con đường tơ lụa 3

CON ĐƯỜNG TƠ LỤA

BÚT KÝ

Xa Mộ Kỳ

Người dịch: NGUYỄN PHỐ

----o0o---

16. TỪ LÒNG CHẢO TOLOPHAN ĐẾN LÒNG CHẢO TARIM

KHO GIÓ

Rời Tolophan đi về hướng tây, chiếc Jeep của chúng tôi vừa ra khỏi vùng lục châu thì tăng tốc lên 100 km/giờ.

- Tại sao cho xe chạy nhanh như vậy? - tôi hỏi anh tài xế.

Trước mặt ta là cửa gió, cần phải chạy nhanh để vượt qua. Nếu gặp gió lớn, chiếc xe nhỏ của chúng ta, nói tội trời, sẽ bị gió thổi lật nhào. Anh nói, năm 1977, gió lớn thổi trên cấp 12 đã làm đổ một đoàn tàu trống đậu tại ga. Đá trên sa mạc Gôbi bị gió thổi lăn lốc. Có khi cát bay đá chạy, cửa xe bằng kính sẽ vỡ như chơi.

Anh tài xế lớn tuổi này hoàn toàn không nói quá sự thực. Theo những ghi chép của Sở Khí tượng, ngày 19 tháng năm năm 1977, trên tuyến đường sắt Tolophan có lần đã trải qua một trận cuồng phong với tốc độ gió 50m/giây. Phàm tốc độ gió 32,6m/giây gọi là gió cấp 12, còn tốc độ vượt quá 50m/giây thì gọi là cuồng phong.

Lòng chảo Tolophan đúng là một “kho gió”. Ngày có gió lớn trên cấp 8, hàng năm có đến ba, bốn mươi ngày như vậy. Kỷ lục cao nhất ở huyện Tolophan có khi lên đến 68 ngày, ở huyện Thác Khắc Tốn lại càng nhiều hơn, cao nhất 86 ngày. Chúng tôi đi lên phía tây tất phải qua Thác Khắc Tốn, thảo nào anh tài xế phải luôn luôn đề cao cảnh giác.

Tại sao Tolophan đã có gió to mà lại là “kho chứa gió” nữa. Nguyên nhân chủ yếu là do áp thấp nhiệt của lòng chảo Tolophan và áp khí sai lệch rất lớn sản sinh từ ngoài lòng chảo thường tạo thành dòng đối lưu không khí cực mạnh.

Không khí nóng ở lòng chảo bốc lên, không khí lạnh ở phía bắc tràn xuống, qua những vùng trống ở tây bắc Thiên Sơn hướng về phía lòng chảo tràn vào và tạo thành những luồng gió mạnh.

Gió lớn không chỉ làm hư hại đến nông sản mà còn tạo ra nhũng vùng đất hoang. Sau giải phóng, nhân dân vùng Tolophan đã cố gắng trồng rừng phòng gió với chiều dài hơn 2500 cây số, trồng hơn 30 triệu cây. Đất canh tác và khu dân cư đều được bao bọc bởi những dãy rừng, mối đe dọa của gió bão dần dần được giảm nhẹ.

“KHẢM NHI TỈNH” VÀ MƯƠNG NƯỚC NGẦM

Xe chúng tôi tiếp tục đi trên đường cái Tolophan, thỉnh thoảng thấy trên sa mạc nhô lên từng đống đất đỏ xếp thành hàng, lúc đầu thấy có vẻ kỳ lạ, sau này mới rõ đó chính là loại “giếng” đặc biệt ở vùng Tolophan, gọi là "khảm nhi tỉnh”.

Quan đại thần nhà Thanh Lâm Tắc Từ bị giáng trích đến Tân Cương vào năm 1845, sau khi đến Nam Cương có qua vùng đất Tolophan và ông đã miêu tả trong nhật ký rằng; “Thấy dọc đườn ơ có nhiều hang đất, hỏi ra thì gọi đó là ‘ca tỉnh’ (giếng lấy nước), có thể dẫn nước chảy ngang dưới lòng đất, từ nam đến bắc, ống dẫn cao dần cao dần, nước từ trong đất xuyên theo ống dẫn mà chày, thật là một chuyện không thể hiểu nổi: Xứ này đất ruộng phì, nhiêu hàng năm sản xuất rất nhiều bông vải người ta đều dùng nước giếng kiểu này để tưới”.

