Phương pháp luận nghiên cứu chuyên ngành lịch sử

Nhập môn phương pháp luận nghiên cứu chuyên ngành sử học

Thứ nhất là học môn này phải biết nghiên cứu nội dung gì. Ví dụ như tìm hiểu lịch sử một địa phương (lịch sử dân tộc là lịch sử của các địa phương) thì mình phát huy những đóng góp, ảnh hưởng, vai trò của lịch sử địa phương trong lịch sử dân tộc. Để làm rõ được điều đó và xác định được nội dung luận văn là một cái hay, có cái để nói và "không đụng hàng". Vì nó liên quan đến môn học. "Nếu nói sử học đúng hết thì nhà sử học không có việc gì để làm"; học đến thạc sĩ phải biết nghiên cứu; nghiên cứu để biết thêm và làm phong phú thêm lịch sử dân tộc. Đặt mình với vai trò là người học, người nghiên cứu thì mình sẽ nghiên cứu như thế. Nói như thế để GV định hướng chọn vấn đề làm luận văn thạc sĩ thì phải biết mình chọn cái gì, chứng mình được điều hay đó cho hội đồng khi thông qua đề cương luận văn. Cha đẻ của môn phương pháp luận nghiên cứu sử học là GS Hà Văn Tấn. Lúc đầu là lý luận đại cương lịch sử, sau đổi thành phương pháp luận sử học.

Thứ hai là học môn này nói sâu về cái trở thành công trình khoa học (cách làm công trình khoa học). Làm sao để làm một luận văn thạc sĩ ? Để làm được luận văn phải xác định đối tượng nghiên cứu như thế nào, xác định mục đích nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu như thế nào; từ không gian và thời gian. Cái nữa là gọi tên và hiểu bản chất của từng vấn đề: ví dụ, khi nghiên cứu thì ta thấy có các thuật ngữ như "luận chứng" là gì, "luận cứ" là gì, "luận điểm" là gì. Như vậy khi nghiên cứu một vấn đề sử học phải chỉ ra cách hiểu về lý thuyết, các luận chứng, luận cứ và luận điểm.

Thứ ba, chuyên đề này sẽ nói làm thế nào để công bố một đề tài khoa hoc (bảo vệ luận văn). Từ lúc làm đề tài đến lúc nhận học vị thạc sĩ là cả một quy định; khi học các chuyên đề chuyên sâu thì khi GV dạy sâu vấn đề đó; rồi tìm thêm tài liệu rồi phát hiện ra có gì hay không, cái gì mà có thể đào sâu thêm hay không ? Nhắm từ đó, cùng với đam mê và yêu thích, công việc hiện tại để nhắm vào đề tài đó để làm sâu hơn trong luận văn. Muốn nghĩ ra tên đề tài, trước hết phải có vật liệu rồi thâm nhập tư liệu đó; đi từ xa đến gần, từ rộng đến hẹp để phát hiện ra vấn đề => đó là nghĩ ra tên đề tài. GV hướng dẫn sẽ hướng dẫn câu chữ để tạo ra tên đề tài cho hoàn chỉnh, chứ cái cốt là của mình. Đề cương ít nhất phải có nguồn tài liệu tham khảo mới làm được (hỏi đề cương này làm từ đâu ra, xuất phát từ đâu). Có ý tưởng ban đầu, đọc các sách vở rồi thu hẹp ý tưởng lại thành một vấn đề của đề tài, lúc đó đọc sách thêm (đọc sâu xuống, không đọc rộng ra).

Thứ tư, học môn này để rèn luyện kỹ năng viết đề cương, kỹ năng mình thể hiện cho Hội đồng rằng mình hoàn toàn tường tận với nó. Mình làm ra nó, hơn ai hết mình hiểu nó nhất. Kể cả GVHD cũng nói: cái này em biết nhiều hơn thầy/cô, vì em đọc và nghiên cứu nhiều hơn; GV hướng dẫn chỉ định hướng một cái khung, một cái sườn trong phạm vi một công trình khoa học (vd: từ cấu trúc, chương mục, đặt tên từng chương mục, dùng ngôn từ và câu như thế nào. Họ chỉ gọi tên một mục, nhưng trong đó chứa những thứ mình cần nói, mình thì không thấy gì hết).

Thứ năm, học môn này để thực hành thêm để chúng ta rèn luyện kỹ thuật. Kỹ năng và khả năng sáng tạo của từng người trong việc chọn, viết luận văn, các sản phẩm khoa học. Trong quá trình học, ai đó có kỹ năng sáng tạo (theo chương trình phổ thông mới)

Khoa học lịch sử là khoa học nhân văn

Lý do các bộ sách lịch sử thế giới và Việt Nam chỉ viết đến năm 2000 vì: sau năm 2000 có những vấn đề chưa được thống nhất và còn tranh luận. Ví du chủ nghĩa khủng bố: nhìn thấy khủng bố, súng đạn, định nghĩa "khủng bố", sự kiện "khủng bố ở Mĩ"; nguồn gốc, mầm mống của chủ nghĩa khủng bố, cụm từ "khủng bố" là gì; "chủ nghĩa khủng bố", đi cùng chủ nghĩa khủng bố là "học thuyết âm mưu", "học thuyết khủng bố" để xác định đúng bản chất của chủ nghĩa khủng bố; khủng bố này của lực lượng nào, phe nào. "Chừng nào các sự kiến không còn "nhảy múa" thì lúc bấy giờ mới đưa vào giảng dạy và học tập".

Có hai mảng: khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nhân văn. Lịch sử là khoa học nhân văn

* Phân loại các lĩnh vực nghiên cứu khoa học công nghệ (2008):

- Khoa học tự nhiên: khoa học máy tính và thông tin vật lý, hóa học, khoa học về trái đất (địa lý tự nhiên)

- Khoa học xã hội: tâm lý, kinh tế và kinh doanh, khoa học giáo dục, pháp luật, địa lý kinh tế và xã hội

- Khoa học nhân văn: lịch sử và khảo cổ học, triết học và đạo đức, tôn giáo nghệ thuật, ngôn ngữ và văn học...

Địa lý là khoa học lưỡng tính (tự nhiên, kinh tế và xã hội). Nghiên cứu về kinh tế xã hội một huyện đến 2017 mà xét về phương pháp luận, mốc phân kỳ lịch sử đến 2017 không đúng. Trong phương pháp luận, khi phân kỳ lịch sử từ "mấy" đến "nay"; nhưng "nay" nghĩa là đến đâu ? Dạng đề tài nghiên cứu tình hình kinh tế - xã hội của địa phương không duyệt vì có các báo cáo tổng kết, thường niên của chính quyền sở tại. Sử thuộc về khoa học nhân văn

Khoa học xã hội và khoa học nhân văn khác nhau về gì ? GV chuyên về phương pháp dạy học thì gọi chung là khoa học giáo dục, muốn dạy được phải học các chuyên ngành.

Khi chọn mốc thời gian cho đề tài, nên giới hạn ở mốc cuối - phải trả lời được cho hội đồng tại sao phải chọn mốc cuối (không kéo dài, không thụt lùi) thì em phải biết mốc đó liên quan đến nội dung em nghiên cứu, nó có một điểm nhấn nào, nó có một cái gì nổi bật. Cả địa phương nó làm gì chỉ đến năm đó thì họ mới nổi bật lên được, có những kết quả và thành công ở bước nào đó. thành tích nổi bật nào đó đến năm đó. Em phải lý giải vì sao chọn mốc đó, chọn thời gian đó để dừng lại. Lịch sử địa phương thì chọn mốc kết thúc theo mốc tròn 1 - 2 nhiệm kỳ của Đảng bộ, chính quyền sở tại.

