đế ngờ việc ấy không thật, lệnh tạm hoãn binh, sai quan trấn thủ Lưỡng Quảng-Vân Nam xét hỏi báo về. Lại sai Bá Ôn làm Hiệp lí viện sự. Ngự sử là Hà Duy Bách xin cho Bá Ôn được chịu hết tang cha, vua không nghe. Bá Ôn cáo bệnh không ra, đến lúc hết tang cha mới ra làm việc. Mùa đông năm đó, chuyển làm Công bộ thượng thư. Năm (Gia Tĩnh) thứ mười bảy, mùa đông, bọn Kiềm Quốc Công là Mộc Triều Phụ đem biểu xin hàng của Đăng Dung đến, xin tha tội cho sang cống. Trước đây, Tuần phủ Vân Nam là Uông Văn Thịnh tấu rằng Đăng Dung nghe tin vua phát binh đến đánh, bèn sai sứ sang dò xét. Vua đã lệnh theo chiếu phát binh lúc trước, đến đây Văn Thịnh lại theo kế của kẻ hàng người An Nam là Võ Văn Uyên, nói rõ là Đăng Dung có thể phá được, đã truyền hịch sang An Nam, sai vâng mệnh dâng đất. Đến đây, đưa tờ tấu của Triều Phụ cho triều đình bàn việc, đều nói là không nên nghe theo (dùng binh). Rồi đổi Bá Ôn làm Binh bộ thượng thư kiêm Hữu đô ngự sử, hẹn ngày lên đường (sắm binh đợi lệnh). Vua thấy dùng binh là việc lớn, không chắc là phải đánh, có ý muốn dùng oai bắt nước ấy theo phục; mà Binh bộ thượng thư là Trương Toản chẳng có kế sách gì, xem ý vua ra sau mới làm. Triều đình phần nhiều bàn luận không nên phát binh mà không ai dám ra mặt can ngăn. Hạ lệnh (bàn luận) ra được mấy tháng, quan Thị lang làm Tổng đốc Lưỡng Quảng là Trương Kinh đem phương lược dùng binh dâng lên, lại nên nên phát ba chục vạn quân, dùng một trăm sáu chục vạn thạch lương. Tri châu Khâm châu là Lâm Hi Nguyên lại ra sức nói là dễ đánh được Đăng Dung, xin phát binh liền ngay. Toản không dám quyết, lại xin triều đình bàn luận. Bàn xong mà chẳng có kế sách gì, vua không vui, bãi chức Toản, lại dừng binh. Sai Bá Ôn vẫn làm Hiệp lí viện sự.

Năm sau, tháng hai, vua đến phủ Thừa Thiên, hạ chiếu Bá Ôn làm Tổng đốc quân vụ các phủ Tuyên-Đại-Sơn Tây. Chốc lại tuyển cung liêu, kiêm thêm chức Thái tử tân khách. Phủ Đại Đồng có năm lũy là Trấn Biên, Trấn Xuyên, Tư Tứ, Trấn Hà, Trấn Lỗ cách nhau hơn hai trăm dặm, là chỗ xa nhất gần trại giặc. Từ lúc Tuần phủ là Trương Văn Cẩm vì đắp lũy mà dẫn đến loạn, sau đó chẳng ai dám bàn việc sửa lũy. Bá Ôn nói: "Sinh ra sự biến ấy là do dùng không đúng người, không nên nói lời xằng bậy." Rút cuộc đắp lũy. Mộ được ba ngàn quân phòng thủ, cấp cho ruộng tốt, miễn hết thuế phú, do đó việc biên phòng được lợi. Xét công, gia làm Thái tử thiếu bảo.

