Có lẽ người kể chuyện hay nhất, truyền cảm, thuyết phục nhất về Hồ Chí Minh là GS Hoàng Chí Bảo. Ông đi khắp mọi nơi chỉ để kể về Hồ Chí Minh. Đến phần 3 thì các bạn phải chỉ ra được điểm sáng tạo của cụ Hồ trong quá trình lãnh đạo cách mạng dân tộc từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho đến khi Bác vĩnh biệt chúng ta. Ở phần cuối cùng thì chúng ta phải chỉ được giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh với dân tộc, thời đại.
Các tài liệu tham khảo chính: Hồ Chí Minh - biên niên tiểu sử, tâp 2 (1930 - 1945) của Nxb CTQG (2006); Hồ Chí Minh toàn tập (12 tập, 2012) của Nxb CTQG Hà Nội; Hồ Chí Minh tiểu sử (2010) của Nxb CTQG Hà Nội, Tìm hiểu thân thế - sự nghiệp và tư tưởng của Hồ Chí Minh của Hoàng Trang, Nguyễn Khánh Bật (2003) thuộc Nxb CTQG Hà Nội; Đề cương tuyên truyền 100 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước của Ban tuyên giáo Trung ương
1. Sự xuất hiện của Hồ Chí Minh trong lịch sử dân tộc
1.1. Những nguyên tắc phương pháp luận mácxít - lêninnít về nhận thức lịch sử nói chung, nhân vật lịch sử nói riêng
1.1.1. Khái niệm quần chúng nhân dân trong lịch sử
Quá trình vận động, phát triển của lịch sử diễn ra thông qua hoạt động của khối đông đảo con người được gọi là quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của một cá nhân hay một tổ chức, nhằm thực hiện mục đích và lợi ích của mình.
Căn cứ vào điều kiện lịch sử xã hội và những nhiệm vụ đặt ra của mỗi thời đại mà quần chúng nhân dân bao hàm những thành phần, tầng lớp xã hội và giai cấp khác nhau.
Như vậy, quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản, bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.
Khái niệm quần chúng nhân dân được xác định bởi các nội dung sau đây: Thứ nhất, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần, đóng vai trò là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân. Thứ hai, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với nhân dân. Thứ ba, những giai cấp, những tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.1.2. Khái niệm cá nhân trong lịch sử
Trong mối liên hệ không rách rời với quần chúng nhân dân, những cá nhân kiệt xuất có vai trò đặc biệt quan trọng trong các tiến trình lịch sử; đó là những vĩ nhân, lãnh tụ.
Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học, nghệ thuật... Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên.
Để trở thành lãnh tụ gắn bó với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm, lãnh tụ phải là người có những phẩm chất cơ bản sau đây: Một là, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động của dân tộc, quốc tế và thời đại. Hai là, có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân dân vào nhiệm vụ của dân tộc, quốc tế và thời đại. Ba là, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh quên mình vì lợi ích của dân tộc, quốc tế và thời đại.
Bất cứ một thời kỳ nào, một dân tộc nào, nếu lịch sử đặt ra những nhiệm vụ cần giải quyết thì từ trong phong trào quần chúng nhân dân, tất yếu sẽ xuất hiện những lãnh tụ, đáp ứng yêu cầu của lịch sử.
Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ: Tính biện chứng của mối quan hệ trên biểu hiện:
Thứ nhất, tính thống nhất giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ. Không có phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, không có các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội của đông đảo quần chúng nhân dân, thì cũng không thể xuất hiện lãnh tụ. Những cá nhân ưu tú, những lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm của thời đại, vì vậy, họ sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của phong trào quần chúng.
Thứ hai, quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích của mình. Sự thống nhất về các mục tiêu của cách mạng, của hành động cách mạng giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ do chính quan hệ lợi ích quy định. Lợi ích biểu hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau: lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích văn hóa... Quan hệ lợi ích là cầu nối liền, là nội lực để liên kết các cá nhân cũng như quần chúng nhân dân và lãnh tụ với nhau thành một khối thống nhất về ý chí và hành động. Lợi ích đó vận động phát triển tùy thuộc vào thời đại, vào địa vị lịch sử của giai cấp cầm quyền mà lãnh tụ là đại biểu, phụ thuộc vào khả năng nhận thức và vận dụng để giải quyết mối quan hệ giữa các cá nhân, các giai cấp và tầng lớp xã hội. Từ đó, có thể thấy rằng, mức độ thống nhất về lợi ích là cơ sở quy định sự thống nhất về nhận thức và hành động giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử.
Thứ ba, sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ biểu hiện trong vai trò khác nhau của sự tác động đến lịch sử. Tuy cùng đóng vai trò quan trọng đối với tiến trình phát triển của lịch sử xã hội, nhưng quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sự phát triển, còn lãnh tụ là người định hướng, dẫn dắt phong trào, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.
Bởi vậy, quan hệ giữa quần chúng nhân dân và vĩ nhân lãnh tụ là biện chứng, vừa thống nhất vừa khác biệt.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân, đồng thời đánh giá cao vai trò của lãnh tụ.
Vai trò của quần chúng nhân dân:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Con người muốn tồn tại phải có các điều kiện vật chất cần thiết, mà những nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng được thông qua sản xuất. Lực lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc
Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Lịch sử đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách mạng nào mà không là hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ là lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần. Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa học, nghệ thuật, văn học, đồng thời, áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn. Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính trị, đạo đức... của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển nền văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại.
Nguyễn Trãi đã nói: "Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết". Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khẳng định rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, và quan điểm "lấy dân làm gốc" trở thành tư tưởng thường trực nói lên vai trò sáng tạo ra lịch sử của nhân dân Việt Nam.
Vai trò của lãnh tụ:
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ có nhiệm vụ chủ yếu sau: Thứ nhất, nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại trên cơ sở hiểu biết những quy luật khách quan của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội. Thứ hai, định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hành động cách mạng. Thứ ba, tổ chức lực lượng, giáo dục thuyết phục quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhằm hướng vào giải quyết những mục tiêu cách mạng đề ra. Lãnh tụ có vai trò to lớn đối với phong trào quần chúng Lênin viết: "Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào"
Chủ nghĩa Mác - Lênin đòi hỏi phải bài trừ tệ sùng bái cá nhân: Tệ sùng bái cá nhân, thần thánh hóa cá nhân người lãnh đạo, sẽ dẫn đến tuyệt đối hóa cá nhân kiệt xuất, vai trò người lãnh đạo mà xem nhẹ vai trò của tập thể lãnh đạo và của quần chúng nhân dân. Căn bệnh trên dẫn đến hạn chế hoặc tước bỏ quyền làm chủ của nhân dân, làm cho nhân dân thiếu tin tưởng vào chính bản thân họ, dẫn đến thái độ phục tùng tiêu cực, mù quáng, không phát huy được tính năng động sáng tạo chủ quan của mình.
Người mắc căn bệnh sùng bái cá nhân thường đặt mình cao hơn tập thể, đứng ngoài đường lối chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Họ không thực hiện đúng chính sách cán bộ của Đảng, vi phạm nguyên tắc sinh hoạt Đảng, chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết, tạo ra nhiều hiện tượng tiêu cực, đánh mất lòng tin trong cán bộ và nhân dân, phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
1.2. Đất nước, quê hương, dân tộc đối với Hồ Chí Minh
Bác Hồ sinh ra và lớn lên trong bối cảnh nước mất nhà tan, dân ta bị ách nô lệ (sinh ngày 19/5/1890, 30 năm sau khi Pháp xâm lược Việt Nam). Chính sách thống trị của Pháp tại Việt Nam phân chia nước ta thành 3 kỳ, cho nên ngày 19/5 là ngày lập Mặt trận Việt Minh mà Bác lấy làm ngày sinh của mình. GS Hoàng Chí Bảo kể nhiều câu chuyện về Bác Hồ, kể cả chuyện riêng tư của Bác tại Hà Nội, rất xúc động (GS tìm hiểu rất chuyên sâu về Hồ Chí Minh), có những phần khác về các lĩnh vực của đất nước như chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá. Về ngày 19/5 thì có khá nhiều ý kiến cá nhân trái chiều. Phải chăng, ngay trong tâm khảm của Bác chỉ có hai từ: Nước và Dân; từ ngày lập Mặt trận Việt Minh vào 19/5/1941 sau khi Bác từ Trung Quốc về Pác Bó (Cao Bằng). Các cụ ngày xưa khi đẻ con cái, kể cả cha mẹ Bác đều không nhờ ngày tháng sinh của Bác; chỉ nhớ năm sinh, thậm chí dùng cả năm âm lịch nữa. Bác chỉ nhớ cha mẹ kể là Người được sinh tại làng Hoàng Trù đúng vào mùa sen nở (tháng 5 đến tháng 6). Nhưng lần đầu tiên Bác cho tổ chức ngày sinh nhật của mình vào ngày 19/5 - Bác giải thích chỉ có lệ mà thôi, thành lập Mặt trận Việt Minh là mặt trận của đại đoàn kết dân tộc. Bác thấy ngày 19/5 chính là tượng trưng cho ngày đại đoàn kết dân tộc nên Bác không cho tổ chức sinh nhật; cứ đến sinh nhật của mình là Bác né tránh, điều này dễ hiểu là suy nghĩ của Bác Hồ. Sau này Bác có cho tổ chức đâu; duy nhất Bác cho tổ chức vào ngày 19/5 để cho dân nhớ đến ngày đại đoàn kết dân tộc, có ngờ đâu ngày đó (mang tính ước lệ thôi) trở thành ngày sinh nhật của Bác và của cả thế giới; sau này cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp túc trực với Bác mỗi khi Người đi thăm nhiều nơi trên đất nước. Đến năm 1969, khi mà Bí thư thứ nhất Lê Duẩn muốn tổ chức ngày sinh nhật của Bác nên đề xuất ngày sinh của Bác ở cuối cùng sau ngày sinh của Lenin, ngày thành lập Đảng. Bác duyệt ngay ngày sinh của Lenin, ngày thành lập Đảng nhưng đến ngày sinh của Bác thì Người gạch đi (năm 1969 Bác bệnh rất nặng: bệnh tim, bệnh phổi, mắt của Bác mờ dần; sau đó bác sĩ phải cho chạy máy Bác). Di chúc mà Bác viết lúc Người đang tập cai thuốc. Khi Bác muốn về miền Nam, Lê Duẩn nói: Thưa Bác, sức khoẻ của Bác không cho phép ạ ! Bác mới nói là Người biết rất rõ thủ đoạn của tổng thống Mỹ Nixon ở miền Nam Việt Nam và muốn biến miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá nên Bác không muốn tổ chức sinh nhật của mình. Lúc đó các đoàn đại biểu quốc tế rất quan tâm đến tình hình cách mạng miền Nam và nhất là ngày sinh nhật của Bác; lúc này Bác mới cho tổ chức sinh nhật nhưng Người nói thêm: "nên tổ chức gọn nhẹ thôi nhé" vì tình hình cách mạng miền Nam, ngày 19/5 lúc đó trở thành ngày sinh nhật cuối cùng của Bác. Bác giao cho Vũ Kỳ tổ chức sinh nhật của mình, nhưng Bác dặn: "mua 5 bông hồng thôi nhé" (lúc đó thuốc của Bác cũng đã cạn, nên Người tiết kiệm) và ít kẹo; và Bác không cho lấy tiền của chính phủ, bảo phải lấy tiền trong trang phục của Bác (khoảng 3 đồng bạc lẻ) đi mua kẹo cho Bác và ít trái cây. Lúc này miền Nam dang chiến tranh và ý định của Trung ương Đảng là sẽ giải phóng miền Nam ở năm 1968, lúc đó Bác bắt đầu lên cơn đau tim dữ dội khi biết tin đại tướng Nguyễn Chí Thanh qua đời đột ngột ở chiến trường miền Nam hồi năm 1967 - cho nên đó là lần cuối cùng Bác ít gặp bạn bè quốc tế. Thực sự thì ngày 19/5 được nhận định là ngày "vì dân, vì nước, vì quan hệ quốc tế". Trong Bác chỉ có một chữ "Quốc", như vậy cá nhân của Bác hoà nhập vào dân tộc, quan hệ quốc tế - không phải ngẫu nhiên ngày 19/5 trở thành ngày được cả thế giới biết đến.