* Khi kết thúc khóa học chuyên sâu và bắt tay vào làm luận văn thạc sĩ thì:

+ Nghiên cứu tài liệu

+ Xác định ý tưởng, đề tài mình muốn làm

+ Xây dựng đề cương

Trong quá trình đó, người song hành với học viên là giảng viên hướng dẫn nên xác định: mình cần gì ở người hướng dẫn ? Mình không biết nên gặp thầy hướng dẫn như thế nào, mình sẽ nói cái gì ?

* Trước khi đưa bản thảo đến gặp thầy hướng dẫn, mình phải có một danh mục các vấn đề, các câu hỏi, các nội dung cần trao đổi với thầy. Hỏi xong thì thầy hỏi ngược lại mình. Chuẩn bị kỹ, đến gặp thầy rồi ngồi đối diện với thầy, trình bày hết mọi thứ cho thầy biết. Thầy nghe hết, sau đó thầy mới hình dung ra. Với kinh nghiệm hướng dẫn của thầy mình thì thầy sẽ nói => ghi chép.

Làm sao để ghi chép được các lời nói của thầy ? Học viên phải chuẩn bị một máy ghi âm, ghi âm hết những gì thầy nói; về nhà bỏ vô máy mở loa ra nghe lại, sau đó chọn tài liệu tham khảo và làm theo hướng của thầy. Ghi âm là một câu chuyện giữa thầy và trò; thầy nói như thế nào mình ghi âm lại hết. Khi đến gặp thầy hướng dẫn cũng như bảo vệ đề cương, phải chuẩn bị mọi thứ;

Khi bảo vệ đề cương, mình trình bày trước hội đồng (có ghi âm). Mình nói hết những cái mình làm được. Các thầy cô ở hội đồng nói thì ghi âm lại hết, về copy vào máy và nghe.

* Cái đề tài mình sẽ chọn thi khi mình xác định giảng viên này sẽ hướng dẫn mình, mình hỏi để đạt yêu cầu cao nhất có thể.

- Mình chủ động chọn đề tài, thì mình cũng thực hiện theo phương án đó và mình cũng có thuận lợi. Thầy hướng dẫn chỉ chuyên sâu một lĩnh vực nào đó, không phải bách khoa toàn thư. Mình chọn đề tài vì mình thích, đam mê với nó nhưng thầy hướng dẫn không am hiểu nhiều thì vấn đề gì xảy ra ? Nếu như mình để thầy chọn đề tài, đặt trọn niềm tin cho thầy và theo chủ hướng của thầy thì vấn đề gì xảy ra ? Khi thầy giao đề tài cho mình thì mình đọc được một đoạn hay cụm tử nào đó. Vì thầy giao nên mình không có chuẩn bị trước, vấn đề gì xảy ra tiếp ? Bắt từ đó mới là bước ngoặt của cuộc nghiên cứu. Có hai trường hợp:

+ Học viên tự chọn đề tài nhưng thầy hướng dẫn lại không sâu thì gặp khó khăn gì. Vd: mình chọn đề tài thì tiếp sau đó sẽ cần gì ở người hướng dẫn. Học viên chọn đề tài thì "hơi khó" đề xuất GVHD. Nếu tìm đúng đề tài mình yêu thích và chọn được thầy cô mình mong muốn thì quá tốt, nhưng không phải ai cũng được như thế. Thầy cô nào cũng hướng dẫn được hết, nhưng sâu lại là chuyện khác (ở DHSP Hà Nội 2 chuyên sâu nhiều mảng lịch sử Việt Nam: cổ - trung đại; cận - hiện đại)

Giả sử như tôi muốn hướng dẫn học viên nào thì tôi cần làm gì cho học viên đó, tôi biết học viên cần gì ở tôi => tình thầy trò (đôi khi có chuyện ngược lại). Ra bảo vệ thì thầy hướng dẫn sẽ có trách nhiệm với học viên; đôi khi thầy la mắng nhiều quá làm giảm động lực làm của học viên.

+ Học viên không chọn đề tài mà thầy giao đề tài cho mình; người giao đề tài cho mình hiểu rất sâu vấn đề đó thì mình sẽ làm theo đích của thầy.

=> đặt ra hai tình huống để học viên có sự chuẩn bị.

Giải quyết tốt quan hệ giữa học viên và thầy hướng dẫn trong nội dung mình nghiên cứu, để rồi tình thầy trò càng gắn bó và thầy hết lòng với trò để trò hiện hết khả năng của mình để còn ra bảo vệ nữa; thầy hướng dẫn phải bênh vực học viên. Thực tế vẫn có thầy cô "bỏ rơi" học viên do học viên chủ động chọn đề tài mà thầy không am hiểu.

* Vì sao phải nghiên cứu khoa học ?

- Mở rộng hiểu biết, đào sâu những hiểu biết về chuyên môn của mình; cập nhật những vấn đề mới trong chuyên môn. Dạy học phải có năng lực chuyên sâu, dạy tốt

- Giải đáp các vấn đề có tính lý luận: trong khoa học lịch sử có những vấn đề mới được công bố, ta sẽ giải quyết trong định hướng và trong đường lối, trong nhận thức; giải đáp những vấn đề mới, những nhận thức mới của khoa học lịch sử.

- Giải quyết, có giải pháp cho các vấn đề trong thực tiễn: đã là lý luận thì phải có giải pháp (giáo dục truyền thống, nâng cao ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ với bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá dân tộc

- Xuất phát từ những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, kinh tế và văn hoá - giáo dục.

* Học phương pháp luận chuyên ngành lịch sử để:

- Nắm vững hệ thống quan điểm phương pháp luận của sử học mác-xít, quan điểm của Đảng ta trong nghiên cứu khoa học lịch sử. Khi viết luận văn phải lựa chọn tài liệu để nghiên cứu kỹ càng vì thông tin đa chiều

- Học tập và nghiên cứu có phương pháp, hiệu quả hơn

- Nghiên cứu sâu các chuyên đề, viết tiểu luận. Nghiên cứu có độ sâu, độ dọc - ngang các vấn đề lịch sử để làm rõ, có cái để nói thêm, nói sâu vào.

- Thực hiện luận văn có phương pháp (bố cục, cách trình bày), có giá trị khoa học. Luận văn có đóng góp về mặt lý luận, thực tiễn; luận văn có những đóng góp mới (đúng thì không có gì mới, mới thì chẳng có gì đúng), đóng góp thì phải có giá trị khoa học và giá trị thực tiễn, cái mới có chính xác hay không, có lồng ghép hay không ?

* Bạn cần gì ở giảng viên hướng dẫn ?

- Là một chuyên gia trong lĩnh vực bạn đã chọn (Gvhd sẽ hướng dẫn trên đề tài đã có, hoặc đề tài học viên chọn)

- Có uy tín cao trong học thuật và lĩnh vực

- Sẵn sàng hợp tác và thúc đẩy công việc của bạn tại hội nghị, hội thảo và tương tự: khi làm luận văn thì thầy hướng dẫn sẽ có những gợi ý (thầy lắng nghe và chia sẻ với học trò) để thúc đẩy công việc của học trò. Mình chưa biết hội thảo nào có liên quan đến đề tài của mình nên mình thiếu thông tin; hoặc trong thời gian mình làm thì không có hội thảo, hội nghị chuyên sâu tổ chức liên quan đến đề tài mình đang nghiên cứu thì thầy sẽ cho thông tin, tài liệu hội thảo để tham khảo. Chương trình đào tạo cao học là 60 tín chỉ, trong đó có 10 tín chỉ là làm luận văn. Trong suốt thời gian học thì ít nhất phải tham dự một hội thảo/hội nghị; ở đó chúng ta có cơ hội tiếp xúc với các thầy cô nên biết: thầy này uyên thâm ở cái này, thầy kia nghiên cứu một mảng rất sâu liên quan gần hết đề tài mình nghiên cứu. Thông qua hội thảo, mình xin số dt của thầy để nhờ thầy hỗ trợ thêm cho đề tài của mình - muốn đến với thầy để tìm hiểu và nghiên cứu (thầy nào cũng muốn nghiên cứu của mình được thế hệ sau trích dẫn, thầy nào cũng muốn có nhiều học trò; ai được nhiều người quan tâm thì đó mới là nhà khoa học). Nếu không có hội thảo thì mình làm việc với thầy để thầy hỗ trợ, học trò phải cố gắng vì đó là công việc. Thầy sẽ kiếm các hội thảo liên quan đến đề tài của mình, mình đăng ký tham gia và báo với thầy (học viên viết, thầy sửa và hai thầy trò cùng đứng tên trong bài). Có bài tham gia hội thảo thì mình đưa vào luận văn của mình (các công trình công bố liên quan đến luận văn - công bố bài ở hội thảo này, tạp chí này thì có điểm tuyệt đối ở luận văn - luận văn mặc dù chưa hay, nhưng có hai bài báo nghiên cứu thì đạt điểm tối đa - có công bố kèm theo luận văn => giá trị khoa học ở chỗ đó).