Điểm đặc biệt của loại giếng này là tạo thành đường mương ngầm dưới lòng đất. Nguồn nước ở lòng chảo Tolophan đều phụ thuộc vào nước trên núi tuy thấm sâu vào lòng đất hình thành nguồn nước ngầm rất phong phú.

Truyền thuyết người Uygur kể rằng, thời xa xưa có một mục dân trẻ tuổi đến Tolophan, tìm ra được một vùng cỏ xanh tươi, nhưng không có nước. Người ta bảo: “Nước không tới được Tolophan đâu, vì đến nửa đường thì mặt trời đã làm khô và Gôbi đã uống sạch”. Chàng ta không tin lấy cuốc đào, đào mãi, đào mãi quả nhiên thấy một dòng nước hiện ra. Để mặt trời không cướp được nước, chàng ta đào dưới lòng đất một đoạn mương ngầm ... Cứ thế từng giếng, từng giếng, có từng đoạn, từng đoạn mương kết lại với phau tạo thành loại giếng nước ngầm có một không hai như ngày nay ở Tân Cương.

Trên đây chỉ là một câu chuyện dân gian. Nhưng theo học giả Vương Quốc Duy cuối đời Thanh đầu đời Dân Quốc nghiên cứu thì giếng nước ngầm vùng Tolophan là do người nội địa truyền đến từ đời Hán. Có những học giả gần đây không đồng ý cách nhìn nhận ấy và cho rằng giếng ngầm do từ Iran truyền vào. Iran có một loại mương dẫn nước có tên là Karaz, và người dân Cương gọi giếng này là “ca tỉnh”. Có người lại bảo rằng giếng ngầm do Lâm Tắc Từ sáng tạo ra khi đến Tân Cương, nhưng đối. chiếu với nhật ký của ông Lâm thì rõ là người ta nhầm lẫn. Bất kể giếng ngầm có nguồn gốc từ đâu, nhưng tác dụng của nó được phát huy ở vùng đất Tolophan này quả thật là lớn lao. Tổng số lượng nước giếng của giếng ngầm ở Tolophan đạt đến 500 triệu mét khối.

Khảm Nhi Tỉnh là một loại công trình thủy lợi dưới lòng đất. Những người thợ đào giếng thiện nghệ tìm được mạch nước dưới đất rồi men sườn đất đào xuống, đào xuống thành một dãy giếng thẳng đứng, sau đó nhảy xuống lòng giếng đào một đường mương ngầm nối các giếng lại với nhau tạo thành một đường mương dưới lòng đất dài từ vài cây số đến hàng chục cây số chảy thẳng đến vùng thấp đem nước vào ruộng vườn. Trước khi chưa đến Tân Cương, tôi cứ cho là nước của Khảm Nhi Tỉnh lấy từ dãy giếng thẳng đứng ấy, thật hoàn toàn nhầm lần.

Ưu điểm của Khảm Nhi Tỉnh là không cần dùng sức người hoặc máy móc. Tránh được sự bốc hơi, lượng nước hàng năm được bảo đảm ổn định. Ngày nay tổng cộng vùng Tolophan có 972 đãy giếng ngầm, tổng chiều dài của mương nước ngầm là

2500 cây số. Rõ ràng đây là một công trình thủy lợi lớn vào hàng số một của Trung Quốc.

LỄ TIẾT SAU NGÀY ĂN CHAY

Từ huyện Tolophan đi về hướng tây chừng 70 cây số thì đến tây bộ lòng chảo thuộc huyện Thác Khắc Tốn. Ở đây, bắc có đường đi Urumqi, nam thông tới Korla, đông liền với Tolophan, tây đi A La Câu. Trên đường phố xe khách và xe hàng của bắc, nam và đông Tân Cương qua lại nườm nượp, rõ ràng nơi đây là một liên kết giao thông các vùng trong khu vực.

Sông Bạch Dương và sông A La Câu phát nguyên từ Thiên Sơn hội lưu tại Thác Khắc Tốn rồi chảy vào hồ Nghi Đinh sau khi qua vùng đất trũng của lòng chảo. Người ta lợi dụng điều kiện thủy lợi thuận tiên này lập ra lục châu Thác Khắc Tốn tươi đẹp.

Trước khi vào thành phố, chúng tôi tách xe khỏi đường cái đi vào một thôn trang lứa người Uygur.