Tại sao Hồ Chí Minh xuất hiện trong lịch sử dân tộc ? Người xuất hiện trong lịch sử dân tộc theo cách rất đặc biệt. Không có Nguyễn Ái Quốc xuất hiện thì có nước Việt Nam hay không ? Chuyện Văn Ba ra đi tìm đường cứu nước, Tâm tâm xã thành lập ở Trung Quốc và chọn người ưu tú nhất thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, và Hội này trở thành một tổ chức cách mạng đầu tiên cho đến ngày thành lập Đảng, chứng tỏ rằng rất nhiều thanh niên và chí sĩ yêu nước ở đây đều theo Hồ Chí Minh. Nhưng tại sao người ta đánh giá Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh lại thành công ? Theo GS Hoàng Chí Bảo thì Bác Hồ có đến 135 tên gọi khác nhau; hiện chưa có một công trình nào nghiên cứu về bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Công trình này rất khó thực hiện, vì tư liệu về Hồ Chí Minh ở trong nước ta thiếu rất nhiều; thậm chí qua Pháp, Nga thì người ta không cho mang về, không cho chụp hình. Trước đây giám đốc bảo tàng Hồ Chí Minh là cô Hoa Xinh đi qua bảo tàng quốc gia ở Nga để thu thập tư liệu về Bác Hồ thì không cho trả giá, chụp tư liệu rất hạn chế. Cô Hoa Xinh nghĩ lại: Bác Hồ với người Nga là vô giá. Đang có lưu trữ một luận án tiến sĩ của Bác Hồ ở nước Nga (nghe tin Quốc tế III báo động là rời khỏi địa điểm đó ngay nên Bác có nhiều bút danh, bí danh là như vậy) nói về chế độ ruộng đất ở Đông Nam châu Á nhưng cô Hoa Xinh chưa bao giờ được tiếp cận luận án này của Bác; cho đến bây giờ những nội dung trong luận án tiến sĩ của Bác Hồ vẫn đang là đề tài nóng hồi nhất hiện nay. Nói vậy để bạn nhận định: tại sao Hồ Chí Minh là một hiện tượng ? Muốn vậy chúng ta phải xét trên nhiều cơ sở. Ngẫu nhiên hay khách quan ? - đưa ra những điều kiện, hoàn cảnh khách quan cho cơ sở đó. Không phải tự ý ra đi, không phải tự ý là đi liền mà xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử. Người cũng đặc biệt cảm ơn các bậc tiền bối, kể cả những người tìm con đường cứu nước không thành công và cố tìm hiểu: tại sao họ (Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh) chưa thành công. Thế thì dựa vào Nhật; chính sách nước mất nhà tan, nhân dân lầm than trong nô lệ nên lòng yêu nước thương dân được Bác Hồ hun đúc ngay từ nhỏ. Khi giảng dạy lịch sử, GV tuyệt đối không nên dạy HS phủ nhận lịch sử; dù bậc tiền nhân làm cách mạng chưa thành công nhưng vẫn mang tính lịch sử rất lớn. Đi trước để cho thế hệ sau quyết định. Hướng đi của Bác rất đặc biệt ở chỗ là: Văn Ba đặt chân lên chính nước Pháp chứ không phải lanh quanh ở quê nhà hay ở các nước lân cận như Nhật. Từ Pháp, Văn Ba đi qua nhiều nước khác nhau. Nhưng tại sao Nguyễn Tất Thành không chọn đi theo con đường dân chủ tư sản ? Nguyễn Tất Thành trả lời ngay: ở các nước tư bản thì bên trong là công nông, bên ngoài là cướp bóc thuộc địa trong đó có đất nước tôi. Người đi học trường Kỹ nghệ và tuyên bố một ngày nào đó sẽ về giúp đất nước phát triển kinh tế - chính câu nói này của Người đặt ra vấn đề: phải chăng Văn Ba đặt vấn đề cho Việt Nam quan hệ rộng mới với các nước trên thế giới, kể cả các nước tư bản; chính Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đưa Việt nam tiến ra thế giới. Nghiên cứu từng câu từ mới thấy hành trình ly kỳ của Bác Hồ, nên có tác giả viết: những câu từ của Nguyễn Ái Quốc đã viết từ năm 1920 đến nay trở thành "những bước đệm" trong khu vực định ra nhân cách của Bác, mà sau này là các nước Asean. Bạn học lịch sử thì bạn biết Hội nghị Trung ương VI ở Bà Điểm (11/1939) lần đầu tiên bàn về vấn đề quan trọng (sau này có người bảo Hồ Chí Minh là bậc tiên tri) là thành lập chính phủ của Liên bang Đông Dương sau vấn đề giải phóng dân tộc đặt lên đầu; mặt trận chung là Mặt trận dân tộc phản đế Đông Dương. Sau này Bác về nước và có quyết định: quyền tự quyết của mỗi nước thành lập riêng. Ở nước Nga cách mạng thắng lợi, thành lập Liên bang Xô viết với Nga là nước cộng hoà để xây dựng chủ nghĩa xã hội; đến 1991 thì không còn - sự kiện đó khiến người ta quay lại và đánh giá về Hồ Chí Minh. Ba nước Đông Dương chung một đảng, đến 1951 tách ra thành từng đảng riêng biệt. Hội nghị VI thành lập chính phủ chung - điều này khiến Quốc tế III cho rằng Hồ Chí Minh theo chủ nghĩa dân tộc. Nói ra từ hoàn cảnh để Bác thực hiện hoạt động của mình, nói chung là Hồ Chí Minh có những tố chất rất đặc biệt.
Càng đi nhiều càng thấy có những điều khó hiểu, đến nỗi tại sao cuộc đời Bác Hồ gắn liền với số 9. Ngày 19/5; lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến là ngày 19/12; Bác đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9; Bác vĩnh biệt chúng ta lúc 9 giờ ngày 2/9/1969 (47 phút sau đó là liên tục cấp cứu cho Bác, 6 bác sĩ hô hấp nhân tạo để trái tim Bác đập lại; nhưng mạch của Bác trên đồng hồ là trải dài vô tận). Chính thức là 9 giờ 47 phủ khăn tang cho Bác. Ở Di chúc thì Bác gọi là "Tài liệu mật" (5/1965) và Bác kêu Vũ Kỳ cất đi không được xem. Di chúc này là chung nên Bác không đặt là "Di chúc" mà gọi là "Tài liệu tuyệt mật". Trong Di chúc, Bác không dặn dò để lại cho con cháu bao nhiêu đất đai cả. Bác khai bút viết tài liệu này lúc 9 giờ sáng ngày 10/5/1965. Nhiều người nói: nhiệm kỳ của Bác là 30 năm, 24 năm; nhưng kỳ lạ là ngày 19/5, 19 + 5 = 24, bằng đúng số năm làm Chủ tịch nước của Bác. Bác nói: năm nào dân cũng bầu tôi lên, tôi phải công nhận người dân giống như người lính ra mặt trận, khi nào dân bảo tôi lui thì tôi lui. 24 năm, có ai làm lâu hơn Bác không ? hội nghị nào Bác cũng được bầu lên chức cao; nên người ta mới nói: giải mã con người Hồ Chí Minh là giải mã nhưng tố chất đặc biệt của Người. Những câu từ Bác viết và nhận định rất đúng; khi xâu chuỗi các tài liệu, sự kiện để viết Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thì bạn biết: nếu đọc kỹ trong Hồ Chí Minh toàn tập (từ 1960 khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội), những tác phẩm trích trong văn kiện của Hồ Chí Minh có nêu những ý kiến gợi mở về đổi mới. Trong nông nghiệp là sự kiện bác Kim Ngọc (bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phúc) bị kỷ luật vì "cầm cân chạy trước đèn ô-tô, chưa có chủ trương của Đảng"; ông làm "khoán hộ" (hay "khoán mười") hồi năm 1968. Bác Hồ vận dụng chính sách Kinh tế mới của Lenin trong cải cách kinh tế đất nước. Các bạn biết là trong thời gian Bác viết các tác phẩm, trong nhà của Bác còn dang dở tài liệu mà Bác gạch xoá khá nhiều là quyển "Điều lệ của xã viên ở hợp tác xã". Một cái nữa là Bác gạch viết đỏ dưới những thành tích đã đạt được của những mô hình cải tiến, xuất sắc nhất - khen là phải thưởng. Cái nữa là ở nhà của Bác bổ sung ngoại ngữ thứ 29 là từ điển Việt - Tây Ban Nha đang học dở dang thì Bác hôn mê luôn - phong cách của Bác: học cho đến cuối đời. Thực ra từ năm 1946, Bác Hồ có nói câu này: từ năm 1946 khi Hiến pháp ra đời, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà "sẵn sàng làm bạn với mọi quốc gia trên thế giới". Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng mở rộng cửa, cảng, sân bay để tiếp nhận đầu tư từ nước ngoài (40 năm sau, đường lối đối ngoại của Đảng về vấn đề này mới được thực thi). Có ngờ đâu, cuộc chiến đang diễn ra ác liệt thì Bác khẳng định: sau này ta thắng Mỹ, nhất định phải thắng giặc Mỹ ! Đến nỗi mà nguyên nhà ngoại giao Hà Văn Lâu kể lại: khi Mỹ vào, cuộc chiến sẽ kéo dài và lâu. Ông Lâu sốt ruột vì đánh Pháp vừa xong thì lại quay ra đánh Mỹ; thì Bác nói rằng: tại vì tên chú là "Lâu". Nghe Bác nhận định cuộc chiến sẽ còn lâu dài và gian khổ hơn, kéo dài 10 năm, 20 năm. Bác tin rằng Nixon rất thủ đoạn và mị dân, đưa nhiều trang thiết bị quân sự vào miền Nam Việt Nam đe doạ tự do, ném bom miền Bắc lần thứ hai. Như vậy, "Điện Biên Phủ trên không" thuận lợi tạo điều kiện cho đàm phán ở Paris. Tại sao sau này Bác trở thành Chủ tịch nước rồi, đi thăm các nước thì có nhận định: hình như Hồ Chí Minh không có kẻ thù mà chỉ có đối thủ cạnh tranh - thể hiện tài ngoại giao về văn hoá ứng xử. Về văn hoá ứng xử thì ở Bác chỉ cần học một chút thôi về ngoại giao; Bác cũng nhận định: nóng nảy chỉ là vô công. Khi Bác dùng cán bộ lãnh đạo, Bác quy định cán bộ nếu đảng viên và người ngoài đảng cùng một tội thì Đảng viên phải bị xử gấp 3 lần; người dưới vi phạm thì cán bộ lãnh đạo phải bị xử gấp nhiều lần như thế. Sau khi từ Điện Biên Phủ về chiến khu Việt Bắc năm 1954, Bác có huấn chỉnh quân đội, cả công tác "thanh Đảng" trong nhà nước; "thời kỳ hoà bình, đồng tiền và sắc đẹp là những viện đạn bọc đường làm gục ngã chúng ta"; nếu không học tập và rèn luyện thì sẽ bị gục ngã ngay (TQ có bộ phim "người đàn bà sau lưng quan tham" kể câu chuyện ông Bí thư tỉnh uỷ đi nhiều nơi kể chuyện đạo đức; cuối cùng có cô vợ lăng nhăng. Đến khi bị phát giác tham ô thì 11 cô chạy mất)
Để lý giải cho sự xuất hiện của Hồ Chí Minh trong những điều kiện lịch sử. Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đi qua các nước, rủ Nhật, Pháp (Phan Châu Trinh đi Pháp như đi chợ). Trình độ sẽ cụ thể hoá bằng những thành tích, tư tưởng tiến bộ và những tư tưởng "yêu nước, thương dân" của hai chí sĩ họ Phan là ở chỗ nào ? Tại sao hai chí sĩ họ Phan lại chưa thành công ? Lịch sử hoàn cảnh lúc bấy giờ như thế nào ? - bây giờ VN còn hợp tác với Nhật, em còn đang đi học vào bao công trình từ bên Nhật về. Bác Hồ sau đó đã tiếp nhận phương pháp làm cách mạng của Phan Bội Châu (là bạo động); Phan Bội Châu cầu viện Nhật xin tiền tài, vũ khí mà Bác cũng đã phê phán: "Đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau". Nhật thực tế nhòm ngó VN từ trước, phát xít Nhật tràn sang và hậu quả để lại là nạn đói 1944 - 1945 làm hơn 2 triệu người chết. Nguyễn Ái Quốc có tiếp nhận của Phan Bội Châu - tiếp nhận ở chỗ nào (chỉ cho HS hiểu, tránh để HS phủ nhận lịch sử). Người tiếp nhận từ Phan Bội Châu những giá trị đạo đức và hệ thống nền tảng những giá trị (hiện nay rất nguy cơ bị thế hệ trẻ quay lưng). Mở cửa để đối ngoại thì đúng, nhưng cũng có những mặt trái chiều: nguy cơ bị mất bản sắc văn hoá, bị "xâm lăng" về mặt văn hoá như hiện nay. Bây giờ Trung ương Đảng đang xây dựng lại một hệ thống các giá trị của Việt nam cho giới sinh viên, nhưng người làm giáo dục. Ngược lại, chỉ ra Bác đã tiếp nhận được những gì từ tiền bối của mình: Phan Bội Châu muốn "bạo lực cách mạng", nhưng vấn đề là sao trí thức "bạo động", vậy "lực lượng tham gia bạo động" là những ai ? Phan Bội Châu rất thương dân mà dân mình yếu lắm, có đánh được quân Pháp đâu; Pháp mạnh và dân trình độ lại thấp nên Phan gửi gắm vào Nhật vì nước Nhật "đồng văn đồng chủng", Nhật đã đi lên chủ nghĩa tư bản thì khi mình qua, Nhật sẽ giúp. Nhưng lòng chân thành và suy nghĩ của Phan Bội Châu không làm Nhật phải giúp, vì Nhật đi lên chủ nghĩa tư bản và trở thành quân phiệt phát xít nên không bao giờ Nhật giúp chuyện gì cả; thậm chí nó còn lên quân phiệt, vì Đông Dương là "con ốc dựng" (miếng mồi ngon) đối với tư bản Nhật và nó lộ rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản Nhật. Hồ Chí Minh đánh giá: "sai lầm của Phan Bội Châu là chưa tin vào sức mạnh của dân". Dân mình yếu, trình độ thấp mà đánh giặc thì thua. Phan Châu Trinh đồng tình với Phan Bội Châu nên cách mạng đi vào ngõ cụt. Bác Hồ cũng tiếp nhận bạo động cách mạng nhưng phải là của quần chúng nhân dân. Cơ sở nào để Hồ Chí Minh phát hiện ra điều đó ? - đó là sự thành lập các tổ chức (các "hội") với