Bấy giờ Đăng Dung sợ bị đánh, nhiều lần dâng biểu xin hàng, vua cũng nhân đó mà vỗ về, sai Thị lang là Hoàng Oản sang chiêu dụ. Oản đòi hỏi nhiều thứ, vua giận, bãi chức Oản. Lại hạ lệnh triều đình bàn luận, đều nói là nên đánh, vua nghe theo. Tháng bảy nhuận, sai Bá Ôn-Cừu Loan đánh miền nam. Các quan văn-võ từ hàng tam phẩm trở xuống không theo ý thì cho làm Tòng sự theo quân. Bọn Bá Ôn đến Quảng Tây, hội bọn Tổng đốc là Trương Kinh, Tổng binh An Viễn Hầu là Liễu Tuần, Tham chính là Ông Vạn Đạt-Trương Nhạc bàn việc, phát cả thảy hơn hai chục vạn năm ngàn quan binh Lang Thổ của các tỉnh Lưỡng Quảng-Phúc Kiến-Hồ Quảng, chia làm ba đường, từ các xứ Bằng Tường-Long Động-Tư Lăng đi đánh, lại lấy kì binh làm thanh viện. Truyền hịch sai Tuần phủ Vân Nam là Uông Văn Thịnh dẫn quân đến đóng ở bãi Liên Hoa, cũng chia làm ba đường đi. Sắp đặt đã xong, gặp lúc Loan có tội bị gọi về, liền lấy Liễu Tuần thay. Năm (Gia Tĩnh) thứ mười chín, mùa thu, bọn Bá Ôn đến đóng ở phủ Nam Ninh, truyền hịch cho quan dân An Nam, dụ ý thiên triều dấy binh 'hưng diệt kế tuyệt', chỉ kể tội cha con Đăng Dung, ai đem quận huyện hàng thì lấy đất ấy cho kẻ đó. Treo thưởng lớn cho việc bắt được cha con Đăng Dung, lại tuyên dụ nếu Đăng Dung dâng bản đồ đất đai, sổ hộ khẩu để theo hàng thì liền ban chiếu thư tha tội. Đăng Dung cả kinh, sai sứ đến chỗ Ông Vạn Đạt xin hàng, lời lẽ rất thống thiết. Vạn Đạt đem sứ đến chỗ Bá Ôn. Bá Ôn thừa chế cho phép, tuyên đọc ân oai của thiên tử, thu nhận bản đồ, sổ sách cùng đất bốn động Khâm châu mà Đăng Dung trả lại. Lại sai về nước vâng lệnh. Gửi sớ báo nhanh về. Vua cả mừng, hạ chiếu đổi nước An Nam thành An Nam đô thống sứ ti, lấy Đăng Dung làm Đô thống sứ, thế tập, đặt mười ba Tuyên phủ ti, sai tự sắp đặt. Bá Ôn vâng mệnh (dùng binh) hơn một năm, không bắn một mũi tên mà định được An Nam,, là do vua vốn không muốn dùng binh vậy. Luận công, gia làm Thái tử thái bảo.

Bá Ôn khí độ trầm nghị, sức ăn uống nhiều hơn chục người, làm việc quyết đoán, không động sắc mặt. Lúc có việc ở An Nam thì bọn Vạn Đạt-Trương Nhạc có nhiều công, Bá Ôn ra sức tiến cử họ về triều, hai người ấy bèn đều được dùng.

Uông Văn Thịnh tên chữ là Hi Chu, người huyện Sùng Dương. Năm Chính Đức thứ sáu thi đỗ Tiến sĩ, trao chức Thôi quan phủ Nhiêu Châu. Có kẻ tên là Cố Tung cầm đao vào phủ đệ của Hoài Vương là Hựu bị bắt, vu cho Văn Thịnh sai đi đâm Hoài Vương, bèn hạ ngục xét hỏi, lâu sau rõ ràng, trả lại chức, việc này chép rõ trong Hoài Vương liệt truyện. Vào làm Binh bộ chủ sự, cùng đồng liêu can ngăn việc Võ Tông tuần thú miền nam, bị phạt đánh đòn ở dưới cửa khuyết. Đầu năm Gia Tĩnh, trải làm Tri phủ Phúc Kiến, làm Phó sứ Chiết Giang-Thiểm Tây, đều sửa dựng trường học. Chuyển làm Án sát sứ Vân Nam.