Hôm đó nhằm ngày lễ tiết sau tuần chay và gọi là “khai trai tiết”. Dân chúng trong thôn rảnh rỗi vui chơi thưởng thức ngày hội tôn giáo ấy. Bọn trẻ nô đùa trước cổng làng. Thanh niên nam nữ mặc quần áo mới, cưỡi xe đạp vào thành phố xem ca kịch, đi bát phố. Chúng tôi thả bộ vào một gia đình, chỉ thấy một cặp vơ chồng già ngồi trước lò sưởi uống trà điểm tâm, trông dáng vẻ rất sảng khoái. Trong mâm có bánh xíu quảy nho vú ngựa và bánh rán. Một chú mèo mun hiền lành nằm trên bàn. Thỉnh thoảng bà lão cho nó một chút đồ ăn. Thật giống như một bức tranh yên tĩnh ở thôn trang.

Chúng tôi đi vào một gia định khác. Chủ nhà đang chải tóc trang điểm cho cô con gái của mình. Cô bé vừa mới gội đầu, mái tóc dài đen nhánh, thấy có người lạ, cô đâm thẹn, lúng túng rúc đầu vào lòng mẹ. Chị chủ nhà vỗ về đứa con, nhìn chúng tôi cười rất tự nhiên và mời chúng tôi uống trà. Rất tiếc, chúng tôi không biết tiếng, chỉ ra dấu tỏ ý chúc mừng họ, và để không phụ lòng mời mọc nhiệt tình của chị, chúng tôi đã ăn vài cái bánh xíu quảy và uống trà.

“Khai trai tiết” là ngày lễ truyền thống của đạo Hồi được cử hành sau tuần trai giới. Trong thời gian ăn chay, ban ngày không được ăn cơm, không được uống nước, chỉ ăn uống qua loa gì đó trước khi mặt trời mọc và sau khi mặt trời lặn. Tuần ăn chay chấm dứt là đến ngày “khai trai” (tức ngày lễ sau tuần chay). Mọi nhà đều chuẩn bị sẵn sàng đồ ăn, thức uống cho ngày lễ ấy, ai nấy cũng đều đi thăm hỏi nhau kéo dài

trong ba ngày cũng giống như người Hán ăn tết đầu năm vậy.

Chúng tôi tản bộ dọc thôn thì gặp một cán bộ người Uygur trông rất đôn hậu tên là Mại Ha Đức, thông hiểu tiếng Hán, nhiệt tình mời chúng tôi về nhà.

Mại Ha Đức lãnh đạo đội sản xuất thứ tư của công xã Tiền Phong. Anh nói trận bão ngày 9 tháng năm vừa rồi gió lớn cấp 11, cũng may nhờ có rừng phòng hộ, lúa tiểu mạch và bông vải đều được an toàn, số bị hư hại không đáng kể. Đời sống nông dân tạm ổn định. Gần đây nhà nước cho nâng cao giá thu mua nông sản, hy vọng lợi tức của người nông dân tăng thêm thu nhập. Năm trước đội sản xuất có mức thu nhập khá cao, trị giá công của xã viên mỗi ngày lên đến hai nhân dân tệ, tăng hơn năm trước tám hào. Mức thu nhập này ở nội địa cũng đã là quá tốt rồi huống hồ gì ở đây!

Vào những năm năm mươi, Mại Ha Đức gia nhập quân giải phóng. Anh hãnh diện đưa chứng tôi xem ảnh lúc anh ở quân ngũ và giấy chứng nhận giải ngũ, anh nói hồi ở quân đội anh đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc. Anh nói:

Hiện nay, trừ những ông già bà lão, bọn trẻ trong thôn rất ít người theo đạo, nhưng tập tục của những ngày lễ tôn giáo vẫn được mọi người duy trì và bảo lưu.

TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI UYGUR

Về những tập tục, ngôn ngữ, chữ viết thậm chí cả với đời sống kinh tế, chính trị của người Uygur, đạo Hồi có ảnh hưởng rất sâu đậm. So với số người Hồi cư trú sở nội địa thì ảnh hưởng này ở đây lại càng rõ nét hơn. Nhưng có người do thiên kiến về tôn giáo mà cứng nhắc cho rằng người Uygur là từ vùng Trung Á thiên đi về hướng đông mà định cư ở Tân Cương, điều này đi ngược với sự thật lịch sử.