trí thức, tiếp nhận học trò của trí thức để truyền đạt tư tưởng, đào tạo, huấn luyện để trở thành lực lượng cách mạng. Nguyễn Ái Quốc trở về lãnh đạo cách mạng, tiếp nhận Tâm tâm xã để trở thành Hội Việt Nam Cách mạng tháng niên (6/1925) - đó là xây dựng về mặt tổ chức; cái đó là ông tiếp nhận từ Phan Bội Châu. Hai chí sĩ họ Phan đề xuất phong trào Đông Du, vận động Duy tân toàn là học trò giỏi tham gia, họ đi "du học". Phan Bội Châu muốn đánh Pháp là phải dùng bạo động, về sau bị Pháp bắt giam lỏng ở Huế. Bác Hồ tiếp nhận bạo lực cách mạng của cụ Phan, và muốn bạo lực cách mạng phải có sức mạnh của quần chúng nhân dân - đó là cái thành công của Hồ Chí Minh. Thành công của Hồ Chí Minh đó chính là trải nghiệm bằng thực tiễn; không theo các bậc tiền bối (Phan Bội Châu sang Nhật, Phan Châu Trinh dựa vào Pháp) mà Văn Ba làm rất nhiều việc cực nhọc được chính Bác kể lại. Có ngờ đâu lúc Bác ra đi tìm đường cứu nước, cha của Bác là cụ Sắc căn dặn: "tuổi trẻ các con, con hãy đi đi, đi tìm chân lý cứu nước bằng chính đôi chân của mình. Những người như cha đến đây là hết rồi". Cụ Sắc từ quan về dạy học ở Cao Lãnh, có ngờ đâu Bác gặp cha đúng một lần và về sau thì không còn gặp được nữa. Nhờ trải nghiệm bằng lao động, sức lao động và hoà mình vào cuộc sống của những người dân Pháp nên thấu hiểu được đâu là bạn, đâu là thù, sức mạnh đến từ đâu. Người chưa tìm ra được sức mạnh của nhân dân, mãi đến khi đọc được Luận cương của Lenin vào tháng 7/1920 (mà sau này Chế Lan Viên rất xúc động trong bài thơ "Người đi tìm hình của nước") - "đi tìm con đường nào độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào là những gì tôi biết, là những gì tôi hiểu" (Hồ Chí Minh). Cách mạng tháng Mười Nga thành công, Nguyễn Ái Quốc trở về Pháp (ít lâu sau rồi sang Nga Xô-viết với câu "nước Nga có chuyện lạ đời, biến người nô lệ thành người tự do") để nghiên cứu kỹ Luận cương của Lenin đăng hai kỳ trên báo Nhân đạo của Pháp. Thời của Lenin là thời chủ nghĩa tư bản quá độ sang chủ nghĩa đế quốc, chưa có vấn đề giải phóng thuộc địa nên Bác vô cùng ngưỡng mộ Lenin và nước Nga Xô-viết. Lenin mất năm 1924 để lại 9.000 tác phẩm - nổi bật nhất là "Bút ký triết học" của Lenin. Trải nghiệm từ trường đời nên Bác học được 28 ngoại ngữ (kể cả dịch thuật), ngôn ngữ thứ 29 là tiếng Tây Ban Nha đang học dang dở. Học ngoại ngữ để thấu hiểu, khi Văn Ba thốt lên: Chờ con ở đất Pháp về; vì ở quê nhà Bác được học trường Việt - Pháp, Bác tự nhìn thấy khổ đau của nhân dân Việt khi hỏi cụ Sắc: Cha ơi cha, sao người Pháp lại đối xử với dân mình ác như vậy ? Sao nước mình không được hưởng quyền "tự do, bình đẳng, bác ái" như người dân Pháp ? Như Văn Ba có nghĩa vụ phải giải quyết điều đó. Chỉ có trải nghiệm thực tế, chứ loanh quanh trong nhà thì chưa thành công là đúng rồi. Trải nghiệm thực tiễn của Bác rất hay và sáng tạo (hiện nay có những người nông dân ít học, nhưng sáng chế rất tài). Trong trải nghiệm thực tiễn đó, vì sao Hồ Chí Minh lại không theo con đường cách mạng tư sản ? Bản chất của chế độ tư bản là bóc lột, còn Việt Nam vốn dĩ là phong kiến và đế quốc xâm lược thì chúng không cho Việt nam phát triển theo chủ nghĩa tư bản, chúng muốn áp bức người dân - càng dốt càng dễ cai trị; có đất nước nào mà chiến tranh nhiều như Việt Nam (Pháp đô hộ VN 96 năm). Khi Nhật đảo chính Pháp, Pháp chưa muốn thất bại ở Đông Dương và mãi đến 1954 chúng mới chấp nhận thất bại ở Việt Nam. Pháp rút quân và có lời dặn dò trước với Mỹ: "vào đi, dùng vũ lực mạnh vào đè bẹp cái đi"; sau đó Đồng khởi 1960 thì tổng thống Eisenhower rời khỏi Nhà Trắng và ông ta nghĩ lại lời dặn dò của Pháp là sự thật. Bởi vì bản chất của các nước tư bản nơi Bác đặt chân đến là đã hiểu rõ; Pháp rút, Mỹ rút với khẩu hiệu "đi khai hoá". Sau khi biết tên Nguyễn Ái Quốc ở Pháp, bọn mật thám Pháp treo giải thưởng cho ai bắt được Nguyễn Ái Quốc. Tháng 10/1929, Bác Hồ đang ở Xiêm mà trong khi đó Việt Nam có ba tổ chức cộng sản cùng tồn tại, nên Người bí mật về Hương Cảng và triệu tập Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1929, cụ Sắc qua đời mà Bác không về được, nhưng người vợ "hụt" của Bác là Lê Thị Huệ để tang chu đáo; về sau bà tu ở chùa. Đến cuối đời, Bác chưa bao giờ biết mặt cha mình và mộ của cha mình như thế nào ở Cao Lãnh. Khi chiến tranh ác liệt, Bác năn nỉ Võ Nguyên Giáp cho Bác vào nam thăm mộ cha và Bác cải trang rất giỏi; nhưng chiến tranh ác liệt và sức khoẻ của Bác không cho phép nên bị từ chối (sau 1975, đại tướng Võ Nguyên Giáp nhớ lại lời khẩn cầu của Bác mà khóc mãi). Bác nói: "Chú Giáp, sau này miền Nam có được giải phóng, chú đưa Bác vào miền Nam ngay". Đến năm 1965, Bác lại năn nỉ "cho Bác vào đi" nhưng cũng bất thành do Johnson thực hiện "chiến tranh cục bộ" tàn phá miền Bắc; thời Nixon đánh phá Hà Nội 12 ngày đêm là hắn cho 10 vạn quả bom xuống giết hại mất 4 vạn dân. Chia tay người cha đã đành, Người chia tay Lê Thị Huệ với lời hứa: sau này nếu có về nước thì gặp lại nhau. Những bức thư từ của Nguyễn Ái Quốc gửi cha và Lê Thị Huệ không bao giờ đến được địa chỉ. Kỷ vật mà bà Lê Thị Huệ còn giữ là một chiếc lược cài gói trong một chiếc khăn tay; khi nhà văn Sơn Tùng hỏi lý do gì o Huệ không chịu lấy chồng thì bà nói: trong trái tim tôi chỉ có mình Tất Thành; Bác nói: trong trái tim Bác chỉ có mình Út Huệ. Bà Huệ chia sẻ hết với Sơn Tùng, dặn sau khi bà mất thì mới được công bố những chia sẻ đó (lúc đầu tác phẩm gặp nhiều khó khăn khi xuất bản, về sau mới công bố đầy đủ). Ông Sơn Tùng về sau già yếu nên chưa ghi chép được nhiều nên ông kể cho con nghe để con viết lại, nhưng người con viết hay không bằng Sơn Tùng.
Bác Hồ có nhiều bút danh như Thanh Giang, T.Lan, Phong Lan... là do trong hoạt động cách mạng, Bác phải giả danh làm phụ nữ Á Đông để lột trần bản chất thống trị tàn bạo của kẻ thù. Dưới những bài báo đó, Bác viết về phụ nữ và trẻ em vì lúc nhỏ Bác có tình cảm với mẹ và em út tên Xin; còn cha dẫn theo anh Cả Khiêm đi chấm thi ở Huế; cho nên đám tang mẹ ở Huế thì người dân Huế lo đám tang rất chu đáo nên Bác nhớ ơn người Huế ở chỗ đó; năm 1922 chị Thanh của Bác bí mật đưa hài cốt của mẹ về quê an táng trọng thể (người dân kỵ nhất là để hài cốt trong nhà, nên Bà Thanh phải giấu hài cốt trên một hốc cây rồi mới trú tạm nhà dân). Sau khi Bác Hồ qua đời, Chính phủ Liên Xô có đề nghị đưa thi hài Bác sang Mạc Tư Khoa (Mát-xcơ-va) để tiến hành ướp thi hài. Lúc đầu Chính phủ ta đồng ý, nhưng sau đó Thủ tướng Phạm Văn Đồng mở cuộc họp đột xuất vì đưa thi hài qua Liên Xô quá xa xôi, lỡ có chuyện gì thì sao; để Bác ở lại thì rất tốt, với lại ý Bác cũng không muốn rời xa Tổ quốc; ta kiên nhẫn thuyết phục nên Liên Xô đồng ý truyền thuốc qua để bảo quản thi hài Bác. Khi Mỹ ném bom phá hoại miền Băc năm 1972, linh cữu của Bác được di chuyển đến 6 lần (nơi xa nhất là Ba Vì, nay thuộc Hà Nội), có lúc vừa nghe tin tập kích là lập tức di chuyển linh cữu của Bác sang nơi khác (6 lần như vậy); mãi đến khi LX khánh thành lăng Bác vào năm 1975, Bác mới được yên nghỉ ở đấy. Thương nhất là anh Cả Khiêm mất thì Bác không về để đưa tang được, khi Bác mất thì Trung ương Đảng giao cho Vũ Kỳ giữ hết các kỷ vật của Bác, kể cả chìa khoá và một hộp gỗ chứa ảnh mẹ Bác đã cũ mà Bác không cho Vũ Kỳ mở khi Người còn sống. Ngay khi hai bức điện của Tỉnh uỷ Nghệ An gửi cho Bác báo tin ông Cả Khiêm và bà Thanh qua đời, không ai có gia đình. Khi Bác đọc Tuyên ngôn độc lập thì bà Thanh xác định "đúng là em tôi rồi" và thông báo cho bà con xứ Nghệ, lập tức ra Bắc gặp em trai; ra Hà Nội thì không được gặp trực tiếp ngay vì tình thế đất nước "ngàn cân treo sợi tóc" nên tuỳ tùng của Bác đưa bà Thanh về nhà GS Đặng Thai Mai (GS là bố vợ của tướng Giáp), Bác cũng cải trang để ra gặp chị mình. Khi Bác đến, bà Thanh quay mặt vào trong; Bác khóc và hai chị em ôm nhau mừng mừng tủi tủi mà trước đó "giận thì giận, mà thương thì thương". Bà Thanh nhớ từng chi tiết món ăn mà em trai thích (thích hai món); khi về, bà Thanh không quên dặn Bác Hồ lấy vợ.
Phải chăng, cuộc đời của Hồ Chí Minh chỉ có Nước và Dân và đó chính là lý do Người lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Ái Dân (bút danh Bác viết thư gửi Bộ trưởng Y tế; khi họ hỏi cái bút danh dựa trên lời dặn "phải chăm lo cho nước, cho dân" thì Người bảo: Bác viết đấy). Có lúc Bác viết bài báo nhưng bên biên tập không trả nhuận bút cho Bác; khi Bác hỏi thì họ nói: Bác không biết xài tiền - Bác biết xài tiền chứ và thậm chí còn gửi tiết kiệm. Nhưng của Bác thì Bác nói thế thôi, nhưng đã có người viết bài báo (cộng tác viên) thì phải thanh toán tiền cho họ. Anh em nói với nhau: Bác Hồ vĩ đại. Bác chi tiêu hợp lý, còn lại ít đồng bạc lẻ thì Bác để dành mua bánh kẹo cho các cháu. Bác thấu hiểu các cháu nhỏ trong trại trẻ mồ côi, yêu cầu nhà trường không được dựng tường có rào kẽm gai, dặn phải dùng thuốc từ thiên nhiên (các lá thuốc chữa bệnh) để chữa bệnh cho trẻ con. Bác dặn dò kỹ đến độ: Trẻ em như búp trên cành. Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan; Bác dặn kỹ như thế từ chính sự trải nghiệm trong thời ấu thơ của Bác ở quê hương: Bác mồ côi mẹ, phải bế đứa em út còn bé đi xin sữa của bà con lối xóm. Bác cũng chia sẻ nỗi đau với những chị em phụ nữ và trẻ em - trong Di chúc Bác viết: "tôi để lại muôn vàn tình yêu thương với các cháu". Như vậy, Bác nói: ai cũng có khuyết điểm; đừng bao giờ đay nghiến những khuyết điểm họ đã nhận. Có lần Vũ Kỳ hỏi: tại sao Bác luôn nhẹ nhàng với cấp dưới không thấy Bác la mắng mà chúng cháu xung quanh Người rất nhiều, ngày nào cũng có xung đột. Bác nói: thường là ở thời, cấp trên hay ra oai la mắng cấp dưới chứ nào cấp dưới có dám la mắng lại cấp trên đâu ? Nhưng sợ nhất: khẩu phục mà tâm không phục (hiện nay nhiều lắm). Có lần ông Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân ra ngoài cuộc họp gặp Bác. Bác nói: chống bệnh quan liêu là phải gần dân, đừng xa dân. Ông ta hỏi lại: Vậy biện pháp nào để không xa dân ? Bác trả lời: muốn gần dân thì chú đừng có xa dân - Bác nói chơi chữ, vì người xứ Nghệ thích chơi chữ mà không cần giải thích nhiều. Có câu chuyện Bác Hồ đi câu cá: Hai Bác cháu đi câu cá, cùng bỏ cá vào một chiếc giỏ, chiều tối về Bác bảo: “Chú mang giỏ cá vào nhà bếp cho các cô cấp dưỡng làm cơm cả cơ quan cùng ăn, Bác cháu mình cùng ăn cho vui”. Người cán bộ vào nhà bếp gặp mấy em gái xinh xắn quá quên hết lời Bác dặn. Mà ba hoa bảo:" Anh tặng em cả giỏ cá đầy ắp, anh câu từ chiều đến giờ, còn Bác, Bác đi chơi chứ Bác có câu đâu." Chuyện đến tai Bác. Bác không mắng mỏ, không giận dỗi, nhưng Bác rất khéo câu được con nào, Bác bấu luôn đuôi con đó, được một hồi, Bác mới tạo ra tình huống rất tự nhiên bảo: “Hôm nay, Bác không được khỏe chú ạ! cho Bác về sớm được không?” Trên đường về, Bác ngắm nhìn bãi cỏ xanh bằng phẳng có thể chia cá được, Bác bảo: “Nghỉ một lát cho đỡ mệt chú ạ”, thế là hai Bác cháu ngồi nghỉ, Bác bảo: “Hay là hai bác cháu mình thử chia cá xem sao? Con nào của Bác thì Bác đánh dấu rồi đấy, còn lại chắc là của chú phải không?”. Không mắng mỏ gì cả nhưng Bác cứ nhìn thằng vào anh thanh niên này,cứ vừa nhìn và vừa cười. Thế là người cán bộ có tật giật mình mặt cứ đỏ nhừ lên vì biết chuyện mình nói bậy,nói bạ Bác đã biết hết cả rồi. Nên phải lòng dặn lòng là chớ có dại miệng mà ba hoa như vậy nữa, và xin lỗi Bác thành khẩn sửa sai.