- Có kinh nghiệm hướng dẫn trước đây

- Có quan tâm đến chủ đề bạn chọn

- Có thể cung cấp cơ sở nghiên cứu (định hướng đề tài, đủ tư liệu)

- Có sẵn sàng "chiến đấu" với đề tài của bạn hay không

- Bạn được kết nối và gia nhập vào một nhóm nghiên cứu

Chương 1: Khoa học và bản chất của nghiên cứu khoa học

1.1. Khoa học là gì ?

Có nhiều khái niệm về khoa học:

* Khoa học là một hệ thống tri thức, bao gồm các khái niệm, phạp trù, quy luật, các phương pháp nhận thức

- Tri thức gồm hai loại: tri thức thông thường và tri thức khoa học:

+ Tri thức thông thường: là hệ thống tri thức được hình thành từ cuộc sống và hoạt động lao động hàng ngày (đun nước, thổi cơm...). Những hiểu biết này rất cần thiết và quan trọng nhưng nó mang tính tự phát, riêng lẻ; mang tính chất kinh nghiệm rút ra từ sự tri giác trực tiếp và hạn hẹp của cá nhân

+ Tri thức khoa học: bao gồm mọt hệ thống tri thức từ tự nhiên - xã hội và tư duy có cấu trúc logic chặt chẽ. Đây không phải kết quả của sự thu hoạch do ham hiểu biết của cá nhân mà là kết quả hoạt động của toàn thế giới loài người. Ngay ở mức độ thấp, tri thức khoa học được hình thành phải dựa vào chỉ đạo của quan điểm lý thuyết. Bất cứ tri thức khoa học nào cũng rút ra từ các khái niệm, phạm trù, lý thuyết nào đó và có thể suy ra những tri thức khác.

Nếu chỉ dựa vào những tri thức thông thường thì tri giác được những hiện tượng bề ngoài, không thể xây dựng được những mô hình và lý thuyết bên trong giúp cho việc nhận thức được những thuộc tính bản chất, những đặc điểm bên trong, những quy luật và tính chất phổ biến của sự vật - hiện tượng: muốn nhận thức lịch sử thì chúng ta có các con đường => cuối cùng chúng ta tìm ra cái gì trong nhận thức lịch sử, cái đích đó chính là chân lý, giải đáp được những vấn đề đặt ra cho lịch sử. Giải đáp được chính là chúng ta tìm ra cái bên trong (thuộc tính, bản chất) của lịch sử, nhìn thấy các quy luật vận động và phát triển của lịch sử. Câu hỏi "vì sao" để trả lời cho bản chất, quy luật vận động của lịch sử, sự phát triển của lịch sử tự nhiên đúng như nó đang diễn ra, có giải pháp giải quyết các vấn đề thực tiễn. Con đường nhận thức phải đi từ sự kiện lịch sử (phân tích, xâu chuỗi, sắp xếp, trình bày các sự kiện lịch sử) trở lên. Mỗi sự kiện là một hiện tượng lịch sử để nhận thức ra vấn đề; phạm trù là nói đến bản chất. Bằng các phương pháp khác nhau, lượng thông tin khác nhau nên chúng ta mới khái quát hoá, trừu tượng hoá, rút ra bài học, quy luật lịch sử. Khi có cả hệ thống phương pháp thì đó là khoa học

=> Như vậy:

+ Tri thức khoa học và tri thức thông thường có mối liên hệ với nhau rất chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau nhưng khác nhau về chất: Chúng ta có hai phương pháp trong nghiên cứu lịch sử là phương pháp lịch sử, phương pháp logic (hai phương pháp chủ đạo) - phải biết sắp xếp, xâu chuỗi và đặt nó trong mối quan hệ để người khác hiểu: biết dẫn dắt thông tin/vấn đề này để cuối cùng đi đến khẳng định như thế này. Sự kiện cung cấp thông tin (thông tin này là một sự kiện lịch sử, một vấn đề, một nhận định lịch sử chính xác); thông tin đó mình phải nhàu nặn, xâu chuỗi để trở thành kiến thức; từ kiến thức mình mới khái quát lên thành tri thức khoa học. Dạy học phải xác định kiến thức quan trọng, kiến thức trọng tâm để khắc hoạ cho học trò hiểu kiến thức trọng tâm đó, hiểu rồi có vận dụng gì được không. Dạy học chương trình mới thì họ quan tâm: học sinh vận dụng từ quá khứ rút ra bài học gì trong cuộc sống tương lai - năng lực thể hiện trong quá trình dạy học trò, hướng dẫn học trò tham gia hoạt động, cách học sinh học bài ở nhà, năng lực ứng xử ở ngoài xã hội (hành vi, ứng xử) - lấy từ bài học của sách vở mang ra thực tế (làm được gì, học được gì qua bài học, sách vở cho bản thân học sinh)

+ Tri thức khoa học và tri thức thông thường đều phản ánh chân lý khách quan. Nhung tri thức khoa học là sự khái quát hóa tri thức thông thường và làm cho những tri thức thông thường được hoàn thiện hơn.

* Khoa học là một hình thái ý thức xã hội: toàn bộ cuộc sống loài người gồm vật chất (tồn tại xã hội) và tinh thần (ý thức xã hội). Có các hình thái ý thức xã hội khác nhau: đạo đức, khoa học, nghệ thuật... tùy thuộc vào mục đích, bản chất và phương pháp phản ánh sự tồn tại của xã hội/

Theo Phạm Viết Vượng, khoa học là hệ thống tri thức về tự nhiên, xã hội, tư duy; được hình thành trong lịch sử và phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội.

* Bản chất: khoa học là sự hiểu biết của loài người về thế giới tự nhiên; sự phát sinh, phát triển và diệt vong của nó cũng như các quy luật của tự nhiên, xã hội, tư duy.

1.2. Bản chất của hoạt động nghiên cứu khoa học

a. Định nghĩa: nghiên cứu khoa học là

+ hoạt động có ý thức của con người nhằm khám phá những bản chất, quy luật và thuộc tính của thế giới tự nhiên và xã hội

+ quá trình áp dụng các ý tưởng, các nguyên lý và phương pháp khoa học nhằm tìm ra kiến thức mới để mô tả, giải thích hay dự báo các sự vật - hiện tượng trong thế giới khách quan

Nghiên cứu mô tả, nghiên cứu dự báo, nghiên cứu giải thích... là một trong những dạng nghiên cứu. Viết luận văn phải suy nghĩ viết cái gì. Làm đề tài này chừa ra một số cái để khai thác, tức là vẫn còn cái mới để tiếp tục triển khai ở luận án tiến sĩ; chừa sới một cái khác để còn có cái phân tích tiếp. Làm cái mới để tăng giá trị khoa học, phục vụ hữu ích cho công việc của hội viên sau này.