Đạo Hồi truyền nhập vào Tân Cương khoảng cuối thế kỷ thứ X, đến thế kỷ thứ XV mới dần đần chiếm vị trí thống trị vùng Tân Cương. Người Uygur ở khu vực Tolophan đã sớm có mặt ở đây vào thế kỷ thứ IX thiên di từ phía đông lại (tức từ vùng Nội Mông).

Đối với tộc người Uygur, sử tịch Trung Quốc có nhiều tên gọi khác nhau như: Viên Hột, Vi Hột, Hồi Hột, Hồi Cốt, Uy Ngột Nhi v.v... Điều này là do dịch âm tiếng Hán khác nhau của những thời kỳ lịch sử khác nhau. Còn từ “Uygur” (Duy Ngô Nhĩ có nghĩa là “đoàn kết” là “liên hợp”.

Vào thế kỷ thứ III trước CN, tổ tiên người Uygur gọi là bộ lạc Đinh Linh (hoặc người Thiết Lặc) sống bằng nghề du mục ở lưu vực sông Ngạc Nhĩ Hồn và sông Sắc Lăng Cách thuộc nội địa Mông Cổ. Hai sông này phát nguyên từ dãy núi Hàng Ái và chạy vào hồ Bối Gia Nhỉ (tức hồ Bunnur). Tùy thưĐường thư đều nói người Hồi Hột “không có tù trưởng, ăn ở không ổn định, tùy thuộc vào nguồn nước và cỏ mà thiên di”. Gọi là không có tù trưởng tức là không có chế độ thế tập (truyền nối) như các bộ là khác.

Năm 647 CN, thủ lĩnh Hồi Hột Thổ Mật Độ tự xưng là Khả Hãn (vua) và nhận sách phong của nhà Đường với danh hiệu: “Hoài nhân Đại tướng quân kiêm Hàn hải Đô đốc”. Và trong lịch sử có lần một vương quốc Hồi Hột cường thịnh được hình thành. (Có thuyết cho rằng nước Hồi Hột được kiến lập vào năm 744 dựa trên sách phong thủ lĩnh Cốt Lực Bùi La nước Hồi Hột làm “Hoài nhân Khả Hãn” trực tiếp thừa nhận ông ta là quốc vương chứ không phong tước hiệu nữa).

Sau khi nước Hồi Hột được kiến lập thì mối quan hệ với nhà Đường trở nên mật thiết. Mỗi khi có vua kế vị đều luôn chịu sách phong của nhà Đường. Vua nhà Đường trước sau đem năm công chúa gả cho vua Hồi Hột. Mỗi công chúa xuất giá đều đem theo nhiều thợ và nhân viên tùy tùng người Hán.

Người Hồi Hột vốn lấy du mục làm chính, nhưng với sự giúp đỡ của thợ thuyền người Hán, họ đã bắt chước người Hán xây dựng nhiều thành thị. Người Hồi Hột còn học chữ Hán. Năm 788, một thượng thư nhà Đường người Hồi Hột xin đổi danh xưng thành “Hồi Cốt” có ý nghĩa là người Hồi nhanh nhẹn như chim ưng, điều này cho thấy tầng lớp trí thức người thiểu số tinh thông Hán học biết chừng nào.

Khi có loạn An - Sử, nhà Đường đã từng yêu cầu nước Hồi Hột đem đội kỵ binh tiến vào Trung Nguyên giúp quân binh nhà Đường bình định bọn An Lộc Sơn và Sử Tư Minh. Để cảm tạ công lao trợ chiến ấy, hằng năm nhà Đường đem tặng cho Hồi Hột hai vạn tám lụa, đồng thời mua nhiều ngựa của người Hồi Hột với giá cao, mỗi con đổi được 40 tấm lụa. Do đó nền kinh tế Hồi Hột trở nên thuận lợi. Hồi Hột còn giúp nhà Đường duy trì bảo vệ đường giao thông giữa Trung Quốc và phương Tây.

Khi nước Thổ Phồn chiếm hành lang Hà Tây và cắt đứt đường giao thông giữa nhà Đường và Tây Vực, viên chức nhà Đườn và thương nhân đều phải mượn đường qua nước Hồi Hột để đi lại. Với sự giúp đỡ của người Chiêu Vũ cửu tính, giỏi buôn bán kinh doanh, Hồi Hột đã từng là cầu nối mậu dịch quan trọng giữa Trung Quốc và Tây Vực. Họ nhận những quà biếu từ nhà Đường đồng thời thông qua việc trao đổi lụa - ngựa họ cũng thu về nhiều tơ lụa, trừ chi phí ra, họ cũng có một số lợi tức tương đương với những khách thương buôn bán qua lại trên các thị trường vùng Tây Vực.