Sự xuất hiện của Hồ Chí Minh không phải là ngẫu nhiên mà nó xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử, có tố chất; nhưng xác định có được tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh là một cống hiến rất lớn của Người. Người trải nghiệm từ thực tiễn chứ không phải ngồi một chỗ đọc tài liệu, nghe người này người kia nói. Từ trải nghiệm để ghi nhận cái quy luật, những hoạt động của Bác và những trải nghiệm này khiến Hồ Chí Minh xuất hiện như một hiện tượng. Sau này các tác giả nước ngoài cho rằng: Phải chăng, Hồ Chí Minh của các ngài là một vị thánh ! Người là con người bằng xương bằng thịt, rất thực tế, rất giản dị, rất khiêm tốn đúng như Bác đã từng làm. Các ngài ngưỡng mộ trí tuệ của Hồ Chí Minh; thậm chí một số tác giả nước ngoài nghiên cứu sâu về Hồ Chí Minh, đọc rất kỹ từng câu chữ của Người trong bộ sách Hồ Chí Minh toàn tập; so sánh và đánh giá Hồ Chí Minh là nhà tiên tri của thời đại. Ở Hồ Chí Minh còn là ẩn số chưa nghiên cứu hết.
2. Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng dân tộc
2.1. Khơi dậy tinh thần, ý thức yêu nước, hun đúc ý chí, hành động yêu nước từ thuở thiếu thời
Rõ ràng, Đường kách mệnh rất phù hợp với tình hình Việt Nam. Bầu bạn với công nông, nhà buôn, điền chủ nhỏ. Trong nước nông nghiệp hiện nay, dân có trình độ thấp kém để làm cách mạng; chứ chủ nghĩa Mác - Lenin khiến văn phong của Hồ Chí Minh phù hợp với trình độ thực tiễn của nhân dân Việt Nam, thậm chí thân nô lệ của dân Việt mà Bác nói: "thoát khỏi kiếp ngựa trâu". Thời Pháp thuộc, Bác gọi đế quốc Pháp là "con đỉa hai vòi"; nên câu từ trong tác phẩm của Bác thì nên để nguyên.
Khi nói về tư cách và phẩm chất của người cách mạng, Bác viết trong Đường kách mệnh là "vĩ công vô tư" (cụm câu "chí công vô tư" thì sau này Bác mới dùng, bổ sung thêm "cần kiệm liêm chính"). "Vĩ công vô tư" tức là gạt bỏ những cá nhân riêng tư để theo cái chung, mà cái chung này thì Bác có trích dẫn rất kỹ trong tác phẩm Đường kách mệnh. Tác phẩm này này được Trung ương Đảng đánh giá rất cao, có ý nghĩa thực tiễn trong hôm nay (bên thềm hội nghị trước ĐH Đảng XIII). Hiện nay nhiều cán bộ TW làm trái ý Bác (tội tham ô rất nhiều). Bác Hồ đã ký hai án tử hình, trong đó có vụ án tham nhũng của Trần Dụ Châu, nguyên cục trưởng Cục quân nhu năm 1950 - Bác gọi đấy là "giặc nội xâm", giặc trong lòng rất nguy hiểm không khác gì giặc ngoại xâm cả. Cho nên có một câu chuyện về một chiến sĩ xuống suối tắm ở chiến khu Việt Bắc thì một lãnh đạo xuống kì lưng cho Bác và hỏi: Bác ơi, sao lưng Bác gầy thế ? Bác vừa kiểm điểm ở Trung ương xong liền vặn lại: bữa nay chú tham ô mấy vạn ? Có 4 vạn nhưng thực ra cháu không lấy, cũng quy ra hiện vật đem về cho chiến sĩ thôi. Nhận rồi nhận nữa !!! - ông ta phải khai sự thật. Bác nói: chú này 4 vạn chú kia 4 vạn thì Bác béo làm sao được ? Bác ở trong nhà tù Tưởng Giới Thạch nên Bác rất gầy, cùm cả chân đi không nổi luôn. "Vĩ công vô tư" nặng lắm, có ngờ đâu nhiều cán bộ quên hết lời Bác dặn, nên Bác bao giờ cũng có các hội nghị chỉnh huấn. Trong hội nghị trung ương tháng 5/1941, Bác xem xét và buộc phải "nhấn mạnh" các mục từ liên quan đến chỉnh đốn Đảng. Trong hội nghị trung ương Đảng năm 1939, Nguyễn Văn Cừ đã viết tác phẩm "Tự chỉ trích" - xây dựng chỉnh đốn Đảng. Sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ thành công, Bác lại chỉnh huấn Đảng. Có thông tin: trước chiến dịch biên giới 1950, số lượng Đảng viên tăng vọt rất nhanh nên khi báo cáo với Bác, Bác giật mình luôn - gần 700.000 Đảng viên. Bác bảo: Dừng lại (nó tăng vọt gần 7 vạn Đảng viên); y như rằng kiểm tra là: làm ẩu, báo cáo thành tích chỗ này chỗ kia - ít nhưng phải chất lượng. Kiểm tra không bao giờ hết được; đến cuối đời Bác nói: chú Kỳ, Bác ân hận, hối hận một điều là số dân ít quá.
Mục đích của Văn Ba khi ra tìm đường cứu nước là gì ? Mục đích là độc lập dân tộc, dân đang lầm than nô lệ; lực lượng để giải phóng đất nước chính là dân. Bác dùng từ "dân tộc giải phóng - giải phóng dân tộc" quá tuyệt vời. Chủ thể là dân tộc. Muốn giải phóng dân tộc thì trở về mục tiêu ban đầu là cho dân. Con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu. Con người chính là nhân dân. Đây cũng là hơn hẳn các bậc tiền bối: hai chí sĩ họ Phan rất thương dân, nhưng dân yếu lắm không đánh nổi đâu; mục đích của hai ông quá đúng. Nhưng đạt được mục đích thì cần có phương pháp; quan trọng hơn hết là phương pháp - nó đòi hỏi cả trí tuệ và tầm nhìn.
Tên gọi "Hồ Chí Minh" xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử, mang tính tất yếu khách quan, thời thế tạo anh hùng, lịch sử tạo ra con người chứ Hồ Chí Minh không phải là thần thánh trên trời ban xuống - "ở hiền gặp lành", giống như một ông thánh, như một giấc mơ... Bác là con người bằng xương bằng thịt, sinh ra trên quê hương và chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, dân ta lầm than nô lệ. Đặc biệt Bác còn bảo: Bác còn được may mắn hơn nhiều gia đình khác là được học trường tiểu học Việt - Pháp và bố đã từng được bổ nhiệm làm quan giáo dục. Trước khi đỗ Phó bảng, cụ Sắc và cụ Hoàng Đường là những nhà nho yêu nước; cụ Sắc được cụ Đường tin tưởng gửi gắm người con gái Hoàng Thị Loan cho cụ Sắc.
2.2. Hồ Chí Minh với việc xác định con đường cách mạng của Việt Nam.
Bác sinh ra và lớn lên ở quê hương cách mạng, nơi có truyền thống khoa cử rất mạnh: năm 1635 - 1890 có 96 kỳ thi Hương, đỗ 53 vị ở làng Kim Liên, 29 vị ở làng Hoàng Trù. Nguyễn Sinh Cung đặc biệt được người cha giảng dạy từ nhỏ, cộng với thông minh sáng dạ và tố chất đặc biệt: luôn luôn thắc mắc. Nguyễn học ở cha, ở chí sĩ họ Phan, thầy Vương Thúc Quý. Từ hoàn cảnh gia đình và lịch sử thì Bác học ít lắm - chỉ tới tiểu học thôi. Hồi ở Huế, do tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ mà Nguyễn Tất Thành bị đuổi học, cụ Sắc bị cảnh cáo. Có ngờ đâu, Nguyễn Tất Thành gặp bố một lần cuối cùng và cũng là lần duy nhất và Nguyễn Tất Thành được cha khuyên là hãy đi đi để tìm đường cứu nước cứu dân - lời khuyên của cha do tuổi tác, hạn chế thời đại khiến cậu Thành nhớ mãi. Chỉ trong hoàn cảnh của mình, cậu bé Cung bảo: cha ơi cha, sao người Pháp họ ác dữ vậy, phải chăng họ đươc hưởng tự do bình đẳng bác ái, còn người dân của mình không được hưởng cụm từ đó. Nhưng khi anh Ba đặt chân lên đất Pháp và Pháp có hai loại người. Như bạn biết, chỉ có sống trong hoàn cảnh ấy thì cậu bé hơn 10 tuổi luôn thắc mắc vì nước vì dân. Từ hoàn cảnh nên Bác quyết chí ra đi (hoàn cảnh thời thế tạo ra con người). Quyết chí ra đi sau này Bác nói: đúc kết kinh nghiệm từ các bậc tiền bối cộng với yêu nước thương dân, nhưng chính những người thầy như hai chí sĩ họ Phan ra đi thì anh Ba có đi tìm đường cứu nước đâu ? Phong trào Đông Du 1905 - 1909 (học hỏi tri thức phương Tây). Phan Bội Châu chưa hiểu rõ: sao mình thành thật xin giúp chúng tôi đánh Pháp, thì sau này "Than ôi, đã muộn rồi". Vậy tìm con đường cứu nước cứu dân là con đường nào ? Có một bài nghiên cứu đối sánh con đường cứu nước của Bác Hồ với hai nhà chí sĩ họ Phan. Không phủ nhận đường lối cứu nước của hai chí sĩ họ Phan, chỉ bàn về vấn đề cách làm (phương thức). Không phủ nhận thầy đi trước, học trò thấy vậy mà có hướng đi mới.
Vấn đề ở chỗ: tại sao anh Ba đặt chân lên đất Pháp ? Đương nhiên quan điểm: "muốn đánh Pháp phải đến Pháp" - muốn đến Pháp phải có điều kiện là "tàu Pháp - Latouche Tréville"; anh Ba đến tuyển và được nhận từ ngày 3/6/1911; 5/6/1911 tàu mới nhổ neo. Văn Ba được nhận ngay, còn nhờ người dẫn tới gặp trưởng tàu là E. Maisen đứng nhìn Văn Ba. Tại sao có tên Văn Ba ? Trong tác phẩm Đường kách mệnh có nói chữ "bí mật" (các tên gọi Thu Giang, Trúc Giang, Thanh Lam, X.Y.Z,... nói đến bí mật) và các tác phẩm Búp sen xanh của Sơn Tùng, Vũ Kỳ kể chuyện... . Văn Ba nghĩa là "bản lĩnh văn hoa để vượt qua phong ba bão táp". Chuyến đi đó Bác còn xác định là không về; qua Pháp trên tàu của Pháp, lên tàu thì sai đủ mọi việc (Bác kể lại lúc bưng thúng củ ở trên tàu thì trên tàu là gió lạnh buốt, dưới hầm tàu là than nóng hừng hực; có lúc gió to hất cả người lẫn củ đi hai nơi khác nhau, hên là níu được sợi dây neo). Nó đối xử với người da đen như "đồ vật biết nói", không còn sử dụng nữa thì nó vứt xuống biển; luôn luôn giật mình với bản lĩnh phi thường (Bác từng kể lại câu chuyện gặp anh Lê trên cảng Nhà Rồng - sống chết trong gang tấc), làm bí mật nên Bác chịu thiệt thòi nhiều thứ - Văn Ba là "bản lĩnh văn hoá để vượt qua phong ba bão táp". Những tên Bác đặt đều phù hợp với từng hoàn cảnh: Bác đặt tên phụ nữ cho nhiều bài báo, tên Nguyễn Ái Quốc về sau rất nổi tiếng ký vào bản Yêu sách - bản Yêu sách này do nhiều người soạn nhưng không ai ký (yêu sách nặc danh, chữ ký tên là chung tập thể). Một cuộc trải nghiệm dài (Văn Ba làm rất nhiều việc: quét tuyết, làm bồi bàn.... đỏ hết cả tay, sưng hết cả mặt; đến cuối đời Bác bị bệnh phổi từ 5/1965 - 1969. Không có tiền thuê phòng, phải dùng gạch sưởi ấm trong 10 ngày liền; đến nỗi ông Hiệu trưởng khuyên Bác chuyển công việc khác đi, Bác gạt đi. Đã được thuê là làm đến nơi đến chốn (đó là cách làm của Nguyễn Tất Thành khi trải nghiệm thực tiễn). Bác làm bồi bàn ở khách sạn của nước Anh, có những tên chủ nhà giàu ăn mà để nguyên con gà tây; Văn Ba thấy thế đến gói con gà tây vào giấy báo (lúc đầu những người làm chung thấy thế nên coi thường). Làm xong việc, anh Ba mở ra là đưa hết các con gà tây cho những người ăn xin đứng đợi trước cửa sau nhà hàng. Chỉ có trải nghiệm làm lao động, Văn Ba mới thấu hiểu người dân lao động, công nhân ở Anh; cũng như những người dân ở nước Anh đây. Lao động chân tay thì tiền lương ít ỏi nên Bác chuyển sang dịch thuật ở căn phòng đông người như vậy. Khi nói về giáo dục, Bác có cả một kho kinh nghiệm từ thực tiễn (mở trường nội trú thời kháng Mỹ thì giáo dục bằng lao động) - làm cho các em trở về đúng tuổi của mình (Bác cũng là nhà giáo dục, dạy có mấy tháng ở trường Dục Thanh). Bác thương trẻ em là từ hoàn cảnh của Bác mà ra. Ở cả chủ nghĩa tư bản, tại sao thiệu dân lại chiếm số đông ? nếu khác là khác về chế độ, cấp độ; cái ghi nhận trên bước đường thực tiễn mà Bác đã trải qua: theo Tuyên ngôn của Pháp cách mạng "tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng", nhưng Bác sửa lại: "tất cả các dân tộc trên thế giới" trong Tuyên ngôn độc lập. Về Tuyên ngôn độc lập được Bác viết từ cuối tháng 8/1945, đọc ngày 2/9/1945; về sau quân Pháp trở lại xâm lược nước ta, tàn sát ở phố Hàng Bún (xem tác phẩm "Hà Nội băm sáu phố phường" của Thạch Lam) và chính phủ ta di chuyển lên Việt Bắc nên bản gốc bị thất lạc, chỉ còn bản sao (Nhật ký trong tù, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến... là còn bản gốc), Tuyên ngôn độc lập bị mất bản gốc nên không được coi là bảo vật quốc gia. Trường đời dưới lăng kính của Văn Ba hoà mình vào thực tiễn; cả hệ thống thực tiễn, tư tưởng và những hành động - chính bằng thực tiễn lao động này giải thích lý do Văn Ba không theo con đường cách mạng tư sản và khẳng định nó chưa đến nơi; tại vì mục đích của Bác là "độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi". Nghe tin cách mạng Nga giành thắng lợi năm 1917, đảng viên tin rất nhiều chứ chưa đi theo. Nguyễn Tất Thành về Pháp, đọc báo và nghe người ta bàn tán nhiều về cách mạng tháng Mười Nga nên mới ngưỡng mộ Lenin nên tìm hiểu xem ông này như thế nào. Đến khi đọc Luận cương của Lenin (7/1920) - trải nghiệm thực tiễn. Bản Luận cương của Lenin được coi là lý luận kết hợp với thực tiễn để rồi hô vang: Đi theo con đường cách mạng vô sản. Bác luôn nói: thực tiễn và lý luận hay liên kết với nhau.