+ là một hoạt động nhận thức của con người (quá trình tư duy) nhằm nhận thức thế giới (khám phá bản chất của sự vạt - hiện tượng) tạo ra hệ thống tri thức có giá trị và tìm kiếm giải pháp nhằm cải tạo thế giới: Làm luận văn phải có cái gì mới, cái gì khoa học, cái gì giá trị (cái khoa học, cái thực tiễn) => hướng đến công bố mới, công bố khoa học.

b. Mục đích của nghiên cứu khoa học

- Nhận thức thế giới

- Cải tạo thế giới

c. Chức năng của nghiên cứu khoa học

- Mô tả về bản chất của sự vật - hiện tượng nhằm đưa ra hệ thống tri thức về sự vật - hiện tượng giúp con người phân biệt giữa sự vật - hiện tượng này với sự vật - hiện tượng khác. Có hai dạng là mô tả định tính (đặc điểm, bản chất của sự vật - hiện tượng) và mô tả định lượng (bảng số liệu)

- Giải thích: làm rõ nguyên nhân dẫn đến sự hình thành quy luật chi phối quá trình vận động của sự vật - hiện tượng

- Dự báo: nhìn thấy trước quá trình hình thành và tiêu vong, sự vận động và những biểu hiện của sự vật - hiện tượng trong tương lai.

- Sáng tạo là tìm ra sự đầu tự mới lạ chưa từng biết đến vì bản chất của nghiên cứu khoa học là tìm ra cái mới (tùy yêu cầu và trình độ nghiên cứu). Vì vậy, ở mức độ và ý nghĩa khác nhau của nghiên cứu khoa học là đi đến phát hiện ra cái mới, không có cái mới không thể gọi là nghiên cứu khoa học. Trong 6 bậc thang nhận thức của học tập thì nhận thức sáng tạo là bậc cao nhất (biết - hiểu - vận dụng - phân tích - đánh giá - sáng tạo). Dạy học quan tâm đến bậc sáng tạo gồm có: dạy học phải tổ chức cho sáng tạo, học trò sáng tạo trong định hướng của giáo viên. Muốn khơi niềm sáng tạo cho học sinh thì giáo viên phải có vốn và khiếu => phương pháp "học sinh trở thành các nhà sử học tí hon" (đóng vai).

d. Những tố chất của nghiên cứu khoa học:

- Có kiến thức về lĩnh vực nghiên cứu

- Có đam mê nghiên cứu, khám phá và tìm tòi cái mới

- Có trung thực, khách quan về khoa học (đạo đức khoa học)

- Biết cách làm việc độc lập, tập thể và có phương pháp

- Liên tục rèn luyện kỹ năng nghiên cứu (cách viết, cách sưu tầm tài liệu, cách tìm kiếm thông tin, cách xâu chuỗi kết nối tư liệu...), công bố nghiên cứu phải có cái mới; nghiên cứu tường minh để rút ra các bài học lịch sử

- Có trách nhiệm, dấn thân

Ngoài ra có một số người có những tố chất riêng biệt

* Luận văn:

- Phải viết được, viết đúng; còn các kỹ thuật khác sẽ có quy định (trích dẫn, danh mục tài liệu - theo bố cục luận văn); làm mỗi kiểu bài sẽ viết như thế nào. Luận văn có 6 - 8 mục (theo quy định)

- Luận văn sẽ phải tính đến:

+ cách trình bày thật tốt

+ biết viết cái gì để đảm bảo tính Đảng

1.3. Một số loại hình nghiên cứu khoa học hàn lâm

- Nghiên cứu cơ bản

- Nghiên cứu ứng dụng

- Nghiên cứu triển khai

- Nghiên cứu dự báo

Bốn loại hình nghiên cứu này phân loại theo:

* Theo chức năng:

+ Nghiên cứu mô tả: đưa ra một hệ thống tri thức để dự báo, phân biệt giữa các sự vật với nhau

+ Nghiên cứu giải thích: làm rõ nguyên nhân hình thành, các quy luật chi phối quá trình vận động của sự vật

+ Nghiên cứu giải pháp: làm ra một sự vật mới chưa từng tồn tại

+ Nghiên cứu dự báo: nhận dạng các sự vật trong tương lai

* Theo giai đoạn: có nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu vận dụng và nghiên cứu triển khai

+ Nghiên cứu cơ bản: để phát hiện ra thuộc tính, cấu trúc, động thái sự vật. Sản phẩm là khám phá, phát hiện, phát minh dẫn đến một hệ thống lý thuyết có giá trị. Có hai loại là nghiên cứu cơ bản thuần tuý (nghiên cứu bản chất sự vật để nâng cao nhận thức) và nghiên cứu cơ bản định hướng (dự kiến trước mục đích ứng dụng)

+ Nghiên cứu ứng dụng: vận dụng quy luật của nghiên cứu cơ bản để giải thích sự vật, tìm ra nguyên lý mới và giải pháp mới để ứng dụng trong sản xuất và đời sống. Theo nghĩa rộng, "giải pháp" về giải pháp công nghệ, giải pháp tổ chức. Kết quả ứng dụng thì chưa sử dụng được mà phải tiến hành "nghiên cứu triển khai"

+ Nghiên cứu triển khai: vận dụng lý thuyết đưa ra các hình mẫu. Triển khai gồm: tạo vật mẫu (tạo trước sản phẩm mẫu), tạo công nghệ (tìm kiếm, thử nghiệm công nghệ để ra sản phẩm theo mẫu), sản xuất loạt nhỏ (kiểm chứng độ tin cậy của công nghệ trên quy mô nhỏ)

Nghiên cứu khoa học lịch sử là loại hình nghiên cứu cơ bản và không khi nào là đúng hết

* Sản phẩm khoa học: trong mọi trường hợp, sản phẩm của nghiên cứu khoa học là thông tin. Sản phẩm gồm: luận điểm (được chứng minh hoặc bác bỏ), luận cứ (để chứng minh luận điểm), luận chứng (dùng các phương pháp chứng minh một luận cứ để xác định quan hệ giữa luận cứ và luận điểm, quan hệ giữa các luận cứ với nhau)

+ Luận điểm (luận đề): trả lời cho câu hỏi "cần chứng minh điều gì ? Luận điểm là một giả thuyết hoặc phán đoán cần được chứng minh. Để chứng minh một luận điểm thì người ta đưa ra các luận cứ; luận cứ gồm thu thập thông tin, tài liệu tham khảo, quan sát và thực nghiệm (với học sinh là các mức độ nhận thức; với nhà khoa học là chứng minh một phán đoán, giả thuyết)

+ Luận cứ: trả lời câu hỏi "chứng minh bằng cách gì ? Có hai loại luận cứ cơ bản: luận cứ lý thuyết (gồm các lý thuyết, định đề, định luật... được xác nhận là đúng. Luận cứ lý thuyết được xem là cơ sở lý luận), luận cứ thực tiễn (dựa trên số liệu thu thập, quan sát và làm thực nghiệm). Trong khoa học lịch sử nên sử dụng luận cứ về mặt quan điểm và đường lối của Đảng, thành tựu mới của khoa học lịch sử.