Năm (Gia Tĩnh) thứ mười lăm, mùa đông, triều đình nghị muốn đánh An Nam, thấy Văn Thịnh có tài, liền bái làm Hữu thiên đô ngự sử, Tuần phủ đất ấy (Vân Nam). Kiềm Quốc Công là Mộc Triều Phụ còn trẻ, việc binh đều do Văn Thịnh quyết định. Phó sứ là Bao Tượng Hiền nói rằng đánh dẹp không bằng vỗ về, Văn Thịnh cho là phải. Gặp lúc nghe tin Mạc Đăng Dung đã soán ngôi, bầy tôi cũ của vua An Nam không phục, phần nhiều giữ đất dấy binh. Có kẻ tên là Võ Văn Uyên giữ phủ Tuyên Quang đem một vạn bộ chúng đến hàng, dâng bản đồ vẽ đường tiến binh, lại nói bầy tôi cũ là bọn Nguyễn Nhân Liên-Lê Cảnh Mi đều chia giữ một vùng chống lại Đăng Dung, nếu quân thiên triều đến thì kêu gọi nghĩa sĩ trong nước, các vùng cùng nổi lên thì có thể bắt được Đăng Dung. Văn Thịnh đem việc ấy báo lên, trao áo phục hàng tứ phẩm cho Văn Uyên, cấp dải mũ cho con em. Văn Uyên lại gọi người các nước gần kề An Nam giúp đánh, đều vâng mệnh. Lại tấu rằng: "Lão Qua đất rộng quân đông, có thể giữ được một mặt, còn các nước Bát Bách-Xa Lí-Mạnh Lương nhiều binh tượng, có thể sắm điều động. Tù trưởng đều chưa nối chức, xin bỏ việc xét hỏi, trao cho chức quan trước, các xứ ấy tất gõ trống theo dùng." Đế đều nghe theo. Văn Thịnh lại truyền hịch sang các xứ An Nam đem đất đai theo về thì được giữ chức cũ, cùng dụ Đăng Dung theo lệnh. Đánh phá doanh trấn thủ, Phương Doanh đến cứu nhưng không được lợi. Nhiều bộ chúng của Đăng Dung đến theo hàng. Văn Thịnh sắp đặt doanh trại đắp lũy ở bãi Liên Hoa mà giữ ở đấy. Bãi Liên Hoa thuộc huyện Mông Tự, là chỗ trọng yếu thủy-lục vùng Giao-Quảng, là chỗ tim bụng của An Nam. Đăng Dung càng sợ, xin hàng, xin sang cống. Nhân đó nói Lê Ninh là con nhà họ Nguyễn, hắn giữ ấn cũng là giả. Văn Thịnh báo về, triều định nghị luận không nghe theo. Thế rồi Mao Bá Ôn đến Nam Ninh, nhận biểu hàng của Đăng Dung như lời bàn của Văn Thịnh. An Nam bèn định. Trận ấy, thành công là do ở Bá Ôn, nhưng phạt mưu chế thắng là do công nhiều của Văn Thịnh. Kịp lúc luận công, Bá Ôn và quan trấn thủ Lưỡng Quảng đều được tăng chức, còn Văn Thịnh chỉ được thưởng tiền bạc.

Bao Tượng Hiền là người huyện Thiệp. Thi đỗ Tiến sĩ, trao chức Ngự sử, trải làm Phó sứ Vân Nam. Mao Bá Ôn gửi hịch cho Văn Thịnh hội binh, lấy Tượng Hiền lĩnh cánh quân giữa. Rồi chuyển làm Hữu phó đô ngự sử, Tuần phủ Thiểm Tây, thay Thạch Giản làm Tuần phủ Vân Nam.

2. Ông Vạn Đạt, Trương Nhạc liệt truyện (Thanh - Trương Đình Ngọc soạn)