Đầu năm 1919 Bác tham gia Đảng Xã hội Pháp; tháng 12/1920 gia nhập Đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế III. Trong nhiều tài liệu, Bác có tâm sự tại sao tham gia Quốc tế III: Về phản bội hay theo Quốc tế III của Lenin, thực hiện con đường cách mạng mà Mác và Angghen đã vạch ra, Đảng Xã hội Pháp cũng diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt về việc theo Quốc tế nào. Vậy thì cái quốc tế nào bênh vực nhân dân các nước thuộc địa ? Câu hỏi quan trọng nhất đối với tôi. Có mấy đồng chí đã trả lời: Đó là quốc tế thứ III, chứ không phải quốc tế thứ hai. Trước đó khi bản Yêu sách gửi hội nghị Versailles không đươc chấp nhận, Người cho rằng công cuộc giải phóng thuộc địa phải bằng chính sự nỗ lực cố gắng phấn đấu của nhân dân, không thể trông đợi vào những lời hứa của bọn đế quốc. Khi đến năm 1920 (đánh giá sự kiện này): ngoài tiếp nhận Luận cương của Lenin thì 5 tháng sau bước vào hàng ngũ đảng viên Đảng Cộng sản Pháp (ở Pháp vẫn còn lưu bản khai lý lịch gia nhập ĐCS Pháp của Người) - Bác đã kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa cộng sản.
Rất nhiều người yêu nước, cũng đi tìm con đường cứu nước cứu dân không riêng gì Nguyễn Ái Quốc; nhưng có điều: tìm thấy hay không, thành công hay không ? Luận cương của Lenin nói về dân tộc; trước đó thời Mác chưa có CNĐQ nên "vô sản các nước đoàn kết lại"; Lenin là "vô sản và các dân tộc bị áp bức liên hiệp lại" và Hồ Chí Minh tiếp nhận câu khẩu hiệu này của Lenin. Khi chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, xâm lược các nước thuộc địa thì số phận của các nước thuộc địa bị áp bức ở các châu lục với các đế quốc. Luận cương của Lenin đã đề cập trực tiếp đến cách mạng ở các thuộc địa, vì vậy nó đã giúp cho Hồ Chí Minh tìm thấy con đường cho cách mạng Việt Nam. Qua Luận cương của Lenin, Người tiếp thu được những nguyên tắc quan trọng: nguyên tắc giải quyết vấn đề dân tộc; nguyên tắc đoàn kết quốc tế giữa giai cấp vô sản với các dân tộc bị áp bức ở các nước thuộc địa. Luận cương của Lenin đã giải quyết được vấn đề mà Hồ Chí Minh trăn trở 10 năm tìm kiếm, đã giúp Người khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới khỏi ách nô lệ. Muốn cứu nước thì phải giải phóng dân tộc - không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản. Đây là bước ngoặt căn bản trong việc xác định con đường cho cách mạng Việt Nam. Như vậy xuất phát từ nhu cầu của cách mạng Việt Nam, được trang bị vốn văn hoá, vốn sống thực tiễn và kinh nghiệm chính trị, tầm nhìn rộng mở và tinh thần độc lập, suy nghĩ và trăn trở trong 10 năm cuối cùng thì Hồ Chí Minh rút ra kết luận: "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều; nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất chính là chủ nghĩa Lenin". Sau này, cụ Hồ cũng có những đánh giá: "lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đưa tôi tin theo Lenin, tin theo Quốc tế thứ ba". Đó chính là con đường dẫn Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lenin, tìm được con đường đúng đắn, khoa học, cách mạng; vừa đáp ứng nhu cầu lịch sử dân tộc, vừa hợp lòng dân, vừa phù hợp với xu thế thời đại mới được mở ra từ thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga 1917.
Sau khi gia nhập Đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế thứ III, lúc này tên tuổi của Bác có vị trí trong Quốc tế Cộng sản. Để đánh giá được Nguyễn Ái Quốc trong quá trình đi tìm con đường cứu nước cứu dân là như thế: "Rút ra được kết luận đó (sau khi đọc Luận cương Lenin, tham gia ĐCS Pháp và Quốc tế III) hoàn toàn không đơn giản. Đó là sự kết tinh của lòng yêu nước, tư chất khoa học, trí tuệ và bản lĩnh, tầm nhìn và cách nhìn; nhưng trên hết là hoài bão cứu nước cứu dân, xác định mục đích giúp đồng bào thoát khỏi gông cùm nô lệ". Nó thể hiện cách nhìn của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh: trải nghiệm bằng thực tiễn, mà thực tiễn ở đây là ra khỏi đất nước; bước ra các nước tư bản phương Tây rồi từ đó kết luận - cả thế giới chỉ có hai loại người: đế quốc là kẻ thù chung, nhân dân lao động chiếm số đông. Có ngờ đâu những lời thốt lên của Nguyễn Ái Quốc sau khi đọc Luận cương Lenin đã được các học giả quốc tế nhắc lại: đối với ông Nguyễn chính là vấn đề đưa Việt Nam đến với thế giới - vấn đề quan hệ quốc tế
2.3. Hồ Chí Minh với quá trình chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Đã tìm thấy con đường cứu nước rồi; Người ý thức được rằng: cách mạng Việt Nam cũng phải có dân tộc (cách mạng vô sản). Đầu tiên là Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về mặt chính trị tư tưởng. Người sau đó đã viết rất nhiều sách báo và Đường kách mệnh là tập hợp của các bài báo trên, những bài giảng và bài viết của Người. Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp viết bằng tiếng Pháp, xuất bản năm 1925 (có dịch ra tiếng Việt năm 1946), thậm chí còn bị Pháp truy lùng, treo giải thưởng cho ai bắt được Người dám luận tội bọn Pháp như một vị quan toà, trong đó vạch các tội ác của Pháp rất cụ thể (đế quốc là con đỉa hai vòi). Đánh giá văn phong của Hồ Chí Minh qua các tác phẩm này rất đặc biệt, đấy là cách truyền bá chủ nghĩa Mác - Lenin của Bác Hồ. Có ngờ đâu cách truyền bá này của Bác Hồ để rồi cho chúng ta thấy: đó là cách, phương pháp giảng giải, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lenine mà có lần Bác trên đường đi về mới gặp giới trẻ toàn ngồi bên bờ suối tám chuyện. Bác hỏi: các cháu làm gì ở đây vậy ? Các cháu vừa mới học lý luận Mác và Lenin xong. Bác hỏi tiếp: thế học có hay không, có hiểu không ? Cháu không hiểu ông Mác nói gì, ông Lenin nói gì mà thầy dạy thì rất hay. Thế Bác về mới suy nghĩ: tại sao không hiểu ? và Bác bảo: tuỳ từng đối tượng mà chúng ta có phương pháp truyền đạt khác nhau; đặc biệt là công tác Dân vận (tìm hiểu hoàn cảnh, dân tộc, trình độ, nghề nghiệp), ở trình độ nào để Người có phương pháp giảng dạy phù hợp; đó chính là lý do mà trong Đường kách mệnh dùng những câu từ rất dân dã để đáp ứng trình độ học thức của người dân thời bây giờ (rất thấp, thậm chí mù chữ). Bạn muốn nói gì thì nói, kể tội ác của thực dân cũng được; nhưng đó là phương pháp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lenin vào trong nhân dân một cách cụ thể để dân tin và đi theo. Bác bảo: không hiểu, không tin theo thì làm sao thành công ? Lực lượng cách mạng là dân chúng, quần chúng nhân dân đi theo cách mạng vô sản là đã tìm hiểu cách mạng tháng Mười Nga - nguyên nhân thắng lợi nằm ở đâu ? Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Lenin còn nói "cách mạng là ngày hội của quần chúng". Đảng Cộng sản, Đảng Bolchevick mang bản chất gì, đem lại quyền lợi cho ai ? Cái quan trọng là phải có lực lượng tham gia, chứ Đảng không làm thay được nếu không có dân; chứ Bác nói: công cuộc giải phóng là sự nghiệp của toàn bộ quần chúng nhân dân ở các nước thuộc địa. Cái thành công và cái đúc kết kinh nghiệm từ các bậc tiền bối: làm cho dân tin, làm cho dân hiểu và dân đi theo thì mới thành công.
Bản án chế độ thực dân Pháp (1925): là đòn tấn công quyết liệt vào chủ nghĩa đế quốc, trước hết là đế quốc Pháp; khơi dây tinh thần yêu nước, thức tỉnh tinh thần phản kháng dân tộc đánh đổ kẻ thù; vạch ra con đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam và các dân tộc bị áp bức: công cuộc giải phóng là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân các nước thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc xuất bản báo Thanh niên truyền bá chủ nghĩa Mác - Lenin nhằm thức tính quần chúng, thúc đẩy phong trào yêu nước theo con đường cách mạng vô sản. Với tác phẩm Đường kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã xây dựng một hệ thống các quan điểm, luận điểm khoa học và cách mạng về đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp làm cách mạng; tác phẩm đề cập các vấn đề rất cơ bản của một cương lĩnh chính trị: chỉ ra phương hướng phát triển đi tới thắng lợi của con đường giải phóng dân tộc Việt nam theo quỹ đạo cách mạng vô sản, trực tiếp chuẩn bị về chính trị tư tưởng cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bác còn được đánh giá là "hạt ngọc của văn chương", thậm chí tập "Ngục trung nhật ký" thì Bác nói "làm cho vui ấy mà" nhưng thực ra trong tập Nhật ký trong tù toát lên khí chất cách mạng của Bác, ở trong tù mà làm nhà thơ; toát lên khí chất lạc quan yêu đời, toát lên đạo đức và trình độ; khi nói về đạo đức và trình độ của một bộ phận hiện nay thì "đồng tiền là viên đạn bọc đường".