+ Luận chứng: để chứng minh một luận điểm. Các nhà khoa học phải có phương pháp để xác định mối quan hệ giữa các luận cứ với nhau và giữa luận cứ với luận điểm; trả lời cho câu hỏi "chứng minh bằng cách nào ?" - cách thức, con đường đạt đến mục đích nghiên cứu. Đọc thông tin thì phải phân biệt cái nào chính thống, cái nào không chính thống; phần trích dẫn của người khác thì phải đọc kỹ

=> Có đủ luận đề, luận cứ phong phú thì bạn phải có lập luận, xâu chuỗi, tổng hợp, đối sánh, đứng trên một hệ quan điểm chỉ đạo chung

e. Các nguyên tắc trong nghiên cứu khoa học

- tính sáng tạo

- tính đam mê

- tính trung thực, chuẩn xác, khách quan

- tính chủ quan của nhà nghiên cứu

- tính mới

- tính khoa học

- tính cá nhân

Chương 2. Khoa học Lịch sử và nhận thức về phương pháp luận nghiên cứu khoa học Lịch sử

2.1. Khoa học Lịch sử là gì?

a. Lịch sử là:

Thứ nhất, lịch sử dùng để chỉ quá trình lịch sử khách quan xảy ra trong xã hội loài người. Đó là hiện thực lịch sử

Thứ hai, lịch sử là những hiểu biết của con người về những gì đang xảy ra, được ghi lại bằng lời nói hoặc các câu chuyện dân gian, văn tự dẫn tới sự ra đời của khoa học

"Các kết luận của công trình nghiên cứu chỉ đúng đắn khi chúng được dựa trên nền tảng toàn bộ các sự kiện chính xác không thể chối cãi và được sắp xếp trong sự toàn vẹn của chúng, trong mối liên hệ và phụ thuộc khách quan của chúng"

Khoa học lịch sử ra đời trên sự hiểu biết của con người thông qua việc miêu tả, khôi phục lại quá khứ và phát hiện bản chất của sự vật - hiện tượng, phát hiện ra những quy luật phát triển chung của lịch sử. "Hiện thực lịch sử" và "nhận thức lịch sử" có quan hệ chặt chẽ với nhau - không có hiện thực lịch sử thì không có nhận thức lịch sử, nhận thức lịch sử phù hợp với hiện thực lịch sử thì mới có khoa học lịch sử.

2.2. Các phương pháp chung nghiên cứu khoa học Lịch sử

Mỗi khoa học có phương pháp luận chuyên ngành riêng, có hệ thống quan điểm và phương pháp nghiên cứu học tập riêng. Muốn hiểu đúng đắn lịch sử phải có phương pháp đúng đắn.

Nghiên cứu khoa học mang tính khoa học và tính Đảng - nếu không sẽ không phản ánh hết, nhiễu loạn thông tin (tô hồng - bôi đen), thông tin sai sự thật. Viết luận văn phải có lập trường, quan điểm, chính kiến của mình, hệ tư tưởng, phương pháp luận - rút ra nhận định, đánh giá, kết luận về vấn đề đó của các trường phái của các sử gia; mình viết ra cho người đọc nhìn ra từ nhiều khía cạnh, góc cạnh màu sáng - tối khác nhau. Hồ Chí Minh là bậc thầy về sử dụng linh hoạt phương pháp lịch sử và phương pháp logic với hiện thực lịch sử là nền cai trị của thực dân Pháp.

Nghiên cứu khoa học là một hoạt động nhận thức của con người (quá trình tư duy) nhằm nhận thức thế giới (khám phá bản chất của sự vật - hiện tượng) tạo ra hệ thống tri thức có giá trị và tìm kiếm giải pháp cải tạo thế giới. Nghiên cứu khoa học lịch sử là quá trình nhận thức hiện thực khách quan.

Theo sơ đồ nghiên cứu khoa học lịch sử: hiện thực lịch sử => sử liệu => nhà sử học => nhận thức lịch sử: nhà sử học muốn nghiên cứu lịch sử để có các công trình lịch sử. "Các công trình lịch sử được kết luận thì phải đạt đến sự chính xác, sự khách quan và phản ánh đúng hiện thực lịch sử" (Lenin); tất cả những thông tin về quá khứ gọi là "sử liệu", dùng các phương pháp nghiên cứu đặc trưng ra các công trình phục vụ cho hậu thế. Nếu lịch sử nghiên cứu một lần mà đúng hết thì nhà sử học không có gì để làm, nguồn sử liệu không dễ để tìm thấy đủ mà phản ánh hết được. Sử liệu là khâu trung gian, là cầu nối giữa nhà sử học với hiện thực lịch sử khách quan; không có đủ sử liệu thì không khái quát được, không rút ra được bài học, không thấy ý nghĩa và giá trị của bài học lịch sử. Về cách tìm tài liệu cho viết luận văn, nhà sử học kiếm các tài liệu thành văn.

Lịch sử hay khoa học lịch sử là những ngành nghiên cứu về kết quả - cái đã xảy ra. Vì vậy, ta phải đặc biệt quan tâm đến các nguồn sử liệu. Ví dụ: một sự kiện lịch sử có trong các nguồn sử liệu; hay nói cách khác là có rất nhiều nguồn sử liệu phản ánh sự kiện lịch sử. Chúng ta phải sử dụng nguồn sự liệu gần với sự kiện lịch sử nhất thì tính xác thực sẽ rất cao. Càng sử dụng nguồn sử liệu phong phú, đa dạng bao nhiêu thì chúng ta càng dễ dàng khôi phục nhanh chóng sự kiện lịch sử bấy nhiêu; tất nhiên việc khôi phục này chỉ mang tính tương đối.

Nghiên cứu lịch sử mà không có sử liệu thì chẳng khác nào “bắt giặc bằng tay không” vì vậy việc nghiên cứu sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Nghiên cứu lịch sử ở góc độ nào thì cũng phải đặt vào hoàn cảnh lịch sử của góc độ đó. Do nhà sử liệu rất cần nhiều nguồn sử liệu nên chúng ta phải so sánh, phân tích và chọn lọc; hai nhà sử học khác nhau sẽ có cách tiếp cận khác nhau, do vậy phải sử dụng rất nhiều nguồn sử liệu.

* Các nguồn sử liệu chính là môi trường nhận thức lịch sử: Thực vậy, sự đóng góp của nhà sử học và tác phẩm của họ được đánh giá trên hai phương diện: Một là, từ những nguồn sử liệu mà người đó sử dụng trong tác phẩm của mình; hai là, từ cách xử lý sử liệu để đưa ra kết luận nhằm hướng dẫn cách nhận thức lịch sử. Trong hai phương diện này thì sử liệu là cơ sở và mang tính khách quan, còn phương pháp xử lý sử liệu là mang tính chủ quan và là yếu tố cho thấy phương diện tư duy của nhà sử học. Nếu thiếu nguồn sử liệu thì bạn sẽ đặt ra nhiều câu hỏi: có nhiều thông tin không ? nhận thức được sự kiện lịch sử không ? đánh giá được sự kiện lịch sử không ? khôi phục được quá khứ không ?

Lưu ý: nhà nghiên cứu sẽ đọc các tài liệu để tìm ra tên đề tài, sau đó phác thảo bố cục; vì hội đồng sẽ không đọc hết luận văn của mình đâu. Việc xử lý sử liệu để đưa ra kết luận cuối cùng là một việc làm rất khó, đòi hỏi phải sưu tầm nhiều sử liệu. Nếu muốn sử dụng tài liệu của người khác thì phải chép nguyên si đoạn đó và bỏ trong ngoặc kép (trích dẫn). Nghiên cứu lịch sử không phải là chất đống sử liệu mà là phải biết xử lý sử liệu, đồng thời phải nhận thức được và biết đánh giá nguồn sử liệu. Sử liệu là cầu nối song song giữa sự kiện lịch sử với nhà sử học và một sự kiện lịch sử được phản ánh trong nhiều nguồn khác nhau

Sử liệu bao trùm hết toàn bộ sự kiện thì giới hạn của sử liệu và giới hạn của sự kiện lịch sử là một => đó là sự trùng hợp lý tưởng. Trên thực tế, không một nhà sử học nào phải đợi đến khi thu thập toàn bộ sử liệu liên quan đến sự kiện lịch sử rồi mới nghiên cứu; sự kiện càng cách xa thời đại được nghiên cứu bao nhiêu năm thì điều đó càng khó đạt được bấy nhiêu. Bởi vậy, nhà nghiên cứu sẽ nghiên cứu với những gì có được trong tay. Có bao nhiêu nguồn sử liệu thì nhận thức được bấy nhiêu, đánh giá được lịch sử một cách chính xác hơn; phải xử lý sử liệu chứ không phải sao chép nguyên si.

