Con đường tơ lụa

Nguyễn Phổ dịch từ nguyên bản tiếng Trung Quốc nhan đề “Tơ trừ chi lữ” của tác giả Xa Mộ Kỳ nhà xuất bản Tam Liên Thư Điếm - Hương Cảng năm 1986.

LỜI NÓI ĐẦU

Do đâu mà con đường tơ lụa có sức hấp dẫn như vậy? Những ai đã đi thăm con đường xưa nổi tiếng trong và ngoài nước Trung Quốc đều tự cảm nhận sức hấp dẫn ấy.

Ông Trần Thuấn Thần, người từng đi lại nhiều lần trên con đường tơ lụa đã nói với tôi rằng mỗi lần đi như thế mình lại phát hiện ra những cái mới và hiểu thêm được những điều mới.

Tôi đang dài dòng cho ông biết mấy người bạn của tôi chưa từng đi lần nào cả, ông ngồi yên lắng nghe, rồi cười, nói với vẻ khiêm hòa:

- Ồ thú lắm! Tôi cũng cần phải đi lại. Năm 1978 và 1979, tôi đã phải mất bảy tháng để đi từ Tây An, men theo dấu chân của các đội con buôn đi bằng lạc đà thời cổ đại qua từng trạm, từng trạm để thám hiểm, đi khắp hành lang Hà Tây và xuyên qua ba tuyến đường ở Nam Bắc dãy Thiên Sơn, toàn bộ hành trình phải đến hơn 5000 cây số.

Đối với tôi sự cảm nhận về sức hấp dẫn của con đường tơ lụa, nếu được nói một câu khái quát thì tôi sẽ nói trong cuộc tìm tòi thám hiểm này rằng tôi cảm thấy thích thú vô cùng.

Chỉ nói đến phong cảnh thiên nhiên thôi thì nào núi non, sông ngòi sa mạc, thảo nguyên - chúng luôn luôn biến hóa. Cái bao la khoáng đạt cố nhiên là nét đặc sắc của chúng, nhưng còn núi cao, vực sâu hoặc trong lòng sa mạc thì cảnh sắc kỳ ảo, rực rỡ, tráng lệ khiến người ta không ngớt thán phục. Trên đường đi thường có thể không biết tên địa phương, nhưng ta có cảm tưởng hầu như được xem những bức tranh sơn dầu cổ điển vậy. Cảnh đẹp do chính ta phát hiện và tự nhận ra sự hứng thú đặc biệt của chính mình.

Trên con đường tơ lụa, rải rác đây đó là những tòa cổ thành, những hang thạch động, chúng lóe lên ánh sáng ngọc ngà thần bí của một thời. Cho dù đã có nhiều nhà bác học trong và ngoài nước nghiên cứu, nhưng cũng vẫn chưa làm lộ ra hết bức màn bí mật trong bản thân chúng. Người có lòng cứ việc tìm đến từng chút, từng nơi, còn đối với người đương thời hoặc đối với hậu thế, đó cũng là công việc mang rất nhiều ý nghĩa.

Ngay như lộ tuyến của con đường tơ lụa đến nay vẫn chưa hoàn toàn được xác định. Phương hường tổng thể của nó thì đã rõ, song truy tầm theo dấu chân của Trương Khiên, Hoắc Khứ Bệnh, Cưu Ma La Thập, Huyền Trang thì cũng cần phải mất nhiều công sức. Theo dấu chân thám hiểm của cổ nhân, tôi cho rằng ngày xưa việc khai thông giao lưu văn hóa giữa Trung Hoa và phương Tây của những người này là những cống hiến đáng khâm phục.

Tập du ký về con đường tơ lụa này là vì quý vị độc giả ở hải ngoại mà viết, nó đã từng được đăng tải trên báo “Nhân dân Trung Quốc” bằng tiếng Nhật từ số tháng Giêng năm 1979 đến số tháng Hai năm 1981. Sau đó, nhà xuất bản “Tiểu học quán” ở Đông kinh, Nhật Bản xuất bản thành ba quyển; tiếp đó nhà xuất bản Văn nghệ Thượng Hải xuất bản bằng tiếng Hoa. Hiện nay, phân cục xuất bản Hongkong “Tam liên Thư điếm” lại xuất bản bằng tiếng Hoa ra nước ngoài. Tác giả mong rằng quyển sách này có tác dụng “khơi ngòi” cho quý vị đồng bào ở hải ngoại nào muốn thăm thú con đường tơ lụa, hoặc những ai có tấm lòng đối với con đường tơ lụa, bất kể ở góc độ nào, bất kể người trong hay ngoài nước đểu có thể khai phá thêm những bí mật của con đường lịch sử này.

Sau cùng, nhân đây tác giả xin cảm ơn các quý vị Thường Thư Hồng, Mã Ưng, Lý Ngẫu Xuân, Vương Nhân Ba cùng với sự chỉ giáo nhiệt tình của các chuyên gia thuộc tỉnh Cam Túc, Tân Cương. Xin cảm tạ tất cả quý vị đã giúp đỡ, hỗ trợ để thực hiện cuốn sách này.

Tác giả

Tháng Năm năm 1986

Do đâu mà CON ĐƯỜNG TƠ LỤA có sức hấp dẫn như vậy? Tác giả sẽ cho chúng ta thấy cuộc tìm tòi thám hiểm này thích thú vô cùng. ChỈ nói đến phong cảnh thiên nhiên thôi nào núi non, sông ngòi, sa mạc, thảo nguyên - chúng luôn biến hóa, cái bao la khoáng đạt là nét đặc sắc của chúng. Nhưng còn núi cao, vực sâu hoặc trong lòng sa mạc thì cảnh sắc kỳ ảo, rực rỡ, tráng lệ khiến người ta không ngớt thán phục.

Cuốn sách giúp chúng ta có cảm tường như dược xem những bức tranh sơn dầu cổ điển vậy, đâu đó là những tòa cổ thành, những thạch động, chúng lóe lên ánh sáng ngọc ngà thần bí của một thời. Theo dấu chân thám hiểm của cổ nhân, tác giả cho rằng ngày xưa việc khai thông giao lưu văn hóa giữa Trung Quốc và phương Tây của những người này là những cống hiến đáng khâm phục.

Cuốn sách CON ĐƯỜNG TƠ LỤA là tập du ký đã được đăng trên báo “Nhân dân Trung Quốc”, bằng tiếng Nhật từ tháng 1 -1 979 đến tháng 2-1981. Sau đó Nhà xuất bản “Tiểu học quán” ở Đông Kinh - Nhật Bản xuất bản, tiếp đó là Nhà xuất bản Văn nghệ thượng Hải xuất bản, sau tiếp là phân cục xuất Hồng Kông “Tam liêm Thư Điếm” xuất bản bằng tiếng Hoa. Nay Nhà xuất bản Trẻ xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc cuốn sách đầy hấp dẫn này.

1. NHỮNG TƯỞNG TƯỢNG TRƯỚC KHI LÊN ĐUỜNG

Trên lưng chừng tường cạnh bàn làm việc của tôi có treo 1 một bức ảnh màu, đó là “Mã đạp phi yến”. Đêm khuya, nhàn nhã ngồi đọc sách, ngước đầu nhìn cảnh con tuấn mã trong tư thế dũng mãnh như đang muốn bay, khiến trong lòng tôi dấy lên biết bao nhiêu là điều tưởng tượng về con đường tơ lụa cổ đại.

NHỮNG LIÊN TƯỞNG HỨNG KHỞI TỪ BỨC “MÃ ĐẠP PHI YẾN”

“Mã đạp phi yến” là một pho tượng bằng đồng được khai quật trong một ngôi mộ cổ thời Đông Hán ở huyện Vũ Uy, tỉnh Cam Túc vào năm 1969. Ba chân của con tuấn mã vươn lên không trung nên có người gọi là “Thiên mã long tước”, còn một chân đạp đất lấy đà như muốn bay vút lên không với cái thế nhảy mà như bay. Đó là một kiệt tác có cấu tứ đặc sắc của một nhà nghệ thuật vô danh nào đó cách nay đã hơn 1700 năm, đã từng đem triển lãm tại Luân Đôn, Paris, New York … và đã vang danh trên trường quốc tế. Nhiều nước đã in lại một cách tinh mỹ bằng tranh ảnh bức “Mã đạp phi yến” ấy.

Bức treo ở tường nhà tôi do một người bạn Canada in lại và tặng cho tôi. Anh muốn giống như thật nên lấy nguyên tác phóng to gấp đôi, bức ảnh trông rất khí thế.

Vì sao bức cảnh “Mã đạp phi yến” lại dẫn tôi đến những tưởng tượng về con đường tơ lụa? Con ngựa đang bôn tẩu này tất phải chạy qua huyện Vũ Uy trên con đường tơ lụa, nơi nó đã được khai quật, hình dáng dũng mãnh giống như những tuấn mã xứ Ô Tôn ở Tây Vực (Ô Tôn ngày nay là dải đất thuộc lưu vực sông Y Lê, Bắc Thiên Sơn). Niên đại sáng tác của tác phẩm này lại là sau khi nhà thám hiểm Trương Khiên đời Tây Hán (164 - 114 trước Công nguyên) mở đường sang Tây Vực khai thông con đường trọng yếu giao lưu Đông Tây vào thế kỷ thứ hai trước Công nguyên. Sau khi con đường tơ lụa thông thương, ngựa tốt xứ Tây Vực, bao gồm Nam Bắc dãy Thiên Sơn, Đông Tây núi Thông Lĩnh, được đưa vào Trung Nguyên, tuấn mã Ô Tôn có thể là động lực khiến nhà nghệ thuật vô danh nào đó lấy làm đề tài sáng tác.

Biết rõ ngựa xứ Ô Tôn, trước mắt tôi thường bồng bềnh một số cảnh tượng huyền ảo. Không gian thăm thẳm, từng đàn hồng nhạn tung cánh cao bay, mặt đất là biển cát vàng xa hút tầm mắt, trên cánh đồng khoáng đạt, tai nghe tiếng chuông vang vọng. Bước theo tiếng chuông ấy là đoàn thương nhân ngất ngưởng trên những con lạc đà chở đầy tơ lụa chầm chậm tiến về phía tây. Trên đường đất bằng phẳng bỗng nổi lên một trận bụi mù. Tiếng chân rậm rịch khắp nơi, một đàn tuấn mã hùng hổ chạy tới, cao đầu sải chân, ào ào hướng về đông phi nước đại. Như thế đó, tôi thường tưởng tượng ra cảnh tượng ấy trên con đường tơ lụa cổ xưa ngày nào. Tơ lụa đáng giá thì chở lên phía tây, tuấn mã tốt giống thì đưa về phía đông. Lấy tơ đổi ngựa. Việc trao đổi, mậu dịch hàng loạt trên con đường giao thương xuyên Đông Tây của thời cổ đại có thể đã xảy ra như thế.

NHỊP CẦU LIÊN KẾT GIỮA SÔNG HOÀNG HÀ VÀ ĐỊA TRUNG HẢI

Trước khi chưa có đường biển giao thông giữa phương Đông và phương Tây, thì con đường tơ lụa từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên đến thế kỷ thứ VIII, thứ IX Công nguyên là sự liên kết giữa Trung Quốc và Trung Á, Tây Á và thẳng đến một phần đại lục thuộc bờ đông Địa Trung Hải.

Lộ tuyến của con đường tơ lụa đi theo những hướng nào? Trên bản đồ ngày nay, người ta lấy thành phố Tây An thuộc tỉnh Thiểm Tây làm xuất phát điểm, theo hướng tây đi xuyên một dải đất dài và hẹp thuộc tỉnh Cam Túc qua hang động Mạc Cao nổi tiếng ở Đôn Hoàng, ra khỏi Ngọc Môn quan và Dương quan đến khu tự trị Tân Cương thuộc tộc người Uygur; sau đó men theo tuyến bắc và tuyến nam ven sa mạc Taklamacan để phân thành hai đường rồi hội họp ở cao nguyên Pamia, vượt ra khỏi biên giới Trung Quốc sẽ vào khu vực Trung Á, Tây Á và thẳng đến bờ đông Địa Trung Hải. Sau khi ra khỏi Ngọc Môn quan, lại còn thêm một con đường ở phía bắc, men theo Ha Mật, Jimuzar (Cát mộc tát nhỉ) đi về hướng tây, qua sông Y Lê, sông Sở Hà rồi theo hướng tây vượt qua Hàm Hải, Lý Hải thì đến thành lũy Constantinople bên bờ Hắc Hải.

Sau khi ra khỏi Đôn Hoàng, con đường tơ lụa có thể phân làm ba tuyến. Tuyến nam, tuyến giữa và tuyến bắc. Tuyến nam thì theo Dương Quan (nay là phía tây nam Đôn Hoàng), men theo bờ nam của sa mạc Taklamacan, qua các xứ Thiên Thiện (nay là phía đông Nhược Khuông), Thả Mạt (nay là phía tây nam Thả Mạt), Tinh Tuyệt (nay ở phía bắc Dân Phong), Đả Nhĩ (nay ở phía đông Vu Điền), Vu Điền (nay là phía nam Hòa Điền), Bì Sơn (nay là dãy Bì Sơn), Sa Xa (nay là Sa ra); sau đó vượt cao nguyên Pamia, qua Đại Nguyệt Thị (nay thuộc trung bộ lưu vực sông A Mẫu), rồi lại đi về hướng tây để đến An Tức (nay là Iran).

Tuyến giữa thì ra khỏi Ngọc Môn quan (nay là phía tây bắc Đôn Hoàng, đi về phía tây, qua Xa sư Tiền vương đình (nay ở phía tây Tolophan), rồi theo hướng tây nam qua Yên Kỳ (nay là Yên Kỳ), Ô Lũy (nay ở phía tây Luân Đài), Quy Tư (nay là phía đông Khố Xa), Cô Hắc (nay là Ôn Túc), Sơ Lặc (nay là Ca Thập), rồi vượt cao nguyên Pamia đến Đại Oản (nay là Fergana thuộc Nga) để đi đến An Tức (nay là Iran).

Tuyến Bắc thì ra khỏi Ngọc Môn quan đi về hướng tây bắc, qua Y Ngô (nay là phía tây Ha Mật), qua biển Bồ Loại (nay là hồ Barkol), qua Xa sư Hậu vương đình (nay là Đông nam lòng chảo Chuẩn hát nhỉ) rồi theo hướng tây qua sông Y Lê, sông Sở Hà qua Toái Diệp (nay là vùng phụ cận Tokmak thuộc Nga), tiếp tục theo hướng tây bắc men theo bờ bắc Hàm Hải và Lý Hải để đến phía đông thành Constantinople của đế quốc La Mã.

Tuyến nam và tuyến giữa của con đường tơ lụa nói trên là do thời Tây Hán và Đông Hán khai thông. Bấy giờ, để tránh dân du mục Hung Nô ở phương bắc quấy nhiễu, các đội lái buôn dùng con đường vượt qua phía tây dãy Thông Lĩnh để đến Trung Á là con đường tốt nhất. Còn nếu sau khi ra khỏi Đôn Hoàng đối diện với đại sa mạc Taklamacan thiếu cỏ, thiếu nước thì tất nhiên họ phải men theo bờ nam hoặc bờ bắc của đại sa mạc để đi tới, do đó mà tự nhiên hình thành hai con đường nói trên.

BÀ TỔ NGHỀ NUÔI TẰM VÀ ÁO LỤA CỦA PHỤ NỮ LA MÃ

Tôi đã có ý định đi tìm hiểu con đường cổ đại này từ lâu. Những năm năm mươi tôi đã từng vượt qua dãi hành lang Hà Tây và cũng đã qua đến bờ đông Địa Trung Hải, nhưng chưa từng đi qua các vùng Nam Bắc Thiên Sơn với nhiều cảnh sắc khác nhau, và cũng chưa có cơ hội đến nơi xuất phát thuộc cố đô Tây An để đi lại trên con đường tơ lụa tận tình phỏng cổ vấn kim rồi thẳng đến vùng núi tuyết trên cao nguyên Pamia. Rảnh việc, tôi đọc sách lịch sử, địa lý văn hiến xưa nay; trước hết tôi cảm thấy một vấn đề gây hứng thú nhiều nhất đó là lịch sử khai mở con đường tơ lụa. Vậy con đường ấy được phát minh từ bao giờ và đi đến phương Tây từ lúc nào?

Nuôi tằm dệt tơ được phát sinh từ rất sớm ở Trung Quốc. Ngày xưa đã có truyền thống hoàng hậu Luy Tổ thời Hoàng Đế đã từng nuôi tằm dệt tơ. Truyền thuyết vẫn chưa có gì làm bằng chứng. Điều đáng nói ở đây là sự lao động của các nhà khảo cổ học Trung Quốc, họ đã đào được một số văn vật chỉ ra rằng nghề tơ lụa ở Trung Quốc phát triển từ rất sớm. Tại làng Tây Âm, huyện Hạ, tỉnh Sơn Tây, di chỉ thời tân thạch khí (đồ đá mới) đã phát hiện những tàn tích của các xác kén. Vào thời xa xưa tổ tiên người Trung Quốc cư trú trên lưu vực sông Hoàng Hà có thể đã biết nghề trồng đâu nuôi tằm. Nhưng văn vật khai quật được còn cung cấp cho ta những hình ảnh rất chân thực về những con tằm bằng ngọc vào các đời Ân, Thương. Giáp cốt văn đời nhà Thương đã có hình tượng văn tự của dâu tằm và tơ. Theo tàn tích của các đồ dùng bằng đồng hay binh khí chôn theo người chết, người ta đã dùng tơ lụa bọc chúng lại, điều đó cho thấy người đương thời đã biết cách dệt sợi đạt trình độ tương đối cao.

Văn bản ghi chép đầy đủ về việc tơ lụa Trung Quốc truyền đến phương Tây thì có nhà học giả người Ý tên là Gaius Pliny The Elder (Năm 27-79 CN) có cuốn “Bác Vật Chí” (Natural History). Ông viết: “Tại Seres (chỉ Trung Quốc), “Rừng sanh sản ra tơ nổi danh trong nước. Tơ được sinh ra ở lá cây, người ta nhặt xuống dùng nước ngâm ướt rồi kẻo thành sợi, sau đó dệt thành tấm lụa chở đến bán tận La Mã. Phụ nữ quý tộc giàu có mua về may thành y phục”.

Việc ông Gaius Pliny cho là “Tơ được sinh ra ở lá cây” đương nhiên là nghe nói mà hiểu sai, nhưng việc ghi lại tơ lụa Trung Quốc được vận chuyển đến La Mã và phụ nữ ở đó yêu thích là điều có thể tin được.

Văn bản ghi chép về tơ lụa Trung Quốc truyền sang Ấn Độ chắc chắn là sớm hơn. Trước Công nguyên, khoảng năm 320-315, khi vua Candragupta. tại vị, quan đại thần Chanakya đã viết cuốn “Chính luận” (Athasatra) có ghi: thế kỷ thứ IV trước CN tơ lụa Cina (chỉ Trung Quốc) đã đem bán ở Ấn Độ. Rất có thể từ “China” do chuyển âm của chữ “Tần” (âm Hán đọc là ‘qin’) mà đến nay người Âu Mỹ vẫn gọi Trung Quốc là China.

Người Âu châu thời cổ đại gọi Trung Quốc là “Seres”. Seres là một từ Hy Lạp có nghĩa là tơ tằm. Người Hy Lạp đầu tiên dùng Sere để ghi chép những sự kiện liên quan đến Trung Quốc tên là Ctesias vào khoảng năm 400 trước CN. Điều đó cho thấy khoảng thế kỷ thứ III trước CN người châu Âu đã nhìn thấy tơ lụa của người Trung Quốc và không ngớt tán thưởng rồi gọi Trung Quốc là nước của tơ tằm (Tơ Quốc).

Tơ tằm và sản phẩm dệt ra từ tơ lụa ở Trung Quốc đã có từ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ III, IV trước CN, tức thời Chiến quốc và đã trở thành đặc sản nổi tiếng thế giới. Sau khi có đường thông vãng Tây Vực, người Hán và các nước Trung Á giao thương ngày càng tiện lợi, việc chuyển vận xuất khẩu tơ lụa ngày càng tăng trưởng.

NHỮNG NHÀ THÁM HIỂM VÔ DANH VÀ HỮU DANH

Tôi thường nghĩ làm sao người ta có thể khai phá con đường tơ lụa để trở thành con đường huyết mạch thông thương Đông Tây vào thời cổ đại xa xưa ấy? Lúc bấy giờ lại

chưa có kiến thiết công lộ; đường chẳng qua là đo con người đi lại lâu ngày mà thành. Con đường tơ lụa dài dằng dặc kia mà phần lớn lộ trình phải qua sa mạc, thảo nguyên, núi cao hiểm trở hoàn toàn do người dắt lạc đà hay cười ngựa đi lại để tạo nên. Không biết ban nhiêu người Hán, người thiểu số Tây Vực và người Trung Á, Tây Á vào thời cổ đại đã thám hiểm từng đoạn đường, sau đó liên kết chúng lại với nhau và cuối cùng tạo thành một con đường vĩ đại giao thông huyết mạc xuyên ngang Đông Tây dài ước chừng hơn 7000 cây số. Họ rất đáng được tôn xưng là những anh hùng vô danh. Tiếc thay, tên tuổi của họ không hề thấy trong sử sách. Đối với tôi, mỗi lần đến viện bảo tàng nhìn những tượng người dắt lạc đà hay dắt ngựa, tự nhiên lòng tôi lại dấy lên niềm sùng kính vô biên.

Nói về tác dụng của con đường tơ lụa thời cổ đại thông thương với Tây Vực do Trương Khiên đời Tây Hán khai phá, các sử gia trong và ngoài nước đánh giá rất cao, họ cho rằng chính Trương Khiên đã bước đầu xúc tiến việc giao lưu kinh tế, văn hóa giữa Đông và Tây rất có ích cho sự tiến bộ của loài người.

Từ đời Thương, Chu trở đi, dân du mục Hung Nô ở phương Bắc cùng với người Hán định cư ở lưu vực sông Hoàng Hà lấy nông nghiệp làm chính đã trở nên mâu thuẫn kịch liệt. Đến đời nhà Hán, tập đoàn quân sự chủ nô của Hung Nô nhiều lần sang quấy nhiễu Trung Nguyên, họ bắt người, cướp gia súc, phá hoại hoa màu.

Hán Vũ Đế nghe nói tại dãy núi Kỳ Liên gần Đôn Hoàng có bộ tộc Đại Nguyệt thị cư trú, bị người Hung Nô đánh đuổi đến phía tây núi Thông Lĩnh thuộc lưu vực sông A Mẫu, và trở thành cừu địch, nhà vua quyết định cử sứ giả đến đó và ước hẹn với người Đại Nguyệt thị giáp kích Hung Nô. Trương Khiên đứng lên ứng chiến. Năm 138 trước CN, ông suất lĩnh hơn 100 người ra đi. Giữa đường ông bị người Hung Nô bắt giam đến hơn 10 năm. Ông cưới vợ sinh con, nhưng quyết tâm hoàn thành sứ mạng không đổi. Về sau, ông đào thoát, giong ruổi về phía tây để đến Đại Nguyệt thị. Nhưng bấy giờ, người Đại Nguyệt thị đã định cư ở lưu vực sông A Mẫu, thay đổi cuộc sống du mục bằng sản xuất nông nghiệp, không muốn xuống phía đông nữa. Trương Khiên ở lại Đại Nguyệt thị hơn một năm thì trở Về Trung Nguyên, nhưng giữa đường lại bị người Hung Nô bắt giam hơn một năm nữa. Sau đó, ông lại trốn thoát, mãi đến năm 126 mới về đến Trường An (nay là Tây An.).