Về mặt tổ chức - đó là chuẩn bị về mặt con người mà nòng cốt là Cộng sản Đoàn (2/1925). Lực lượng của tổ chức nòng cốt này là lấy từ Tâm tâm xã của Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu (1923) ở Trung Quốc - chứng tỏ rất nhiều người đi tìm đường cứu nước; rất may Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô về đến Quảng Châu và tập hợp nhóm Tâm tâm xã vào tổ chức mới là Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Giải thích cho lý do vì sao Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên mà không lập ngay Đảng Cộng sản ? Trong báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc viết: "Hội An Nam cách mạng thanh niên do chúng tôi tổ chức từ năm 1925. Có thể nói rằng "nó là quả trứng" mà từ đó nó "ra con chim non cộng sản". Việt Nam thanh niên cách mệnh đồng chí Hội được thành lập ở Quảng Châu. Hội rất tích cực tổ chức các lớp huấn luyện, đưa thanh niên An Nam sang học rồi sau khi huấn luyện cẩn thận lại gửi họ về nước...". Cái hay của Nguyễn Ái Quốc ở chỗ là Người mở lớp huấn luyện, tự Người biên soạn và giảng bài gãy gọn - cái này là tiếp nhận của Phan Bội Châu (nòng cốt là lực lượng có học). Cán bộ được nghiên cứu lịch sử thế giới, lịch sử phong trào giải phóng dân tộc, về cách mạng tháng Mười và công tác vận động, tổ chức công hội. Có ngờ đâu Bác còn liên hệ để gửi Trần Phú, Lê Hồng Phong sang học tập ở Đại học phương Đông, trường Lục quân Hoàng Phố (TQ) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam (Trần Phú là Tổng bí thư đầu tiên khi mới 26 tuổi, hi sinh sau 5 tháng trời bị giam cầm); Trần Phú là cử nhân, mà cử nhân thì trình độ cao lắm. Ngay cả Bác viết luận án tiến sĩ ở Liên Xô (được GS Hoàng Chí Bảo kẻ lại) nhưng không bao giờ được bảo vệ - làm nghiên cứu sinh cũng là hoạt động cách mạng. Bác viết sách, viết báo, vẽ thuê trên gốm (Bác viết chữ Hán rất giỏi nên một nhà buôn gốm thuê Bác vẽ và trả công. Khi viết trên đồ gốm, mà tên nhà buôn Pháp này không biết tiếng Hán thì hoá ra Bác toàn viết khẩu hiệu "đả đảo ĐQ", buôn đến chuyên thứ tư thì bị bắt. Bác bảo: "số mệnh Bác lớn lắm" nên nhiều lần Bác thoát được). Nhớ vụ Tống Văn Sơ ở Hongkong 1931: chuyển tài liệu cho Bác, đến nơi thì mất tài liệu và bị Anh nghi ngờ bắt giam vô cớ vì không có bằng chứng, chưa có lệnh mà bắt vô cớ. Luật sư F. Loseby tìm cách cứu được Bác và bắt bẻ bằng chứng khiến bọn quan toà Anh thua cuộc. Ở Xiêm về Hương Cảng chủ trì hội nghị lập Đảng là do Quốc tế III chỉ đạo; đã có thời kỳ Bác bị nghi kỵ vì họ nghi Bác theo "chủ nghĩa dân tộc". Chiến lược về xây dựng đội ngũ con người, đó là lãnh đạo Đảng phải là cán bộ có trình độ cao (con của tướng Giáp, Thủ tướng Pham Văn Đồng được cho làm kinh tế mới). Chưa trải nghiệm sẽ phải trả giá rất lớn => chuẩn bị về mặt cương lĩnh. Đường kách mệnh được coi là chuẩn bị về cương lĩnh cho Đảng (nội dung Đường kách mệnh có 4 ý: chỉ có cách mạng vô sản là cách mạng triệt để, vì lợi ích của đại đa số quần chúng; cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa có quan hệ mật thiết với nhau; công nông là gốc của cách mạng, học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ phải bầu bạn với công nông; phương pháp cách mạng: dùng hết sức, "phải quyết tâm" nhưng "phải biết cách làm"; đoàn kết quốc tế). Bác bảo: cách mạng muốn lãnh đạo được phải có đường lối. Đường lối là hệ thống quan điểm, chủ trương, mục tiêu - đặc biệt là biên pháp. Trình làng đường lối ngay trong hội nghị lập Đảng - có đường lối trước thì mới lập Đảng được, xin biểu quyết. Bác cũng nói thêm: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt "không phải của riêng tôi đâu nhé, mà là của tập thể" và Bác không gọi là "cương lĩnh" mà chỉ gọi là "Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt". Còn "Cương lĩnh chính trị" là nó được hội nghị Đảng nhất trí; đến nỗi khi Bác mất mà trên ngực áo không có tấm huy chương nào, chỉ có đôi dép cao su "đi vạn dặm", nhà sàn Bác Hồ vì Bác không có nhà; Bác ở đúng 21 ngày tại nhà sàn trước khi lâm bệnh nặng. Nhà sàn của Bác có hai phòng: phòng ngủ, phòng Bác dành cho chú Tô cùng làm việc.
2.4. Hồ Chí Minh trong Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Lúc đầu hội nghị thành lập Đảng mới bầu Ban Chấp hành Lâm thời do Trịnh Đình Cửu đứng đầu. Hiện nay công bố được 7 người trong hội nghị Đảng ở Hương Cảng (tháng 1 - 2/1930) là Nguyễn Ái Quốc, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Châu Văn Liêm, Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Thiệu... Thực ra ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam không phải là ngày 3/2/1930 mà bây giờ gọi là ngày kỷ niệm thành lập Đảng.
Hội nghị tháng 5/1929 gặp khó khăn do bất đồng quan điểm nên đoàn đại biểu Bắc Kỳ bỏ về và lập Đông Dương Cộng sản Đảng; rồi lần lượt các tổ chức cộng sản còn lại cũng được thành lập. Nhưng rồi các tổ chức này mâu thuẫn và bất đồng lẫn nhau vì cả ba tổ chức này ở cả ba kỳ đều tuyên bố muốn đi theo Quốc tế Cộng sản và đề nghị Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình; ảnh hưởng rất lớn đến việc tập hợp lực lượng. Lúc này vai trò của Nguyễn Ái Quốc rất to lớn (lúc này Người đang ở Xiêm) nên Người nhận được thư của Quốc tế Cộng sản gửi vào ngày 27/10/1929: "Nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản có tính chất quần chúng ở Đông Dương. Đảng đó chí có một và là tổ chức duy nhất ở Đông Dương" (Văn kiện Đảng toàn tập). Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản thì Nguyễn Ái Quốc lập tức trở về Hương Cảng và triệu tập Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản. Việc Hội nghị thành lập Đảng diễn ra vào ngày 6/1/1930 chứ không phải ngày 3/2/1930 vì trong thư gửi Quốc tế Cộng sản ngày 18/2/1930, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Chúng tôi họp vào ngày mồng 6-1. Với tư cách phái viên của QTCS có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương, tôi nói cho họ biết những sai lầm và họ phải làm gì. Họ đồng ý thống nhất vào một đảng. Chúng tôi cùng nhau xác định cương lĩnh và chiến lược theo đường lối của Quốc tế Cộng sản… Các đại biểu trở về An Nam ngày 8-2” (Văn kiện Đảng toàn tập) - sau này Đại hội III cho biểu quyết và cuối cùng chọn ngày 3/2 làm ngày thành lập Đảng mà không phải ngày 6/1. Nếu để ý một chút câu từ thì đã có sửa đổi ngày 3/2 là ngày kỷ niệm thành lập Đảng; bởi vì đã lỡ công bố ngày 3/2 và ngày 3/2 đã ăn sâu vào tiềm thức và tình cảm của nhân dân Việt Nam, ngày 6/1 có khi lại quên mất. Trung ương Đảng lý giải: tháng 1 với tháng 2 vẫn là mùa xuân cho nên quyết định là ngày 3/2; nhưng thêm từ là "ngày kỷ niệm" chứ thực ra ngày Nguyễn Ái Quốc khai mạc Hội nghị thành lập Đảng rồi
Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong Đảng thì có năm điểm lớn:
+ Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản ở Đông Dương;
+ Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam;
+ Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược của Đảng;
+ Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;
+ Cử một Ban Trung ương lâm thời gồm chín người, trong đó có hai đại biểu chi bộ cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương”.
Hội nghị đã nhất trí thống nhất các nhóm cộng sản thành lập Đảng, lấy tên là ĐCSVN. Hội nghị cũng thông qua các văn kiện do lãnh tụ NAQ soạn thảo. Đó là Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của ĐCSVN. Trong năm điểm lớn này, Người nhấn mạnh vấn đề đầu tiên vì muốn nói đến vấn đề đoàn kết, nhất trí trong nội bộ những người làm cách mạng vì "9 người 10 ý", phải quy tụ và tập hợp trước cái đã. Trong Hội nghị thành lập Đảng, Bác không gọi là "Cương lĩnh" mà khi công bố tại Hội nghị, Bác chỉ nói là "Chính cương vắn tắt"; "Sách lược vắn tắt"; Hội nghị nhất trí gọi tên là "Cương lĩnh chính trị" đầu tiên của Đảng vì đây là công trình của tập thể.
* Nội dung Cương lĩnh:
-Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
-Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng.
.Về chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông.
.Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ.
.Về văn hóa – xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền, v.v; phổ thông giáo dục theo công nông hóa.
.Về lực lượng cách mạng: Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến; phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia; phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng lập hiến v.v.) thì phải đánh đổ.
.Về lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng; trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào con đường thỏa hiệp.
.Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp
=> Trong nội dung Hội nghị, phương hướng chiến lược là làm "tư sản dân quyền cách mạng" vì: trong trường hợp Việt Nam đang là thuộc địa của đế quốc Pháp nửa phong kiến, "giải phóng dân tộc, chống phong kiến"; mà "chống phong kiến" là nguyên chất của cuộc cách mạng tư sản trên thế giới, nhưng khi thành công thì các cuộc cách mạng tư sản này lại thiết lập chính quyền tư sản và một số giá trị phong kiến vẫn còn giữ lại. Việt Nam là một quốc gia phong kiến, nguyên chất của cuộc cách mạng vô sản đầu tiên là cách mạng tháng Mười Nga - bản chất của cách mạng vô sản là chống đế quốc tư bản. Việt Nam bị đế quốc Pháp xâm lược nên vừa mang tính chất, nhiệm vụ của cách mạng tư sản chống phong kiến, vừa mang tính chất nhiệm vụ của cách mạng vô sản chống đế quốc nên Bác quyết định gộp cách mạng tư sản và cách mạng vô sản thành "tư sản dân quyền". Việt Nam vừa chống đế quốc, vừa chống phong kiến đê xây dựng chính quyền mới nên tập hợp sức mạnh nhân dân. "Dân quyền" trong cách mạng tư sản dân quyền cách mạng là thay cho cụm từ "vô sản" mà để khẳng định cuối cùng là chính quyền của dân, quyền lợi nơi dân. "Về chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến" của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Bác mà sau này Luận cương tháng 10/1930 lại nêu vấn đề đánh phong kiến trước (sau đó phải họp gấp để sửa sai); chống phong kiến trước vì ruộng đất là cái quan trọng và nông dân chiếm đa số, nhưng không làm được là vì cả phong kiến triều Nguyễn còn chấp nhận sự thống trị của Pháp (ký hiệp ước đầu hàng mà sau này vua Nguyễn thú nhận: vì quyền lợi dòng họ - vua không ký không được vì Pháp rất mạnh; chính quyền thuộc địa đều là người Pháp, vua là "hữu danh vô thực" và ông ta buộc phải trao quyền "riêng tư" của mình cho Pháp). "Về chính trị: đánh đổ đế quốc và phong kiến" (sau này Luận cương Trần Phú đảo ngược lại, đến 1936 - 1939 mới sửa sai kịp - giải quyết vấn đề dân tộc, dân chủ một cách đúng đắn và phù hợp. Đến hội nghị tháng 11/1939 thì vấn đề độc lập dân tộc được nổi rõ). Công nông là động lực của cách mạng, nhưng Bác vẫn quy tụ và kêu gọi chứ không phải kêu gọi tư sản vào làm cách mạng đâu - ý của Bác Hồ là nghiêng về tổ chức lực lượng, đại đoàn kết dân tộc
Giá trị thực tiễn của Cương lĩnh 1930 rất lớn: vai trò của Đảng Cộng sản vẫn là duy nhất (1951 đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam, Đại hội IV mới trở về tên gọi cũ). Ý nghĩa thực tiễn lớn nhất chính là quan hệ quốc tế: ngay từ phần đầu của Cương lĩnh, Bác đã đề cập đến vấn đề quan hệ quốc tế rộng mở, kể cả nhân dân nước Pháp và nhân dân các nước tiến bộ. Bác còn đề cập đến vấn đề thu phục các giai cấp trong xã hội: học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ; thậm chí là trung lập họ ra sao. Tìm mọi cách để thu phục không để họ rơi vào tay đối phương. Bác dùng nghề nghiệp, công việc của từng giai tầng để goi tên, thu phục họ vào lực lượng cách mạng cho dân chúng dễ hiểu (chứ gọi là trí thức thì họ không hiểu đâu); những câu từ trong Cương lĩnh thì Bác lấy từ Đường kách mệnh và để nguyên xi không thay đổi.