* Khi dạy học cho học sinh theo hướng phát triển năng lực phải chú ý các năng lực sau: (1) tìm tòi: đọc nội dụng lịch sử để biết sự kiện lịch sử đó; (2) tư duy: để nhận thức lịch sử (hiểu); (3) vận dụng: liên hệ vào cuộc sống. Để đánh giá được năng lực học sinh thì dùng các phương pháp sau: đồ dùng trực quan, đặt câu hỏi nhận thức (đặt vấn đề), sử dụng nguồn sử liệu gốc, học sinh đóng vai trò là “nhà sử học” để nghiên cứu về vấn đề đó trong sách giáo khoa để nhận thức lịch sử, hoá thân thành nhân vật lịch sử…

Lenin nói: “Cái kết luận của các công trình, nghiên cứu chỉ đúng đắn khi chúng được dựa trên nền tảng toàn bộ các sự kiện lịch sử chính xác không thể chối cãi được và được sắp xếp trong sự toàn vẹn của chúng, trong mối liên hệ và lệ thuộc vào kết quả của chúng” Vậy làm thế nào để nhận thức lịch sử mà không bị hạn chế bởi tính hệ thống của sử liệu

Khi thiếu thốn sử liệu, nhà nghiên cứu không thể dùng cách "tư biện lịch sử", vì tư biện lịch sử thực chất là coi thường lịch sử và chúng ta có quyền mô tả lịch sử theo ý muốn của mình.

Phương pháp nghiên cứu luôn tìm thấy chỗ dựa trong các nguồn sử liệu; tính chất của nguồn sử liệu làm sáng tỏ con đường và nhiệm vụ nghiên cứu.

Việc lựa chọn các sử liệu điển hình và xem xét các quan hệ giữa các loại tài liệu với nhau và các sự kiện được nghiên cứu là cần thiết để nhà nghiên cứu không sa vào những chi tiết không cần thiết nhưng cũng không quên đi những khía cạnh sâu sắc, có tính bản chất của vấn đề

a. Sử liệu:

- Theo GS Hà Văn Tấn, "sử liệu" là mọi nguồn nhận thức lịch sử, tức là mọi thông tin về quá khứ xã hội; bất kỳ chúng nằm ở đâu cũng có những thông tin để truyền đạt"

- Trong nghiên cứu lịch sử, các nhà khoa học phải thu thập thông tin từ hai nguồn chính: (1) thông tin từ quá khứ là những thông tin nằm trong sử liệu

* Về phân loại nguồn sử liệu, có các cách phân loại sau:

+ Phân loại theo đặc trưng có hai loại: sử liệu thành văn và sử liệu không thành văn

+ Phân loại theo đặc trưng phản ánh có các loại: sử liệu trực tiếp và sử liệu gián tiếp

+ Phân loại theo loại hình thì có 6 loại: sử liệu truyền miệng, sử liệu chữ viết, sử liệu vật thật, sử liệu ngôn ngữ học, sử liệu dân tộc học, sử liệu phim ảnh, ghi âm

* Thông tin từ hiện tại là những tri thức chung của chúng ta (vốn tri thức phong phú cho nghiên cứu lịch sử). Thiếu một mặt nào làm ảnh hưởng đến kết quả và chất lượng nghiên cứu; vì nếu chỉ có những thông tin sự kiện thôi thì chúng ta không biết gì để nghiên cứu. Có các giai đoạn nghiên cứu: đề tài => phê phán sử liệu => khôi phục sự kiện => giải thích sự kiện => giải đáp toàn bộ

Bước 1: sau khi thu thập dữ liệu thì phải tiến hành phân loại và phân tích sử liệu; phân tích đánh giá, giám định, đối sánh các nguồn sử liệu khác nhau và lấy thông tin ở chỗ nào để rút ra những thông tin xác thực để sử dụng cho bài nghiên cứu của mình. Nó bao gồm các bước: phê phán sử liệu với mục đích phát hiện ra những thông tin đáng tin cậy; phục dựng lại hiện thực lịch sử dựa trên các dữ liệu, thông tin có được; đồng thời phê phán sử liệu tương đồng với quá trình nghiên cứu, so sánh sử liệu và bằng cách đó, dùng tư liệu này để kiểm chứng tư liệu khác - mục đích chính của phê phán sử liệu chính là xác định độ tin cậy của sử liệu

Bước 2: khôi phục sự kiện chính là trả lời câu hỏi - cái gì đã xảy ra.

Bước 3: sau khi khôi phục được sự kiện lịch sử thì đòi hỏi chúng ta phải biết giải thích sự kiện lịch sử, tức là trả lời câu hỏi - vì sao lại như vậy ?

2.3. Các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành

- Phương pháp lịch sử: là những phương pháp cho tất cả các khoa học xã hội thích ứng với đặc thù và nhiệm vụ của khoa học lịch sử; đó là những phương pháp riêng của nhận thức lịch sử; đồng thời đó là những phương pháp lấy từ các ngành khoa học khác đã trở thành phương pháp chung cho các khoa học, cho các ngành khoa học. Phương pháp lịch sử giúp xem xét và trình bày các quá trình phát triển của các sự vật, hiện tượng theo một trật tự liên tục và nhiều mặt, có trước có sau, trong mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng khác nhau. Khi miêu tả một sự vật hoặc hiện tượng lịch sử chúng ta phải sử dụng nhiều nguồn sử liệu khác nhau; một sự kiện lịch sử có thể nắm ở nhiều nguồn sử liệu. Nhà nghiên cứu phải biết nguồn sử liệu ở đâu để khai thác phục vụ cho việc dạy học cũng như nghiên cứu lịch sử. Hiện nay, hạn chế lớn nhất của dạy học lịch sử là thiếu tính sinh động nên người dạy phải dùng phương pháp trực quan sinh động (quy ước đơn giản, hiện vật, tạo hình); khi nào sử dụng nhóm nào tuỳ thuộc vào tài năng của các giáo viên - nên với câu "phương pháp lịch sử là phương pháp làm cho lịch sử sinh động ", làm được điều này mới khiến cho học sinh hứng thú được

* Đặc trưng của phương pháp lịch sử:

+ Tuân thủ nguyên tắc niên biểu: sự kiện lịch sử dù lớn hay nhỏ đều phải có mở đầu và kết thúc. Sự kiện lịch sử nằm trong nguồn sử liệu giúp rút ra được quy luật và bài học lịch sử. Muốn rút ra được bài học lịch sử thì phải hiểu được quá trình của sự kiện lịch sử, thấy được tính liên tục trong vận động, phát triển của hiện tượng cần nghiên cứu và từ đó mới có thể rút ra được tính chất, đặc điểm và xu hướng, quy luật vận động của chúng (ở phần luận văn, người ta sẽ chú ý phần mở đầu, đóng góp và kết luận)

+ Làm rõ được sự phong phú, muôn hình muôn vẻ của sự vận động và phát triển của lịch sử; phải nghiên cứu một cách tỉ mỉ, công phu; phải xem xét các mặt biểu hiện của nó, không được đơn giản và không được cắt xén làm cho sự kiện lịch sử trở nên đơn điệu, tẻ nhạt. Lenin có nói: "lịch sử bao giờ cũng phong phú về nội dung, cũng đa dạng về nhiều mặt, cũng sinh động hơn điều mà chúng ta hình dung được".

+ Phải bám sát và phản ánh đúng các bước phát triển quanh co, thậm chí là thụt lùi tạm thời của lịch sử; bởi vì trong sự phát triển phong phú và muôn vẻ của xã hội loài người không phải là con đường thẳng, mà là các bước phát triển quanh co, khó khăn... Tái hiện phải trung thực, phản ánh đúng tiến trình vận động của nó, không được tuỳ tiện lược bỏ những hạn chế và cả những bước thụt lùi; chỉ có được như vậy mới rút ra được những bài học lịch sử bổ ích

+ Vận dụng phương pháp lịch sử trong nghiên cứu cần chú ý nêu rõ địa điểm, thời gian xảy ra sự kiện lịch sử, con người đã tham gia vào sự kiện, hiện tượng đó; bởi vì các yếu tố này là những dấu ấn quan trọng của lịch sử. Nó đảm bảo được tính khách quan, xác thực trong tái hiện lịch sử, nhất là khi trình bày các sự kiện tiêu biểu, bước ngoặc của lịch sử.