Lần thứ nhất Trương Khiên đi sứ Tây Vực trước sau hơn 30 năm, khi đi suất lĩnh hơn 100 người, khi về chỉ còn được hai người. Cuộc thám hiểm lần này thật xui xẻo. Tuy không hoàn thành sứ mệnh như đã định, song ông đã gặt hái nhiều hiểu biết về lịch sử, địa lý, kinh tế của các nước ở Tây Vức, và phần nào nắm được tình hình các nước khác như Ba Tư, Điền Chi (Ả Rập), Lê Hiên (Đông La Mã).

Lần thứ hai, vào năm 119 trước CN, Trương Khiên suất lĩnh hơn 300 người theo hướng tây xuất phát. Đội thám hiểm này mỗi người chuẩn bị sẵn hai con ngựa, một vạn con bò và dê, rồi phải mang theo một số lớn vật phẩm, vải vóc, tiền bạc đến Tây Vực liên hệ.

Hai lần đi sứ Tây Vực, Trương Khiên đều theo lộ trình đầy gian nan hiểm trở của đoạn đường phía đông con đường tơ lụa. Từ đó, khoảng đường dài dằng dặc giữa lưu vực sông Hoàng Hà và khu vữc Địa Trung Hải đã xuyên suốt thành một con đường lớn vào thời cổ đại. Về sau, các vua nhà Hán không ngừng phái sứ giả đi Tây Vực. Các nước Iran, Irak, Ấn Độ, Pakistan … đều có dấu chân của các sứ giả nhà Hán, lâu thì 8, 9 năm; mau thì 3,5 mới triệu hồi. Sứ giả nhà Hán Vũ Đế đến Ba Tư, quốc vương nước này phái hai vạn kỵ binh đi nghênh đón vào đến kinh đô. Dọc đường dân chúng đổ ra nhìn xem rất vui vẻ, náo nhiệt. Trong khi đó, sứ giả, lái buôn của các dân tộc Tây Vực và các nước khác cũng ùn ùn kếo đến. Trên con đường tơ lụa hiện ra cảnh phồn thịnh chưa hề thấy xưa nay.

Năm 60 trước CN, triều đình phong kiến nhà Hán bắt đầu thay thế sự thống trị của chế độ chủ nô Hung Nô ở Tây Vực, chọn Ô Lũy (nay là huyện Luân Đài, tỉnh Tân Cương) làm trung tâm thiết lập Tây Vực đô hộ phủ đại diện cho vương triều hành xử chủ quyền quốc gia từ hồ Balkash đến phía đông cao nguyên Pamia. Từ đó, sự thông thương của con đường tơ luạ được bảo đảm an toàn. Từ đời Tây Hán đến Tùy Đường, con đường này dù nhiều phen bị trắc trở, song xét về cả giai đoạn lịch sử ấy thì nó là cầu nối huyết mạch có tác dụng thông thương Đông Tây về văn hóa và kinh tế.

NGỰA TỐT VÀ ĐÔI CHIM

Trên con đường tơ lụa đã để lại nhiều di chỉ văn vật cổ rực rỡ muôn màu muôn vẻ. Nhiều tranh bích họa và tượng điêu khắc ở Đôn Hoàng đã sớm vang danh xa gần, nhiều người tự nhủ phải chính mắt mình trông thấy mới là điều thích thú của cuộc đời. Mấy năm gần đây, trên con đường này, người ta đã khai quật không ít những đồ ngọc quý, nó không chỉ làm phong phú kho báu nghệ thuật của nhân loại mà còn làm giàu thêm kiến thức của con người. Tôi đi du lịch trên con đường tơ lụa cổ với nguyện vọng tha thiết là học hỏi nhiều điều bổ ích từ các di chỉ văn vật được phát hiện trên con đường này. Phần trước, tôi có nói đến đặc điểm của ngựa xứ Ô Tôn và nay tôi lại suy nghĩ thêm, vì sao vua Hán Vũ Đế phái sứ giả đến Tây Vực tìm mua ngựa, thậm chí không hối tiếc gì đến sự biến động can qua? Lẽ nào chỉ vì mê những nét đặc thù của các giống ngựa như “thiên mã”, “hãn huyết mã”, “Tây Vực mã” của các bậc đế vương thời phong kiến? Tôi e rằng không đúng lắm, ắt hẳn phải có nguyên nhân nào khác.

Tôi còn nhớ mấy năm trước, một người bạn của tôi từ Tân Cương đến có đưa cho tôi xem một tấm hình chụp đồ dệt gấm đời Đường gồm ba màu hồng - vàng - trắng xen kẽ nhau tạo thành mẫu hoa văn rất đẹp khai quật được ở Tolophan. Nhìn kỹ, trên tấm dệt gấm ấy có một đôi chim trông rất sống động. Cần đặc biệt chú ý đó là phong cách của hoa văn. Đôi chim đứng đối nhau, chung quanh là vòng dây bằng ngọc. Bức hoa văn ấy có tên là Liên chu đối điểu hoàn toàn thuộc phong cách cổ Ba Tư thời vương triều Tashan. Mẫu dệt ấy cũng khiến tôi suy nghĩ, mẫu hoa văn Ba Tư xuất hiện ở dọc con đường tơ lụa thì phải chăng Trung Quốc chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Ba Tư và đã làm cho phong phú đa dạng thêm màu sắc các sản phẩm? Phải chăng ngành dệt ở đời Đường có hay không có khả năng hiểu được giá trị các thương phẩm xuất khẩu có tính cách thời thượng của nhân dân các ngoại tộc?

Các câu hỏi trên chỉ có câu trả lời thỏa đáng khi chúng ta trực tiếp đi thăm thú tìm hiểu con đường tơ lụa mà thôi.

MÙA DƯA HẤU BỘI THU ĐƯA ĐẨY CÂU CHUYỆN

Mùa hè năm nay dưa hấu ở Bắc Kinh bội thu, trên bàn ăn ngày nào cũng có. Trong bữa ăn hằng ngày, người ta đều bàn đến hậu quả bài ngoại mù quáng của Giang Thanh, tôi nói:

- Tại sao người ta lại chối bỏ những lợi ích tốt đẹp của ngoại lai nhỉ? Thì dưa hấu cũng vốn từ Tây Vực đưa vào nội địa đấy thôi.

Mấy đứa con tôi lấy làm lạ, hỏi:

- Vậy dưa hấu không phải do đất ở đây tự sinh tự lớn ư?

Trong tập “Bổn thảo cương mục” của nhà y dược học trứ danh Lý Thời Trân đời Minh có viết: “Trương Khiên đi sứ Tây Vực đem về trồng, có tên là “Hồ qua” (Dưa của người Hồ). Đời Tùy Đại Nghiệp năm thứ IV vì cử tên húy nên gọi “Hồ qua” là “Hoàng qua”.

Sau khi khai thông con đường tơ lụa, tơ, trà, thuật luyện kim, cách đào giếng được truyền sang Tây Vực; đổi lại, Tây Vực cũng du nhập nhiều sản vật có ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân như nông cụ, cây ăn quả, các vật dụng đến nay đã trở thành thứ mà hàng triệu người không thể thiếu được, ngoài dưa hấu ra, còn có rau chân vịt, nho, hồ đào, chi na, thạch lựu ...

Và âm nhạc, múa, hội họa, điêu khắc cũng từ Tây Vực truyền sang, các nghệ thuật gia Trung Quốc hấp thu, tiêu hoá làm phong phú thêm đời sống tinh thần của người Trung Quốc.

Việc giao lưu văn hóa kinh tế trong ngoài song phương thật là hữu ích, điều đó là một thực tế lịch sử rõ ràng rất dễ nhận ra. Thế nhưng vào thời cận đại, Trung Quốc xuất hiện một Từ Hy thái hậu bài ngoại mù quáng, rồi gần đây một Giang Thanh sùng bái Từ Hy cũng hô hào bác bỏ việc du nhập kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài và cho là tôn sùng, nịnh hót phương Tây. Ngày nay, để trở thành một cường quốc hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa, chúng ta luôn luôn phải phấn đấu, ôn lại lịch sử giao lưu văn hóa kinh tế trong và ngoài nước là điều có ý nghĩa quan trọng.

TRÊN ĐUỜNG TRUỜNG CHINH MỚI

Ngoài Trương Khiên tìm đường sang Tây Vực ra, cũng còn có một người khác xếp bút nghiên tòng quân phục vụ tại Tây Vực lâu đến 30 năm, đó là Ban Siêu mà tất cả chúng ta ai cũng biết. Ban Siêu là một đanh tướng đời Hán Minh đế, đi sứ Tây Vực thu phục được năm mươi nước, ở đó đến 30 năm, sau mới có người thay cho về. Kẻ sĩ có chí thời cổ đại không biết gọi đó là gì, còn nay ta cũng có thể gọi con đường tơ lụa thời ấy là con đường trường chinh mới. Họ đã đi qua sa mạc Gobi hoang vu, khô cằn, lại vượt qua những ngọn núi tuyết quanh năm hiểm trở để khai thông và bảo vệ con đường lớn xuyên Đông Tây trong lịch sử văn minh của nhân loại.

Ngày nay, nhân dân Trung Quốc đang kế thừa truyền thống trường chinh vạn dặm của các nhà cách mạng tiền bối, vì thực hiện bốn hiện đại hóa chúng ta đang bước đi trên con đường trường chinh mới. Tời muốn thám hiểm con đường tơ lụa cổ, muốn tìm gặp, thăm hỏi những con người đầy chí khí trong cuộc trường chinh mới vì tổ quốc, vì nhân dân mà cống hiến.

Giữa thời kỳ Trung Quốc tiến hành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất tôi đã đi thăm hành lang Hà Tây. Lúc bấy giờ con đường sắt từ Lan Châu đi dọc con đường tơ lụa cổ chạy đến Tân Cương đang được thi công. Tôi đã thâm hỏi nhiều nhà kiến thiết đường sắt đang lao động tại Gobi, rồi lại rời Ngọc Môn quan, không quản xa xôi, tôi đi thăm những anh hùng khai thác mỏ dầu Ngọc Môn mà sau này chính họ là những người khai sáng mỏ dầu lớn ở Đại Khánh thuộc tỉnh Hắc Long Giang.

Tôi còn nhớ, tại sa mạc Gobi, tôi có gặp đội thám hiểm dầu khí, có một kỹ thuật viên địa chất trẻ cùng ở với tôi trong một căn lều, bấy giờ đang đêm khuya, gió thổi mạnh cát bay mù mịt, anh thẳng thắn nói ra lý tưởng của mình. Giọng anh trầm trầm đầy chất lãng mạn lây sang cả tôi. Bấy giờ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mới thành lập, chúng tôi đều còn trẻ cả, lòng tràn ngập niềm hưng phấn, những ước vọng tốt đẹp về chủ nghĩa xã hội.

Hôm nay, khi chuẩn bị trở lại con đường cổ xưa ấy, bỗng tôi lại nghĩ đến anh. Không biết anh có còn vì mỏ dầu Klamay ở Tân Cương mà tiếp tục công tác hay không Tôi không chắc gặp được anh, nhưng tôi vẫn tin tưởng trên con đường tơ lụa cổ xưa ấy nhất định có thể có rất nhiều anh hùng vô danh đang phấn đấu vì cuộc trường chinh mới của đất nước.

Khi đang kiểm soát lại hành trang, tôi bỗng nghĩ tới mọi điều hay đẹp từ xưa đến nay vừa có cái thật của lịch sử, vừa có cái thú của hoang đường khiến lòng tôi không nén nỗi niềm hưng phấn. Mọi người khuyên tôi hãy bình tĩnh. Tôi nghĩ cũng phải. Làm một ký giả cần phải có thái độ khoa học để bảo vệ sự thật là một điều rất cần thiết. Trạm đầu tiên con đường lữ hành dài dằng dặc của tôi là Trường An, đó chính là xuất phát điểm của con đường tơ lụa cổ đại mà ngày nay là thủ phủ Tây An của tỉnh Thiểm Tây.

2. TÂY AN - NƠI XUẤT PHÁT ĐIỂM CỦA CON ĐƯỜNG TƠ LỤA

Trong một cửa hàng ở Tây An, một đoàn phụ nữ người Âu đang vây quanh một sạp hàng bán tơ lụa chỉ trỏ cười nói. Có người đem mấy tấm đoạn, gấm rất đẹp ướm thử lên người rồi hỏi ý kiến các đức ông chồng đi theo, có người vuốt ve mấy tấm lụa mềm mại miệng luôn tán thưởng. Năm sáu phụ nữ ấy mua một lố tơ lụa, trong đó có người mua đến 20 mét. Bà nói với người bán hàng:

- Về đến Pháp, đây là thứ quà tặng đáng giá nhất đấy!

Sự việc này khiến tôi nghĩ đến chuyện thời xa xưa. Đại đế La Mã Cesar có lần đến nhà hát xem kịch, mình khoác trường bào rất hoa lệ, trông thật rực rỡ khiến cho cả kịch trường chú ý. Đám quan lại quý tộc nghe nói trường bào ấy chính là dùng nhung đoạn của người Trung Hoa may ra, thế là bọn họ nhao nhao bắt chước. Từ đó giá trị tơ lụa Trung Quốc ngày một lên cao, một cân tơ là một cân vàng. Một tác giả La Mã cổ đại có viết: “Người của nước tơ lụa (chỉ Trung quốc) sản xuất ra lụa hoa rất đẹp. Màu sắc của nó đẹp và giống như hoa thật, chất liệu của nó mịn như tơ nhện”.

Khi Trương Khiên mở đường sang Tây Vực, một số lớn tơ lụa Trung Quốc được chuyển vận đến Trung Á và châu Âu dễ đến hơn 2000 năm lịch sử. Đến nay, tơ lụa sản xuất ở Trung Quốc vẫn còn hấp dẫn đối với người phương Tây. Nó là biểu tượng số một của nền văn minh cổ trong Quốc.

Ở Tây An, tôi thấy bạn bè ngoại quốc của các nước trên thế giới lũ lượt tới lui không ngớt, có những đoàn du lịch, cũng có những sinh viên, những học giả đến nghiên cứu lịch sử Trung Quốc. Điều gì ở cổ thành Tây An có sức hấp dẫn ghê ghớm như vậy.

Tây An là một cuốn lịch sử để mở của Trung Quốc. Từ các di chỉ bán canh thuộc xã hội thị tộc mẫu hệ hơn 6000 năm trước đến sự cố binh biến ở Tây An, Tưởng Giới Thạch bị các tướng lĩnh vây bắt ở động Ly Sơn năm 1936; trong suốt thời gian ấy, các triều đại - Chu, Tần, Hán, Đường, Minh đều để lại nhiều dấu tích văn vật cổ đại. Ví dụ như lăng mộ Tần Thủy Hoàng có đến 6000 tượng binh mã tùy táng bằng đất nung bày thành thế trận hào hùng dũng mãnh trấn giữ lăng mộ. Tướng sĩ, binh lính, chiến mã đều to lớn bằng người thật, ngựa thật. Huyệt mộ khổng lồ ấy được phát hiện vào năm 1974. Đến nay người ta đã tu sửa thành một khu triển lãm rộng lớn với tổng diện tích hơn 16000 mét vuông. Như vậy nó vẫn rộng lớn hơn bất cứ một phân xưởng nào trong một công xưởng. Đem toàn bộ đồ chôn theo. huyệt mộ Tần Thủy Hoàng ra triển lãm đã làm cho mọi người thấy được hình ảnh trận thế của quân đội thời cổ đại, thật đáng ca ngợi, đáng chiêm ngưỡng. Đấy chỉ mới là một ví dụ. Nguyện vọng lớn nhất của tôi đến Tây An là tìm tòi, thăm viếng những dấu tích văn vật cổ đại liên quan đến con đường tơ lụa để bổ sung kiến thức lịch sử cho mình về vấn đề thông thương Đông Tây và giao lưu văn hóa kinh tế. Đối với tôi, Tây An là một “Sử ký”, một “Hán thư”, một “Đường thư” sống.

ĐỒ DỆT CỔ LÃO

Bước vào viện bảo tàng lịch sử Thiểm Tây đầy hương sắc của thời cổ đại, nhìn khắp một lượt, tôi đã bị chinh phục bởi cái đẹp của đồ đồng đời Chu, đồ khắc đá đời Hán, đồ dệt ba màu đời Đường ... thật khó lòng giới hạn sự chọn lựa của mình vào những gì chỉ quan hệ đến con đường tơ lụa để nghiền ngẫm xem xét.

Ở khu triển lãm đời Tùy Đường có bảy tấm lụa cũ, thời gian tuy đã hơn 1000 năm, nhưng màu sắc vẫn còn tươi đẹp, có màu xanh da trời, có màu hồng phấn, ... trong đó có một tấm hoa văn dệt theo đường kỹ hà học hai màu vàng - đà xen nhau trông rất đẹp mắt. Đằng trước bức triển lãm có treo một tấm biển viết mấy câu thơ tách từ bài nhạc phủ “Liêu lăng thiên” (Bài thơ dệt lụa) của Bạch Cư Dị ca ngợi sự dụng công chăm chút của cô gái dệt lụa:

“Thiên thượng thử dạng nhân gian chức,

chức vi vân ngoại thu nhàn hành,

nhiễm tác Giang Nam xuân thảo sắc ...

Tạm dịch: Lấy mẫu từ trên trời để dệt ra cho người, dệt thành đàn nhạn sải cánh bay trong mây xanh vào mùa thu, nhuộm ra sắc xanh của cỏ cây hoa lá ở đất Giang nam trù phú.

Ôi? Nhà thơ có óc tưởng tượng thật tuyệt vời.

Nhìn vào bảng thuyết minh có hàng chữ “Hiện vật khai quật ở Tolophan”, tôi không khỏi cảm thấy nghi nghi. Lẽ nào con đường tơ lụa xuất phát tại Tây An (tức Trường An) mà không khai quật được sản phẩm tơ lụa?

Nhà khảo cổ học Thiểm Tây có mái tóc bạc phơ tên là Hạ Tử Thành giải đáp mối nghi của tôi. Ông nói:

Trong các ngôi cổ mộ Hán Đường ở Tây An không thiếu tơ lụa, nhưng có lẽ do điều kiện tự nhiên ở trong lòng đất, các loại tơ vải chôn theo cơ hồ bị mục nát cả, thật là đáng tiếc.

Ông còn cho tôi biết một điều quan trọng: Đó là tại viện bảo tàng Hàm Dương đến nay người ta đã đào được những tấm tơ lụa rất xưa ước chừng thế kỷ thứ III trước CN, tức vào đời nhà Tần. Nghe thế, tội quá thích thú đến nỗi quên hỏi ông tại sao chúng lại không bị mục nát.

Hàm Dương cách Tây An 28 cây số về phía tây bắc, là kinh đô một thời hiển hách của nhà Tần sau khi thống nhất Trung Quốc. Trong số các văn vật đời Tần Hán trưng bày ở viện bảo tàng Hàm Dương, quả nhiên tôi thấy một số đồ dệt thuộc triều đại nhà Tần bị thiêu cháy. Màu sắc đã biến thành màu đen, nhưng hoa văn kiểu hình thoi vẫn còn nguyên có thể nhận ra. Theo kiểm định bằng phương pháp hóa học của các nhà khảo cổ thì đó là những sản phẩm dệt. Sản phẩm này là di vật cổ lão từ đời nhà Tần, nên dù có bị hư mục, cũng là những di vật rất quý giá. Nếu không bị thiêu cháy thì cũng bị mục nát.

Những tàn tích của sản phẩm dệt ấy chính là những di chỉ tại cung Hàm Dương đời Tần Thủy Hoàng được khai quật và phát hiện. Đền đài, lầu các của cung Hàm Dương đều bị Sở Bá vương Hạng Võ thiêu rụi bằng một mồi lửa. Kiến trúc cung điện đời Tần cách nay hơn 2200 năm đã có hệ thống nước hoàn bị dưới lòng đất, có hầm lạnh để cất giữ thức ăn. Và trong hầm đất ấy người ta đã phát hiện ra một bao quần áo. Hạng Võ đã phóng hỏa thiêu rụi mọi cái ở đây một cách không thương tiếc, ngay như đồ đồng, đồ sắt đào được cũng bị nóng chảy. Nhiệt độ của cuộc thiêu đốt ấy tất nhiên ảnh hưởng đến hầm đất, cho nên bao quần áo cất giữ trong đó phần lớn bị mủn thành tro,

nhưng vẫn có thể phân biệt được áo đơn, áo kép, áo bông, vải quần áo là gấm, là lụa, là thao, chất liệu mịn, mỏng, phần lớn dệt theo phương pháp thẳng go.

Mấy năm trước đây, tôi có đến Trường Sa, thủ phủ tỉnh Hồ Nam tham quan phòng trưng bày văn vật khai quật được trong một ngôi mộ đời nhà Hán. Hơn 2000 năm rồi mà thi thể của bà lão vẫn còn nguyên vẹn, lại có cả vải vóc, tơ lụa đời Hán rất hoa lệ, trong đó có một chiếc áo the mỏng trong suốt chỉ nặng 49 gram, nét tinh tế của đồ dệt có thể còn nhận ra. Tôi thật là may mắn khi chính mắt mình trông thấy những sản phẩm dệt của ba triều đại Tần, Hán, Đường. Kỹ thuật dệt tơ lụa của Trung Quốc cổ đại thật là cao siêu, đầu óc tôi vẫn giữ mãi ấn tượng sâu sắc về các thứ ấy.

LẠC ĐÀ VÀ NGƯỜI DẮT LẠC ĐÀ

Viện bảo tàng Thiểm Tây và viện bảo tàng thành phố Hàm Dương có rất nhiều tượng lạc đà, có tượng bằng đất nung vẽ màu, có tượng bằng đất nung tráng men ba màu, có loại lạc đà hai bướu của Trung Á, có loại lạc đà một bướu của Tây Á, có con chở hàng hóa, có con chở nhạc sư đang diễn tấu … thật là đẹp đẽ quý báu. Nhiều tượng được tạo hình một cách chân thật, có con ở dạng ngang đầu nhìn đăm đăm về phía xa, có con ở dạng mở miệng kêu gọi, tư thế rất khéo. Phần lớn các mộ chí đời Đường khai quật được đều có tương lạc đà, điều đó cho thấy người xưa rất coi trọng và yêu thích lạc đà. Lạc đà là ghe thuyền của sa mạc, trên con đường tơ lựa người ta chủ yếu dùng chúng để vận chuyển tơ lụa.