Đến cuối thế kỷ thứ VIII, nước Hồi Hột bắt đầu suy thoái, thế kỷ thứ IX xảy ra lục đục nội bộ, năm 840 thì bị người Điểm Giáp tiêu diệt.

NGƯỜI HỒI HỘT THIÊN DI VỀ MIỀN TÂY

Sau khi nước Hồi Hột bị diệt vong, người Hồi Hột bắt đầu một cuộc đại di tản về miền tây nổi tiếng trong lịch sử. Một bộ phận định cư ở hành lang Hà Tây (Cam Túc), gọi là “Cam Châu Hồi Cốt” (Người Hồi Hột ở Cam Châu), một bộ phận khác thì định cư ở Tân Cương, phần lớn tại khu vực nam Thiên Sơn. Một chi khác lấy đất Tolophan làm trung tâm kiến lập ra nước Cao Xương của người Hồ Cốt, có cương vực đông giáp Tửu Tuyền, tây giáp Khố Xa, nam gặp đại sa mạc Taklamacan. Còn một chi nữa thiên di về nước Thông Lĩnh và lập ra nước Ca La, lãnh vực bao gồm phần lớn vùng Nam Cương và một phần đất thuộc Trung Á.

Người Hồ Cốt tại vùng lòng chảo Tolophan, lòng chảo Tarim và trên dãy Thông Lĩnh chung sống lâu dài với dân cư bản địa, kết hôn lẫn nhau, dần dần hình thành tộc người Uygur hiện nay. Ở Tân Cương, tôi đã quan sát người Uygur ở các xứ thì thấy sắc diện của họ có khác biệt. Có người màu da hơi vàng, mắt đen, tóc đen, khuôn mặt có vẻ giống như người da vàng ở Trung Nguyên; nhưng cũng có một số người da trắng, mắt vàng, mũi thẳng cao, râu tóc màu nâu, khuôn mặt gần giống với người Aryen ở Trung Á. Ai cũng biết rằng theo sử sách ghi chép thì tổ tiên người Uygur thiên di về phía tây đến Tân Cương, nhưng hiện tượng khác nhau về màu da, khuôn mặt nói trên phải giải thích như thế nào?

Các nhà sử học cho rằng dân cư thời xưa ở lòng chảo Tarim thuộc Nam Cương rất phức tạp, trong đó có một bộ phận rất thạo ngôn ngữ Ấn Âu của người Aryen. Thế kỷ thứ I CN, người Hán, người Hung Nô, người Đột Quyết và người Thổ Phồn kế tiếp nhau vào Tân Cương, rồi một số người trong các tộc người này định cư ở đấy. Đến thế kỷ thứ IX, một số lớn người Hồi Cất di cư đến. họ lại dung hợp với các dân tộc bản địa hình thành tộc người Uygur chính ở Tân Cương như hiện nay. Đó là một biến đổi lớn trong lịch sử Tân Cương. Do đó dáng vẻ bên ngoài của người Uygur có sự khác nhau nào đó thì không có gì phải ngạc nhiên cả.

Trước khi người Hồi Cất thiên di về đây, họ đã theo đạo Tất Mãn và đạo Ma Ni; sau khi đến Tân Cương họ lại theo đạo Phật. Đến cuối thế kỷ thứ X. đạo Hồi độ truyền vào Tân Cương từ bên kia dãy Thông Lĩnh và trải qua bốn, năm trăm năm đấu tranh với Phật giáo, đạo Hồi mới chiếm địa vị thống trị ở Tân Cương. Ngày nay, đạo Hồi đã có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống văn hóa và các phong tục tập quân của người Uygur.

CÓ HAI CON ĐƯƠNG ĐẾN LÒNG CHẢO TARIM

Tôi rời Thác Khắc Tốn đi dọc biên giới tây bộ lòng chảo Tolophan, rồi vượt qua núi Thiên Sơn để đến lòng chảo Tarim. Từ Thác Khắc Tốn đến Truân có hai con đường.