3. Hồ Chí Minh với sự phát triển của cách mạng Việt Nam trong tiến trình lịch sử dân tộc
3.1. Hồ Chí Minh với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
3.1.1. Vai trò của NAQ thời kỳ 1930-1941
"Đây là giai đoạn đau buồn nhất của tôi " như Bác Hồ thú nhận. Mọi người không hiểu Bác buồn chuyện gì, tưởng Bác buồn chuyện riêng tư thì Bác nói: "riêng tư cũng có, nhưng mà cái quan trọng mà chuyện buồn đồng chí, tổ chức của minh hiểu sai; hiểu sai về Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh lúc bấy giờ". Thứ nhất thuộc về riêng tư là vì bố của Bác Hồ mất, được báo tin và Bác khóc thầm và xin lỗi, tạ tội với cha mình không về được, nhưng cha hãy hiểu - cũng là vì nước, vì dân; Người cốt phải xa Tổ quốc đi tìm chân lý cứu nước, chân lý cách mạng như cha đã dặn con. Bác kể và Bác hứa với cha: sau này đất nước được độc lập, nhân dân ta thực sự làm chủ, con sẽ tìm thăm cha. Có hai lần là Bác về khi Bác còn là Chủ tịch nước, Bác đang bệnh. Có thước phim ghi lại Bác quỳ xuống trước mộ ông Cả Khiêm cũng để tạ lỗi; mà chúng ta nhớ lại ngày giỗ Mẹ thì Bác không bao giờ quên đâu, Bác tự làm giỗ - cho nên trong cái buồn của Bác khi ra đi, Vũ Kỳ trình Trung ương Đảng thì có túi vải có mấy đồng bạc, hộp gỗ giữ hình Bà Hoàng Thị Loan đã rất cũ, mỗi lần giỗ thì Bác mang cái hình ảnh nhỏ xíu của Mẹ ra: có lúc chỉ là mấy viên kẹo, miếng bánh và Bác làm giỗ chọ Mẹ như thế. Bác mất người thân ngay lúc các chiến dịch cận kề diễn ra như thế; chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra mà mãi đến 1957 Bác mới về được (có hai bức điện ở tỉnh uỷ Nghệ An gửi ra Bác báo tin người thân của Bác mất, Bác khóc. Cái riêng của Bác thì cũng có một chút, đó là Bác nhớ về Lê Thị Huệ với lời hứa: khi không về thì thôi, một khi đất nước độc lập thì hãy vẽ mà tìm thấy nhau. Nhưng vấn đề quan trọng ở chỗ Bác buồn là: giai đoạn 30 - 31, trong phong trào Cộng sản quốc tế có sự bất đồng; phê phán Nguyễn Ái Quốc theo chủ nghĩa dân tộc và phê phán cả Cương lĩnh đầu tiên. Trong Hội nghị tháng 10/1930 yêu cầu phải đưa giai cấp lên trước, ruộng đất, vấn đề chống đế quốc; thậm chí có ý kiến đòi thủ tiêu Cương lĩnh đầu tiên nhưng rất may ý kiến đó là thiểu số. Cũng trong hội nghị tháng 10/1930, nhiều khi người chủ trí hội nghị không có quyền quyết định ý kiến cuối cùng, ý kiến của Trần Phú chỉ là thiểu số; đến nỗi sau này Bác còn nói: các đồng chí ơi, không tin tôi nữa thì hãy nhìn những gì tôi làm. Bác phải để dành tiền để hoạt động cách mạng và cuộc sống hàng ngày của mình. Vụ Tống Văn Sơ: Bác bị bắt, được giải thoát bởi luật sư người Anh là F. Loseby vì Pháp còn can thiệp - hãy bán Tống Văn sơ cho Pháp vì Pháp để sẵn bản án tử hình rồi, về sau Bác thoát được về nước rồi lại đi sang Trung Quốc và bị giam trong 33 nhà tù Tưởng Giới Thạch (tác phẩm "Nhật ký trong tù"), sau đó rất may Bác đã về được. Chúng ta còn nhớ khởi nghĩa Bắc Sơn (9/1940) và khởi nghĩa Nam Kỳ tổn thất rất nặng nề, bị lộ vì lệnh hoãn khởi nghĩa của Trung ương Đảng vào không kịp; bị Pháp khủng bố đẫm máu. Bác về và nói: chiến đấu mà, có lúc tổn thất xương máu, chứ cuộc cách mạng nào cũng có đổ máu.
3.1.2. Hồ Chí Minh người tổ chức và lãnh đạo thành công cuộc cách mạng Tháng Tám
Trong lúc Nguyễn Ái Quốc đang trên đường về nước, hội nghị Trung ương Đảng họp ở Bà Điểm, Hóc Môn (11/1939); hội nghị tháng 11/1940 ký lệnh hoãn khởi nghĩa ở Nam Kỳ, nhưng lệnh hoãn vào Nam Kỳ không kịp. Bác biết là sẽ còn khởi nghĩa tiếp theo như dây chuyền, và tổn thất sẽ còn lớn hơn; hơn nữa Trung ương Đảng lúc này cũng chưa có chính quyền chung cho cả nước.
Khi Bác về nước thì có nhiều giai thoại khi Bác ở hang Pác Bó vẫn còn câu thơ của Bác: Sáng ra bờ suối, tối vào hang/ Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng/ Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng/ Cuộc đời cách mạng thật là sang. Con suối thì Bác đặt là "suối Lê-nin" (tên gốc là "suối Giàng", tiếng Tày - Nùng nghĩa là suối trời) và "núi Các Mác" (tên gốc là "núi Đào"). Bác còn tạc tượng Các Mác và có ý kiến cho rằng Bác rất phong thuỷ. Bác tận dụng "bàn đá chông chênh dịch sử Đảng" (tức Bác dịch văn kiện Đảng Cộng sản Liên Xô sang tiếng Việt để đúc kết kinh nghiệm, dày gần 800 trang). Tại Pác Bó, Bác quan sát được tứ hướng, bước 1 bước thôi là sang Trung Quốc. Bác bảo bí mật là trên hết, nên nhiều đồng chí ngại Bác gian khổ nhưng Bác bảo: Gian khổ thì có khó gì, quan trọng là bí mật để không bị lộ - nên "bí mật" là nguyên tắc làm việc của Bác Hồ được đặt lên hàng đầu (có giai đoạn Đảng ta tuyên bố tự giải tán). Bác nói: gấp rút lắm rồi, ba bốn năm nữa thôi chúng ta sẽ giành chính quyền về tay nhân dân. Ba bốn năm thì phải chuẩn bị, thậm chí Võ Nguyên Giáp từng kể những ngày tháng ở bên Bác, Bác hỏi: đã thành lập đội quân Quốc gia chưa ? Võ Nguyên Giáp trả lời: Dạ chưa. Bác bảo: chiến đấu phải có quân đội Quốc gia mới giải phóng giành độc lập được dù nhỏ, dù vũ khó còn lạc hậu, thế thôi. Lực lượng toàn dân đã có, vậy thì quân đội đâu ? sau khi Hội nghị VIII kết thúc không lâu, công tác chuẩn bị được khẩn trương và đến năm 1944 lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân; rồi Bác lại "chuẩn bị những gì cho Tổng khởi nghĩa; khởi nghĩa như thế nào" cũng được bàn bạc rất kỹ. Trong Hội nghị VIII thành lập riêng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa cuộc giải phóng dân tộc lên hàng đầu (toàn thể dân tộc, mãi mãi kiếp ngựa trâu cũng không giành lại được; quyền lợi giai cấp mãi mãi không đòi lại được). Hội nghị VIII kết thúc ngày 19/5/1941 cũng là biểu quyết ngày đại đoàn kết toàn dân tộc, Bác tổ chức sinh nhật vào ngày này để tưởng nhớ ngày đại đoàn kết toàn dân tộc (đoàn kết là sống, chia rẽ là chết); ngày sinh nhật Bác là ngày biểu quyết thành lập Mặt trận Việt Minh trong Hội nghị VIII.
Trong Hội nghị VIII, Bác nói: mỗi dân tộc, mỗi quốc gia có đặc tính riêng, chưa kể quyền tự quyết của mỗi dân tộc. Để quy tụ "mỗi nhà mỗi cảnh" cho đoàn kết cho đông đảo, cho chặt chẽ, cho mạnh mẽ thì thành lập riêng mỗi mặt trận khác nhau - Việt Nam Độc lập đồng minh, của riêng Việt Nam. Ngoài ra, Mặt trận này không chỉ đoàn kết với ba nước Đông Dương chống kẻ thù chung mà còn mang ý nghĩa đối ngoại, tức là Việt Nam đang là đồng minh với những dân tộc nào có cùng số phận với mình trên thế giới; cho nên đọc kỹ Mười chính sách của Việt Minh có cả đối ngoại, đối ngoại ở đây không chỉ gồm hai nước Lào và Campuchia. Tầm nhìn của Bác Hồ rất rộng, cho nên sau này tướng Pháp là P. Leclerc đã thốt lên: Tôi khâm phục Bác Hồ. Khâm phục gì ? Cái Mặt trận Việt Minh do ông thành lập chỉ có kêu gọi những phần tử nghèo khổ mà đến cả một giai cấp, dân tộc; kể cả các dân tộc cùng số phận với mình trên thế giới - Leclerc ghi nhận đến mức độ đó: Tầm nhìn đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội nghị VIII được coi là "hoàn chỉnh chiến lược cách mạng" đã đề ra từ Hội nghị VI vào năm 1939 cho đến 1941. Nó hoàn chính ở chỗ: chưa có hội nghị nào bàn kỹ về vấn đề thành lập quân đội, hình thức khởi nghĩa, thành lập chính phủ và đặt tên riêng của mỗi nước: khởi nghĩa từng phần, khởi nghĩa từng bộ phận để tiến lên Tổng khởi nghĩa.
Bước sang đầu năm 1945, mâu thuẫn Nhật - Pháp ở Đông Dương nói chung rất gay gắt. Nhật nhảy vào Đông Dương ngày 22/9/1940 (sự kiện Lạng Sơn và khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra) vì nó nhòm ngó Đông Dương và Việt Nam từ lâu rồi. Ngày 1/9/1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và quân Pháp tham chiến chống phát xít. Tháng 6/1940 Pháp thua Đức (Đức sau đó còn đánh cả Liên Xô), lúc bấy giờ Nhật hành động rất nhanh: anh (tức Pháp) thua Đức nên anh buộc phải mở cửa Đông Dương cho tôi (tức Nhật) vào để cùng thống trị. Nhật hành động rất nhanh trong tình thế Pháp bắt buộc ở tình thế không có lợi. Thất thế rồi, lúc bấy giờ Pháp đã thua mà còn (Pháp xem như bí phương hướng đối phó với tình hình), buộc tình thế Pháp phải mở cửa cho Nhật mà sau này Pháp thú nhận là "chúng tôi không muốn đâu", làm gì có chuyện chia sẻ - hai phe đối lập, chẳng phải đồng minh nhưng bởi vì Pháp đang thua phát xít. Ngay lập tức tháng 8/1940, Nhật và Pháp ký với nhau bản hiệp ước để cho Nhật vào Đông Dương, cùng cấu kết với Pháp thống trị. Đến mức độ mà chúng ta nhận định: Nhật và Pháp cấu kết với nhau nhưng trong lòng của nó luôn luôn là tức tối và mâu thuẫn - đây là một yếu tố mà Bác Hồ nhận định được ngay: Chúng ta còn phải tìm cách khoét sâu mâu thuẫn Nhật - Pháp bởi vì thực chất Nhật và Pháp không ưa gì nhau mà buộc tình thế Pháp phải mở cửa. Trong Tuyên ngôn độc lập (1945), Bác còn vạch trần là Pháp mở cửa cho Nhật vào mà thực chất là Pháp thất thế rồi và chúng đang tìm cách đẩy Nhật ra khi có thế trở lại. Nhưng chưa kịp làm thì Nhật ra tay luôn: lần này nó không còn bí mật mà nó đảo chính luôn vào đúng nửa đêm buộc Pháp nhanh chóng rời khỏi Đông Dương; sau này phía Pháp còn trách Nhật: sao chú hèn thế; tôi mở cửa cho chú vào rồi chú đánh tôi không nói trước - vì tình thế lúc này nghiêng về phe đồng minh trên chiến trường Đông Nam Á; chiến đấu để bổ sung lực lượng chống phát xít cho mạnh lên; nhưng nhiệm vụ chính không phải phân chia thuộc địa mà là đấu tranh giành độc lập cho đất nước, chiến đấu để bổ sung lực lượng chống phát xít cho mạnh lên rồi đánh thẳng vào sào huyệt buộc quân Đức đầu hàng vô điều kiện. Khi vào chính thức thống trị Đông Dương, Nhật giữ nguyên chính sách thống trị của Pháp nhưng phải chấp nhận bổ sung thêm chính sách của Nhật, và Pháp phải đồng ý. Nhật cho trồng cây đay để làm bao bố nộp cho chúng; dẫn đến tội ác của giặc là nạn đói.
Trở về với tình thế bắt buộc: Pháp chủ quan nên đầu năm 1945, Nhật trở tay đuổi Pháp đi; nhưng ta chưa Tổng khởi nghĩa ngay (mà sau này Bác Hồ còn kể lại chuyện này với tướng Giáp: ít tốn kém mà giành thắng lợi nhanh chóng). Theo Lenin, thời cơ cách mạng có ba điều kiện: kẻ thù suy yếu; sự chuẩn bị đầy đủ (bên ta là chuẩn bị chưa đầy đủ: tháng 3 - 5/1945 liên tục các hội nghị quân sự họp; tháng 5/1945 Việt Nam Giải phóng quân sát nhập với Cứu quốc quân thành lập Việt Nam Giải phóng quân); lực lượng của quần chúng nhân dân sẵn sàng (bên ta là quần chúng nhân dân chưa sẵn sàng, vì đầu năm 1945 đói lớn nên khởi nghĩa là thất bại. Bác Hồ triệu tập nhiều cuộc họp, thậm chí là cuộc họp lúc nửa đêm chỉ để học chữ "Nhẫn"; Bản chỉ thị 12/3/1945 được Bác đánh giá rất cao - học chữ "Nhẫn", đây là cơ hội để ta nổi dậy diệt quân Nhật giải phóng dân tộc đỡ một ngày, một giờ). Kể cả khi Nhật đầu hàng, hội nghị Tân Trào họp bàn kỹ lưỡng về kế hoạch Tổng khởi nghĩa; thế mà ngày 16/8/1945 Bác Hồ nhận định: thời cơ chưa đến. Đại hội Quốc dân (16/8/1945) ở Tân Trào được ví như một "Quốc hội" đầu tiên - bầu ra Uỷ ban lâm thời đầu tiên; cho nên ngày 2/9/1945 là ngày công bố Uỷ ban Lâm thời này - tầm nhìn của Bác: muốn lập chính phủ là phải có biểu quyết, phải có căn cứ về mặt pháp lý. Khi công bố, vì chưa qua dân mà chỉ nội bộ lãnh đạo nên mới có Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 - đó là cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên mà dân bầu và thế giới phải ghi nhận: có Quốc hội, có Hiến pháp (căn cứ pháp lý - vai trò của Bác Hồ); căn cứ pháp lý này chứng tỏ Chính phủ mới đã được nhất trí trong hội nghị Tân Trào rồi (Quốc ca, Quốc kỳ).