Tôi đã thấy một hình tượng lạc đà trên con đường tơ lụa có ý nghĩa điển hình. Đó là bức vẽ màu tượng lạc đà hai bướu trên lưng có trải tấm thảm hoa hình bầu dục, trên đó đặt một cái yên gỗ, trên yên chất một dãy túi cũng họa hình bầu dục đựng đầy hàng hóa, mỗi bên túi gác ngang hai cuộn vải lụa ...

Con lạc đà đó tìm thấy khi khai quật ngôi mộ Trịnh Nhân Thái đời Đường. Dưới triều Đường Thái Tông Trịnh Nhân Thái từng giữ chức chế sứ Lương Châu, nơi con đường tơ lụa đi qua, ông là trưởng quan hành chính dọc hành lang Hà Tây. Ông có trọng trách quản lý và bảo hộ con đường giao thương với Tây Vực. Do đó, những gì đào được trong mộ của ông có liên quan đến lạc đà chuyển vận tơ lụa lại càng có ý nghĩa điển hình. Nhìn thấy con lạc đà này, tôi bỗng nhớ đến bài “Lương châu từ” của nhà thơ Trương Tịch đời Đường:

Biên thành mộ vũ nhạn phi dê,

Lô duẩn sơ sanh tiệm dục tề,

Vô số linh thanh hưởng qua tích,

Tri đà gạch huyện đảo An Tây.

Tạm dịch: Nơi chốn thành quách biên cương này chiều mưa, nhạn bay thấp, măng non vừa mới nhú dần dần đã vươn lên; vô số tiếng chuông leng keng âm vang trên sa mạc, thì rõ đúng là những con lạc đà đang chở lụa đến An Tây1.

1 (An Tây chỉ: địa hạt An Tây đô hộ phủ vào đời nhà Đường để quản hạt vùng Tây Vực).

Như chúng ta đều biết lạc đà là giống vật hiền lành và chịu khó, nhưng đôi khi cũng giận dữ bất thường. Ví như lạc đà thương con hơn hẳn các gia súc khác nói chung. Lạc đà mẹ giong ruổi trên đường dài, nếu sinh lạc đà con, tất phải để cho nó chở trên lưng nó mới chịu đi, còn nếu lạc đà con bị chết thì cũng phải để cho nó chở đi một đoạn đường, chờ cho đến khi thi thể của con bốc mùi hôi nó mới chịu bỏ con lại sa mạc, còn nếu không thì nó không chịu đi tiếp. Người không biết tính khí tập quán của lạc đà không thể điều khiển nó giong ruổi trên lữ đồ.

Tượng lạc đà khai quật được đều luôn có tượng người dắt lạc đà đi kèm. Họ hầu như đều có mắt sâu, mũi cao, nhiều râu khác với tượng hình người Hán, họ đươc người Đường gọi là “Hồ nhân” (tức người có nhiều râu). Đỗ Phủ trong bài” Ngụ mục” có viết: “Khương nữ khinh phong toại, Hồ nhi chế lạc đà” có ý nói con gái người Khương không sợ khói lửa đêm ngày ngoài biên ải, còn con trai người Hồ thì giỏi điều khiển lạc đà. “Người Hồ” tức người Tây Vực. Thời cổ đại, Tây Vực ám chỉ ngày nay là vùng Tân Cương, vùng Tây Á và Trung Á. Xem ra người Hồ là người chuyên môn giỏi điều khiển lạc đà, họ không những biết rõ tập quán của chúng mà còn dự đoán đúng những cơn giận dữ của sa mạc. Nơi nào có nước, có cỏ, lúc nào, nơi nào dễ nổi gió cát họ đều biết rõ tất. Họ quanh năm suốt tháng lai vãng trên con đường tơ lụa dài dằng dặc ấy, họ lập không ít công tích trong lịch sử thông thương Đông Tây, họ không hổ danh là những anh hùng vô danh.

THẬP PHẠT XÍCH VÀ NGỰA BA TƯ

Tôi là đại biểu cho những người hâm mộ tượng lạc đà vận chuyển tơ lụa, nên lần này tôi đến Chiêu Lăng, tức là nơi tọa lạc khu viên lăng của Đường Thái Tông và cũng là nơi có mộ quan chế sứ Trịnh Nhân Thái.

Rời Tây An đi về phía tây bắc đến huyện Lễ Tuyền vào đúng giữa mùa thu. Hai bên đường những cây bông vải nở trắng, táo trong vườn cây ăn quả rực một màu hồng. Nửa đường dừng xe, mọi người nhao nhao đến vườn cây mua táo hái mang về. Tôi được chia cho một quả lớn nhất, nặng đến nửa cân, toàn khối là màu hồng thắm điểm những vằn xanh trắng sáng bóng. Bổ ra ăn thì nước thanh, vị ngọt, mọi người khen ngon tuyệt. Hỏi xã viên vườn cây đây là loại quả gì, anh đáp “hồng nguyên soái”. Ở Hoa Bắc cũng có giống cây này, nhưng sao trồng ở đây chất lượng lại ngon thế này? Xã viên nói: “Nhờ hợp thủy thổ và ánh sáng”.

Tôi thầm nghĩ bình nguyên Quan Trung được xưng là Bát bách Lý Tần Xuyên (Non sông nhà Tần kéo dài 800 dặm), hay cũng còn gọi là Thiên phủ chi quốc (Nước của nhà trời) thật đúng là danh bất hư truyền. Bình nguyên nằm giữa thung lũng sông Vị rộng rãi, đất đai phì nhiêu, khí hậu ôn hòa, lượng mưa sung túc, nông sản phong phú. Thảo nào mà các triều Chu, Tần, Hán, Đường … trước sau có đến mười triều đại phong kiến đều chọn bình nguyên Quan Trung - Tây An làm trung tâm kiến thiết kinh đô, kéo dài hơn 1100 năm.

Lại tiếp tục đi, trước mắt xuất hiện dãy núi uốn lượn có tên là núi Cửu Tuấn. Hai bên tiếp giáp với Lương Sơn, Kỳ Sơn v.v... Bảy ngọn núi tiếp nhau uốn lươn theo hướng đông tây tạo thành bình nguyên Quan Trung trù phú. Nhiều khu viên lăng của các hoàng đế nhà Đường rải rác tọa lạc ở khu sơn hệ phía bắc.

Chiêu lăng tọa lạc tại núi Cửu Tuấn (Chín ngon núi hiểm trở), dưới núi là mộ phần của Đường Thái Tông Lý Thế Dân; trên núi chắc là quần thể kiến trúc cung điện hoa lệ, to lớn đường hoàng. Trải qua chiến loạn, thời gian, kiến trúc trên mặt đất đều bị xóa sạch. Người ta đào được một kiến trúc ở trên nóc có tên là “đuôi cú mèo”, cao l,5m, dài 1m, nặng đến 150kg, điều đó cho thấy cung điện vốn cao lớn, đồ sộ biết chừng nào.

Công trình kiến trúc Chiêu lăng do anh em nhà mỹ thuật trứ danh đời Đường thiết kế đó là Diêm Lập Đức và Diêm Lập Bổn. Ngày nay còn giữ sáu khối phù điêu có tên là “Chiêu lăng lục tuấn”. Nếu không phải là tác phẩm của họ thì nhất định đo họ chỉ đạo để sáng tác ra những tác phẩm điêu khắc quý giá của thời cổ đại.

Đứng trước “Chiêu lăng lục tuấn” xem xét kỹ lưỡng, tôi rất mê hai con ngựa đang cất vó có tên là “Thanh chuy” (ngựa lông màu xám xen trắng) và “Thập Phạt xích” (ngựa lông màu hồng). Chúng ở tư thế cất vó tung bay. Đỗ phủ đã ca ngợi giống ngựa Tây Vực trong hai câu thơ sau:

“Kiêu đằng hữu như thử,

Vạn lý khả hoành hành”.

Dịch nôm:

Giống ngựa tốt như thế,

Có thể dọc ngang vạn dặm.

“Chiêu lăng lục tuấn” phải chăng là tượng của giống ngựa tốt từ Tây Vực truyền sang? Sau này tôi mới có cơ hội hỏi lại viên giám đốc viện bảo tàng Thiểm Tây tên là Vũ Bá Luân, ông nói:

- Điều anh đoán cũng có lý. Anh xem, cách tạo hình của sáu con ngựa này đều có đầu nhỏ, ức rộng, chân nhỏ mà cao, bụng thon, móng lớn rõ ràng là các đặc điểm của giống ngựa Iran. Vả lại, đuôi mông sát với sống lưng, bờm kết thành ba túm, đó cũng chính là đặc điểm trang sức cho ngựa của Iran. Ông còn giải thích thêm - Ý nghĩa của “thập phạt xích” tức là “ngựa hồng”, "thập phạt" dịch âm tiếng Iran, có nghĩa là ngựa.

Rồi ông suy đoán “thập phạt xích” tức là loại tuấn mã của Iran. Hiểu rõ duyên do những điều tôi muốn hỏi, nên ông mỉm cười nói tiếp:

- Có phải anh muốn hiểu rõ lịch sử giao lưu Đông Tây của con đường tơ lụa phải không “Chiêu lăng lục tuấn” đã phản ảnh giai đoạn lịch sử này. Sau khi thông vãng việc giao lưu kinh tế văn hóa Đông Tây có từ đời Hán, thì tơ lụa Trung Quốc chuyển vận đến Ba Tư và ngựa quý của Ba Tư lại nhập vào Trung Quốc. Thời cổ đại chưa có máy ảnh thì những phù điêu tinh xảo khắc trên các văn vật chính là những hình ảnh thần tình còn được lưu giữ. Thời phong kiến, vì nhu cầu giao thông và chiến tranh, giai cấp thống trị đặc biệt coi trọng việc du nhập các giống ngựa tốt: Sử sách có ghi, Hán Vũ Đế muốn có giống ngựa trời (thiên mã) của nước Đại Oản, đã từng sai Nhị sư tướng quân Lý Quảng Lợi đem quân đánh Đại Oản; Đường Thái Tông đã sai sứ đi Tây Vực, chu du các nước, đem nhiều vàng bạc, tơ lụa chọn mua những giống ngựa tốt. Đường Huyền Tông cũng đã phái viên hoạn quan Lưu Nguyên Thượng làm thương sứ mua bán ngựa ở Ả Rập. Vì vậy, sau khi con đường tơ lụa khai thông, trong các tàu ngựa của các vua Hán Đường đầy ắp cả ngựa tốt xứ Tây Vực.

Vũ Bá Luân còn cho biết trong số Chiêu lăng lục tuấn (sáu tượng tuấn mã ở Chiêu lăng) đã bị các tay trộm nước ngoài lấy cắp hai tượng, đến nay ở viện bảo tàng Thiểm Tây chỉ còn lại bốn tượng chính gốc, còn hai tượng bị mất là tượng phục chế. Ông nói lại với một vẻ đầy phẫn nộ.

THẬP TỰ GIÁ VÀ VĂN BẢN CHỮ BALABAT

“Bi lâm” (rừng bia) là nơi mà bất' cứ du khách trong và ngoài nước nào đến Tây An đều phải đặt chân đến. Nó được thiết đặt bên trong Viện Bảo tàng Lịch sử Thiểm Tây. Người Tây An gọi viện bảo tàng này là “rừng bia” đủ thấy nó chiếm địa vị quan trọng như thế nào đối với sự quan tâm của quần chúng. Bước vào phòng trưng bày bia chí, hành lang và nhà bia, chúng ta như lạc vào khu rừng rậm đầy bia đá là bia đá, cho nên trên lối vào cửa có treo tấm biển cao để hai chữ “Bi lâm" thì không có gì là nói quá hay khoa trương cả. Ở đây người ta cất giữ hơn 2300 tấm bia từ các triều đại Hán, Ngụy, Tùy, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, chiếm một diện tích chừng 2800 mét vuông.

Phần lớn bia đá ở đây là dấu ấn của một nền văn hiến có giá trị lịch sử quý báu và là tinh hoa của nghệ thuật thư pháp. Các nhà lịch sử Trung Quốc muốn đi sâu nghiên cứu rừng bia này thì trong một thời gian ngắn không dễ gì tìm hiểu tường tận được; còn du khách ham mê nghệ thuật thư pháp đã đến đây rồi thì không thể không quay lại. Trước các bia chữ triện của Lý Tư, chữ thảo của Hoài Tố tụ tập rất đông người yêu thích thư pháp. Tôi nhận ra nét chữ của Nhan Chân Khanh trong “Đa bảo tháp bi” và của Liễu Công Quyền trong “Huyền bí tháp bi” mà hồi nhỏ tôi đã mô phỏng viết theo, thì ra người ta khắc in từ đây. Nghĩ lại cái chuyện thời ấy vì ham chơi mà không chú tâm bắt chước viết theo mẫu khắc kia của nhà đại thư pháp đến nỗi bị cha la mắng, thật không nhịn cười được, đồng thời cũng hối hận hồi nhỏ không nhận ra cái hay của việc viết theo mẫu khắc bia, nếu không thì đâu đến nỗi ngày nay chữ viết của mình chẳng có cân cốt gì cả.

Tôi để ý thấy một đoàn du khách người Âu vây quanh trước một khối bia đá cao lớn đang chỉ chỉ trỏ trỏ, ai nấy đều lấy làm lạ kêu lớn “Tuyệt vời”, “Kỳ diệu quá”. Lẽ nào người Âu dùng mẫu tự La Tinh lại hiểu biết kiểu chữ vuông của người Trung Quốc hơn tôi chăng ? Ồ không, thì ra họ không phải đang thưởng thức nghệ thuật thư pháp mà là thấy trên bia cổ có một mẫu hoa văn thập tự giá nên họ cảm thấy lạ đấy thôi.

Tấm bia nổi tiếng có dòng chữ “Đại tần Cảnh giáo lưu hành Trung Quốc bi” (bia ghi việc lưu hành đạo Cảnh giáo của La Mã ở Trung Quốc) lập năm 781 CN. Phần trên của tấm bia này có khắc dấu hiệu “Thập tự giá”, một biểu trưng của Cơ đốc giáo. Văn bia có cả chữ Hán lẫn chữ Sulia. Giáo phái Cảnh giáo (Nestorians) được truyền sang Trung Quốc là do người Ba Tư. “Đại tần” ở đây chỉ La Mã. Bia đá vốn được đặt tại nhà thờ Đại Tần vào đời Đường tại kinh đô Trường An mà sử sách gọi là chùa Ba Tư. Tại sao vậy? Vì từ thế kỷ thứ IV CN, Cơ đốc giáo là quốc giáo của La Mã; về sau, La Mã bị phân thành Đông La Mã và Tây La Mã nên Cơ đốc giáo cũng phân làm Tây chính giáo và Đông chính giáo (Hy Lạp giáo). Cảnh giáo là một phái của Đông chính giáo phân ra và thịnh hành ở Ba Tư cổ. Tấm bia đá ấy nói rõ Cảnh giáo là một phân chi của Cơ đốc giáo La Mã thông qua Ba Tư rồi truyền sang Trung Quốc. Trên tấm bia ấy khắc tên họ của hơn 70 tăng lữ toàn người Ba Tư, trong đó có người tên là Alaben là vị thầy tu Ba Tư đầu tiên truyền Cảnh giáo vào Trung Quốc.

Đối với tôi việc người châu Âu du nhập tôn giáo vào Trung Quốc tôi không để ý tìm hiểu; thế nhưng, thông qua tấm bia nói trên có thể rút ra hai điều có ý nghĩa lịch sử: Thứ nhất, nước Ba Tư cổ vào đoạn giữa của con đường tơ lụa, đó là chiếc cầu nối Trung Quốc với các nước châu Âu trong việc giao lưu Văn hóa kinh tế. Thương nhân Ba Tư lấy việc vận chuyển tơ lụa Trung Quốc đến La Mã làm nguồn thu hoạch trong giao thương. Thứ hai, tùy vào sự thông thương của con đường tơ thế thì ở Trường An không thể có nhà thờ Ba Tư quy tụ đông đến bảy, tám chục tăng lữ.

Người Ba Tư định cư tại Tây An chắc phải có những di chỉ văn vật chính yếu để minh chứng. Năm 1955, tại thôn Thổ Môn gần Tây An, người ta đã khai quật một ngôi mộ, đó là mộ của Mã thị - vợ của Tô Lượng đời Đường - mộ chí có khắc cả chữ Hán lẫn chữ Balabat của Ba Tư cổ.

Chữ Balabat là văn tự cổ của Ba Tư đã bị thất truyền, hiện nay các nhà khảo cổ rất ít người đọc hiểu, với lại tiêu bản thực của chữ Balabat hiện còn quá ít. Đến nay mà nói thì ở Trung Á, và Đông Á, đó là tấm bia duy nhất có văn tự Balabat khai quật được. Tờ “Khảo cổ học báo” Trung Quốc có mời riêng giáo sư đại học Kyoto (Nhật Bản) Y Đằng Nghĩa Chính phiên dịch chữ Balabat của mộ chí và còn viết một bài luận văn về vấn đề này đăng trên tờ “Khảo cổ học báo” số 2 năm 1964.

Căn cứ khảo sát đối chiếu hai thứ văn tự trên bia mộ ấy thì Tô Lượng và vợ là Mã thị cư trú ở Trường An -vào đời Đường đều là người Ba Tư; họ không những dùng chữ viết, lịch pháp của bổn quốc mà còn giữ cả tín ngưỡng quốc giáo Ba Tư của mình là Bái hỏa giáo. Nước Ba Tư lúc bấy giờ bị người Ả Rập xâm chiếm, nhiễu người buộc phải di tản sang phía đông, không ít người vào đến Trường An. Tại Trung Quốc, họ được vua nhà Đường ưu đãi, ngoài việc kinh doanh làm viên chức nhà nước, họ còn theo tập tục, tôn giáo của bổn quốc và lập ra nhà thờ Bái hỏa giáo. Tô Lượng gia nhập quân đội Trung Quốc, giữ chức “Thân sách quân kị trưởng”, tức một chức võ quan thuộc đội cấm vệ quân của triều đình.

SÁU MƯƠI MỐT VỊ KHÁCH NHÀ VUA VÀ LOÀI CHIM HUYỀN THOẠI

Tôi đi xe dọc đường Trường An - Lan Châu theo hướng tây bắc qua các huyện Hàm Dương, Lễ Tuyền, và Càn Huyện; rồi đi thẳng chưa đầy nửa giờ thì đến Càn Lăng. Con đường nhựa thông suốt với Lan Châu ở cạnh khu vực di chỉ Càn Lăng.

Tôi vượt qua đoạn đường ấy thì vừa đúng là đoạn đầu của con đường sang Tây Vực dài đằng đặc mà những vị tiền bối thời Hán Đường đã đi sau khi xuất phát từ Trường An. Người xưa đa tiến lên phía trước qua huyện Bân, vòng qua sáu ngọn núi thuộc khu vực Ninh Hạ để đến hành lang Hà Tây đi thẳng qua Tây Vực. Đoạn đầu ấy là tuyến bắc của con đường tơ lụa xuất phát từ trường An đi hành lang Hà Tây, còn tuyến nam của con đường tơ lụa thì sau khi ra khỏi Trường An, đi dọc phía tây sông Vị Thủy qua Lũng Tây để đến hành lang Hà Tây đi Tây Vực. Cả hai tuyến Bắc Nam ấy đều phải qua sông Vị và qua Hàm Dương.

Tây Vị kiều (cầu phía tây sông Vị) hay còn gọi là Hàm Dương kiều (cầu Hàm Dương) là nơi cổ nhân tiễn bạn đi về phía tây đều phải qua nơi đó, tại đây họ thết rượu đãi tiệc tích biệt. Khi qua sông Vị, tôi bỗng nhớ đến Vương Duy với bài “Vị thành khúc”:

Vị thành triêu vũ ấp khinh trần,

Khách xá thanh thanh liễu sắc tân;

Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu,

Tây xuất Dương quan vô cố nhân.

Tạm dịch: Vị thành, mưa sáng làm ướt lớp bụi nhẹ; quán xá xanh xanh, những cành liễu đâm chồi mới. Mời bạn hãy uống cạn thêm một chén rượu nữa vì khi bạn ra khỏi Dương quan đi về phía tây, bạn sẽ không còn có cố nhân.

Bài thơ trên Vương Duy làm khi ở Vị thành tiễn bạn sang Tây Vực, trong đó tỏ ý luyến tiếc. Vị thành cách Hàm Dương bởi con sông Vị. Người đời sau đem bài thơ này nhập vào nhạc phủ, lấy câu cuối “Tây xuất Dương quan vô cố nhân” lặp đi lặp lại ba lần gọi là “Dương quan tam điệp”. Tình người ly biệt dùng dằng khó dứt, đó là một danh khúc đáng ngâm vịnh muôn đời.

Ra khỏi huyện Càn, dọc đường, nhìn xa xa thấy hai ngọn núi đông tây đối nhau, đứng trên mô đất cao trông xa giống như hai đầu vú, người quanh đấy gọi là “Nhũ đầu sơn” và trên hai mô đất ấy người ta xây dựng lâu khuyết. Gọi là “khuyết"” tức là hai toà lâu đài xây đằng trước một cung điện thời cổ đại, nó tượng trưng cho cái cổng nhà. Vào đến Càn Lăng, trên hai đỉnh núi là lâu khuyết cao sùng sững như đứng trấn giữ khuôn viên lăng hoàng đế, ta có thể tưởng tượng ra khí thế hùng vĩ của nó. Đến nay lâu khuyết đã bị tiêu hủy, chỉ còn lại nền đất cao rộng mà thôi.

Qua khỏi hai cổng nhà trời của hai tòa “Nhũ đầu sơn, trước mắt ta là một vùng khoảng khoát, hiện ra một con đường dài thẳng tắp rộng thoáng, gọi là “tư mã đạo” chạy thẳng đến một ngọn núi.gọi là Lương sơn cao 1049 mét. Cung điện ngầm của đường Cao Tông và hoàng hậu Võ Tắc Thiên được xây dưng ở dưới chân núi Lương sơn này. Theo sử sách ghi chép thì công trình cung điện ngầm của Càn Lăng rất rộng lớn, đồ quý chôn theo rất phong phú, đến nay vẫn chưa khai quật được.

Hai bên “tư mã đạo” là quần thể khắc đá được bảo tồn hoàn hảo để khách du lịch mặc tình xem xét. Đi vào lăng viên một đoạn thấy có một đôi cột đá chạm, một đôi ngựa có cánh, một đôi chim chu tước, năm đôi ngựa đứng, mười đôi viên quan văn võ, một cặp bia đá, một cặp sư tử. Các viên quan văn võ trong quần thể khắc đá theo tôi thấy thì quá cứng ngắt, có lẽ người tạc tượng chỉ thấy cái vẻ tôn nghiêm của các vị quý nhân đại quan mà không cảm nhận được cái linh hoạt của thần thái con người là gì! Tôi đứng rất lâu trước tượng sư tử, chu tước và ngựa có cánh. Đồ đá khắc đã hơn 1200 năm, mà qua cách xử lý khéo léo của các nhà nghệ thuật, thân dạng của chim, thú tựa hồ như có dòng máu nóng lưu động, toàn thân như đang nhảy múa đầy sức sống vậy.