Ông Vạn Đạt tên chữ là Nhân Phu, người huyện Yết Dương. Năm Gia Tĩnh thứ năm, thi đỗ Tiến sĩ, trao chức Hộ bộ chủ sự, lại chuyển làm Lang trung, ra làm Tri phủ Ngô Châu. Bấy giờ Hàm Ninh Hầu là Cừu Loan trấn thủ Lưỡng Quảng, thả bộ chúng làm điều ngang ngược, Vạn Đạt bắt trói kẻ ngang ngược nhất trong đó, đánh đòn hắn. Được bốn năm, công danh rạng rỡ. Gặp lúc triều đình nghị bàn đánh An Nam, chọn Vạn Đạt làm Phó sứ Quảng Tây, chuyên bàn việc An Nam. Vạn Đạt xin với Tổng đốc là Trương Kinh rằng: "Mạc Đăng Dung nói to là Trung Quốc nếu không trị tội phản nghịch của thổ quan được thì sao hỏi tội ta được? Nay thổ ti châu Bằng Tường là Lí Hoàn giết thổ quan của mình là Trân, thổ mục phủ Tư Ân là Lô Hồi bấy động chín ti làm loạn, thổ ti Long Châu là Triệu Khải giết cháu họ là Toại-Noãn, lại liên kết với người Điền Châu là Vi Ứng giết em Toại là Bảo. người Dao động Đoạn Đằng là Hầu Công Đinh lại chiếm giữ chỗ vững chắc. Bọn ấy cùng làm việc ác cùng giúp nhau, nếu một sớm liên kết làm nội ứng thì ta sẽ không giữ được. Nên bắt mấy người bọn ấy trước hỏi tội thì dễ đánh An Nam thôi." Kinh nói: "Được. Cậy vào ông làm." Do đó kể tội Hoàn-Ứng, bắt Hồi, chiêu dụ chín ti, dụ giết Khải, lừa tố cáo Công Đinh để bắt Công Đinh, bắt hết chúng. Rồi đem hai cánh quân phá dẹp hang ổ của chúng. Lại bàn cắt bốn động nhập vào phủ Nam Ninh, bắt hàng chúa động là Hoàng Hiền Tướng. Đăng Dung bèn sợ. Lại chuyển làm Hữu tham chính Chiết Giang. Kinh cho rằng nếu đánh An Nam mà không có Vạn Đạt là không được, tấu xin giữ ở lại, bèn sai làm Tham chính đến Quảng Tây. Thế rồi Mao Bá Ôn hội binh đến đánh, Vạn Đạt gửi thư cho Bá Ôn, nói: "Khiến cho bên ấy theo vái lạy rồi báo thành công là kế trên hết. Khiến cho bên ấy sợ hãi mà không dám không theo là kế giữa. Đánh giết dẹp sạch là kế kém nhất." Bá Ôn cho là phải. Gặp lúc bắt được gián điệp người An Nam là Đinh Nam Kiệt, Vạn Đạt cởi trói cho hắn, đối đãi hậu hĩnh, sai cho về để tỏ rõ binh oai của thiên triều. Đăng Dung cả sợ, bèn đến chỗ Bá Ôn xin hàng. Ở việc ấy, Vạn Đạt có công nhất, được thưởng hơn lệ thường. Nhưng vua biết tài ấy, chuyển làm Án sát sứ Tứ Xuyên, trải làm Tả-Hữu bố chính sứ Thiểm Tây.

Trương Nhạc tên chữ là Duy Kiều, người huyện Huệ An. Từ thủa nhỏ ham học, tự mong thành một nhà Nho lớn. Năm Chính Đức thứ mười một thi đỗ Tiến sĩ, trao chức Hành nhân. Võ Tông trị bệnh ở Báo phòng, bèn xin sai đại thần theo hầu, sai quan Đài gián thay nhau trực chăm sóc vua, xem việc uống thuốc, ngăn ngừa có biến ở ngoài vào, nhưng vua không nghe. Lại cùng đồng liêu can ngăn việc đi tuần miền nam, bị phạt đánh đòn ở dưới cửa khuyết, đuổi ra làm Nam kinh quốc tử học chính. Thế Tông nối ngôi, phục chức cũ, chuyển làm Hữu ti phó. Vì mẹ già, xin về chăm, đổi làm Nam kinh võ tuyển viên ngoại lang, trải làm Chủ khách lang trung. Bấy giờ đang bàn nghị về lễ tế tổ tiên. Trương Tổng xin làm tượng vị sinh ra đầu điên để tế, quan bộ Lễ đều dạ dạ nghe theo. Nhạc nói với Thượng thư là Lí Thời rằng: "Không bằng làm bài vị vị tổ đầu hoàng đế, chớ làm tượng người." Thời cả mừng, báo cho Tổng, Tổng không cho là phải, lấy ý lúc đầu tấu lên. Vua rút cuộc sai đề tên bài vị ông tổ đầu hoàng đế như lời Nhạc. Tổng mang lòng ghét, điều Nhạc ra làm Đề học thiêm sự Quảng Tây. Đi tuần xét Liễu Châu, quân thiếu lương làm ầm lên, đóng cửa thành năm ngày, Nhạc bèn sai quan giữ thành mở cửa, gọi kẻ làm ầm lên đến cấp cho lương thực. Rồi bày kế bắt kẻ gây lỗi, bắt giam ngục. Vào chúc mừng vua, đổi làm Đề học Giang Tây. Không vái tạ Tổng, Tổng đuổi bảy người tuyển cống của tỉnh Quảng Tây, nhân đó biếm Nhạc ra làm Giám khoa đề học Quảng Đông, chuyển làm Tri phủ Liêm Châu, đốc dân khai khẩn ruộng hoang, dạy dân làm con quay chuyển nước. Dân Liêm Châu phần nhiều lấy ngọc châu ở đầm, Nhạc ở đấy bốn năm mà chưa từng lấy một hạt ngọc châu.