Một con đường đi xuống phía nam, phải qua một khe núi dài chừng 100 cây số, không nước, không cỏ, gọi là “càn câu” (khe khô) sẽ đến huyện Yên Kỳ, tức nước tên Kỳ cổ đại ở dọc biên giới đông bắc của lòng chảo Tarim, cũng còn gọi là nước A-kỳ-ni. Một còn đường khác thì đi về hướng tây men theo dòng nước cuồn cuộn của sông A-la-câu đi sâu vào lòng núi Thiên Sơn, trèo đèo leo dốc đến thượng nguồn ở độ cao hơn 3000 mét, rồi tiếp tục rẽ hướng, men theo một con sông khác tên là Ô-la-tư-đài thì đến huyện Yên Kỳ.

Hai con đường khác lộ trình nhưng đồng quy một chỗ. Đường thông thương nam bắc Tân Cương có thể đi theo lộ tuyến “càn câu”, dọc đường không thấy một giọt nước; hoặc theo một lộ tuyến khác nhưng rất bất tiện cho xe con, dọc đường cỏ nước sung túc, rất thuận lợi cho lạc đà và trâu ngựa của các đội khách thương thời xưa. Tại cửa núi A-la-câu, sừng sững một phong hỏa đài, đông gần lòng chảo Tolophan, tây giáp đường cái. Tôi đứng trên phong hỏa đài nhìn về hướng tây thầm nghĩ năm xưa chắc Huyền Trang có đi qua con đường này.

Từ Thác Khắc Tốn đó Yên Kỳ. tôi chọn đường núi A-la-câu Sau này khi du hành hết vùng nam Tân Cương, trên đường về từ Yên Kỳ đến Urumqi tôi lại đi qua đường cái quan “càn câu”. Có dịp đi trên hai lộ tuyến, tôi cho rằng so ra đường núi A-la-câu có khả năng là tuyến đường hay qua lại nhiều nhất của các thương lữ thời cổ đại.

Ngày nay, dọc con đường giao thương cổ đại này, người ta đang kiến thiết một tuyến đứng sắt thông vãng nam bắc Thiên Sơn, đó là tuyến đường sắt Nam Cương. Lúc tôi đi qua nhằm tháng tám năm 1979, từ Tolophan qua Yên Kỳ đến Korla người ta đã đặt xong đường ray và đang cho thông xe thử. Vào cửa núi A-la-câu, tồi thây một nhà ga có quy mô rất to lớn và một trạm bốc xếp đang được xây dựng. Từ xưa nay, nơi đây bị bao vây trong không gian yên tĩnh của núi rừng, khe suối, rốt cuộc đã bị xung phá ào ạt của máy móc hiện đại. Tòa phong hoả đài trải qua những cuộc dâu bể kia trầm mặc nhìn xuống cảnh tượng bận rộn, tấp nập của công trường, có lẽ cũng lấy làm cảm khoái không cùng đấy hẳn?

ĐƯỜNG SẮT QUA THIÊN SƠN

Chúng tôi qua công trường vào đến A-la-câu cách đó chừng 20 cây số thì thấy một dãy nhà đơn sơ, nhưng gọn gàng tề chỉnh nằm hai bên bờ sông. Đó chính là bộ chỉ huy kiến triết tuyến đường sắt Nam Cương.

Cách bộ chỉ huy công trường không xa là kho tàng của ông trường ở chốn sơn khê vắng vẻ này. Vừa từ “Hỏa châu” đến, không khí đặc biệt mát mẻ ẩm ướt nơi đây khiến chúng tôi trở nên hoạt bát, nhanh nhạy. Tôi rất thích suối nước trong lành kia. Trước khi gặp chủ nhân, tôi đã tự mình thả bộ ven sông. Nước sông cuồn cuộn, bọt sóng tung tóe. Hai bên lòng tích tụ không biết cơ man nào là đá cuội, lớn có, nhỏ có, từ trên núi làn xuống. Tôi ngồi trên một tảng đá to, hai chân dầm trong dòng nước mát lạnh, yên lặng lắng nghe dòng A-la-câu hát, lòng mình bình yên thoải mái như từng được dòng nước trong lành kia tắm gội. Trên khoảng đất trống ven sông là vườn rau dưa của công nhân đường sắt, trong đó có cả ớt xanh và cà chua. Thật không ngờ chốn A-la-câu từ xa xưa vốn là một vùng đất thiếu vắng bóng người mà nay trở thành một nơi đáng yêu như thế này. Thảo nào có người nói với tôi rằng sau khi làm tuyến đường sắt Nam Cương, có đơn vị muốn dùng nơi này xây lên một viên dưỡng lão và một bệnh viện.