Đúng là đôi sư tử và đôi chu tước là điều thể hiện sự giao lưu văn hóa giữa Đông và Tây. Trung Quốc cổ đại không có sư tử. Các nước Tây Vực đến tiến cống cho nhà Đường thường lấy sư tử làm hiến lễ đáng quý nhất. Sử sách ghi chép, các nước

Khang Cư, Mễ, Thổ Hỏa La, Ba Tư, trước sau đều dâng lễ cho nhà Đường bằng sư tử. Các nhà nghệ thuật vô danh chắc đã quan sát kỹ lưỡng thần thái của sư tử trong vườn bách thú của nhà vua nên mới sáng tác ra những hình tượng đầy nghệ thuật như thế, đến nay vẫn còn khiến người ta thích thú thưởng ngoạn. Vả lại, đối với sư tử, một giống mãnh thú, có kích thước lớn như vậy làm sao có thể vận chuyển đến Trường An trên con đường tơ lụa dài dằng đặc ấy, với tôi vẫn còn là một ẩn số.

Chu tước là một loài chim huyền thoại, các mẫu hoa văn tạo hình chim chu tước thời cố đại đều không giống nhau. Thế mà chu tước ở Càn Lăng thì đúng là hình trạng của loại đà điểu, “Đường thư” có ghi Năm 650 CN, nước Thổ Hỏa La sai sứ dâng tặng chim lớn như lạc đà (Thổ Hỏa La khiển sứ tống đạo điểu như đà). Thổ Hỏa La nay thuộc địa phận Afghanistan, thời đó thuộc lãnh địa Ba Tư. Phù Điêu đà điểu ở Càn Lăng đã ghi lại truyền thống hữu nghị giữa Trung Quốc và các dân tộc phía tây cao nguyên Pamia.

Dọc hai bên đôi sư tử đá, tức nơi gần lăng mộ nhất, sừng sững sáu mươi mốt tượng người đá là khách của vương triều. Phục sức của các tượng này không giống với phục sức của người Hán đời Đường. Áo có thân ngắn, thắt lưng to bản, chân đi giày da. Phần đầu của tượng đá hầu như bị hủy hoại, căn cứ hai phần mặt còn giữ được mà xét thì đó là người Tây Vực, có mũi cao, mắt sâu.

Khi cử hành lễ táng Đường Cao Tông, các thủ lĩnh của dân tộc thiểu số Tây Vực và một số đặc sứ ngoại quốc có đến tham dự. Sau hoàng hậu Võ Tắc Thiên ghi nhớ việc này cho khắc tượng vương khách, sứ giả để kỷ niệm và đằng sau còn cho khắc tên họ trong đó có vua Ba Tư là Ti Lộ Tư, vua Quy Tư là Bạch Tố Khễ v.v... Thời thịnh Đường có trên bảy mươi nước và lãnh địa trên thế giới lai vãng hòa hiếu. Điều này cho thấy việc giao thương phát đạt giữa nhà Đường và các nước Tây Vực qua con đường tơ lụa là điều không thể phủ nhận.

Thăm thú văn vật phong phú có liên quan đến con đường tơ lụa ở Tây An khơi dậy trong tôi niềm hứng thú sâu đậm đối với sự phồn vinh của các cổ thành thời Hán Đường, một khởi điểm cho con đường cái quan vĩ đại qua Tây vực. Tôi yêu cầu hướng dẫn viên du lịch dẫn tôi đi thăm các di chỉ ở các cổ thành thời Hán Đường. Hướng dẫn viên thấy tôi kê một danh sách dài các di tích, anh chân thành nói: “Vâng, tốt thôi! Hứng chí của ông lớn lắm, tốt. Ông hãy đi xem mấy ngày!”.

3. TRƯỜNG AN CỔ ĐẠI, THỦ ĐÔ CÓ TÍNH QUỐC TẾ

Đầu những năm năm mươi, tôi vội vã đến Tây An, nhưng có ấn tượng không mấy tốt đẹp. Thành phố thì nhỏ mà phá cũ xây mới trông rất nhếch nhác. Từ cửa thành nam đến cửa thành bắc đi bộ chưa đầy vài tiếng đồng hồ là hết. Ra khỏi cửa thành là nông thôn. Đường phố thì chật hẹp, hầu như không cô cây xanh.

Hai mươi lăm năm sau, tôi trở lại Tây An, quan niệm có phần đổi mới. Thăm thú mãi những văn vật cổ tích, cố nhiên nó có sức hấp dẫn kỳ lạ; rồi các khu xây dựng - mới trong thành phố đã làm thay đổi ấn tượng cũ của tôi diện mạo thành Tây An trước đây.

DIỆN TÍCH TÂY AN NGÀY NAY VƯỢT QUÁ TRƯỜNG AN THỜI THỊNH ĐƯỜNG

Tôi đã bốn lần đi thăm các di tích cổ, ngoại thành phía đông thì đến khu phường dệt, ngoại thành phía tây từ đến khu điện khí, ngoại thành phía nam thì đến khu văn hóa giáo dục, tuy không có thời gian xuống xe tham quan, nhưng cũng cảm nhận được diện tích thành phố mở rộng gấp bội so với cựu Tây an thời chính phủ Tưởng Giới Thạch để lại.

Anh Quế làm công tác quy hoạch thành thị cung cấp cho tôi những số liệu chính xác, quả đúng như tôi dự cảm. Anh từ Thượng Hải đến Tây An tham gia công cuộc đại kiến thiết Tây An vào năm 1952. Đến Tây An vào ban đêm, qua một đoạn đường dài là nông thôn mới đến lữ quán và in trí rằng mình đang ngủ tại ngoại ô. Sáng ra mới biết mình ở ngay trung tâm thành phố. Bên trong tường thành vấn còn những đám ruộng, điều này cho thấy sự suy sụp của cựu Tây An. Anh nói:

- Hơn hai mươi năm nay, dù mặt kiến thiết thành phố chưa phải là lý tưởng, song kết quả thì đã rõ ràng. Trước giải phóng, diện tích thị khu chỉ có 13,2 km vuông, nhưng nay đã phát triển đến 98 km vuông, rộng thêm hơn bảy lần rưỡi, vượt quá thành Trường An vào thời Thịnh Đường gấp bội.

Anh nói với tôi việc quy hoạch Tây An mới vẫn tiếp thu truyền thống của thành Trường An, thiết trí một số trục lộ chính xuyên qua đông - tây và nam - bắc; đồng thời làm thêm một con đường bao quanh thành rộng đến 150 mét, hai bên đường trồng cây ngô đồng và cây du: giữa khu công xưởng và khu nhà ở phải bố trí các dải rừng cây. Khi đi qua một dải rừng tôi đếm thử có hơn 20 hàng.

Bóng mát trên các trục lộ chính đối với tôi thật là thích thú. Hoàng hôn một ngày nọ, tôi từ ngoại thành phía đông trở về trung tâm thành phố, qua tán lá kín mít của những cây ngô đồng như tạo thành một đường ngầm xanh thẳm, mặt trời sắp lặn chiếu xuyên qua một vạch dài trên con đường thẳng tắp để lại một mảng ánh vàng lấp lánh. Anh ký giả nhiếp ảnh ngồi trên xe buột miệng nới: Ồ, đẹp quát Tôi rất yêu thích Tây An.

Để chụp hình, anh đi nhiều nơi hơn tôi, lúc này đây chính anh ta đã nói đúng tâm trạng của mình mà bấy lâu nay từng ấp ủ nhưng không nói ra được.

Lần này đến Tây An, điều tôi cần làm là tìm hiểu nơi khởi đầu của con đường tơ lụa. Khi con đường này hưng vượng vào các đời Hán Đường thì thành Trường An trở thành nơi đô hội nhất ở phương Đông, tương đương với La Mã, Constantinople ở phương Tây. Thành Trường An vào đời Đường có dân số ước khoảng một triệu người, bao bọc thành hình vuông có diện tích ước khoảng 85 cây số vuông. Các đời sau, trải qua chiến tranh phá hoại, Trường An dần dần bị suy thoái, đến đời Minh, khu vực thành trì thu hẹp lại chỉ còn khoảng 30,2 cây số vuông, Tường thành đời Minh vẫn còn được bảo tồn nguyên vẹn. Đến khi chính phủ Quốc Dân Đảng thống trị, Tây An chỉ còn giới hạn của khu vực nội thành của thế kỷ XVII để lại. Đến những năm năm mươi của thế kỷ XX, Tây An về tay nhân dân, đội ngũ kiến thiết mở rộng diện tích hướng về ba phía đông, tây, nam. Hai mươi chín năm trở lại đây, tổng diện tích Tây An ước gần 100 cây số vuông, vượt rất xa thành Trường An huy hoàng nhất trong lịch sử của thời Thịnh Đường. Đối chiếu cổ kim, tôi cảm thấy tăng thêm lòng tin vào tốc độ kiến thiết hiện đại hóa thành Tây An mới.

CUNG VỊ ƯƠNG ĐỜI HÁN TRÊN VŨ ĐÀI LỊCH SỬ

Triều đại lập kinh đô sớm nhất tại Tây An là nhà Chu, di chỉ tìm được tại Phong Cảo, nay thuộc nội vi huyện Trường An. Tần Thủy Hoàng lập kinh đô ở Hàm Dương, cách Tây An về phía tây bắc hơn 21 cây số. Sau Hán Cao tổ thống nhất Trung Quốc đóng đô ở Trường An, di chỉ tìm được nay ở tây bắc ngoại thành Tây An.Để tìm hiểu di chỉ thành Trường An đời Hán, tôi đi xe từ trung tâm thành phố theo hướng tây bắc, qua một số đường đất nông thôn đến một thôn trang có tên là Lưu gia trại (Trại nhà họ Lưu), chắc ở đây nhiều nhà họ Lưu tụ tập mà có tên ấy, nhưng chưa hẳn là hậu duệ của Lưu Bang Hán Cao tổ. Tôi đến hỏi một nữ nhân viên hợp tác xã mua bán người họ Lưu:

- Di chỉ cung Vị Ương có phải ở gần đây không cô?

Chị thuận tay chỉ và nói:

- Vâng, ở đằng kia đấy!

Theo hướng chỉ, tôi đòi qua một đám ruộng lúa thì thấy một mô đất cao, lòng cảm thấy thất vọng. Cung Vị Ương nhà Hán ở thành Trường An huy hoàng một thời mà nay tường xiêu vách đổ. chẳng để lại một tí gì như thế này chăng? Thời gian năm tháng đằng đẵng chẳng chút lưu tình!

Tôi bước trên mô đất đi tới lui trong một khoảng đất rộng, đông tây ước chừng 100 mét nam bắc ước chừng 50 m. Ông bạn làm công tác khảo cổ đi với tôi, nói đây là tiền điện của cung Vị Ương. Tôi không chịu bỏ ý định tìm kiếm dấu tích lịch sử, tôi giẫm nát một vùng cỏ quanh đấy thì phát hiện ra một số khối đá lớn dùng để kê chân cột. Cung điện cao lớn ắt hẳn là do các khối đá này chống đỡ mà dựng nên, rõ là tráng lệ nguy nga lắm. Thế là hứng chí lại tăng thêm, tôi tiếp tục tìm kiếm kỹ hơn nữa, nhặt được một viên gạch nung đời hán, chất gạch rất mịn, hoa văn hình thoi ở mặt chính rất đẹp, đáng gọi là giai phẩm của công nghệ mỹ thuật đời Hán. Người làm công tác khảo cổ cầm lên xem, gật đầu khen ngợi:

- Đúng đây chính là gạch dùng xây cung Vị Ương trứ danh rồi, giấy khắc in của nó cũng đáng giá 100 tệ kia đấy!

Niếm hứng chí vẫn còn, tôi lại lên đồi cao hơn nhìn xuống di chỉ tiền điện thì tựa như đại điệnKim phô ngọc hộ, Trùng hiên lâu hạm kia ngày xưa đang hiện ra trước mặt, trong đó hơn hai ngàn năm trước biết bao là sự kiện chính trị trọng đại diễn ra trên vũ đài lịch sử.

Đại thần nhà Hán Tô Vũ đi sứ Hung Nô bị hạ nhục phải chăn giữ dê trong mười tám năm trời trên thảo nguyên phía bắc, làm xong nhiệm vụ trở về và tại cung Vị Ương này ông được triều đình tuyên dương.

Một phụ nữ kiệt xuất được hậu thế xưng tụng là Vương Chiêu Quân đã không sợ tuyết lạnh, bão cát để hoàn thành sứ mệnh hòa hiếu với Hung Nô, cũng tại cung Vị Ương này từ biệt Trường An xuất tái.

Đại tướng quân tuổi trẻ Hoắc Khứ Bệnh chưa tròn hai mươi tuổi cũng tại cung Vị Ương này nhận lĩnh binh phù, dẫn binh ngựa Tây chinh đánh lại dân du mục phía bắc quấy nhiễu hành lang Hà Tây.

Người khiến tôi nhớ lại hơn cả chính là Trương Khiên, ông đã lập công đầu trong việc mở đường sang Tây Vực. Cũng chính tại cung Vị Ương này ông nhận lĩnh chiếu mệnh, hai lan đi sứ Tây Vực, thu thập được nhiều điều về tình hình chính trị, quân sự và những sản vật, phong văn khi trở về; và cũng tại đây ông đã bẩm báo toàn bộ lên triều đình. Từ đó tạo ra sự giao thương mật thiết giữa các dân tộc thiểu số Tây Vực và chính quyền trung ương và cũng là điều kiện thống nhất Tây Vực sau này; đồng thời khai thông con đường tơ lụa từ Trường An Trung Quốc đến Địa Trung Hải.

Tiếng ầm ầm của chiếc máy kéo từ cánh đồng vọng lại kéo tôi về với thế giới thực tại. Tôi chầm chậm đi trên mô đất mà xưa kia là cung Vị Ương, vừa đi vừa nghĩ: Lịch sử chưa hẳn đã có sự trùng lặp, nhưng sự nghiệp của tiền nhân, đặc biệt là những bài học kinh nghiệm rất đáng cho người đời sau ghi nhớ.

Từ biệt di chỉ cung Vị Ương lên xe đi về phía đông, tôi để ý đến những thôn xóm ven đường, người ta dùng gạch nung kiểu đời Hán xây tường, dùng ống gốm nung hình ngũ giác đời Hán làm ống dẫn nước. ở Tây An gạch kiểu đời Tần, ngói kiểu đời Hán đâu đâu cũng có, nhưng phần lớn các bảo tàng nằm dưới đất thì hãy còn đợi khai quật. Người ta vừa đào được một kho chứa binh khí đời Hán, nhưng rất tiếc mấy ngày trước đây họ đã lấp đất lại chuẩn bị xây phòng triển lãm nên chưa thể tham quan được.

Tôi lại tiếp tục đi về hướng đông, qua cung Trường Lạc chốn xưa đến một khu đất trồng bông vải, xa xa nhìn thấy tường thành sừng sững của tường thành nhà Hán, ở giữa có một chỗ hổng khoảng khoát thì đó chính là cửa đông của Bá thành, tức một trong số mười hai tòa cổng thành bao quanh hoàng thành, đây là một di chỉ còn được giữ lại.

Từ cửa Bá thành leo lên tường thành cao khoảng 10 mét, toàn bộ xây bằng đất nện, chứ không dùng gạch; xem xét tường thành bằng đất này thấy phần đáy rộng chừng 16 mét, phần trên xe ngựa có thể đi lại được. Chỗ có lỗ hổng ta có thể thấy rõ từng tầng, từng tầng đất nện, cả tường thành dài hơn 22,000 mét. Thành này không biết đã dùng bao nhiêu công lao động để đắp nền?

Ban Cố, nhà văn thời Đông Hán đã từng miêu tả quy mô của thành Trường An đời Hán trongLưỡng đô phú như sau:

“Thành tường cao mà rất kiên cố, có hào hộ thành sâu mà rộng, bốn mặt có mười hai tòa cổng thành, các cổng được nối liền nhau bằng ba con đường lớn trên mặt thành”.

Sau khi các nhà khảo cổ khai quật Bá thành, phát hiện dấu tích của vết bánh xe, qua khảo sát có thể đây là loại xe tứ mã, nhưng cổng thành phải thông với đường phố thì trong ba làn đường ấy, làn giữa tức là đường của hoàng đế ngự dụng. Cho dù đường phố rộng thoáng như vậy, nhưng Ban Cố lại tá: “Người khó đi lại, xe khó quay đầu ...”, nguyên nhân có lẽ là do nội thành mở mang nhiều chợ, trưng bày nhiều loại hàng hóa, đường phố đông đúc chen nhau nên trở thành chật chội. Rõ ràng đây là cảnh tượng phồn vinh của thành Trường An đời Hán.

MỘT KINH THÀNH ĐƯỢC QUY HOẠCH CHU ĐÁO NHẤT

Thấy tôi có hứng thú và yêu thích Trường An sâu đậm như vậy một nhà khảo cổ học đầu đã bạc nhưng tinh thần còn minh mẫn tên là Hạ Tân Thành nói:

- Thành Trường An đời Đường còn to lớn kỳ vĩ hơn thành Trường An đời Hán gấp bội: Từ sau đời Đường, kinh đô các triều đại khác chuyển về phía đông. Đời Minh đổi Trường An thành Tây An. Ngày nay thấy tường thành và lâu thành một cách hoàn chỉnh như vậy đều là kiến trúc của đời Minh cả đấy.

Theo tôi, thành Tây An đời Minh thật là hừng vĩ; nhưng khi ông Hạ Tân Thành cho xem một tấm bản đồ cũ thì rõ diện tích Tây An đời Minh chỉ bằng 1/6 diện tích thành Trường An đời Đường và chỉ quy vào góc thành phía bắc mà thôi.

Ông cho biết thành Trường An đời Đường là thiết kế tinh tế nhất của Trung Quốc, là một đô thành cổ đại có bố cục cân đối: Nam-Bắc 8,4 km; Đông-Tây 7,9 km, tổng diện tích là 81,48 km2: vào thế kỷ thứ VIII, IX được gọi là kinh đô lớn nhất thế giới. Cổ thành Nại Lương của Nhật phỏng theo thành Trường An đời Đường mà xây dựng.

Đông tây nam bắc thành Trường An đời Đường có bố cục thẳng góc giống như một bàn cờ. Thành Lạc Dương, thành Bắc Kinh sau này đều mô phỏng quy cách ấy. Trục đường chính nằm giữa trung tâm thành phố là đại lộ Chu Tước rộng đến 155 mét, một sáng tạo đầu tiên trong lịch sử thiết kế đô thị ở thế giới cổ đại. Đại lộ rộng nhất của thành phố lớn nhất thời La Mã cổ đại cũng chỉ có 20 mét, còn đường phố chính của thành Hy Lạp chỉ rộng có 5 mét.

Một đặc sắc khác nữa là sự kiến tạo Tiểu thành trong nội thành, gọi là phường. Cả toàn thành lập ra 110 phường, mỗi phường có tường thành và có cổng phường, ban đêm sau giới nghiêm, cổng thành không những phải đóng lại, mà cổng phường cũng đóng luôn. Mỗi đêm, sau tiếng trống ở các phường đóng lên, mọi người phải về phường mình, cho nên có câu thơ rằng: “Lục nhau cổ tuyệt hành nhân yết” (Tiếng trống ở các đường phố đã chấm dứt, người đi đường phải về chỗ trú) để miêu tả tình huống này.

Thành Trường An đời Đường còn được xây 12 cổng thành. Tôi đi thăm cổng thành phía tây nổi tiếng: Cổng Khai Viễn. Chính ngài cao tăng Đường Huyền Trang ra cổng thành này để đi Tây Vực, thực hiện một cuộc Tây du dài 5000 dặm. Nhiều sứ giả phương Tây cũng vào cổng này để đến Trường An. Ngẩng đầu ngước nhìn hoàng cung huy hoàng xán lạn từ xa, thật đáng gọi là kỳ quan. Thời bấy giờ người ta lấy Cổng Khai Viễn làm khởi điểm theo hướng tây mà lập các vọng gác cho đến tận An Tây đô hộ phủ (nay thuộc địa giới Tân Cương), cộng cả thảy 9900 dặm Trung Hoa, căn cứ số đo thực tế ước hơn vạn dặm. Tại sao không chiếu vào mốc đo có thực mà tính chiều dài. Có lẽ nhà cầm quyền đương thời đoán ra tâm lý khiếp sợ cuộc vạn lý hành của bách tính chăng? Cũng như các thương gia buôn bán chỉ ghi thương phẩm của mình ở con số 9900 đồng vậy (để tránh con số 10000).

Có thể nói cổng Khai Viễn chính là khởi điểm ở phía đông của con đường tơ lụa. Nhưng rất tiếc nó bị chôn vùi dưới cái tên đường Đại Khánh đầy cây cao bóng mát. Mỗi lần tôi đi xe qua đây đều mở rộng mắt nhìn tứ phía, chỉ thấy các công xưởng hiện đại, các cửa hàng buôn bán và những viên cảnh sát giao thông trên các trục đường. Lòng tôi vẫn cứ nghĩ viên cảnh sát giao thông kia có thể biết cái gậy chỉ đường trong tay mình vẩy về hướng tây một cái thì chỗ anh đang chỉ chính là đầu mối của con đường tơ lụa thời xa xưa đấy. Giá như tái đây được dựng một tấm bảng đề “Đây là điểm khởi hành của con đường tơ lụa” thì hay và thú biết chừng nào đối với khách du lịch quan tâm đến lịch sử của con đường nổi tiếng này!

Cách giải đáp của các học giả ngoại quốc về khởi điểm của con đường tơ lụa không giống nhau, có người bảo ở Đôn Hoàng, có người cho là ở Bắc Kinh, còn học giả Trung Quốc đều đồng ý là Trường An. Tại sao vậy? Trường An khi còn là kinh đô của Hán-Đường, thông ra cả bốn phương tám hướng, ngoài con đường tơ lụa thông Tây Vực, thì phía bắc có đường đi Thái Nguyên đến Bắc Kinh, phía đông có đường đi Lạc Dương đến Khai Phong, phía nam có dường Nhượng Phàn đi Trường Sa và theo sông Gia Lăng đến Tứ Xuyên. Tơ lụa, trà, đồ sơn, đồ gốm … của Trung Nguyên quy tập ở Trường An, còn Tây Vực chở đến Trường An hàng hoá, vật tư rồi từ đấy chuyển đi khắp nơi. Do đó, lấy Trường An làm khởi điểm của con đường tơ lụa là phù hợp nhất.

NHỮNG KIẾN TRÚC HOA LỆ ĐỜI ĐƯỜNG

Cung Đại Minh, nơi ở và làm việc của các vua nhà Đường là đỉnh cao của kiến trúc thời Thịnh Đường. Theo đồ án phục chế điện Lân Đức nguyên bản nhiều màu của các nhà khảo cổ học và các nhà kiến trúc cổ thì sự hiểu biết của chúng ta về kiến trúc đời Đường chỉ như ếch ngồi đáy giếng. Cung điện ấy là nơi hoàng đế ngự triều và tổ chức yến tiệc chiêu đãi sứ thần ngoại quốc. Ba điện tiền, trung, hậu có hình thức cấu tạo liền nhau, đây là một lối kiến trúc ở các triều đại trước chưa hề có, phong cách hoa lệ, bố cục khoáng đạt, vượt hẳn cả Cố cung ở Bắc Kinh vốn xưa nay được du khách quốc tế xưng tụng.