Vua sai sứ sang An Nam hỏi tội giết vua của Mạc Đăng Dung, Nhạc nói với Tổng đốc là Trương Kinh rằng: "Họ Mạc soán họ Lê, không cần tra xét cũng biết vậy, nếu sứ đến thì chỉ làm cho họ kêu căng làm nhục tiếng nước, xin giữ lại chớ cho sứ sang." Kinh không nghe. Tri châu Khâm châu là Lâm Hi Nguyên dâng sớ xin quyết đánh họ Mạc, Nhạc gửi thư can ngăn việc ấy, lại tấu lên sáu điều không nên đánh. Gửi thư cho quan Chấp chính rằng: "Theo lời dân biên giới báo về thì Lê Chửu nối tước nhưng không có con, phải lấy con của anh là Huệ làm con. Trần Cảo làm loạn, Chửu bị hại, Cảo soán ngôi, không lâu thì người trong nước lập Huệ. Cảo chạy đến Lạng Sơn. Huệ lập được bảy năm thì bị Mạc Đăng Dung ép, trốn ra ở Thanh Hoa. Đăng Dung lập em nhỏ của Huệ là Phi mà làm Tướng quốc, rút cuộc giết Phi tự lập. Họ Lê ở miền nam, họ Mạc ở miền giữ, họ Trần ở miền tây bắc. Sau đó Lạng Sơn cũng bị Đăng Dung đánh lấy. Họ Trần bèn mất, còn nơi mà họ Lê ở là đất Nhật Nam xưa kề với nước Chiêm Thành, bên biển lớn. Đăng Dung không thể tiến vào nam, cho nên hai bên còn giữ. Gần đây Đăng Dung lại trao đất Giao Châu cho cháu mình là Phúc Hải, còn mình tự làm doanh ở phủ Đô Trai đạo Hải Đông. Đại khái trong các phủ của An Nam thì phủ đạo Hải Đông lớn nhất, là chỗ gọi là quận Vương Sơn. Giặc ấy đã có tiếng là soán nghịch rồi cho nên thường rèn binh phòng bị ta, lại thường nói lên là xin vào cống. Người biên giới thấy không phải là vua cũ cho nên không dám tấu về. Kẻ này cho rằng bên ấy nội loạn mà chưa từng xâm lấn ta, nên hãy vỗ về, đợi bình loạn xong mới cho cống. Nếu phải dùng binh thì thắng thua lợi hại là việc Nhạc chẳng dám nói." Chấp chính nhận thư chẳng quyết được. Rồi Mao Bá Ôn đến duyệt binh, Trương Kinh đều đem việc quân cho Nhạc làm. Lại thấy Ông Vạn Đạt có tài, tiến cử hai người cho Bá Ôn dùng. Nhạc cùng Bá Ôn nói chuyện mấy ngày, Bá Ôn nói: "Trao việc cho ông vậy." Bèn cho Đăng Dung hàng như lời bàn của Nhạc. Gặp lúc Nhạc được chuyển làm Đề học phó sứ Chiết Giang, lại chuyển làm Tham chính, Bá Ôn tấu xin giữ lại, bèn đổi làm Tham chính Quảng Đông, chia giữ phía bắc bờ biển. Đăng Dung đã hàng, thêm bổng lộc một cấp, ban tiền bạc cho Nhạc.