- Phương pháp logic: là phương pháp xem xét, nghiên cứu các sự kiện lịch sử dưới dạng tổng quát, nhằm vạch ra bản chất, khuynh hướng tất yếu, quy luật vận động của lịch sử khách quan được nhận thức. Khác với phương pháp lịch sử, phương pháp logic không đi sâu vào toàn bộ diễn biến hoặc các bước quanh co, bỏ qua các ngẫu nhiên có thể xảy ra mà nắm lấy bước phát triển trọng yếu, nắm lấy cái cốt lõi của sự phát triển, tức là nắm lấy quy luật lịch sử. Trên cơ sở diễn biến của lịch sử thì việc khái quát logic mới có căn cứ; vì nếu tách khỏi diễn biến lịch sử sẽ dẫn đến những tư duy trừu tượng và những nhận xét chung chung, những kết luận sai lệch. Do vậy người nghiên cứu cần tránh sự hời hợt trong nghiên cứu, phân tích để rồi rút ra các kết luận một cách vội vã, những kết luận nông cạn và thậm chí là sai lệch; đồng thời tránh việc khái quát thiếu hẳn các sự kiện, hiện tượng lịch sử làm cơ sở cho kết luận; hơn nữa tránh định kiến mà nên coi các luận điểm khoa học là phương tiện, công cụ của tư duy logic, chứ không phải cái có sẵn để định hình lịch sử theo ý muốn chủ quan của người nghiên cứu.

Giải thích cho tính thống nhất giữa hai phương pháp này, Angghen đã viết: "Về bản chất, phương pháp logic không phải là cái gì khác mà chính là phương pháp lịch sử đã được giải thoát khỏi hình thức lịch sử, không bị phụ thuộc vào cái hoàn cảnh ngẫu nhiên, pha trộn...; phương pháp logic hoàn toàn không đóng khung trong phạm vi trừu tượng thuần tuý. Trái lại, nó đòi hỏi phải có sự minh hoạ lịch sử". Trên cơ sở phương pháp logic là phân tích khoa học biện chứng sự phát triển thực tế của sự kiện lịch sử, thì sự kết hợp giữa phương pháp logic với lịch sử là một nguyên tắc phương pháp luận của sử học macxit. Bởi lẽ muốn hiểu được bản chất và quy luật của sự kiện lịch sử thì phải hiểu được sự phát sinh và phát triển của nó. Chỉ có nắm được bản chất và quy luật của sự kiện thì mới nhận thức được lịch sử một cách đúng đắn.

2.4. Các phương pháp riêng trong nhận thức lịch sử

2.4.1. Phương pháp so sánh lịch sử

- Phương pháp lịch đại: phương pháp này cho phép nghiên cứu quá khứ lần theo các giai đoạn phát triển trước kia của nó. Dựa theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lenin về sự thống nhất trong hiện tại, quá khứ và tương lai; quan niệm biện chứng cho rằng trong mỗi quá trình phát triển mỗi giai đoạn tiếp sau đều mang trong mình nó những đặc điểm và những yếu tố của giai đoạn trước. Trong luận văn, đề tài là lịch đại và trong đề tài luôn có sự so sánh sự giống và khác biệt giữa hai giai đoạn trước và sau; đặc biệt sử dụng các thông tin, dữ liệu và nguồn của giai đoạn trước để trả lời câu hỏi "như thế nào ?". Giai đoạn này tại sao nổi bật ? Giai đoạn trước luôn là tiền đề, xuất phát điểm cho giai đoạn sau; làm kỹ để trả lời câu hỏi "tại sao chọn giai đoạn này mà không chọn giai đoạn khác ? để từ đó cho ra đời những thông tin khoa học, bức tranh hiện thực khách quan (đọc để thấy rõ công lao, đóng góp ở giai đoạn này; dự đoán tương lai). Trong phạm vi nghiên cứu, tôi chọn giai đoạn này để nghiên cứu vì (tôi chỉ ra) nhằm khắc hoạ bức tranh hiện thực, vạch ra những chiến lược cho giai đoạn sau (hy vọng). Trong lịch sử nghiên cứu vấn đề, phải có những bức: khái quát (nguồn tư liệu), cơ sở nền tảng như thế nào để hình thành kiến thức, làm rõ cái gì ?

Trong dạy học phát triển năng lực, giáo viên hình thành các năng lực sau cho học sinh: tìm tòi, phát hiện, tư duy nhân thức, vận dung liên hệ

- Phương pháp đồng đại: phương pháp này mở ra khả năng nhận thức rộng lớn. Thực chất của nó là xác định các hiện tượng, quá trình khác nhau xảy ra ở cùng một thời điểm (có liên quan đến nhau). Phương pháp này giúp chúng ta bao quát được toàn vẹn và đầy đủ quá trình lịch sử; so sánh được cái gì đã xảy ra trong cùng một thời gian, ở mỗi nước khác nhau, mỗi vùng khác nhau trong cùng một nước, ở các tổ chức đảng khác nhau, cùng như so sánh các quá trình có tính chất khác nhau trên cùng một lãnh thổ.

2.4.2. Phương pháp phân tích so sánh: phương pháp này là sự hỗ trợ cần thiết làm nổi bật tính thống nhất giữa lịch sử và logic. Đó là sự so sánh giữa đối tượng này với đối tượng khác trong những điều kiện và hoàn cảnh xác định chi phối chung; cho phép nhìn rõ các nét tương đồng và khác biệt, nhận rõ những cái riêng có cùng một cái chung bản chất hoặc những dấu hiệu phân biệt cái riêng này với cái riêng khác.

Phương pháp phân tích so sánh cũng có thể dựa vào các mốc của sự kiện và thời gian của cùng một trục vận động lịch sử để tìm ra sự phát triển khác nhau của cùng một đối tượng, chính thể trong những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau

2.4.3. Phương pháp liên ngành: liên giữa các ngành như sử liệu học, cổ tự học, địa lý học, lưu trữ học...

2.5. Các xu hướng mới trong nhận thức và nghiên cứu khoa học Lịch sử

- Nhiều "khoảng trống lịch sử" vẫn chưa được lấp. Trong bộ quốc sử Việt Nam 15 tập, nhiều vấn đề phải đưa ra hàng loạt tranh luận lớn nhỏ và cuối cùng thống nhất tạm thời cách trình bày sự kiện bằng những sử liệu (chính thống) hiện có. Vấn đề "nguỵ quyền" của tập 12 bộ quốc sử này là không sai khi nói hoặc viết, nhưng cuối cùng tổ biên soạn thống nhất ghi là chính quyền Sài Gòn, quân đội Sài Gòn

- Chưa nói sâu về quan hệ Việt - Trung, hải chiến Gạc Ma. Trong bộ quốc sử thì quan hệ Việt - Trung sau 1975 là chưa toàn diện, sự kiện tháng 2/1979 mới chỉ nêu được bề nổi, đánh giá lại Việt Nam trước thềm Đổi mới chưa thật sự đầy đủ. Các sự kiện như "Nhân văn Giai phẩm", "thanh Đảng" và hải chiến Gạc Ma chưa đưa vào được

- Cố gắng lấp các khoảng trống này bằng cách đưa nhiều tư liệu về vùng đất, kinh tế, văn hoá, xã hội, đời sống nhân dân để thấy cái nhìn về hoàn cảnh lịch sử