Đến đời Trung Đường xây thêm cung Hưng Khánh cũng rất to lớn, Đường Huyền Tông đã từng tiếp kiến các tăng lữ Ba Tư tại cung Hưng Khánh này. Điện Cần Chánh thuộc cung Hưng Khánh nay vẫn còn lưu lại di chỉ. Tôi đến xem xét kỹ thì thấy nơi đây còn lại khoảng mười tảng đá lớn dùng kê chân cột. Theo sách vở còn ghi lại thì tại lầu này, Đường Huyền Tông đã ngắm xem 100 con ngựa múa tập thể, bấy giờ người ta chỉ nghe ngựa diễn trò chứ không biết ngựa múa như thế nào. Tôi được xem một số tượng ngựa múa bằng đất nung khai quật được ở khu vực Tây An, thân ngựa đeo các loại trang sức, chân đưa lên, đấu lắc lư, tư thế có vẻ tươi tắn.

Tại di chỉ của cung Hưng Khánh, năm 1958, người ta xây công viên Hưng Khánh rất xinh đẹp. Trong công viên, phỏng theo ao Hưng Khánh, xây một cái hồ, nước hồ trong xanh dập dềnh, ven hồ liễu rủ phất phơ, du khách vui thú chèo thuyền trên hồ; còn tôi lại thích tản bộ ven hồ nhìn ngắm và nhận ra rằng công viên này thật u nhã, tĩnh mịch vì diện tích thì rộng lớn mà cây cối thì um tùm, đúng là một nơi lý tưởng cho những ai ưa tĩnh lặng. Tôi tản bộ lang thang thì lạc vào một lối đi trồng toàn cây ngô đồng, thật là thanh tĩnh, ở đây chỉ nghe tiếng chim hót véo von. Đằng xa, một chàng trai trẻ nằm dài trên thảm cỏ đọc sách. Nếu mình rảnh rỗi chắc phải bắt chước anh ta.

Công viên này cũng lấy lại các danh xưng cũ trong cung Hưng Khánh mà dựng thêm một số công trình mới như Hoa đài thướng huy lâu, Mẫu đơn kiều, Phù dung đảo ... Tôi ngồi trước Trầm hương đình yên lặng ngắm nhìn, bên cạnh một công nhân xây dựng có tuổi đang cùng tôi trò chuyện. Ông hỏi:

- Cái đình này có phải là nguyên dạng của nó không?

Tôi làm sao biết được kia chứ? Chỉ biết là sách vở có ghi Đường Huyền Tông đã cùng với Dương Quý phi thưởng ngoạn hoa thược dược ở đình Trầm Hương bỗng tâm tưởng rạo rực, truyền lệnh cho mời Lý Bạch đang say nằm ở quán rượu đến đình Trầm Hương. Nhà thơ vừa đến liền làm ngay ba bài “Thanh bình điệu” dâng lên. Đến nay đọc lại, đúng là ứng cảnh sáng tác, nhưng vẫn là một bài thơ đẹp của đại thi hào bất hủ. Họa sĩ đời Minh là Cừu Anh, Đường Dần đã từng lấy đề tài này để vẽ tranh, tôi chưa được xem nên không dám bình luận lan man.

CẢM KHÁI KHI LÊN “NHẠN THÁP”

Đến Tây An mà không xem hết các kiến trúc đời Đường thì đành lòng sao được! Cho nên tôi chọn một buổi chiều đẹp trời, gió mát, đi xem cho hết những kiến trúc nhà Đường còn giữ được, đó là Đại nhạn tháp và Tiểu nhạn tháp. Tháp Đại nhạn thì hùng vĩ, tháp Tiểu nhạn thì thanh tú.

Tháp Đại nhạn nằm trong khuôn viên chùa Từ Ân, là tòa tháp do cao tăng Đường Huyền Trang xây nên. Huyền Trang Tây du theo con đường tơ lụa đến Ấn Độ thỉnh kinh. Khi trở về Trường An, ngài đã từng ở và làm việc tại chùa Từ Ân một thời gian dài để dịch kinh. Hình dáng của “Đại nhạn tháp” không giống phần lớn các tòa tháp cổ ở các nơi trong nước mà phỏng theo hình dáng các tháp Phật ở Ấn Độ mà xây nên.

Gọi tên là Đại nhạn nhưng thực ra hình dáng của tháp và chim nhạn không hề có một liên hệ nào cả, có thể đây là do các sự tích trong kinh Phật nói Thích Ca Mâu Ni hóa thân thành hạc mà có sự liên tưởng này chăng? Hạc và nhạn đều là chim, nhưng người đời Đường cho rằng nhạn là loài chim đẹp nhất; nói đến chim, họ thường lấy nhạn làm tiêu biểu, cho nên có thể tháp này lấy nhạn để đặt tên.

Tôi vào tháp bằng cửa nam, ngẩng đầu nhìn những phiến đá xanh trên các bậu cửa đều có khắc tượng Bồ tát, tôi đứng lại rất lâu để quan sát. Những đường khắc ưu mỹ đẹp mắt ấy ắt hẳn phải do những danh gia diệu thủ. Vào trong tháp, tôi men theo chiếc thang gỗ hình trôn ốc để lên cao; tháp gồm bảy tầng, tuy mệt thở hỗn hển nhưng quyết không dừng ở nửa chừng. Qua mỗi tầng đều có thể nhìn ra xa tứ phía bằng các cửa sổ, cảnh sắc thật là tuyệt diệu. Lên đến tầng cao nhất, tầm mắt ta có thể nhìn rõ dãy Chung Nam uốn lượn quanh co, nơi đây viên lăng của hoàng tộc các đời Hán Đường tọa lạc, và dãy Bắc Sơn xa xa càng thấp thoáng ẩn hiện. Nhìn xuống khu ngoại thành nam Tây An, thành Văn Giáo xinh đẹp hiện ra trước mắt.

Tháp Đại nhạn cao 64 mét, toàn bộ làm bằng gạch nung chắp ghép lại mà thành. Tháp đã trải qua hơn 1000 năm sương gió, đã từng bị rung chuyển bao nhiêu lần động đất, đến nay vẫn nghiễm nhiên đứng vững. Tôi không phải tín đồ Phật giáo, nhưng khi ra khỏi tháp quay đầu nhìn lại lòng tôi không khỏi. xúc động. Tháp làm ra do tín ngưỡng và lý tưởng tôn giáo, nhưng nó cũng là biểu tượng của tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất của dân tộc.

Trong miếu đường trước tòa tháp có treo tượng khắc Đường truyền Trang, lại càng khiến tôi tăng thêm lòng cảm xúc. Chân mang đôi giày lụa, nhưng vừa giống giày cỏ lại vừa giống giày vải, vai đeo những quyển kinh giá để kinh nghiêng về phía trước, trên đó có treo một cây đèn dầu lạc, điều này khiến người ta liên tưởng đến những công nhân mỏ than với cây đèn trước mũi có công dung là dựa vào ánh sáng leo lét ấy mà tiến lên mò mẫm tìm tòi trên hoang lộ của đêm tối. Lúc Huyền Trang từ bỏ mọi khó khăn để rời Trường An đi Tây Vực, ngài chỉ mới hai mươi lăm tuổi, phải đi trên vùng cát chảy (lưu sa), phải vin theo núi tuyết, phải vượt qua hơn 5000 dặm đường đầy gian nan, và khi trở về Trường An thì đã trở thành vị cao tăng bốn mươi ba tuổi. Thảo nào mà đến ngày gần kinh đô cả thành đều ra xem. Huyền trang cổ súy Phật giáo trong thời kỳ này rất thích ứng cho giai cấp thống trị nhưng hoàn toàn không được tán dương. Nhưng sự truyền bá tôn giáo thường đi đôi với giao lưu văn hóa. Về phương diện này, công của Huyền Trang không thể không kể đến. Cho dù ngài có giỏi chữ Phạn và đem cả vạn kinh Phật dịch ra những tác phẩm chữ Hán ưu mỹ để cống hiến cho đời thì cũng không bằng những gì ngài viết trong tập “Đại Đường Tây Vực ký”, đến nay nó vẫn là một tác phẩm có giá trị khoa học cần phải đọc đối với những nhà nghiên cứu trong và ngoài nước về lịch sử, địa lý khu vực Trung Á, Tây Á và lịch sử giao thương Đông Tây. Nhân đây tôi cũng xin đề cập đến một điều là từ Đông Hán trở đi, nhiều cao tăng trong công việc phiên dịch kinh Phật đã mượn nguyên tắc phiên âm tự mẫu tiếng Phạn để lâm cho âm vận tiếng Hán phát triển hơn lên.

ĐÔ HỘI GIAO LƯU QUỐC TẾ PHỒN THỊNH, TẤP NẬP

Thành Trường An đời Đường là thành phố của nhiều dân tộc trong nước tụ cư đông nhất, có đến hơn một triệu nhân khẩu; đồng thời sứ giả các nước lui tới thăm viếng không ngừng và số kiều dân ngoại quốc định cư cũng mang tính chất quốc tế của một đất đô hội. Điều này có mối quan hệ mật thiết với việc khai thông con đường tơ lụa và con đường thông thương trên biển.

Dân tộc thiểu số ở Trung Quốc cư trú tại Trường An lên đến hơn một vạn hộ. Có người là học sinh thuộc dân tộc thiểu số đến kinh đô học tập, có người là quan viên văn võ phục vụ tại triều đình, cũng có người là nhạc sư, họa sĩ, nhà khiêu vũ thuộc dân tộc thiểu số ... Các dân tộc ấy học hỏi lẫn nhau, bổ khuyết cho nhau tạo ra một nền văn hóa xán lạn đương thời.

Như chúng ta đều biết, nước Nhật đã phái hàng đoàn sứ giả đến Trường An, họ đem theo nhiều lưu học sinh đến học tập; còn các nước ở Trung Á và Tây Á cũng gởi lưu học sinh vào quốc tử giám (tương đương đại học ngày nay). Một số lớn người Ba Tư định cư ở Trường An, trong đó có cả vương tử Ti Lộ Tư. Phần lớn người ngoại quốc phương Tây định cư ở Trường An là do công tác truyền giáo hoặc kinh doanh buôn bán. Trường An bấy giờ có hai khu phố khu đông và khu tây. Đó là hai trung tâm mậu dịch lớn. Đa số người ngoại quốc sinh hoạt tại khu tây. Họ không chỉ mở “Hồ điếm” (cửa hàng của người Hồ), “Hồ đề” (khách sạn của người Hồ) mà còn mở cả quầy rượu có gái đẹp người Hồ phục vụ. Lý Bạch trong bài Thiếu niên hành có câu “Lạc hoa đạp tận du hà xứ”, là nói khi ông vào một quán rượu có gái đẹp người Hồ phục vụ.

Thương nhân Trung Á có đến hơn 1000 người buôn bán ngay tại Trường An. Sách xưa có ghi câu chuyện về thương nhân người Hồ giỏi đoán biết giá trị vật quý hiếm như sau: “Ở Trường An có một tăng nhân được một vật lạ giống như cái đinh mục, dài chừng mấy tấc, không biết là vật gì bèn đem đến chỗ thương nhân người Hồ ở khu tây hỏi xem. Thương nhân người Hồ cả kinh nói: “Thầy nhặt vật này ở đâu? Tôi mua cho, nhưng chỉ nói một giá thôi nhé!'”Tăng nhân thử đòi mười vạn đồng, thương nhân cười lớn, bảo: “Thầy thử đòi thêm lần nữa xem!” Tăng nhân lại đòi năm mươi vạn. Thương nhân người Hồ nói: “Vật này đáng giá mười triệu” Tăng nhân hỏi đó là vật gì mà quý đắt như vậy, thương nhân nói: “Thầy không biết thật ư? Đó là bảo cốt đấy!” (trích trong Tây dương tạp trở).

Câu chuyện giữa thương nhân người Hồ và vị tăng nhân không nhận biết giá trị của món hàng chưa hẳn đã có thật, song đã có một loại truyền thuyết như vậy ắt cho thấy khu tây Trường An tụ tập không ít nhà buôn ngoại quốc giỏi về kinh doanh và thẩm định giá trị hàng hóa chính xác.

Ở Trường An đã tụ tập nhiều người ngoại quốc như vậy, tất triều đình phải thiết lập Đại hồng lô viện (giống như ngày nay là bộ ngoại giao và bộ mậu dịch đối ngoại) chuyên xử lý công việc ngoại giao và mậu dịch quốc tế.

Các hãng buôn, các ngành nghề nước ngoài tụ tập, lai vãng ở Trường An tất nhiên cũng truyền bá các phong tục tập quán và văn hóa từ các nước khác đến.

Trường An đời Đường rất thịnh hành y phục của người Hồ, ăn uống kiểu Hồ, sáo Hồ, múa Hồ ... Người Ba Tư ở khu tây có mở “Tất la điếm” tức là một loại cửa hàng ăn bốc bằng tay, bán các loại thức ăn thịnh hành ở Trung Á. Bấy giờ bánh của người Hồ bán rất chạy. Lúc nhà Đường có biến loạn, Đường Huyền Tông vội vã chạy trốn, giữa đường không có gì ăn đành phải cho người đến chợ mua bánh của người Hồ ăn cho đỡ đói.

Ở Tây An tôi có thưởng thức qua loại bánh bạch cát, so với các loại bánh thường thấy thì không giống chút nào cả, người ta dùng than đỏ nướng cả hai tầng trên dưới, giữa bánh có một lớp dầu, nên khi bẻ bánh ra sẵn có hơi nóng len vào thứ thịt heo mỡ đặc chế tức thì chảy ra thấm vào bánh, ăn vào có một hương vị đặc biệt, có thể gọi theo cách nói của người Tây An là “Tam minh trị”. Tôi đã nhiều lần nghe nói bánh đó có quan hệ với bánh của người Hồ, nhưng tôi chưa biết sự thật ra sao cả.

Trường An đời Đường còn thịnh hành môn cưỡi ngựa đánh cầu, môn này cũng từ Ba Tư truyền sang. Bức bích họa cưỡi ngựa đánh cầu trên mộ thái tử đạo sĩ Chương Hoài ở Càn Lăng là bức vẽ rất sinh động. Tôi thấy trên bức bích họa với màu sắc tuyệt mỹ đó vẽ một số người cưỡi ngựa tay cầm trường bổng đang tranh nhau đánh một quả cầu. Thời bấy giờ, văn nhân, họa sĩ đều biết môn thể thao này. Sinh đồ đậu tiến sĩ, sau buổi tiệc khánh chúc thường tổ chức cuộc cưỡi ngựa đánh cầu ở phía nam ngoại thành.

Vào đời Đường, trong ngoài giao vãng nhộn nhịp, phần lớn chim quý, thú hiếm, cây hay cỏ lạ từ nước ngoài đều chuyển đến Trường An. Khu ngoại thành có mở vườn rừng để nuôi thả voi, sư tử, đà điểu ... từ nước ngoài đưa vào, rồi trồng thêm những hoa lạ cây quý đến hơn 2000 loài. Đây là một vườn động thực vật rất rộng lớn.

Việc mua ngựa quý từ Trung Á vào Trường An là một việc quan trọng bậc nhất. Một con ngựa tốt thường đổi mất 40 tấm lụa, mỗi lần mua ngựa có đến cả ngàn con. Theo Tân Đường thư - binh chí ghi lai thì từ năm 627 đến năm 665, triều đình nhà Đường trực tiếp khống chế một số ngựa từ 5,000 con lên đến 75,600 con. Nhiều bãi chăn thả ngựa được mở ra ở phụ cận Trường An và dọc hành lang Hà Tây. Do đó, phần lớn mộ chí đời Hàn Đường khai quật được đều cô ngựa đồng, ngựa đất nung theo dáng ngựa Tây Vực; điều đó phản ánh nghề nuôi ngựa thời bấy giờ rất phát đạt.

Đến như các loại thực vật ngoại nhập cũng có ít nhiều, tôi đã từng tra khảo qua Bổn thảo cương mục của Lý Thời Trân, thấy có kê đầy đủ chừng 28 loại thảo mộc từ xa đến, đa số đều có quan hệ mật thiết đến đời sống nhân dân. Ví dụ như đường cát thì nguyên liệu mía đường Trung Quốc vẫn có, nhưng cách chế biến thì từ Tây Vực đưa sang, Đường Thái Tông sai người ghi chép cách chế biến ấy để truyền bá. Theo Bổn thảo cương mục, trước đó chỉ biết uống nước mía, về sau mới bắt chước người Tây Vực làm ra đường cát, đường phèn.

Người Trung Quốc cổ đại đã phát minh ra thuốc nổ, chế ra giấy truyền bá việc nuôi tằm dệt tơ, luyện sắt... Đối với nhân loại rõ ràng là những cống hiến vô cùng to lớn; mặt khác, họ cũng tiếp thu ảnh hưởng của nước ngoài từ văn hóa kinh tế đến sinh hoạt thường nhật của nhân dân, đem lại những lợi ích thiết thực không nhỏ.

Nhà sử học quá cố Phạm Văn Lan khi luận về nền văn hóa đời Đường đã để lại cho chúng ta những kiến giải khiến mọi người phải suy nghĩ, tôi xin ghi ra dưới đây để kết luận cho chuyến đi thăm Trường An cũ của tôi:

“Lấy Trường An, thủ đô nhà Đường làm trung tâm, giữa các dân tộc ở Trung Quốc và giữa Trung Quốc đương thời với các quốc gia trên thế giới đã hình thành một cảnh tượng rộng lớn trong việc giao lưu văn hóa. Điều đó hoàn toàn phù hợp với nhu cầu của con người. Văn hóa nhà Đường vốn đã phồn vinh, lại hấp thu văn hóa nước ngoài mà thêm phong phú, nhiều sắc thái. Văn hóa nhà Đường truyền đến các nước đông tây lại có tác dụng thôi thúc văn hóa của họ phát triển. Tất nhiên các loại văn hóa cần lấy ưu bù khuyết, hỗ tương qua lại. Cưới vợ tất người khác họ, trai gái cùng họ sanh đẻ không nhiều, giao lưu văn hóa cũng vậy; cho nên việc giao lưu càng rộng rãi, sự phát triển càng phong phú. Văn hóa nước mình truyền xa nước ngoài không được tự kiêu, văn hóa nước ngoài nhập vào nước mình không phải tự ti. Văn hóa của một nước nào đó là những gì đặc sắc của nước đó đã hấp thu được. Loại sản phẩm du nhập vào này tức là những gì người tiếp thu vốn đã có sẵn. Ví như khi người ta ăn thịt heo, sau khi tiêu hóa sẽ biến thành máu thịt của người, chứ có ai nghi ngờ rằng người ăn thịt heo thì máu thịt của anh ta lại là máu thịt của heo bao giờ đâu!”

4. HANG ĐÁ Ở MẠCH TÍCH SƠN

Rời Tây An, tôi men theo sông Vị để về hướng tây. Nước sông chảy mạnh, đoàn tàu của chúng tôi khi thì rẻ trái, khi thì rẻ phải. Lòng sông hẹp mà sâu, dọc hai ven sông có đường đất kéo dài liên tu bất tận. Tôi chú mục đến dòng nước đục ngầu, hỗn loạn và con đường đất ven sông, bỗng suy nghĩ: có phải đây là con đường mà vị cao tăng Huyền Trang đời Đường đi thỉnh kinh chăng? Có Phải chính con sông này Trương Khiên đời Hán trên đường đi Tây Vực cho dừng ngựa uống nước ở đây chăng?

Tiếng đoàn tàu lăn đều đưa tôi vào giấc ngủ, khi thức dậy thì đã đến nơi muốn đến: Thiên Thủy, Tàu đã chạy được 328 cây số. Trên đường đi, tàu phải xuyên đường hầm, qua cầu, phải leo dốc quanh co khi vượt qua đèo, do đó tốc độ rất chậm so với khi chạy trên đường bằng phẳng ở bình nguyên.

Trạm hỏa xa này là ga Thiên Thủy. Thiên Thủy ngày xưa nằm cách thành phố Thiên Thủy ngày nay 50 cây số về phía tây nam, hiện nay là một thành phố có nền công nghiệp tân tiến xếp vào hạng thứ nhì ở tỉnh Cam Túc. Cả thành phố có đến 109 công xưởng, toàn cơ giới hóa và điện khí hóa.

Thiên Thủy cổ đại gọi là Tần Châu. Lai lịch của danh xưng này cùng với tổ tiên của Tần Thủy Hoàng lập quốc buổi đầu có mối quan hệ. Thời xa xưa, vào khoảng thế kỷ thứ IX trước CN, tổ tiên của vương triều nhà Tần là Doanh Phi Tứ đã giúp Chu Hiếu Vương coi việc chăn thả ngựa ở Thiên Thủy có công lớn và được phong đất ở Thiên Thủy, Tần An, Thanh Thủy được kiến lập thành chư hầu Tần quốc. Về sau, nước Tần mở rộng thêm về phía đông, và đến thế kỷ thứ III trước CN, nhà Tần thống nhất Trung Nguyên lập thành một đế quốc rộng lớn có nền hành chánh trung ương tập quyền đầu tiên ở Trung Quốc.

Thời Tây Hán, Thiên Thủy có tên là huyện Thượng Khuê, thuộc quận Lũng Tây. Trương Khiên hai lần sang Tây Vực đều có qua Lũng Tây, cho nên rất có thể Trương Khiên đã qua Thiên Thủy. TheoĐại Từ Ân tự Tam Tạng Pháp sư truyện (truyện Đại Pháp sư Tam Tạng chùa Tư Ân) thì Huyền Trang sau khi ra khỏi Trường An, “qua Tần Châu và nghỉ lại ở đấy”. Như vậy Thiên Thủy ở trên đoạn chính của con đường tơ lụa là điều không còn nghi ngờ gì nữa.

Thời cổ đại, Thiên Thủy còn là nơi từ Trung Nguyên đi Tây Vực theo hướng tây nam nữa. Thời Tam quốc, thừa tướng nhà Thục Gia Cát Lượng nhiều lần xuất binh từ Tứ Xuyên đi đánh Ngụy, đã từng lập đồn lũy gần Thiên Thủy để chống lại Tư Mã Ý. Ngày nay, khu ngoại thành phía đông của Thiên Thủy còn có một mô đất, người ở đấy gọi là quân lũy của Gia Cát Lượng, tương truyền rằng đây là nơi Gia Cát Lượng đã bố trí trận đồ.

Nhà thơ Đỗ Phủ đời đường, khi chạy tị nạn An Lộc Sơn từ Trường An đến Thành Đô có đi qua Thiến Thủy, ông trú lại nhà người cháu là Đỗ Tá khoảng ba tháng, có để lại hai mươi bài thơ làm khi ở Tần Châu, trong đó có các câu thơ như: “Dịch đạo xuất Lưu Sa” và “Lâm trì hảo dịch đình” thì “Lưu Sa” là tên cũ của xứ Tây Vực. Ở đây Đỗ Phủ nói đến “dịch đạo” và “dịch đình” rõ ràng là muốn chỉ đường ngựa chạy và trạm đổi ngựa trên con đường tơ lụa khi qua Thiên Thủy.