3. Đường Trụ, Phan Trân liệt truyện

Đường Trụ tên chữ là Bình Hầu, người huyện Quỳnh Sơn. Năm Hoằng Trị thứ mười lăm, thi đỗ Tiến sĩ, trao chức Hộ bộ chủ sự. Có tang lại về. Lưu Cẩn tố cáo những người đã hết hạn tang mà lâu ngày không đến nhận chức, do đó bị đoạt chức. Sau khi Cẩn bị tội, lại gọi dùng, vì mẹ già nên không ra. Đầu năm Gia Tĩnh, ra làm quan cũ, dâng sớ can ngăn xây đắp nội cung, xin truy thụy dựng miếu thờ cho bầy tôi tử tiết của nhà Tống là Triệu Dữ Lạc, cử làm Viên ngoại lang, chuyển làm Đề học thiêm sự Quảng Tây, sai thổ quan cùng người Dao-Man đều sai con em đến học. Chuyển làm Phó sứ Kim Đằng. Thổ tù là Mãng Tín ngang ngược, đánh bắt được hắn. Các bộ Mộc Bang-Mạnh Dưỡng gây binh, Trụ sai sứ tuyên dụ, người Mộc Bang bèn dâng đất. Rồi chuyển làm Tả bố chính sứ Quảng Tây. Kịp lúc quan quân đánh giặc Cổ Điền, lâu ngày không lập công, Trụ sai sứ đến vỗ về sừ soái giặc ấy rằng: "Ta là Đường sứ quân trước đây sai con ngươi vào học đây." Giặc liền cởi giáp. Chuyển làm Hữu phó đô ngự sử, Tuần phủ Nam-Cám, dời đến làm quan ở phủ Sơn Đông. Lại chuyển làm Nam kinh hộ bộ hữu thị lang. Năm (Gia Tĩnh) thứ mười lăm, đổi làm quan ở Bắc bộ, chuyển làm Tả thị lang. Vua thấy người An Nam lâu năm không cống, muốn đến đánh, Quách Huân lại hùa theo. Hạ chiếu sai quan Cẩm y đến xét hỏi tình trạng, trong ngoài nghiêm binh đợi lệnh. Trụ dâng sớ can rằng: "Như việc hôm nay chỉ là đòi bên ấy sang cống mà thôi, mà binh thì không nên phải dùng tới, quan cũng không nên rỗi mà sai đi. Nếu có đánh nước ấy thì có bảy điều không nên, xin bày từng điều rằng: Đế vương ngày xưa không dùng người Trung Quốc để coi trị người Man-Di, cho nên nước An Nam không nên đánh, ghi rõ ở trong 'Tổ huấn', đó là một. Thái Tông đã diệt Lê Quý Li, không tìm được dòng dõi họ Trần mới đặt quận huyện ở nước ấy, sau đó dùng binh liên miên không dứt, Nhân Miếu (Nhân Tông) lấy đó làm hối hận. Chương Hoàng Đế theo ý người trước, bỏ nước ấy mà không giữ nữa. Nay nên nghe theo người trước, đó là hai. Người Di nước ngoài phân tranh là cái lợi của Trung Quốc. An Nam từ thời Ngũ đại đến thời Nguyên, tám họ Khúc-Lưu-Thiệu-Ngô-Đinh-Lê-Lí-Trần thay, khi hưng khi phế, do đó mối nguy ở miền Lĩnh Ngoại bèn ít. Nay lại phân tranh, là lúc ta không nên xét hỏi, sao lại đem con đỏ để huy hiếp giặc nhỏ, cắt tim bụng để vá đắp chân tay, chỉ vô ích mà có hại, đó là ba. Nếu là gần cõi Trung Quốc thì nên thừa loạn mà chiếm lấy, nhưng thần xét ngày xưa Mã Viện đánh miền nam, vào sâu ở Lãng Bạc, quân lính chết mất quá nửa, cột đồng dựng nên làm cõi tận cùng của nhà Hán là chỗ tại phủ Tư Minh ngày nay mà thôi. Triều vua trước từng đánh dẹp được nước ấy nhưng hễ phục lại phản, người ngựa Trung Quốc chết mất tính đến hàng mấy chục vạn, vắt hết tài lực trong hơn hai chục năm mà chỉ được cái danh hão lập mấy chục quận huyện rồi thôi. Huống chi đã có việc cũ đánh cũng không thắng như Thái Tông-Thần Tông nhà Tống, Hiến Tông-Thế Tông nhà Nguyên đây? Lấy đó làm gương soi, đó là bốn. Người nước ngoài vào cống là cái lợi của ta. Một là vâng chính sóc để oai phục nước bên cạnh, hai là qua lại trao đổi để làm giàu cho nước mình. Cho nên nay dẫu binh loạn mà vẫn nối đời vâng chiếu lệnh, sắm phương vật, gõ cửa ải xin vào, chỉ là quan trấn thủ thấy họ tên không khớp mới gạt đi. Đấy là bên ấy muốn cống không được, không phải là chống lại không cống. Lấy đó mà trách bên ấy là không thuận lẽ. Vả lại đã dấy binh thì phải cấp lương. Nay ở Tứ Xuyên có việc lấy gỗ, ở Quý Châu có phát binh đánh Khải Khẩu, còn ở Lưỡng Quảng tích trữ mấy chục vạn (lương) cũng hao bớt vì phát binh đánh giặc Điền Châu là bọn Sầm Mãnh. Lại nữa đang có nhiều việc đắp dựng, các nơi binh lương phải chuyển cấp cho việc đắp dựng, nếu phát mấy chục vạn quân thì lấy gì mà cấp cho nó? Đó là sáu. Nhưng điều mà thần lo lại không chỉ có vậy. Ngày xưa nhà Đường suy là do từ Minh Hoàng bắt đầu đánh nước Nam Chiếu, nhà Tống suy là do từ Thần Tông bắt đầu đánh nước Liêu. Nay giặc bắc (người Thát Đát) ngày càng mạnh, chiếm lấy miền Hà Sáo của nước ta, lính ngoài biên thường làm phản, hủy phên dậu của nước ta, giặc bắc đang lớn mà lại bàn việc đánh miền nam, nhỡ có điều không may thì ai chịu lỗi ấy? Đó là bảy. Bọn quan võ Cẩm y thì tối tăm ở việc dùng lễ nghi, lỡ có làm xáo trộn việc đúng sai, khiến cho bên ấy (An Nam) không phục, trái lại làm tổn quân oai. Nếu sai bọn ấy xét hỏi sự tình thì đánh chắc không được, không đánh cũng chẳng xong, tiến thoái không giữ được, sao lại bày mưu ấy? Vả chăng nay chiếu nghiêm binh để đợi lệnh vừa phát ra, mà cái hại của việc cấp phát (binh lương) rối ren đã rõ hình, đấy là nỗi lo không phải ở tại giặc ngoài mà là ở tại trong nước vậy. Xin dừng sai quan lại đến xét hỏi, bỏ việc phát binh, vậy thì thiên hạ may lắm."