Về bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 được Bác viết trong những ngày cuối tháng 8, trong đó Bác nói rõ chính quyền giành được từ tay Nhật, vận dụng hai bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ; tuyên bố: "toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần, lực lượng... để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy". Trước đó Bác cũng khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập". Khi phe phát xít sắp thất bại, đồng minh tổ chức hội nghị Cairo và Bác Hồ nắm được tin này rất nhanh: đồng minh là ai, đồng minh có tử tế không ? Có ý kiến cho rằng, Việt Nam giành được độc lập là nhờ quân đồng minh - phải hiểu Việt Nam mở cửa đón tiếp đồng minh trong tư thế chiến thắng, tay sai không dám chống cự (Bác nói cho toàn thế giới biết)
3.2. Hồ Chí Minh lãnh đạo đất nước vượt qua giai đoạn khó khăn, giữ vững chính quyền trong những năm 1945 - 1946
Tại sao Bác lại khẳng định giai đoạn này là "ngàn cân treo sợi tóc" - ý nói chính quyền "mong manh như sợi tóc". Phía Bắc là quân Tưởng mang theo bọn tay sai đòi lật đổ Chính phủ Hồ Chí Minh, phía Nam là quân Anh, 6 vạn quân Nhật ở Việt Nam /10 vạn quân Nhật ở Đông Dương. Thậm chí viên tướng của quân Tưởng còn yêu cầu Chính phủ ta phải "mở cửa" cho chúng vào - nào là yêu cầu ta cho ghế Quốc hội, cho ghế Phó Chủ tịch, cho 4 ghế Bộ trưởng. Ở phía nam thì Anh vào, Pháp đã có mặt ở Nam Bộ; lúc này Chủ tịch Uỷ ban hành chính kháng chiến Nam Bộ là Trần Văn Giàu phát động Nam Bộ kháng chiến chống Pháp khi chưa có lệnh của Bác Hồ và Chính phủ. Bác Giàu kể lại: lo lắm các con, nhưng không thể không làm được vì nó đã xảy ra rồi; quyết định 7 giờ sáng ở hội nghị Cây Mai phát động kháng Pháp luôn. Có ngờ đầu, Chính phủ và Bác Hồ gửi thư khen ngợi Bác Giàu: năng động, nhanh nhạy, quyết đoán. Bác Hồ biết là đã có chiến tranh, Bác đọc Tuyên ngôn thì đúng 21 ngày sau giặc trở lại xâm lược vì chúng cay cú bị Nhật cướp mất "miếng mồi béo bở" Việt Nam, chứ Đông Dương vẫn là "thuộc địa" của Pháp. Nhưng giặc nội xâm không kém gì giặc ngoại xâm "độc lập rồi mà dân không được hưởng thì độc lập còn có nghĩa lý gì" (Hồ Chí Minh). Trong cứu đói cho dân, Bác lập "hũ gạo cứu đói" và "ngày đồng tâm" vì có nhiều gia đình rất đói, không còn gì để ăn; Bác luôn kiểm tra và quan sát việc thực hiện "ngày đồng tâm" ở các địa phương; nhà nhà đều có hũ gạo của "ngày đồng tâm"; Bác dặn đừng "ăn cù", trưa nay hai lon chia ra, chiều nay hai lon chia ra giúp cho việc tiết kiệm. Bác thực hiện nghiêm lắm, nên nhiều người thấy Bác gầy. Sau cách mạng tháng Tám, Bác gầy đến mức anh chị mình còn không nhận ra nữa, nghe tiếng thì mới nhận ra em mình; có lần Bác bệnh rất nặng nhưng dặn Võ Nguyên Giáp: Dù phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải quyết tâm thắng giặc. Bác bị bệnh sốt vàng da rất nặng, được ông thầy lang cho uống thứ lá nấu với nước và ăn cháo trắng nên mới hạ cơn sốt - Bác bảo: đông y phải kết hợp với các loại đông y khác tạo ra rất nhiều ngành y khác. Bác bệnh nặng nên khi đọc Tuyên ngôn độc lập ở quảng trường Ba Đình, Bác hỏi: đồng bào nghe tôi nói có rõ không ? Cả quảng trường 50 vạn người lắng nghe Bác không có một tiếng động, khiến Bác tưởng micro bị hư. Thứ hai, Bác bị bệnh mà soạn bản Tuyên ngôn thiêng liêng như thế nên Bác dừng lại: tôi thử cả micro (đồng bào nghe tôi nói có rõ không ?). Cả khán đài cùng nói: Rõ ạ ! rất xúc động. Bác nghi ngờ micro, âm thanh chuẩn bị chưa tốt; nhưng cả khán đài nói vậy là Bác biết rồi; Bác cẩn thận mặc dù sức Bác yếu. Xong việc là Bác liên tục hoá trang vì "diệt Đảng cầm Hồ" của bọn tay sai và ngoại xâm. Hồi 1945, các chiến sĩ ăn nuôi bốc thăm làm bữa ăn cho Bác vì Bác thực hiện nghiêm "ngày đồng tâm" nên sức khoẻ Bác yếu nhiều (3 ngày nhịn 1 bữa, đến ngày thứ 10 Bác mới ký quyết định). Ngày thứ 10 là Bác ký quyết định, đúng vào ngày thực hiện "ngày đồng tâm": Bác vẫn ăn cơm đúng giờ, vừa ăn vừa làm việc. Lúc Bác làm việc thì có đồng chí lay gọi Bác ăn khiến Người giật mình: đừng tưởng Bác ngồi trong này mà dân không biết - lòng tin của nhân dân là chính từ phong trào "ngày đồng tâm" này. Khi được anh chiến sĩ khuyên giải, Bác mới dịu lại và đi ăn, đồng thời Bác còn nhắn nhủ về lòng tin với nhân dân cho người chiến sĩ đó nghe. Một lần khác, Bác có máy lạnh do bên Bộ Ngoại giao biếu tặng, Bác nhã nhặn từ chối và quyết định tặng cho bệnh viện (xem thước phim: Hồ Chí Minh - chân dung một con người). Đến nỗi Bác trở về, chưa được nghe câu hò xứ Nghệ, chưa được nghe câu hò xứ Huế.
Sau nhiều lần hoà hoãn bất thành, quân Pháp liên tục gây hấn với quân ta trên chiến trường Bắc Bộ. Chúng liên tục đổ quân xuống các khu vực ở Bắc Bộ, nhất là các thành phố lớn và bắn đại bác liên tục. Nửa cuối tháng 12/1946, Pháp còn gửi tối hậu thư buộc Đảng và Bác Hồ phải giao Hà Nội cho Pháp; cho suy nghĩ trong đêm 17 và 18 rồi mới trả lời. Lúc bấy giờ ở đấy mà nhân nhượng là chết, nên Trung ương Đảng ra lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến (hiện vẫn còn bản gốc).
Văn bản "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" được coi như là đã thể hiện những nội dung chính về đường lối kháng chiến chống Pháp của cả nước. Hai tác phẩm là "Chỉ thị Toàn dân kháng chiến" và "Kháng chiến nhất định thắng lợi" là thành tựu của Đảng, không phải của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ba văn kiện "Chỉ thị Toàn dân kháng chiến", "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" và "Kháng chiến nhất định thắng lợi" được coi là đường lối kháng chiến chống Pháp. Mở đầu "Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" có câu: "Hỡi đồng bào toàn quốc ! Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng... vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa". Đoạn đầu tiên này đã đánh giá được tư tưởng, quan điểm, phong cách của cụ Hồ là: chúng tôi không muốn chiến tranh, chúng tôi đã hết lòng ký các bản Hiệp ước và Tạm ước trước đó rồi, nhưng Pháp vẫn vi phạm; cuộc chiến này là cuộc chiến chính nghĩa của một dân tộc không muốn chiến tranh, một dân tộc thể hiện yêu chuộng hoà bình. Đoạn kế: "Không ! Chúng ta thà hi sinh tất cả.... làm nô lệ" (chứng minh qua các trận đánh); "Hỡi đồng bào ! Chúng ta phải đứng lên ! Bất kỳ đàn ông, đàn bà..." là muốn trở về cội nguồn dân tộc Việt Nam, dùng từ Việt rất dân dã - lời kêu gọi cả dân tộc Việt Nam (toàn dân) - trong suốt cuộc kháng chiến, mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là pháo đài, mỗi người nông dân là chiến sĩ (đoàn kéo pháo ở Điện Biên Phủ), thể hiện một dân tộc "có gì đánh đấy" (ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm...); cuốc, thuổng còn được dùng ở mặt trận Điện Biên Phủ là làm "giao thông hào" đến nỗi Navarre và De Castries phải ngỡ ngàng: con đường nào đây ? các ông đào từ bao giờ ? Đến nỗi chiều ngày 7/5/1954, đọc "Hồi ký Điện Biên" có tổng chỉ huy Navarre đầu hàng; ta mới nói: các ông đào từ khi nào, đào từ bao giờ mà khi tôi chọn Điện Biên Phủ ? Pháp chọn chiến trường mà, ta đâu có chọn đâu ? Điện Biên Phủ rất đặc biệt, và Pháp biến nơi này thành một pháo đài bởi vì Pháp tin tưởng vào dollars của Mỹ, nhưng thực ra Mỹ không có "cho không biếu không". Pháp rất ngỡ ngàng vì chiến trường này được chúng chọn, "hãy bật mí cho chúng tôi là các con đường này, các ông làm bằng cách nào ? " tướng Giáp chỉ "dùng cuốc với xẻng". "các ông thua rồi, các ông ôn lại lịch sử truyền thống Việt Nam là nước nông nghiệp, con em nhà nông nên đào là chuyên nghiệp rồi - đây là con đường dẫn đến thắng lợi, khẳng định mưu lược của tướng Giáp trong trận Điện Biên Phủ (câu chuyện về đổi chiến thuật đánh trận, câu chuyện các chiến sĩ kéo pháo). Khi chiến thắng, Bác ôm tướng Giáp khóc như mưa: chọn tướng không nhầm người. Bác và tướng Giáp trở thành dân ta. Trước khi Bác Hồ mất thì Bác thèm nghe câu hò xứ Huế, xứ Nghệ và được cô y tá (tên thật là Ngô Thị Oanh) hò một bài hò xứ Nghệ "Người ơi Người ở đừng về" (sau này nhạc sĩ (nguyên Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin) là Trần Hoàn phổ nhạc thành bài hát "Lời Bác dặn trước lúc đi xa"), trên giường Bác nằm loang lổ nước mắt của sáu vị bác sĩ cấp cứu cho Bác; đến 9g47 phút, Bác rung lên (Bác quá gầy) cũng là lúc Bác ra đi. Tướng Giáp sau khi dự hội thảo Điện Biên Phủ về (hồi 2004) cũng được Navarre ca ngợi hết lời, tướng Giáp bảo đúng và "đất nước dân tộc chúng tôi không có vũ khí mà phải nghĩ cách, thậm chí là cách đánh du kích". Trong trận Điện Biên Phủ, 1 kg gạo đi đường trong 1 ngày thì người lính của ta phải ăn hết 20 kg, máy bay địch bay vòng vòng trinh sát. Cuối "lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến" Bác lại ghi là "Việt Nam độc lập và thống nhất". Trong kháng chiến chống Pháp diễn ra quyết liệt, Đại hội II của Đảng họp ở Tuyên Quang; bản Chánh cương của Đảng Lao động Việt Nam bổ sung kẻ thù chính là thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, địa chủ nông thôn và tay sai.
Pháp sẽ rời khỏi Đông Dương, Mỹ sẽ vào, Mỹ không ký hiệp định Genève mà chúng ký vào bản tuyên bố riêng; nhưng trước khi ký hiệp định thì vào ngày 25/6/1954 Mỹ đưa Ngô Đình Diệm vào miền Nam Việt Nam lập chính quyền Sài Gòn tay sai. Ngô Đình Diệm được sắp xếp từ A đến Z, ngang nhiên phá hoại hiệp định ký kết - sự kiện này chứng minh lời nhận định của Bác trong "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" là chính xác nên Bác mới dùng từ "và thống nhất". Sau Genève, miền Nam đấu tranh chính trị đòi thi hành hiệp định, tổng tuyển cử đòi thống nhất hai miền Nam - Bắc nhưng Mỹ từ chối (Bác đã nhận định từ trước đó, 1946). Kháng Mỹ thì miền Bắc là hậu phương, miền Nam là tiền tuyến với mục tiêu chung là thống nhất đất nước với "Lời kêu gọi toàn quốc chống Mỹ" năm 1967. Năm 1960, Đại hội III của Đảng họp ra đường lối kháng Mỹ cứu nước với hai nhiệm vụ. Theo lời khuyên của Liên Xô: đánh giặc thành công rồi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội, Bác về bàn bạc lại và quyết định đường lối hai nhiệm vụ - miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm mục đích: tạo tiền đề mô hình chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, khi thành công thì đã có mô hình chủ nghĩa xã hội miền Bắc (đến 1986 chúng ta mới xây dựng chủ nghĩa xã hội - mô hình công nghiệp hoá là trở về với 1960; Bác nói rõ nông nghiệp và công nghiệp cái nào làm trước). Bác nói rõ: chúng ta là một nước nông nghiệp, nên phải đẩy mạnh làm từng bước, chớ chủ quan nóng vội. Đẩy mạnh nông nghiệp và công nghiệp để tạo tiền đề (làm từng bước); Bác nêu luôn cả cương lĩnh của xã viên, hợp tác xã. Bác cũng dùng "kinh tế nhiều thành phần" từ năm 1960; nhưng sau năm 1975 thì quên lời Bác dặn mà đi theo mô hình của Liên Xô mà Bác cũng nói: Hai chân đi khoẻ đi đều thì sẽ thành, nhưng Đại hội IV làm ngược lại: cứ là công nghiệp nặng công nghiệp nặng mà quên rằng, Bác học tập từ "Chính sách kinh tế mới" của Lenin (1921). Xây dựng chủ nghĩa xã hội thì miền Bắc đã có kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm từ chiến tranh càng quý hơn; Bác cũng nói tiếp: Xây dựng chủ nghĩa xã hội là con người "xã hội chủ nghĩa".