Đỗ Phủ có bài “Sơn Tự” khi ông ở Tần Châu như sau:

Dã tự tàn tăng thiểu,

Sơn viên tế lộ cao.

Xạ hương thiên thạch trúc,

Anh vũ trác kim đào.

Loạn thủy thông nhân quá,

Huyền nhai trí ốc lao.

Thượng phương trùng các vãn,

Bách lý kiến thu hào.

Tạm dịch:

Chùa quê tàn sư hiếm,

Núi tròn đường hẹp cao.

Chồn hương bên thạch trúc,

Anh vũ mổ kim đào.

Người qua con nước chảy,

Nhà xây vách núi cao.

Chiều chiều lên trùng các,

Trăm dặm thấy thu hào.

Đỗ Phủ làm bài thơ trên khi đi chơi núi Mạch Tích. Chính khi đi xem nghệ thuật khắc tượng nổi tiếng trong các hang đá ở núi Mạch Tích mới lĩnh hội được những gì nhà thơ miêu tả trong bài thơ này là rất chân thật.

CỨ NGỠ ĐÂY LÀ CÔNG VIÊN QUỐC GIA

Theo hướng đông nam Thiên Thủy đi chừng 60 cây số thì đến địa đầu phía tây của dãy Tần Lĩnh. Men theo các hẽm núi, xuôi theo những con suối mà đi, rồi chuyển qua một khe núi thì thấy giữa đất bằng nổi lên một ngọn núi kỳ dị có hình một quả chùy, giữa phình to, phần đáy nhỏ hơn, hình dáng của nó trông giống như đụn rơm của những nông gia nên gọi là Mạch Tích nhai hay Mạch Tích sơn (núi có hình như đụn rơm lúa mạch). Dưới chân núi có một ngôi chùa cổ, nay thuộc Sở Bảo tồn hang đá Mạch Tích sơn.

Trong số những hang đá nổi tiếng của Trung Quốc, thì chu vi phong cảnh hang đá ở Mạch Tích sơn là nơi đẹp nhất. Chung quanh là núi non trùng điệp, đỉnh núi mây mù bao phủ, trên núi đầy các loại cây xanh thẳm quanh năm như hoa sơn tùng, bạch bì tùng, tuyết tùng, tử bách, xuân thọ. Tôi bỗng thấy một đám tuyết mỏng, sáng sớm tinh mơ trong vùng trắng bạc ấy, tôi lại phát hiện ra từng chùm trái màu đỏ trên cây không biết tên gọi là gì, trông giống như những viên kim cương đỏ thẳm, long lanh rất đẹp. Người ta nói chung quanh núi đầy cả hoa quỳnh, hoa đỗ quyên, và rất nhiều loài hoa dại không tên khác. Xuân về núi đồi ở đây khoác lên mình chiếc áo màu thật hoa lệ.

Đây còn là vùng giáp ranh của rừng nguyên thủy, trong những cánh rừng rậm đó còn không biết cơ man nào là những động vật hoang đã. Thơ Đỗ Phủ có câu: “Xạ hương thiên thạch trúc, Anh vũ trác kim đào” (nghĩa là chồn hương nằm ngủ trên cây thạch trúc, chim anh vũ mổ ăn những trái kim đào). Thạch trúc vốn có rất nhiều ở Tứ Xuyên, nở hoa màu xanh; còn kim đào là giống cây nhập từ nước Khang bên Tây Vực. Ngày nay, trong rừng rậm ấy có cả lẫm lộc, báo và gấu. Anh vũ tuy rất khó thấy, nhưng thỉnh thoảng trong chốn núi rừng tĩnh mịch này vẫn nghe được tiếng hót lanh lảnh của chúng.

Đến chân núi Mạch Tích, ẩn mình trong vòng vây của núi, ta cảm nhận được cái mát mẻ đầy thích thú, trong khi đó tưởng tượng đến cái nóng ghê người ở tây bắc thì thật là khác biệt. Trước mắt, xa xa kia là dãy Tần Lĩnh, dòng nước bên này núi chảy ra Vị Thủy và hội nhập vào sông Hoàng Hà; còn bên kia núi là hệ thống nước sông Gia Lăng thuộc lưu vực Trường Giang. Thảo nào mà nơi tôi đang ở, tuy thuộc vùng tây bắc nhưng khí hậu lại hơi giống vùng tây nam, ôn hòa mát mẻ, cây cối sinh sôi nẩy nở tốt tươi.

Có người đề nghị lấy hang đá núi Mạch Tích làm trung tâm, thiết lập một công viên quốc gia bao gồm chu vi vành đai của núi non và rừng rậm nguyên thủy. Giá như điều tưởng tượng ấy được thực hiện thì đối với khách du lịch trong và ngoài nước thật là một điều đáng mừng.

Điều tôi thấy được trong các hang đá ở Mạch Tích sơn trên con đường tơ lụa mà tôi đang tìm hiểu là một đóa hoa nghệ thuậ cực kỳ đặc sắc. Đi từ Cam Túc đến Tân Cương, dọc đường có rất nhiều hang đá với dấu ấn của Phật Giáo. Chúng là dấu tích của tôn giáo này từ Tây Vực truyền vào Trung Nguyên, đồng thời cũng là kho báu của nhân loại đã sáng tạo được thông qua sự tiếp thu và dung nạp nền văn hóa từ phương Tây đến của người Trung quốc, trong đó nghệ thuật Đôn Hoàng là nổi danh hơn cả. Nhà mỹ thuật nổi tiếng Lưu Khải Cừ nói: “Nếu Đôn Hoàng là trung tâm hội họa lớn của bích họa thì Mạch Tích sơn là trung tâm điêu khắc tượng lớn của các triều đại ở Trung Quốc”. Du lãm ở Mạch Tích sơn ba ngày, tôi rất đồng ý với lời đánh giá của nhà điêu khắc ấy.

MỘT TRUNG TÂM ĐIÊU KHẮC LỚN CỦA PHUƠNG ĐÔNG

Mạch Tích sơn là do đá dăm tạo thành. Mặt đá sắc như dao, chĩa lên chĩa xuống cao đến 142 mét. Đứng cách xa một cây số chúng ta có thể thấy trên vách đá cheo leo sừng sững một nhóm tượng đồ sộ. Ở giữa là một vị Phật ngồi cao đến 50 mét, tả hữu là hai vị Bồ tát đứng hầu. Nhóm tượng cao lớn kỳ vĩ ấy là những tác phẩm thuộc đời Tùy (581-618 CN).

Ngoài nhóm tượng được điêu khắc trên vách ấy ra, ở Mạch Tích sơn còn có hơn 7000 bức tượng bằng đất nung rải rác trong 194 hang động. Giữa lưng chừng núi của các hang động này người ta đã xuyên núi, có bắc thang gỗ và đường lát gỗ (sạn đạo) để thông nhau.

Hang đá lớn nhỏ không đồng đều, cái nhỏ chỉ một người vào lọt, cái lớn giống dạng một ngôi chùa lớn. Gọi là “Gác bảy vị Phật trên lầu rải hoa” cách mặt đất 5 mét nằm lưng chừng vách đá do con người đục mở mà thành. Lên gác “Bảy vị Phật” như đi vào huyễn cảnh của một khu vực giữa không trưng, đứng từ trong hang núi nhìn xuống thấy đàn dê xa xa trông nhỏ như' đàn kiến. Hang động cỡ lớn như hang “Gác bảy vị Phật” ở Mạch Tích sơn có đến năm, sáu tòa như vậy.

Ở Mạch Tích sơn còn có hơn 7000 bức tượng nặn bằng đất, bao gồm các tác phẩm từ đời Nam Bắc triều, Tùy, Đường, Ngũ Đại đến đời Tống, mà với một thời gian ngắn ngủi trong ba ngày không thể thưởng ngoạn cho hết được. Trong rừng tượng điêu khắc quý giá này, tôi bồi hồi như đang đắm chìm trong một viện bảo tàng điêu khắc tượng phương Đông và đã bị thứ nghệ thuật siêu quần này chinh phục. Đứng trước mỗi một bức tượng kiệt xuất, trên dưới trái phải đều rõ ràng, thật khó mà dứt đi cho được.

MỈM CƯỜI GIỐNG NÀNG MONA LISA

Ngày tham quan đầu tiên khi vào đến hang thứ 44, ngẩng nhìn một bức tượng Phật, lập Tức đã thu hút tầm mắt của tôi. Đó chẳng phải là một bức tượng có bộ mặt trang nghiêm đến độ khiến người ta “kính nhi viễn chi” mà là một vẻ mặt rạng rỡ nét thanh xuân chói lọi, giữa hai hàng lông mày như lấp lánh cái linh khí của một con người thanh thoát an nhiên. Đôi mắt như vừa khép vừa mở kia đang trong trạng thái trầm tư, hồi tưởng, chẳng khác nào đã ngộ được chân lý của thế nhân. Hai má và khóe miệng lộ ý cười vừa thần bí vừa thân thiết. Ngài chẳng khác nào một vị học thức uyên bác, một học giả ngộ đạo sâu xa những không có chút gì là kiêu căng tự mãn. Thần thái khiêm hòa ấy khiến cho những người thấp kém, thiển bạc không phải sợ sệt, dám đến cật vấn mà không hề sợ bị đối đãi bạc bẽo.

Nét mỉm cười của bức tượng Phật này khiến tôi nghĩ đến lời bình luận về tượng Phật ngồi thời Bắc Ngụy hang thứ 259 tại Mạc Cao của chuyên gia nghệ thuật Đôn Hoàng Thường Thư Hồng. Ông nói, nét mỉm cười của tượng Phật này giống như cái mỉm cười của nàng Mona Lisa. Theo thiển kiến của tôi, nét cười mỉm của tượng Phật ngồi đời Bắc Chu ở hang động thứ 44 tại mạch Tích sơn cũng có thể so sánh với nét cười mỉm của nàng Mona Lisa dưới nét vẽ thần kỳ của Léonard de Vinci. Đó là một thứ gợi ý cho con người hàng loạt những liên tưởng mỹ diệu về nét mỉm cười ấy. Sau đó, tại rất nhiều hang động ở Mạch Tích sơn, tôi đều thấy nét mỉm cười như thế. Có tượng thì lộ ra ở đôi má của các vị bồ tát, có tượng thì đậu lại trên môi của các tì kheo. Ngày nay tưởng nhớ lại, tôi cảm nhận ra được sức hấp dẫn của những nét cười ấy.

Trên các khám thờ phật, tượng được tạo ra rất trang trọng và nghiêm túc, tại các hang đá ở Mạch Tích sơn, có không ít những tượng Phật có tư thái ưu mỹ, lối tạo hình rất sinh động, thoát ra ngoài phép tắc của tôn giáo và khuôn khổ của tính ước lệ, đó cũng là điều nằm ngoài suy nghĩ của tôi.

Điều khiến tôi kinh ngạc nhất là ở hang thứ 121 có một cặp tượng đệ tử và bồ tát dựa sát vào nhau. Theo cách tạo hình thì có là một đôi nam nữ hồn nhiên vô tư, miệng kề tai đang tỉ tê trò chuyện, trông thật hạnh phúc. Ho hoàn toàn không giống như đang luận bàn về những gì cao thâm của Phật pháp mà giống như đang thổ lộ bí mật nỗi lòng của nhau, không hề để ý đến những người chung quanh. Vì sao nhà nghệ thuật vô danh cổ đại lại muốn nặn một cặp tượng nam nữ trong tư thế thân mật đặt tại bàn thờ Phật trang nghiêm như vậy? Vì sao một triều đại có đông đồ đệ Phật tử thành kính và có các vị la hán nghiêm trang đạo mạo như vậy lại chấp nhận cho một đôi nam nữ đầy dáng vẻ hạnh phúc chiếm một chỗ ngồi vĩnh hằng trên bàn thờ Phật? Tôi không biết gì nhiều về Phật học, dù có suy nghĩ bao nhiêu cũng không có lời kiến giải.

SỰ TẠO RA NƯỚC PHẬT VÀ SỰ ĐỒNG TÌNH CỦA NHÂN DÂN

Trong khoảng thời gian chỉ có ba ngày mà tìm hiểu về cấu tạo bàn thờ Phật, về các đặc trưng tạo hình qua các triều đại, về sự thịnh suy của Phật giáo và về sự phát triển nghệ thuật ở các hang động v.v... tôi không thể tìm hiểu, thảo luận những vấn đề chuyên môn có tính nghệ thuật ấy được. Tôi chỉ gặt hái một điều, đó là sự lĩnh hội một quy luật có ý nghĩa: Phần lớn những tượng trong các hang đá ở Mạch Tích sơn, tuy thể theo nhu cầu tôn giáo mà tạo ra các tượng Phật, song lại phản ánh sâu sắc sự đồng tình của nhân thế. Tại sao Phật giáo Trung Quốc thời bấy giờ chưa thịnh hành và tín đồ Phật giáo cũng còn quá ít mà nghệ thuật Phật giáo lại có sức cảm thụ mạnh mẽ như vậy? Cái quy luật e rằng chính là chỗ đấy.

Số lượng bích họa trên các vách đá ở Mạch Tích sơn tương đối ít nét đặc sắc chính vẫn là khắc tượng. Bất kể số lượng và chất lượng đều có thể sánh ngang với các hang động ở Mạc Cao - Đôn Hoàng. Hầu hết những tượng khắc chạm đều biểu hiện tình cảm hỷ nộ ai lạc của thế nhân, thật là hoàn hảo.

Trước hang thứ 165 là tượng một người đàn bà đang cúng dường thuộc đời Tống, tôi xem qua xét lại? thật đáng khen ngợi. Nàng hoàn toàn không giống hình tượng lý tưởng của thủ pháp tạc tượng cổ điển của các nhà nghệ thuật mà giống như tác phẩm của một con người thật nào đó làm mẫu để sáng tạo; rất có khả năng người ta tả chân lại một nữ chủ nhân nào đó đã quyên tiền đục ra hang động thứ 165 này. Tại sao dám cả quyết như vậy? Vì tôi cảm nhận cái cá tính mạnh mẽ toát ra từ bức tượng ấy. Hai hàng lông mày và hai khóe mắt ngoài của nàng hơi nhếch lên một tí, hai bàn tay nắm chặt để trước ngực lộ ra dáng vẻ sân hận, nàng tuy không hở môi, song giống như đang nói một đều gì. Đứng trước mặt nàng, ta không nghe thấy thanh âm của nàng nhưng hoàn toàn có thể biết được những uẩn khúc trong lòng nàng. Thông qua một con người như nàng ta hầu như được hàng ngàn hàng vạn phụ nữ bị xiềng xích ràng buộc dưới chế độ phong kiến. Theo cách phục sức mà phán đoán, thì cho dù nàng thuộc tầng lớp xã hội thượng lưu nhưng điều đó cũng không loại trừ nàng cũng chỉ là vật hy sinh của xã hội phong kiến đáng nguyền rủa.

Hang đá ở Mạch Tích sơn là nơi mà lần đầu tiên tôi được thấy chùa hang động Phật giáo trên con đường tơ lụa. Dọc đường, tôi sẽ còn thăm viếng hang đá ở chùa Bính Linh, chùa Mã Đề, hang Thâu Lâm, hang Mạc Cao, hang Ba-Tư-Khắc-Lý-Khắc, hang Khắc Tư Nhĩ v.v... Vì sao trên con đường tơ lụa lại xuất hiện nhiều hang động Phật giáo như vậy? Nghệ thuật Phật giáo huy hoàng có quan hệ gì với con đường tơ lụa được khai thông chăng? Tôi sẽ vừa xem xét vừa thỉnh giáo các chuyên gia để tìm cho ra lời giải đáp tương đối thỏa đáng.

LỊCH SỬ CỦA MỘT CÂU CHUYỆN AI OÁN

Phật giáo Ấn Độ ra đời vào thế kỷ thứ V trước CN, đến khoảng thế kỷ thứ I CN, tức đầu đời Đông Hán, Phật giáo được truyền nhập vào Trung Quốc, bấy giờ con đường tơ lụa đã được khai thông. Phật giáo đồ xứ Tây Vực theo cùng với thương nhân của họ mà vào Trung Quốc, đem theo những kinh Phật. Thời Đông Hán, dải đất Trung Nguyên đã có một ít chùa chiền, chủ yếu là tôn giáo tín ngưỡng của các thương nhân người Hồ. Nhưng bấy giờ luật pháp Trung Quốc không cho xuất gia tu hành. Đến thời Tây Tấn thập lục quốc (265-493 CN), nhân dân thuộc lưu vực sông Hoàng Hà trải qua một thời kỳ dài tao loạn, chiến chinh, luôn bị vây hãm trong khói lửa đao binh, nên Phật giáo có đất để gieo mầm truyền bá, lại thêm những kẻ thống trị vì lợi ích của bản thân mà đề xướng hơn nữa, thế là chùa Phật và lễ Phật ở các hang động theo đó mà phát triển. Và hang Phật ở Mạch Tích sơn được kiến lập trong một thời đại như vậy.

Niên đại kiến lập chính xác thì khó mà khảo chứng được. Căn cứ Lương cao tăng truyện (truyện về các vị cao tăng đời nhà Lương) ghi chép thì năm 402 CN, có hai vị cao tăng là Thích Huyền Cao và Đàm Hoằng ẩn cư tại Mạch Tích sơn cùng với đệ tử ước khoảng 300 người. Như vậy lúc này Mạch Tích sơn là trung tâm Phật giáo có hơn 300 thầy tăng và đệ tử. Niên đại sáng lập của nó có lẽ phải sớm hơn. Theo các chuyên gia suy đoán thì không muộn hơn sự với các hang động ở Mạc Cao - Đôn Hoàng, tức khoảng thế kỷ thứ IV CN.

Đến thế kỷ thứ Vi CN thì chứng cứ lưu lại tương đối nhiều hơn. Chẳng hạn như hang thứ 25 có ghi chép lưu lại vào năm 502 CN, hoặc hang gác bảy vị Phật trên lầu rải hoa đã nói ở trên thì có bài văn biền ngẫu đời Ngụy Tần do Dũ Tín soạn vào năm 563 CN có tên là Tần Châu Thiên Thủy quân Mạch Tích sơn Phật khám minh tịnh tự (Bài minh và bài tựa về khám thờ Phật ở Mạch Tích thuộc quận Thiên Thủy, Tần Châu), nguyên bia đã mất, nhưng toàn văn thì còn. Ngoài ra, niên đại bắt đầu đục hang thứ 43, xem trong Bắc sử có ghi năm 540 CN. Về hang động này có một cây chuyện ai oán được ghi lại.

Thời Nam Bắc triều, vương triều Bắc Ngụy thuộc tộc Tiên Ti bị phân liệt thành Đông Ngụy và Tây Ngụy. Hoàng đế đời thứ nhất của Tây Ngụy là Ngụy Văn Đế cưới Ất Phật Thị và phong làm Văn hoàng hâu. Bà là người xinh đẹp, điềm đạm, nhưng rất giản dị chất phác, ưa ăn chay, không ham ngọc ngà châu báu, khiêm tốn hiền hậu đối với mọi người, rất được Văn Đế sủng ái. Bà sinh mười hai người con gái nhưng đều chết yểu cả, chỉ còn lại một thái tử đang nhậm chức chế sử ở Tần Châu, xưng là Vũ Đô vương.

Tây Ngụy Văn Đế vừa mới lập quốc lại muốn chinh phạt Đông Ngụy. Nhưng nước Nhu Nhiên ở phương bắc quấy phá biên giới bèn dùng kế kết thân, cưới con gái của nước Nhu Nhiên lập làm Điệu hậu và phế hoàng hậu Ất Phật thị sủng ái của mình giam vào biệt cung, về sau bà xuất gia thành ni cô. Điệu hậu do hoài nghi đố kị nên buộc Văn Đế phải đưa Ất Phật thị đến Tần Châu ở với thái tử, nhưng nhà vua truyền mật lệnh cho Ất Phật thị phải để tóc lại với ý định là sau này sẽ đưa trở lại kinh đô. Thế nhưng dù là mật lệnh vẫn cứ truyền được ra ngoài.

Năm 504 CN, nước Nhu Nhiên cử binh xâm chiếm Tây Ngụy. Có người bản có sự là do Điệu Hậu hiềm nghi ganh ghét Ất Phật thị mà ra. Văn Đế thở dài nói: “Thiên hạ há dám khởi binh hàng vạn cũng chỉ vì một người đàn bà chăng? Đã có lời bàn bạc truyền đi như thế thì ta còn mặt mũi nào mà nhìn tướng soái thủ hạ của ta nữa!” Thế rồi bên chịu đựng nỗi đau xé lòng của mình sai sứ đến Tần Châu ban sắc lệnh buộc Ất Phật thị tự vận. Ất Phật thị gạt lệ nói với sứ giả:

- Mong hoàng thượng sống lâu muôn tuổi, trăm họ an khang, tôi chết cũng không hận.

Rồi cho mời thái tử đến nói lời vĩnh quyết lời lẽ thê thảm, tả hữu đều kêu khóc thất thanh, không dám ngước nhìn. Ất Phật thị lo lắng chuyện hậu sự xong, vào phòng ngủ, cuốn kín chăn đệm mà chết, bấy giờ bà chỉ mới ba mươi mốt tuổi. Thái tử Vũ Đô vương tạc bàn thờ táng mẹ ở Mạch Tích sơn xưng là “Tịch lăng". Về sau Văn Đế chết, triều thần theo di nguyện truyền lại của Văn đế đưa mộ Ất Phật thị ra khỏi Mạch Tích sơn cùng táng với ông ở Vĩnh lăng. Hiện nay, tại Mạch Tích sơn, hang thứ 43 vẫn còn thấy rõ dấu tích của huyệt mộ. Hang động này trước sau có hai khám thờ, khám sau là chỗ đặt quan tài, khám trước có tượng hình, theo các chuyên gia khảo chứng thì hợp với quy cách lăng mộ hậu phi thời cổ đại.

Hiện nay hang đá ở Mạch Tích sơn đang được tiến hành công trình gia cố đồ sộ, tạm thời không mở cửa cho hầu hết du khách trong và ngoài nước. Đá của ngọn núi này tương đối giòn và xốp; lại thêm trải qua hàng triệu năm nên điều kiện tự nhiên bị phong hóa, rồi động đất, rồi con người hủy hoại ... khiến cho vách đá xuất hiện nhiều vết nứt. Nhà nước đã bỏ ra một số tư kim lớn, dùng thép, xi-măng và dung dịch cao phân tử tiến hành gia cố công trình, đồng thời cũng phỏng theo đường sạn đạo trước đây tu tạo lại cho an toàn và đẹp mắt để tiện cho khách du lịch lên núi tham quan toàn bộ các hang động.