Chuyển sớ cho bộ Binh, xin theo lời ấy. Được xem, đợi quan coi xét về lại bàn nghị tiếp. Năm sau, tháng tư, vua quyết kế đến đánh. Thị lang là Phan Trân, Tổng đốc Lưỡng Quảng là Phan Đán, Án sát ngự sử là Dư Quang thay nhau can ngăn, vua đều không nghe. Sau sai Mao Bá Ôn đến, rút cuộc vỗ về bắt người nước ấy theo hàng.

Phan Trân tên chữ là Ngọc Khanh, người huyện Vụ Nguyên. Năm Hoằng Trị thứ mười lăm, thi đỗ Tiến sĩ. Giữa năm Chính Đức, trải làm Thiêm sự Sơn Đông, chuyển làm Tuần phủ Duyện Châu. Giặc là bọn Lưu Thất chợt đến, vì có phòng bị nên không dám đánh, phải bỏ đi, cướp huyện Khúc Phụ. Trân tấu dời huyện trị rồi đắp thành ở huyện. Chuyển làm Phó sứ Phúc Kiến, Tả bố chính sứ Hồ Quảng. Năm Gia Tĩnh thứ bảy, làm chức Hữu phó đô ngự sử, Tuần phủ Liêu Đông. Trải làm Binh bộ tả thị lang. Bấy giờ nghị bàn đánh An Nam, Trân dâng sớ can ngăn rằng: "Trần Cảo-Mạc Đăng Dung đều là giặc soán nghịch, Lê Ninh cùng cha hắn là Huệ không cầu phong vào cống cũng đã hai chục năm, xét về nghĩa lớn đều cũng phải đánh, sao lại chỉ cho Ninh làm tả hữu? Vả lại đất ấy không đáng để đặt thành quận huyện, phản phục không đủ phiền đến Trung Quốc. Nay giặc bắc (người Thát Đát) ngày càng lớn, bày trướng nối liền vạn dặm, tin gấp nghe hằng ngày, nếu bỏ việc đề phòng ở cửa đình mà lo việc đánh người Man nơi xa thì không phải là kế hay. Nên sai đại thần văn võ toàn tài đến nói phao lên là đi đánh, truyền hịch kể tội Đăng Dung, tha tội cho kẻ vây cánh của hắn, lại sai Lê Ninh cùng hợp đánh, vậy thì cha con giặc (Mạc) không bị bắt cũng hàng, sao phải cho quân vào?" Vua trách Trân trái mệnh đã ban, cách chức về quê. Rồi lại ban chiếu phục chức, rồi nghỉ.