Chương 3. Các bước thực hiện công trình nghiên cứu khoa học Lịch sử

3.1. Thực hiện công trình nghiên cứu khoa học

* Đề tài nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu khoa học là một hoặc nhiều vấn đề khoa học chứa đựng những điều chưa biết hoặc chưa rõ nhưng đã xuất hiện tiền đề và có khả năng biết được nhằm giải đáp các vấn đề đặt ra trong khoa học hoặc trong thực tiễn. Đề tài do một hoặc nhóm người thực hiện, mỗi đề tài nghiên cứu sẽ có tên đề bài được phát biểu ngắn gọn khái quát các mục tiêu (mục đích) khoa học của đề tài

=> Đề tài phải có tính cấp thiết

Xác định đề tài là một việc làm quan trọng nhất đối với nhà nghiên cứu; vì: chọn được đề tài đúng là thành công một nửa trong nghiên cứu khoa học; xác định đề tài phải phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ đề ra với trình độ người nghiên cứu, vừa đảm bảo mọi yêu cầu của nghiên cứu khoa học; lựa chọn đề tài đúng tức là "biết điều chưa biết để biết"

* Đối tượng nghiên cứu: là một vấn đề (sự kiện, hiện tượng lịch sử) nào đó mà người nghiên cứu hướng đến nhằm làm sáng tỏ bản chất của vấn đề. Bản chất bao gồm những mặt, đặc tính và những quan hệ tồn tại trong vấn đề cần phát hiện; là những khía cạnh cơ bản của vấn đề nghiên cứu mà người nghiên cứu quan tâm, có nhu cầu tìm hiểu và hướng tìm cách giải quyết

* Phạm vi nghiên cứu: là sụ xác định (khu biệt, giới hạn, cụ thể hoá) đối tượng nghiên cứu của đề tài. Xác định phạm vi nghiên cứu bao gồm giới hạn về tính không gian, thời gian và nội dung vấn đề

* "Mục đích" hay "mục tiêu" nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu để làm gì ? Là cái đích mà việc nghiên cứu hướng đến, là vấn đề trung tâm xuyên suốt đề tài. Mục đích là trả lời cho câu hỏi: "nhằm vào việc gì ?" hoặc "để phục vụ cho việc gì ?" Là bản chất vấn đề cần làm rõ trong nhiệm vụ nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu chính là cơ sở để đề ra nhiệm vụ nghiên cứu.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu là thực hiện điều gì hoặc hoạt động nào đó cụ thể, rõ ràng mà người nghiên cứu phải hoàn thành theo kế hoạch đặt ra trong nghiên cứu. Mục tiêu có thể đo lường hoặc định lượng được, để trả lời câu hỏi "làm cái gì ?" hay "nhằm đạt được cái gì ?"

* Nhiệm vụ nghiên cứu: là những công việc cụ thể phải làm để đạt được mục đích nghiên cứu. Được xây dựng trên cơ sở Mục đích nghiên cứu đã có từ trước để hướng tới giải quyết các công việc sau: hệ thống hoá những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu; mô tả, trình bày, phân tích, đánh giá; khái quát, kết luận, nêu giải pháp, kiến nghị...

* Phương pháp nghiên cứu:

+ Cơ sở phương pháp luận: dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác _ Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng về nhận thức, nghiên cứu lịch sử và giáo dục lịch sử

+ Phương pháp nghiên cứu là công cụ nghiên cứu khoa học trong thực hiện nhiệm vụ đề tài. Phương pháp nghiên cứu do mục đích và đối tưởng quyết định. Một số phương pháp mà đề tài thường sử dụng như: nghiên cứu tài liệu, phân tích tổng hợp, so sánh đối chiếu, phỏng vân, xử lý sử liệu

* Đóng góp của đề tài:

- Về học thuật (tri thức khoa học)

- Về thực tiễn (vận dụng, đề xuất, cải tiến)

3.2. Cấu trúc và cách trình bày luận văn thạc sĩ

* Luận văn thạc sĩ: là một chuyên khảo sâu về một vấn đề khoa học thuộc một chuyên ngành cụ thể; khẳng định học viên nắm được kiến thức học, phương pháp nghiên cứu và kỹ năng thực hành về vấn đề nghiên cứu. Thường luận văn thạc sĩ có độ dài tối đa 70 trang (luận án tiến sĩ tối đa 150 trang) nội dung, được bảo vệ trước Hội đồng để được công nhận học vị thạc sĩ.

# Các bước thực hiện luận văn:

+ Chọn và đặt tên đề tài cho luận văn: đề tài luận văn có thể do khoa, bộ môn hoặc các giảng viên giao cho học viên thực hiện nhưng không trùng lặp với các đề tài được thực hiện trước đó. Tốt hơn cả là học viên tự tìm hiểu, suy nghĩ và đề xuất vấn đề trên cơ sở ý thích, năng lực, sở trường, mối quan hệ... hay những ý tưởng hình thành trước đó của mình. Các ý tưởng được nghe giảng trên lớp, đọc sách báo, tranh luận với các nhà khoa học, suy nghĩ ngược lại với các quan điểm đã phổ biến

Để bảo đảm chất lượng thì luận văn phải có ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn. Tên đề tài phải ngắn gọn, súc tích nhưng chứa đựng nhiều thông tin nhất; ngôn ngữ trong tên đề tài phải rõ ràng, chuẩn xác để hiểu theo một nghĩa duy nhất

Đây chính là việc xây dựng luận điểm khoa học là: vấn đề nghiên cứu, lý thuyết khoa học

+ Xây dựng đề cương: trên cơ sở đề tài đã được thông qua, học viên xác định và trình bày lại các mục trong phần Mở đầu; đề cương nghiên cứu chính là bố cục của luận văn

Các chương được trình bày như sau:

Chương 1:....

1.1..........

1.1.1............

1.2..........

+ Xây dựng kế hoạch nghiên cứu: cùng với đề cương, học viên xây dựng kế hoạch nghiên cứu bằng cách chỉ rõ những nội dung công việc và thời gian hoàn thành

+ Trình đề cương cho Hội đồng (hoặc người hướng dẫn) xin ý kiến: học viên gặp người hướng dẫn khoa học với đề cương có sẵn để xin ý kiến. Người hướng dẫn sẽ góp ý, bổ sung cho đề cương nhằm bảo đảm tính chuẩn xác tên đề tài, đầy dủ nội dung nghiên cứu, tính hợp lý và logic của bố cục, tính cập nhật của thông tin khoa học có liên quan... Trên cơ sở đó, học viên sửa chữa, hoàn thiện đề cương

+ Cấu trúc nội dung luận văn gồm:

- Luận đề: cần chứng minh điều gì

- Luận cứ: chứng minh bằng cái gì ? thông qua dữ liệu và dữ kiện chứng minh; gồm luận cứ lý thuyết (lý thuyết, luận điểm, tiền đề, quy luật...) và luận cứ thực tiễn (số liệu thu thập qua điều tra, khảo sát, phân tích...)

- Luận chứng: chứng minh bằng cách nào ? (phương pháp nào)

Chương 4. Bài tập thực hành

Viết các tiểu mục cho đề tài khoa học được đưa ra

Tài liệu tham khảo:

1. Vũ Cao Đàm, (2007), “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học”, NXB Khoa học và Kỹ thuật.

2. Phạm Viết Vượng, (2000) “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

3. Lưu Xuân Mới, (2003), “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học”, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.

4. Phạm Phúc Vĩnh, (2015), “Phương pháp nghiên cứu Khoa học Lịch sử”, NXB Đại học Quốc gia TP HCM.

5. Phan Ngọc Liên (cb), (2003), “Phương pháp luận sử học” NXB ĐHSP Hà Nội.

6. Hà Văn Tấn, (2008), “Một số vấn đề lý luận sử học”, NXB ĐHQG Hà Nội.

7. Anol Bhattacherjee, (2015) “Nghiên cứu khoa học xã hội: Nguyên lý, phương pháp và thực hành”, Đỗ Minh Hùng, Trần Quang Thái dịch, NXB Đại học Quốc gia Tp HCM.