CHUYỆN TRÒ VỚI CÔ CÔNG NHÂN THỦ CÔNG NGHỆ

Trong nhà khách của Sở Bảo tồn Mạch Tích sơn, tôi thấy có một bức bình phong bằng sơn mài rất tinh tế nhưng cũng rất nhã, tương xứng với không khí nghệ thuật ở hang động. Đó là tác phẩm nghệ thuật sơn mài về thành phố Thiên Thủy. Khi trở lại thành phố Thiên Thủy, tôi đến thăm xưởng công nghệ sơn mài xuất khẩu cho hơn ba mươi nước trên thế giới.

Sơn mài là công nghệ cổ xưa của Trung Quốc, tương truyền rằng đời nhà Thương cách nay khoảng 3000 năm đã có công nghệ chế tác mâm và thau chậu sơn mài rồi. Năm 1916, công nghệ này mới truyền đến Thiên Thủy. Dãy rừng rậm nguyên thủy phụ cận có giống cây sơn, chúng cho ra chất sơn rất tốt. Công nghệ sơn mài truyền thống nằm sát nách thị trấn trên đường giao thông quan trọng tây bắc - tây nam này trở nên phát triển, trình độ nghệ thuật của nó chỉ đứng sau nghệ thuật sơn mài Phúc Kiến mà thôi.

Hiện nay, sản phẩm hàng loạt của xưởng công nghệ sơn mài này là bình phong và bàn. Màu sơn đen nhánh trên mặt bàn phát sáng giống như tấm kính có thể soi mặt được, sờ lên nó trơn mịn như sờ lên da của một đứa bé bụ bẩm. Mặt bàn có một ưu điểm nữa là chịu nóng rất tốt. Chén trà đang bốc hơi có thể tùy tiện để lên mặt bàn mà không sợ hư hoặc có quầng. Một nghệ nhân lão luyện nói với tôi muốn mặt bàn sơn mài bền đẹp cần phải phết mười ba, mười bốn lần, và lớp sơn phải dày đến một milimét, do đó mới có thể nạm khảm, điêu khắc lên mặt được. Dùng đá quý, ngà voi, xà cừ ... nạm khảm hình người, vật, hoa, chim, cá v.v... trông thật là tinh xảo đẹp mắt.

Tôi đi khắp toàn xưởng bao gồm các phân xưởng đồ mộc, sơn dầu, thiết kế, và tôi đứng lâu hơn ở phân xưởng thiết kế. Dưới bàn tay tài hoa của các nam nữ công nhân trẻ, xuất hiện hàng loạt ngườ, vật đầy thần thái khiến ta đặc biệt chú ý.

Tôi đứng sau một nữ công nhân trẻ, nhìn tay cô cầm một miếng ngà voi đưa vào một cái dao mài đang quay tít, không lâu sau thành ra cái khung của một khuôn mặt người, một hồi nữa thì hiện ra diện mạo thanh tú và cuối cùng là những sợi xanh li ti. Cô thấy tôi có vẻ thích thú bên nhặt ra trong đống thành phẩm bên cạnh có mấy đầu hình người bằng ngà voi để trước mặt tôi, chỉ vào đầu tượng của một người đàn ông và nói:

- Trông hắn ta buồn cười nhỉ!

Tôi đặt vào lòng bàn tay xem xét kỹ. Đúng là thấy lão ta trừng đôi mắt tròn xoe hai má lộ vẻ dáng cười sảng khoái, râu ria dài che khuất cặp môi tựa hồ như bị tiếng cười ha ha đang phất phơ rung động.

Tôi nói:

- Lão ta cười thật là thoải mái!

Cô công nhân trẻ mỉm cười.

Tôi hỏi cô:

- Cô tên gì nhỉ?

- Đỗ Tiểu Cầm. - Cô đáp.

- Bao nhiêu tuổi?

- Mười tám tuổi.

- Cô có thích công việc này không?

Cô gật nhẹ đầu.

Tôi đột nhiên nghĩ đến những tác phẩm của những nghệ thuật gia vô danh trong các hang động ở Mạch Tích sơn, rồi hỏi cô gái:

- Cô đến Mạch Tích sơn chưa?

- Đến rồi.

- Cô có thích những tượng bồ tát không?

- Thích lắm!

Đối với cô, những tác phẩm ấy có gợi ý cho cô không?

Cô gật đầu nói:

- Ờ … có điều tôi thích quan sát người thật hơn, những con người biểu lộ chân thật tình cảm của mình.

Sau khi rời khỏi thành phố Thiên Thủy, tôi thường nghĩ đến lời nói của cô Đỗ Tiểu Cầm: “Thích quan sát những con người biểu lộ chân thật tình cảm của mình”. Cô ta làm rất đúng! Nguồn mạch của nghệ thuật đến từ cuộc sống đến từ hoàn cảnh xã hội của một con người trong cuộc sống nhất định nào đó. Tại sao các tượng Phật, bồ tát, tì kheo, người cúng dường ở các hang động Mạch Tích sơn lại có sức truyền cảm mãnh liệt như vậy? Vén tấm màn tôn giáo lên, ta có thể thấy con người trong cuộc sống trần thế này có cả hỷ nộ ai lạc và cũng qua đó ta thấy được thế giới nội tâm của họ.

5. VƯỢT SÔNG HOÀNG HÀ

Chặng đường phía đông của con đường tơ lụa bị cắt đứt ở đoạn sông Hoàng Hà chảy ngang qua tỉnh Cam Túc, người xưa xuất phát từ Trường An đi Tây Vực đều phải vượt qua sông hoàng Hà mới đến được hành lang Hà Tây để đi tiếp lên Tây Vực.

Tôi đi xe lửa từ Tây An qua Thiên Thủy đến Lan Châu, thủ phủ tỉnh Hoàng Hà, rồi từ đó vượt sông Hoàng Hà về phía tây. Tuy nhiên vào thời Hán Đường, hành trình về phía tây chắc chắn không theo đường sắt hoặc đường nhựa như ngày nay. Do đó, khi đến Lan Châu, tôi tìm đến các nhà nghiên cứu lịch sử địa lý để thỉnh giáo: con đường tơ lụa từ Trường An (nay là Tây An) đi đến hành lang Hà Tây phải đi theo hướng nào? Có mấy đường? Qua sông Hoàng Hà tại bến đò nào?

Họ tương đối nhất trí một phương cách là: Từ Trường An đi hành lang Hà Tây có hai tuyến đường nam và bắc. Tuyến nam là Tây An - Thiên Thủy - Lâm Thao - Lâm Hạ - Vĩnh Tĩnh, tại huyện Vĩnh Tĩnh qua sông Hoàng Hà để đi vào địa phận Thanh Hải, rồi men theo đường đi Hà Tây về hướng bắc, qua Tây Ninh sau đó xuyên qua núi Kỳ Liên cửa khẩu Biên Đô để vào hành lang Hà Tây. Tuyến bắc thì Tây An - huyện Bân - Bình Lương - Cố Nguyên - Tĩnh Viễn, tại hẻm núi Hồng Sơn thuộc huyện Tĩnh Viễn qua sông Hoàng Hà tôi đi đến hành lang Hà Tây.

Cả hai tuyến đường trên đều không qua Lan Châu. Vậy Lan Châu không phải là đồn trấn trọng yếu của con đường tơ lụa chăng Có người nói phải; có người nói: không. Họ cho rằng vào thời Hán Đường, Lan Châu không phải là nơi trọng yếu. Tạm thời tôi không tranh luận về vấn đề này. Trước tiên cần phải tìm bến đò vượt sông Hoàng Hà của hai tuyến đường nam bắc nói trên rồi mới tính tiếp.

NƠI NƯỚC SÔNG HOÀNG HÀ ĐẢO DÒNG

Bến đò qua Sông Hoàng Hà của tuyến nam là tại hang động chùa Bính Linh thuộc huyện Vĩnh Tĩnh. Hang động này là một trong những kho báu về nghệ thuật Phật giáo ngang hàng với các hang động Đôn Hoàng, hang động Mạch Tích sơn; nó sừng sững bên một hẻm núi đá ở thượng du sông Hoàng Hà. Năm 1974, thượng du Hoàng Hà trở thành trạm thủy điện lớn nhất nước gọi là trạm thủy điện Kẽm Lưu Gia (Lưu Gia giáp thủy điện trạm). Một bộ phận nước của hồ chứa vĩ đại lan tận đến chân núi chùa Bính Linh đã làm ngập con đường dẫn đến bến đò qua sông của thời cổ đại. Do đó, tôi không thể theo dấu chân của người xưa để đến chùa Bính Linh được. Người ta bảo tôi, ngày nay có đường tắt đi chùa Bính Linh, tức là trước tiên đến trạm thủy điện Kẻm Lưu Gia rồi lên tàu thủy đi ngược du sông Hoàng Hà rất tiện lợi.

Cũng có một nhánh đường sắt từ Lan Châu đi thẳng đến trạm thủy điện Lưu Gia. Tôi đi tàu thủy dọc sông Hoàng Hà theo hướng tây nam ước chừng 100 cây số thì đến trạm thủy điện, ở đây huyện lỵ của huyện Vĩnh Tĩnh nằm sát ngay dưới đập thủy điện. Nguyên trấn Liên Hoa trước đây (tức huyện lỵ cũ) nay đã chìm ngập trong hồ nước lớn.

Huyện ủy phái một cán bộ địa phương là Kỳ Chính Cương làm hướng đạo cho tôi. Anh công tác tại Hiệp Hội Khoa Học của huyện và là người rất có công sưu tập sử liệu địa phương. Chiều tối, anh dẫn tôi tản bộ dọc bờ sông.

Tại huyện Vĩnh Tĩnh, lượng phù sa của sông Hoàng Hà không nhiều nước nên nước sông trong xanh. Hai bên bờ sông là vách búi dựng đứng, lòng sông tương đối hẹp. Theo như Kỳ Chính Cương nói thì ở thượng du có một nơi gọi là “Dã hồ khiêu” (Chồn hoang nhảy). Cạnh bờ sông có một dốc núi, chồn hoang theo triền núi chạy xuống đến bờ sông, thuận thế nhảy một cái qua được bờ bên kia. Lòng sông dọc huyện Vĩnh Tĩnh hẹp nên người xưa đã bắc cầu qua sông, thật là thuận tiện.

Chúng tôi ngồi bên bờ, ngắm dòng sông. Bên kia sông có một sơn thôn tĩnh mịch ẩn mình trong lùm cây nhuộm bóng hoàng hôn. Kỳ Chính Cương kể lại một câu chuyện thời xa xưa về cái sơn thôn xinh đẹp u nhã ấy.

Không biết từ bao nhiêu thế kỷ trước, vương tử nước Ni-Bạc-Nhĩ không từ khó khăn gian khổ cất bước đến nơi này tu hành ở động La Gia trên ngọn núi phía sau sơn thôn. Vì sao chàng trai trẻ từ nơi xa Ni-Bạc-Nhĩ kia lại đến sơn thôn huyện Vĩnh Tĩnh này? Thì ra chàng nằm mộng thấy một vị cao tăng chỉ cho chàng đến cái nơi mà “đất đỏ trùm đỉnh núi, sông vàng nước đổi dòng” (hồng thổ cái sơn đỉnh, hoàng hà thủy đảo lưu) để truyền bá đạo Phật. Huyện Vĩnh Tĩnh đúng là nơi sông Hoàng Hà đang chảy về hướng đông bỗng đổi dòng chảy về hướng tây và trên đỉnh núi động La Gia, đúng là loại núi đá cấu thành do sa thạch màu đỏ.

Trong sơn thôn ấy có một cô gái trẻ, hàng ngày đem cơm cho cha cày ruộng dưới núi. Mỗi lần qua động La Gia, cô thấy có một thanh niên từ nơi khác đến suốt ngày ngồi tĩnh tọa làm một vị tăng khổ hạnh, không cầm được nỗi thương tâm, cô thường để lại một ít cơm nước cho chàng. Lòng tốt của cô gái đã làm động lòng kẻ tu hành. Mãi về sau, giữa đôi nam nữ trẻ tuổi này nẩy sinh tình cảm vợ chồng. Hành động bỏ kinh từ đạo của họ đã làm thiên đình phẫn nộ, thế là trời sập đất nứt, đôi tình nhân bị vùi sống dưới đáy núi. Không biết bao nhiêu năm về sau, một trận động đất lớn nổ ra nâng họ lên khỏi mặt đất, thi thể của họ vẫn còn nguyên, vẻ mặt sinh động như còn sống, một thời trở thành giai thoại.

Sự tích câu chuyện trên nghe ra có vẻ hoang đường, nhưng trong lịch sử của huyện Vĩnh Tĩnh đúng là có dấu chân của các tăng nhân Tây Vực, có người sống lâu dài ở đây để truyền giáo, chắc chắn đó là điều có thật vì dải đất Vĩnh Tĩnh là một đoạn trọng yếu trên con đường tơ lụa.

THIÊN HẠ ĐỆ NHẤT KIỀU

Ngày thứ hai, Kỳ Chính Cương dẫn tôi đến trạm thủy điện Kẽm Lưu Gia. Đó là một đập nước lớn, cao 147 mét, ngăn chặn một khối lượng nước là 57000 triệu mét khối nước. Dưới đập trạm thủy điện là các tổ máy có dung lượng 1225000 kilôwatt, cung ứng điện cho ba tỉnh Thiểm Tây, Cam Túc và Thanh Hải.

Lên trên đập cao nhìn xuống, ta thấy mặt hồ xanh thẳm. Chúng tôi đi tàu thủy, sau khi vượt qua một hẻm núi, con tàu ra giữa lòng hồ phẳng lặng như một tấm gương, nhìn ra tứ phía không thấy bến bờ.

Tàu đi chừng ba tiếng đồng hồ, sắc nước từ màu xanh đậm đổi sang màu xanh nhạt, nước hồ cạn dần. Lúc ấy trước mắt hiện ra mấy ngọn núi đặc biệt kỳ lạ, từ mặt nước nhô lên, có ngọn giống như bảo tháp, có ngọn giống như con thú khổng lồ. Cảnh sắc núi rừng sông nước hiện ra trước mắt ta như non nước vùng Quế Lâm vừa xinh đẹp vừa kỳ lạ.

Kỳ Chính Cương lấy tay chỉ hai ngọn núi từ đằng xa nói:

- Đó là hai ngọn núi có tên là Tỷ Muội, chúng là cổng chính của chùa Bính Linh. Nhìn theo tay anh chỉ, tôi thấy hai ngọn núi đá xinh đẹp kia quả như hai cô gái mặc trang phục cổ, tựa vào nhau thân thiết như hai chị em.

Con tàu đang hướng về phía núi Tỷ Muội lướt tới, khi đến gần thì hơi chuyển hướng một chút và chui vào một hang núi, nước cạn hơn, núi của hai mặt hang cao mà thẳng giống như hai bình phong đối diện nhau. Con người đứng dưới đó bỗng thấy mình quá nhỏ bé. Các khám thờ Phật của hơn 190 hang đá ở chùa Bính Linh nằm rải rác trên các vách đá dựng đứng ở mặt tây.

Chúng tôi leo lên chân núi phía đông, nơi Sở Bảo tồn chùa Bính Linh tọa lạc để nghỉ ngơi. Ông giám đốc sở bảo tồn đưa ra một bức họa bằng lụa, tác phẩm thời Đồng Trị nhà Thanh, vẽ toàn cảnh chùa Bính Linh. Phần dưới của bức họa vẽ một chiếc thuyền gỗ đang bơi trong sóng nước cuồn cuộn của sông Hoàng Hà.

Ông giám đốc sở nói ở hẻm núi chùa Bính Linh đã từng có một cái cầu đá để qua sông Hoàng Hà gọi là “Thiên hạ đệ nhất kiều” (cây cầu số một trong thiên hạ). “Thủy kinh chú” và “Hà châu chí” đều có nói đến Ất Phục thị, xứ Tây Tần thời Đông Tấn đã đến đây xây cầu. Ông còn nói trên vách đá của hẻm núi có khắc dòng chữ “Thiên hạ đệ nhất kiều”, đến nay cầu đã ngập sâu trong hồ nước, nhưng cũng may còn giữ lại bức ảnh khắc chữ ấy.

Để tìm hiểu di chỉ “Thiên hạ đệ nhất kiều” chúng tôi bơi một chiếc thuyền gỗ nhỏ đến hẻm núi, thì vừa đúng có một vị bô lão đã từng là Lạt ma của chùa Bính Linh trước đây tháp tùng với chúng tôi. Thuyền qua núi Tỷ Muội, lão tăng chỉ vào chỗ mặt nước gần đấy nói:

- Năm đại tự “Thiên hạ đệ nhất kiều” được khắc trên vách đá tại dài chỗ nước này, vào mùa xuân nước rặc dòng chữ khắc mới hiện ra, mỗi chữ cao hơn một thước.

- Ngoài năm chữ đó ra, cầu còn có dấu tích gì khác nữa không? - Tôi hỏi.

- Có đấy. Hai bên bờ rõ ràng có những lỗ đục, xem ra từ chúng dùng để đóng các trụ cầu.

- Hai bên cầu có đường đi không?

- Có một bên thì đi Lâm Hạ, còn một bên thì đi Thanh Hải. Nhớ hồi tôi còn nhỏ, tôi đã từng thấy các nhà buôn chuyển vận hàng hóa qua con đường này.

Vị bô lão ấy còn chỉ một bức bờ tường bằng đất sét, nói:

Đời nhà Thanh còn phái binh lính đến canh gác cầu, và đó là đồn binh của lính gác cầu.

Xem ra dây đúng là điểm giao thông trọng yếu vào thời cổ đại.

MANĐALA VÀ MÚA ẤN ĐỘ

Thuyền cập bến, vị bô lão thuận tay nhổ một gốc cỏ cao bằng nửa thân người rồi nói:

Cỏ này gọi là “manđala” có nguồn gốc từ Ấn Độ, do các tăng nhân Tây Vực mang đến trồng ở chùa Bính Linh. Hoa của nó có thể làm thuốc phiện.

Theo sự khảo sát của Kỳ Chính Cương thì khu vực chùa Bính Linh có lắm cỏ quý cây lạ, không phải do bổn địa sinh trưởng mà phần lớn là do tăng nhân từ Tây Vực đưa sang, ngoài manđala, chùa Bính Linh còn có mười cây đàn hương, bảy cây trầm hương được gọi là cây quý của chùa. Cây đàn hương vốn sinh sản tại Ấn Độ, gỗ của nó có mùi thơm, dùng làm nan quạt gọi là quạt đàn hương; cây trầm hương cũng sinh sản tại Ấn Độ, gỗ của nó là loại hương liệu trứ danh, còn được gọi là “già nam hương” hay “kỳ nam hương”.

So với các hang động Mạch Tích sơn ở Thiên Thủy, thì nghệ thuật trong các hang động ở chùa Bính Linh ảnh hưởng văn hóa ngoại lai rất rõ nét. Trên các vách đá ở chùa Bính Linh có rất ít khám thờ tượng Phật, chỉ có phù điêu ở các tháp Phật. hình tháp đều có dáng kiến trúc kiểu Ấn Độ, điều này rất ít thấy trong các hang động khác ở Trung Quốc.

Rõ ràng nhất là ở một số lớn phù điêu các hình bồ tát, cao không đầy nửa mét, ở tư thế đứng có vẻ hơi biến hóa khiến người ta liên tưởng đến hình nhảy múa cổ Ấn Độ. Có hình thì thân trên ưỡn ra phía sau, chứng tỏ thân lưng rất mềm nhuyễn, cách tạo hình hai bàn tay là những động tác múa và kể cả các ngón tay cũng ở trạng thái ấy. Gần đây tôi có xem một vũ công Ấn Độ đến thăm Trung Quốc và biểu diễn múa cổ điển, càng làm cho tôi hiểu hơn nét điêu khắc ở chùa Bính Linh. Rõ ràng chúng có bóng dáng của những động tác múa cổ điển Ấn Độ.

Hang động chùa Bính Linh ở trên trục đường chính thông vãng Đông - Tây đã dung nạp ảnh hưởng văn hóa từ Tây Vực sang là điều không có gì phải tránh né. Thế nhưng có những người chịu ảnh hưởng trào lưu cực tả đã cực lực phủ nhận ảnh hưởng ngoại lai ấy. Tôi cho rằng họ thực sự không chịu cầu thị và lại thiếu cả lòng tự tín dân tộc: Tiền bối của chúng ta đã dũng cảm tiếp nhận ảnh hưởng ngoại lai đưa chúng dung hợp vào nền nghệ thuật dân tộc của mình một cách cao siêu, đã sáng tạo ra một phong cách hoàn toàn mới. Cho nên họ có thể làm được như vậy chính là để nói lên rằng đối với truyền thống nghệ thuật dân tộc của bổn qưốc, họ có lòng tự tín rất mãnh liệt.

Hang động ở chùa Bính Linh và ở Mạch Tích sơn, Thiên Thủy, đại thể lập ra trong cùng một thời đại. Gần đây, trên bức bích họa ở hang thứ 169 thuộc chùa Bính Linh người ta phát hiện ra dòng chữ ghi “Tây Tần Kiến Hoàng nguyên niên” (tức năm 420 CN). Cho đến nay mà nói thì đó là dòng ghi niên đại sớm nhất được tìm thấy trong các hang động ở Trung Quốc. Nó minh chứng một điều rằng vào thế kỷ thứ IV và đầu thế kỷ thứ V CN, con đường tơ lụa và điểm giao thoa từ sông Hoàng Hà đã xuất hiện nghệ thuật hang động một cách rực rỡ.

BẾN ĐÒ BỊ BỎ QUÊN

Tuyến bắc của con đường tơ lua thì từ Tây An muốn đến hanh lang Hà Tây ắt phải men theo sông Kinh đi về hướng tây bắc, qua Bình Lương, vượt Lục Bàn Sơn, qua Cổ Nguyên, đến huyện Tĩnh Viễn qua sông Hoàng Hà để đi hành lang Hà Tây.

Tuyến bắc là một con đường tắt, từ xưa đã có dịch đạo (đường đã có trạm đổi ngưa Từ xa xưa hơn 2000 năm trước, Hán Vũ Đế đi tuần thú tây bắc bằng con đường này. Hán thư có ghi “Vũ Đế tây lâm Tổ Vệ nhi hoàn” (Vua Hán Vũ Đế từng đến sông Tổ, sông Vệ rồi trở về). Nơi nước sông Tổ và sông Vệ cùng chảy vào sông Hoàng Hà chính là huyện Tĩnh Viễn, cho nên Hán Vũ Đế ngự hành phía tây chỉ đến Tĩnh Viễn không qua sông thì đã hồi loan về kinh.

Một chuyên gia nói: bến đờ qua sông có thể ở tại hẻm núi Hồng Sơn, tức ngày nay gần thị trấn Ha Tư, công xã Thạch Môn. Địa phương chí của huyện có ghi: Thời Vạn Lịch có làm cầu dây cách phía tây Ha Tư chừng mươi dặm ... Vạn Lịch là niên hiệu thời Minh từ năm 1573 - 1619, tức cách nay khoảng 400 năm, ở đây chắc đã có cầu dây. Thời Hán Đường, lữ khách qua sông Hoàng Hà bằng cách nào không thấy sách vở nào ghi chép.