Chúng tôi nghỉ lại một đêm tại bộ chỉ huy công trường, tiếng nước chảy êm tai đưa tôi vào giấc ngủ và một giấc mơ đẹp. Sáng hôm sau tỉnh dậy, chúng tôi yêu cầu công trình sư Diêu Thế Cần lãnh đạo thi công tuyến đường sắt Nam cương - giới thiệu sơ lược tình hình của công trình.

Thời kỳ thứ nhất của công trình tuyến đường sắt Nam Cương là đoạn từ Tolophan đến Korla, bắt đầu ở ga Tolophan trên tuyến Lan Châu - Tân Cương và kết thúc ở ga Korla. toàn tuyến dài 476 cây số.

Đặc điểm của đoạn đường này là từ chỗ thấp của lòng chảo leo lên dốc núi cao rồi từ núi cao xuống dốc, tiến vào đất bằng, thế là phải đi theo hình chữ V ngược. Điểm thấp nhất của tuyến đường là -152 mét (tức thấp hơn mặt nước biển 152 mét) và điểm cao nhất là +3000 mét (tức cao hơn mặt nước biển 3000 mét), đo đó, lộ tuyến của nó phải uốn lượn quanh co rất nhiều lần.

Còn một đặc điểm nữa là tuyến đường này phải đi qua hai con sông là A-la-câu và Ô-tư-đài, có địa hình rất phức tạp. Để tránh sự bất lợi của địa tằng, tuyến đường này chủ yếu phải vượt qua các dòng sông, tổng cộng mười một lần vượt sông A- la-câu và hai mươi lăm lần vượt sông Ô-tư-đài. Do đó, số lượng cầu cỡ lớn và cỡ vừa rất nhiều, tổng chiều dài các cầu lên đến mười bảy cây số.

Đặc điểm thứ ba là trên một nửa tuyến đường phải quanh co khúc khuỷu trong lòng dãy Thiên Sơn, cho nên có rất nhiều đường hầm, cộng tất cả hai mươi chín hầm, tổng chiều dài các hầm lên đến 33 cây số. Đường hầm dài nhất trên 6 cây số.

Tuyến đường sắt Nam Cương trong tiểu thuyết mang chất thần thoại Tây du ký được miêu tả như là một nơi bí hiểm thần kỳ của thiên nhiên. Tôi nói vui với Diều Thế Cần:

- Các anh đã kiến tạo tuyến đường sắt trên con đường ngày xưa ngài Huyền Trang đi thỉnh kinh, sự nghiệp quả không nhỏ, hơn hẳn cả Tôn Ngộ Không kia đấy?

Anh chàng công trình sư nghiêm túc kia không nhịn cười, nói:

- Phải! Nào hỏa diệm sơn, nào động Thủy Liêm ... còn nữa, nào Lưu Sa Hà, tất tần tật đều bị chúng tôi chinh phục.

LEO LÊN ĐỈNH NÚI CAO 3200 MÉT

Bộ chỉ huy công trình đặc biệt cử người dẫn chúng tôi đi tham quan công trình tuyến đường sắt xuyên Thiên Sơn.

Rời bộ chỉ huy chừng ba cây số thì thấy tuyến đường sắt chui ra từ một hang núi, vượt qua một cây cầu chạy thẳng đến bên kia bờ sông A-la-câu. Lại đi chừng ba cây số nữa thì thấy tuyến đường sắt lại ở bên này bờ sông. Tiếp tục đi thêm một cây số thì nó lại vượt qua mặt rồi. Tôi những muốn ghi nhớ số lần và địa điểm mà tuyến đường sắt vượt qua sông, nhưng qua nhiều lần quá nhớ không xuể.

Người bạn đồng hành nhắc tôi đang trước có một cây cầu vòng cung. Tôi chưa kịp hỏi rõ thế nào là cầu vòng cung thì một chiếc cầu sắt dài xuất hiện trước mắt. Thân cầu bắc qua một lòng sông rộng, trên nửa từng không, người ta vạch một đường vòng cung, chúng tôi xuống xe nhìn ngắm thì vừa đúng có một đoàn xe chở hàng chạy qua cầu. Xe đang chạy nhanh phun ra từng vòng khói trắng bạc dưới bầu trời xanh thẳm tương ứng hình vòng cung của chiếc cầu trông thật thích mắt. Chiếc cầu hình vòng cung này dài 585 mét.