Cháu họ của Trân là Đán, tên chữ là Hi Chu. Năm Hoằng Trị thứ mười tám, thi đỗ Tiến sĩ, làm Tri phủ Chương Châu-Thiệu Võ. Lại chuyển làm Tả bố chính sứ Chiết Giang, không lấy nhận vàng cho tặng. Năm Gia Tĩnh thứ tám, chuyển làm Hữu phó đô ngự sử, Tuần phủ Vân Dương, nhiều lần dẹp được giặc lớn. Chuyển làm Hình bộ hữu thị lang. Năm (Gia Tĩnh) thứ mười lăm, làm Binh bộ tả thị lang, Đề đốc Lưỡng Quảng quân vụ. Hạ chiếu gọi cho Mao Bá Ôn đi đánh An Nam. Đán đi qua nhà Bá Ôn, bảo Bá Ôn rằng: "An Nam không phải là giặc trước cửa đình. Ông nên lấy cớ chịu tang mà từ chối. Nếu có đi đến thì nên thong thả hoãn binh, đợi bên ấy nghe lệnh theo hàng, nhân đó mà vỗ về, đấy là kế vẹn toàn." Đán đến Lưỡng Quảng thì vừa gặp sứ An Nam đến, gửi sớ về nói: "Mạc Đăng Dung soán ngôi họ Lê cũng như họ Lê soán ngôi họ Trần. Triều đình sắp dấy binh hỏi tội, Đăng Dung liền có sai sứ sang xin cống, bên ấy há không thường sợ oai trời sao? Xin tạm để bọn thần ở lại xem sự biến, đợi nước ấy tự yên. Nếu Mạc Đăng Dung vâng mệnh dâng công thì đủ lễ với Trung Quốc rồi, sao phải phát binh đến cùng nơi vạn dặm đây?"

Phát sớ xuống hai bộ Lễ-Binh. Chú họ là Trân vừa nói lời can ngăn mà bị tội, Thượng thư là Nghiêm Tung-Trương Toản gạt sớ của Đán đi không nghe. Gặp lúc Bá Ôn vào kinh, thấy sớ của Đán không được duyệt, nói là chức Tổng đốc việc trọng, nên chọn kẻ biết dùng binh. Bèn đổi Đán làm Nam kinh binh bộ, lấy Trương Kinh thay Đán. Chưa đi thì lấy cớ bệnh xin về nghỉ, nói lời mạo phạm Bá Ôn. Vua giận, cách chức về quê.

Sau khi Đán dâng sớ được nửa năm, Tuần án ngự sử Quảng Đông là Dư Quang cũng nói: "Họ Lê dù là quân chủ bị xâm hại nhưng đối với họ Trần cũng là quân giặc, chống lại Trung Quốc, với bản triều là kẻ đứng đầu gây loạn. Nay mất nước, đấy là trời mượn tay Đăng Dung để báo thù lại vậy. Từ thời Tống đến nay, họ Đinh chuyển cho họ Lí, họ Lí bị họ Trần đoạt lấy, họ Trần lại bị họ Lê soán ngôi. Nay họ Lê lại trao cho họ Mạc. Nếu cứu họ Lê thì thế không giúp được. Thần đã sai sứ sang đòi bên ấy sang cống rồi. Đường lối xa xăm, nếu về xin lệnh thì làm lỡ thời cơ. Xin cho thần được tùy cơ làm việc." Vua thấy sớ của Quang dẫn việc thời Ngũ quý-Lục triều, giao cho bộ Binh xem xét. Xét rằng Quang khinh suất, cách chức ấy. Không lâu, Quang dâng sách Hương thí lục. Lễ bộ thượng thư là Nghiêm Tung xét lỗi sai trong sách ấy, tấu lên, bị xóa bỏ sách. Quang là người huyện Giang Ninh.