Một ký giả nhiếp ảnh đồng hành là Kim Bá Hoằng, muốn chụp một số hình ảnh ở bến đò qua sông Hoàng Hà thuộc tuyến bắc của con đường tơ lụa đã một mình đi huyện Tĩnh Viễn cách Lan Châu về phía bắc hơn một trăm cây số, sau khi trở về, ông tả lại như sau:

“Từ huyện Tĩnh Viễn dùng xe việt dã đi về hướng tây bắc khoảng hơn ba tiếng đồng hồ thì đến thị trấn Ha Tư, công xã Thạch Môn. Đây chỉ là một thôn trang miền núi bình thường khoảng ba, bốn mươi hộ gia đình, trước mặt thôn là ngọn núi cao có tên là Ha Tư Sơn, do đó mà có tên thị trấn Ha Tư. Đến đây có một thanh niên tên là Thạch Phúc Quý làm hướng đạo cho tôi.

“Rời khỏi thị trấn Ha Tư chúng tôi đi vào một hang núi, đi một đoạn không xa nữa thì men theo đường đất để leo lên núi. Chúng tôi hổn hển leo lên, con đường men chân núi đứt đứt, nối nối, lúc rộng lúc hẹp cũng gây cho tôi niềm hứng thú. Đường toàn là cỏ dại, nhưng cũng có vài nơi có thể thấy được vết bánh xe hằn sâu hai bên đường, rõ đây là con đường cơ quan vào thời cổ đại đã bị bỏ quên”.

“Đi thêm nửa tiếng đồng hồ nữa, lại trèo lên một đỉnh núi có tên là “Tỏa kiều lương”. Đứng ở đây nhìn ra tứ phía, có thể thấy giữa các hang núi hướng tây bắc một dòng nước uốn khúc lấp lánh dưới ánh mặt trời, đó là sông Hoàng Hà. Trên đỉnh các dãy núi chập chùng bên kia sông có thể thấy dãy tường đất bị phong hóa uốn lượn quanh co từ bắc xuống nam, tôi lập tức nhận ra đó là Vạn Lý Trường thành”.

“Đường xuống núi càng đi càng nhanh, chúng tôi theo hướng sông Hoàng Hà có thể nghe được tiếng sóng vang vọng, tôi bỗng dừng lại. Bến đò xưa hiện ra trước mắt. Ta có thể thấy rõ dưới chân núi, đường qua bên kia sông Hoàng Hà đã bị cắt đứt, một vùng đất hoang hiện ra hai bên đường, bên kia sông cũng có một vùng như vậy nhưng rộng hơn, xem ra đó là một thôn trấn thời cổ đại có hơn 300 hộ đã bị sông Hoàng Hai phân làm hai”.

“Chốn thôn trấn cô tịch không người này có dựng một bia đá, trên bia có khắc năm chữ “Sơn giáp tu lộ bị” (Bia ghi việc sửa đường qua hẻm núi) vào đời Càn Long nhà Thanh năm thứ mười lăm (1780); thân sĩ trong làng và thương nhân các nơi đóng góp để dựng bia sau khi tu sửa, trên bia có ghi tiền xuất ra làm đường gồm các tỉnh Sơn Tây, Thiểm Tây, Ninh Hạ, Cam Túc và gần một trăm hiệu buôn thuộc các khu tự trị. Vậy có thể thấy thương nhân đương thời đối với con đường giao thông quan trọng trong nội địa với biên thùy tây bắc rất được coi trọng”.

“Sông Hoàng Hà chảy từ phía tây lại rồi rẻ ngoặt sang hướng bắc, tại đây lòng sông hẹp, cổ nhân chọn nơi này làm bến đò qua sông rõ là một điều hợp lý. Cả dọc hẻm núi Hồng Sơn trừ chỗ có năm chùa Phật hiện ra thì các nơi khác ở hai bờ sông đều là núi cao, sa mạc, không nơi nào có thể qua sông được Do đó, ngày xưa con đường tơ lụa chắc chắn phải lấy nơi này làm bến đò qua sông”.

“Trên đường về, người bạn tháp tùng với tôi là Tiểu Thạch vừa đi vừa nói chuyện. Tiền bối lâu đời của anh đều sống ở thị trấn Ha Tư. Nghe các cụ kể thôn trang của họ vốn gọi là phố Ha Tư, khá đông đúc, có đến hơn 3000 người, khu phố có đến hai mươi bốn ngôi miếu, mười tám nhà nghỉ lớn, một đêm thu cả đấu vàng. Lại còn có lầu cao, có lầu chuông, lầu trống v.v... người bản địa tự khoe là một tiểu Bắc Kinh”.

“Đi trên con đường giao thương buôn bán thời cổ dại, tôi hầu như đang hình dung các thương nhân nghỉ lại phố Ha Tư mốt đêm, chỉnh đốn hành trang, cho ngựa ăn uống để sáng mai ra bến đò qua sông Hoàng Hà, hoặc hầu như đang nghe tiếng nhạc ngựa lanh canh và tiếng hò hét của những người đuổi ngựa vang vọng lại trong hang núi. Không biết bắt đầu từ khi nào, không biết vì nguyên nhân gì mà bỗng nhiên tiếng nhạc ngựa biến mất, đám thương nhân không còn lui tới nữa, dân chúng ở phố Ha Tư lần lượt đi đâu cả. Hiện nay, phố Ha tư chỉ là một thôn trang nhỏ bé ước khoảng 200 người, một vết tích nhỏ năm nào cũng không còn được lưu dấu”.

LAN CHÂU LÀ MỘT BẾN ĐÒ CHĂNG?

Sau những gì được biết về hai bến đò nam bắc của sông Hoàng Hà, tôi trở lại chú tâm khảo sát Lan Châu qua sử sách để xem đây có phải là nơi con đường tơ lụa đi qua không?

Trước khi đến Lan Châu, tôi đã đọc Đại Từ Ân tự Tam Tạng Pháp sư truyện. Bộ sách do đệ tử của thầy Huyền Trang viết ra này, đã kể lại rõ ràng lộ trình mà sư phụ đã đi thỉnh kinh ở Ấn Độ, trong đó có nói đến lúc ngài ra khỏi kinh đô Trường An như sau: “Có vị tăng Hiếu Đạt ở Tần Châu đã từng học kinh Niết bàn tại kinh đô, học xong, về quê đi với ngài đến Tần Châu, nghỉ lại một đêm, rồi tiếp tục đi Lan Châu, cũng nghỉ lại một đêm, sau đó, gặp người ở Lương Châu tiễn đưa người chăn ngựa cho triều đình trở về, ngài theo người này nghỉ lại ở đây hơn một tháng …”.

Đoạn văn trên nói rõ lộ trình của Đường Huyền Trang Tây du là: “Trường An - Thiên Thủy (Tần Châu) - Lan -Châu - Vũ Uy {Lương Châu).

Điều mà đoạn văn trên đề cập rất đáng chú ý là: Tại Lan Châu, Huyền Trang “gặp người Lương Châu tiễn người chăn ngựa cho triều đình trở về”. Hành lang Hà Tây từ thời Hán Đường có một khu vực nuôi ngựa rất rộng lớn cho triều đình để cung cấp ngựa xe và ngựa chiến, mà người Lương Châu (tức Vũ Uy) từ tây đi về đông để hộ tống quan coi việc chăn ngựa cho triều đình, thì nơi đến của họ rất có thể là kinh đô Trường An. Mà người đã từ hành lang Hà Tây hộ tống từng đoàn ngựa quan về kinh đô thì phải qua Lan Châu, như vậy có thể thấy vào đời Đường, Lan Châu là trạm giao thông trọng yếu giữa hành lang Hà Tây và Trường An.

Đọc qua đoạn văn trên, nếu bảo con đường tơ lụa mà không qua Lan Châu là một điều rất khó chấp nhận Khi thăm giáo sư Tiên Tiên Uy công tác tại Sở Nghiên cứu Lịch sử Địa lý thuộc khoa Địa lý trường Đại học Lan Châu, tôi xin ý kiến chỉ giáo về đoạn văn ấy. Giáo sư cho rằng Đại Từ Ân tự Tam Tạng Pháp sư truyện là do đệ tử của ngài Huyền Trang viết ra, chắc chắn chính tai mình đã nghe lời sư phụ kể lại. Do đó, những gì nói trong sách về lộ trình Tây du đều có thể đáng tin.

Ông còn nói với tôi: Lan Châu vào đời Hán đã từng gọi là huyện Kim Thành, đến đời Đường đổi là Lan Châu. Vì vậy, chỗ trong sách nói là Lan Châu thì ngày nay cũng là Lan Châu ấy, chứ không phải một nơi nào khác cả.

Căn cứ vào kết quả nghiên cứu của giáo sư, thì xuất phát từ Trường An đi hành lang Hà Tây còn có một tuyến đường nữa, đó là: Trường An - Thiên Thủy - Lan Châu - Vũ Uy. Tuyến đường giữa này chỉ là do diễn biến từ cơ sở của tuyến nam mà thôi. Việc khai thông tuyến đường này có thể muộn hơn so với tuyến nam và tuyến bắc.

Tiên Tiên Uy cũng đã tìm ra một căn cứ khác qua thơ Đường, nói rõ Lan Châu là nơi qua lại của một dịch đạo xa xưa. Nhà thơ Sầm Tham đời Đường qua đề tài về biên tái có một bài thơ vịnh ải Kim Thành như sau:

Cổ thú ỷ trùng hiểm,

Cao lâu tiếp Ngũ Lương;

Sơn căn bàn dịch đạo,

Hà thủy tẩm thành tường.

Tạm dịch: Lính thú xưa dựa vào nơi hiểm trở, lầu cao thành vọng gác tiếp với Ngũ Lương; dọc chân núi xây đường dịch đạo, nước sông Hoàng Hà thấm ướt tường thành.

Thành cổ Lan Châu xây dựng bên bờ sông Hoàng Hà cho nên nói “Hà thủy tẩm thành tường” (nước sông thấm vào tường thành), dưới chân núi Cao Lâu là bình nguyên Quan Trung trải đài về phía đông, còn phía tây thì tiếp giáp với dịch đạo đọc hành lang Hà Tây, nên nói “sơn căn bàn dịch đạo” (chân núi xây địch đạo). Rõ ràng nhà thơ đã miêu tả một cách chân thực Lan Châu là nơi trọng yếu trên con đường thông vãng Tây Vực.

Sau này tôi có hỏi lại các giáo sư khoa sử thuộc trường Đại học Cam Túc, họ cũng cho rằng có hai sự thực của lịch sử quan trọng có thể nói rõ Lan Châu là nơi trọng yếu trên con đường thông thương đông tây: Thứ nhất, theo Tam quốc chí ghi thì tướng Thục là Khương Duy xuất binh đánh Ngụy, bao vây quân Ngụy tại Địch đạo (Lâm Thao) thuộc khu vực phía nam tỉnh Cam Túc. Triều đình nhà Ngụy khẩn cấp điều binh cứu viện đi dọc hành lang Hà Tây, qua Kim Thành (Lan Châu) xuống phía nam để giải vây. Do đó, ta có thể thấy, ngày xưa vào thế kỷ thứ III CN, Lan Châu là đường giao thông trọng yếu dọc hành lang Hà Tây giữa đông Hoàng Hà và tây Hoàng Hà. Thứ hai, theo Tân Dường thư năm 822 CN, triều đình nhà Đường phái đại thần Lưu Nguyên Đỉnh đến địa giới tây nam cùng với nước Thổ Phồn (Nay là khu tự trị người Tây Tạng) hội thề. Lưu Nguyên Đỉnh xuất phát từ Trường An, qua Thành Ký (nay là huyện Tần An, quận Lũng Tây) đến Lan Châu bên bờ sông Hoàng Hà, rồi đi tiếp về hướng tây. Bấy giờ Lan Châu bị người Thổ Phồn chiếm cứ. Sử liệu ghi rằng: “Đất Lan Châu toàn trồng lúa và các loại cây đào, lý, du, liễu, ... xanh tươi, nhà cửa toàn của người Đường, thấy sứ giả mặc áo lông mịn thảy đều chạy đến xem”.

Tại phòng triển lãm quy hoạch thành phố Lan Châu, tôi còn tìm ra được một chứng cứ có sức thuyết phục đó là bức Kim Thành lãm thắng đồ (bức họa thắng cảnh ở Kim Thành) vào đời Quang Tự nhà Thanh; bức họa vẽ chiếc cầu nổi bắc ngang sông Hoàng Hà; đối diện với cầu là một tòa tháp bằng gỗ Theo như người làm công tác văn vật cổ nói, thì tòa tháp gỗ này là công trình kiến trúc thuộc đời Đường. Trước giải phóng, tòa tháp gỗ đã bị thiêu hủy. Trên tháp có một cái đỉnh bằng sắt trên có khắc dòng chữ Trinh Quán cửu niên Cao Xương vương Cúc Văn Thái tạo (vua Cao Xương Cúc Văn Thái năm Trinh Quán thứ chín kiến lập).

Cao Xương là một chư hầu của nhà Đường, nay là Tolophan, Tân Cương. Thời Sơ Đường, vua Cao Xương Cúc Văn Thái rất cung kính đối với triều đình nhà Đường đã từng cống nạp cho Đường Cao Tông loại chó cảnh gốc từ La Mã cao sáu tấc dài một thước, có thể dùng miệng ngậm đuốc, có thể dắt dây cương ngựa lôi đi. Đường Thái tông tức vị, vua Cao Xương Cúc Văn Thái là người đầu tiên đến Trường an bái yết. Nếu ông ta đã dựng tháp ở Lan Châu, như vậy thì từ Tân Cương đi Trường An ắt phải đi qua Lan Châu.

Cây cầu nổi bắc qua sông Hoàng Hà được vẽ trên Kim Thành lãm thắng đồ tạo dựng năm Hồng Vũ thứ chín đời Minh (tức năm 1376). Đó là cây cầu có sớm nhất ở Lan Châu.

Sách sử ghi chép: trước thế kỷ XIV người ở Lan Châu qua sông Hoàng Hà chỉ dùng thuyền đò mà thôi.

Qua việc tìm hiểu trên, thì khuynh hướng của tôi đứng về phía những người cho là con đường tơ lụa phải đi qua Lan Châu. Tôi cho rằng những người chỉ giữ thái độ hoài nghi và không đưa ra được chứng cứ chỉ là lối phiếm luận thiếu căn cứ lịch sử mà thôi. Khi tôi đưa ra việc tìm hiểu các tài liệu thì họ cũng có thể hiện những thái độ đáng suy nghĩ.

RỪNG RẬM NGUYÊN THỦY

Tính chất trọng yếu của Lan Châu trên con đường tơ lụa cổ đại đối với Trung Quốc ngày nay đã hơn hẳn bất cứ thời đại nào của lịch sử. Từ những năm năm mươi trở lại, đây, tôi đã ba lần đến Lan Châu, và sau mỗi lần đều để lại ấn tượng đặc biệt.

Năm 1953, lần đầu tiên đến Lan Châu, bấy giờ đường sắt Thiên Thủy - Lan Châu vừa mới đưa vào sử dụng thì đường sắt Lan Châu - Tân Cương đang bắt đầu khởi công. Như vậy Lan Châu được xem là mô hình của một đầu mối giao thông ở khu vực Đại Tây Bắc đã bắt đầu rõ nét.

Khu thành cổ Lan Châu rất nhỏ, vẻn vẹn chỉ 16 cây số vuông mà còn đối mặt với núi cao và sông Hoàng Hà chảy ngang qua. Tôi trọ trong nhà khách ở lưng chừng núi Cao

Lan, chung quanh toàn là núi trọc, và hút tầm mắt là những núi đất màu vàng, cơ hồ không có màu xanh. Dù là sắc vàng thống trị toàn bộ cao nguyên hoàng thổ ấy khiến người ta không mấy thích thú, song không khí kiến thiết bừng bừng của cuộc sống mới ở khu cổ thành này cũng phần nào có sức truyền cảm. Trên con phố nhỏ hẹp của thị khu, đám người pha trộn giọng nam, giọng bắc đang kề vai sát cánh. Tất cả họ đều mang trong mình bầu nhiệt huyết tiến lên kiến thiết khu Đại Tây Bắc của tổ quốc.

Cách hơn hai mươi năm sau, năm 1974, tôi trở lại Lan Châu, cảm quan của tôi đã khác trước. Tôi trọ tại một khách sạn ở Lan Châu. Vừa mở cửa sổ, trước mắt tôi đã hiện ra một bồn hoa nhiều màu trên quảng trường trưng tâm thành phố. Nhìn thấy màu sắc xán lạn ấy, cái ấn tượng cũ về cao nguyên đất vàng nằm sâu trong tiềm thức tôi bỗng trở lại. Về sau đi sâu vào một số đường lớn rợp bóng những hàng bạch dương cao ngất của thị khu thì bao nhiêu thành kiến trước đây đều tiêu tan hết. Ai đã từng thấy Lan Châu ngày trước thì mới hiểu được sâu sắc rằng màu xanh đối với Lan Châu quý như thế nào.

Cổ thành trên con đường tơ lụa đã chính thức được kiến tạo thành đầu mối giao thông của khu Đại Tây Bắc. Trước giải phóng, ở Lan Châu một tấc đường sắt cũng không có, nhưng hiện nay có đến bốn đường chính: Đường sắt Lan Châu đi Tân Cương, Lan Châu đi Tây Ninh, Lan Châu đi Bao Đầu và Lan Châu đi Thiên Thủy. Hệ thống đường nhựa ở Lan Châu cũng được hình thành. Cầu để qua sông Hoàng Hà dành cho đường sắt và đường nhựa tư một tăng lên chín chiếc cầu.

Thành quả lao động của những người khai phá hơn hai mươi năm nay tôi đã được chứng kiến, chính bàn tay họ đã xây dựng nên một thành phố công nghiệp, diện tích được mở rộng đến hơn 2000 cây số vuông (Lan Châu cũ chỉ 16 cây số vuông), so với diện tích ban đầu tăng gấp 130 lần. Tôi thường tham quan công nghiệp hóa học dầu khí và công nghiệp máy khai thác dầu khí ở đây, có thể thấy được tiềm năng to lớn của thanh phố công nghiệp khu Tây Bắc này: Cam Túc có nguồn tài nguyên phong phú về kim loại quý hiếm, về dầu khí, than đá, lại có nguồn thủy điện vô tận ở thượng du Hoàng Hà. Trong tiến trình bốn hiện đại hóa, Lan Châu chắc chắn sẽ phát huy tác dụng một cách đặc sắc.

Gần đây, một lần nữa tôi đến Lan Châu, ngoài việc tìm hiểu bến đò xưa của con đường tơ lụa, lúc rảnh tôi đi thăm các nơi đã phát hiện ra vừng đất mới đã không bị con người bỏ quên.

Một bên cầu nổi thời cổ đại, nơi vua Cao Xương có xây một tháp gỗ đối diện, còn có núi Bạch Tháp mà ngày nay người ta kiến tạo thành công viên núi Bạch Tháp. Toàn bộ đình đài lâu các đều là tác phẩm của kiến trúc sư Nhậm Chấn Anh, công viên này dựa trên cơ sở kiến trúc truyền thống của dân tộc Trung Quốc mà nhà thiết kế có cách cấu tứ xảo diệu, có phong cách riêng biệt, cụ thể. Chẳng hạn như cái đình hình tam giác rõ là tinh xảo mới lạ. Để cải tạo bộ mặt núi đồi trọc nhẵn trước đây, người ta đã dẫn nước sông Hoàng Hà tưới khắp cả 2800 mẫu rừng trồng, có thể nói thật là lao tâm khổ tứ.

Người hướng đạo nói: thời cổ đại cả một dải đất Lan Châu này núi rừng rất xanh tốt, tôi tỏ vẻ không dám tin, anh nói tiếp:

- Ngày mai mời ông đi thăm vùng rừng rậm nguyên thủy của chúng tôi rồi sẽ thấy.

Từ Lan Châu đi xe về hướng đông chừng bốn mươi cây số, qua huyện Du Trung (truyền thuyết có kể Huyền Trang đã từng trú lại mấy ngày tại trấn Định Viễn thuộc huyện này), luồn qua một hang núi vắng vẻ thì đến dưới chân núi Hưng Long. Ở đây có một con suối nhỏ phía trên một chiếc cầu độc đáo bắc qua. Thân cầu giống như một hành lang, hai đầu có đình. Qua khỏi cầu, chuẩn bị leo bậc lên núi để tìm “rừng rậm nguyên thủy”.

Lưng chừng núi có vết tích của mộ chí Thành Cát Tư Hãn. Thời kháng Nhật, mộ Thành Cát Tư Hãn được tộc người Nội Mông là Y-Khắc-Chiếu-Minh Y-Kim-Hoắc-Lạc-Kỳ thiên di đến núi Hưng Long. Ngày nay lăng mộ của tay giặc trời (thiên kiêu) một thời này đã được đưa về cố hương, chỉ còn dấu cũ tường xiêu vách đổ và hai cây cổ tùng cao thấu tầng mây. Thân cây thẳng cao dễ đến hơn bốn mươi mét.

Đi trước là một họa sĩ, bỗng la lớn: “Nhanh lên đến xem này, đẹp quá?” Ai nấy Vội chạy lên thì thấy chị đã lấy vở vẽ ghi nhanh phong cảnh. Trước mắt là núi non cây cối rậm rạ. Trời đã vào thu, màu sắc cây lá sặc sỡ dưới ánh mặt trời chiếu rọi, nào là màu vàng óng, màu xanh lục, màu đỏ thẫm thật là mỹ lệ. Đối mặt với sắc thu mê mẩn, tôi thật khó dứt ra cho được, vừa ngắm thưởng sắc núi vừa tốc họa bằng bút màu, chị họa sĩ nói:

- Màu sắc ở đây có thể nói là khó tìm thấy, đẹp như một thiếu phụ nhưng lại không kiêu sa kiều diễm, trong cái tươi sáng đó lại lộ ra cái tự nhiên, cái đoan trang …

Chúng tôi đang ngắm nhìn cảnh sắc thì đằng trước có người kêu lớn: “Đến đây nhanh lên! Trên đỉnh mới là rừng rậm nguyên thủy đấy!”

Đứng trên đỉnh cao nhìn bao quát xuống dưới, tầng tầng lớp lớp những dãy núi hiện ra từ xa đến gần, trên mỗi dãy núi thấy toàn màu xanh của cây thông mụ, tươi tốt sum suê. Ánh mặt trời phản chiếu càng làm tăng thêm vẻ tráng lệ của rừng rậm nguyên thủy. Tôi nằm trên một thảm cỏ vừa ngắm vừa suy nghĩ cảnh đẹp này hầu như mình đã nhìn thấy ở một nơi nào đấy rồi, rất quen thuộc. Ồ, phải rồi, hoàn toàn đúng là một bức họa phong cảnh Đông sơn của họa sĩ nổi tiếng người Nhật Khôi Di.

Núi Hưng Long là dư thế của dãy Kỳ Liên kéo dài về phía đông. Chỉ cần bước xuống một bước là tôi có thể qua sông Hoàng Hà để đến hành lang Hà Tây, tiến thẳng vào lòng núi Kỳ Liên để tìm hiểu thêm phần nào phong cảnh của những ngọn núi tuyết trắng phau ấy.

(còn tiếp