Chiếc Jeep của chúng tôi tiếp tục leo dốc, khi đến một khoảng đất rộng phóng tầm mắt nhìn xa xa thì thấy tuyến đường sắt ngoằn ngoèo uốn khúc bò lên núi, cong cong hình chữ S. Con đường uốn trái rẽ phải ấy vượt qua ba cây cầu, cầu này cao hơn cầu kia, tầng thứ rõ ràng, điều này chứng tỏ tuyến đường ngày một lên cao.

Nhìn thấy đường sắt ở đây mới hiểu ra từ chuyên môn của ngành gọi là “triển tuyến” (tuyến đường quanh co uốn khúc trên các dốc núi). Trên nguyên tắc, độ dốc của đường sắt không vượt quá 22/1000, nếu không, đoàn tàu sẽ rất khó đi và cũng rất dễ xảy ra hiện tượng chệch đường ray. Để cho đoàn tàu leo núi, vượt đèo dễ dàng, đường sắt phải kéo dài ra, quanh co khúc khuỷu, phải giảm bớt tốc độ để tàu có thể từ từ uốn lượn mà đi lên hoặc đi xuống. Loại đường sắt “triển tuyến” kiểu này xuyên núi Thiên Sơn trên tuyến dường sắt Nam Cương đặc biệt nhiều và dài.

Chúng tôi men theo dòng A-la-câu để lên núi Thiên Sơn. Cái lạnh bỗng dưng ập đến, khi ở dưới chân núi chỉ mặc áo mỏng, lên đến núi phải mặc áo bông. Người ta nói A-la-câu là “khe núi có thời tiết bốn mùa trong một ngày”, nếu đi dọc theo khe núi này cần phải thay đổi áo của cả bốn mùa xuân hạ thu đông, thật chẳng phải đùa.

Bữa trưa, chúng tôi ăn cơm ở nhà ăn của công trường, cơm trở nên cứng khô trông như chưa chín. Ở đây cao hơn mặt nước biển 3000 mét, khí áp thấp, đun nước rất lâu sôi, nếu không dùng nồi áp suất thì cơm sẽ không chín được.

Công nhân của công trường này đã đào thành công đường hầm Khuê Tiên ở độ cao nhất trên toàn tuyến và là đường hầm dài nhất, dài đúng 6152mét. Tôi thấy móng tay của một số công nhân bị lõm xuống, đó là loại bệnh nghề nghiệp do làm việc lâu ngày ở độ cao thiếu dưỡng khí tạo nên. Tôi hỏi:

- Tại sao các bạn không chữa trị?

- Không cần, xuống núi là hết ngay. Họ trả lời.

Thiếu dưỡng khí lâu ngày có thể dẫn tới rụng tóc nữa.

Chiếc Jeep của chúng tôi theo đường dốc quanh co cật lực hổn hển từ từ leo tới. Lên đến đỉnh núi cao 3200 mét thì thấy có một hồ nước, mà dưới đáy hồ nước kia 200 mét là đường hầm Khuê Tiên. Công trình sư Diêu Thế Cần đã ví đường hầm này là động Thủy Liêm trong Tây du ký, nghe ra cũng có lý. Trên đường hầm thì có hồ Cao Sơn, giữa thì có tầng đất đóng báng. Khi đục mở đường hầm, chỗ đặt mìn có nước xuất hiện, nước đùn thành giọt. Thời tiết lại thay đổi đột ngột, ban ngày thì nước lỏng, ban đêm thì thành đá. Trong động sâu thường có rất nhiều nước. Động Thủy Liêm này đúng là đã mang lại nhiều khó khăn cho những người thi công, nhưng cho dù thế nào thì đường hầm Khuê Tiên cũng hoàn thành trước kế hoạch đề ra.

XUỐNG BÌNH NGUYÊN YÊN KỲ Ở PHÍA NAM

Qua khỏi đường hầm Khuê Tiên, tuyến đường sắt men theo sông Ô-la-tư-đài xuôi về nam. ở đây núi chạy vòng, đường uốn lượn, hang sâu nước xiết và chảy ngược hướng sông A-la-câu. Cảnh vật cũng thay đổi. Dọc sông, cây cối rậm rạp, rải rác từng đàn trâu, ngựa gặm cỏ trên thảo nguyên. Đây là khu du mục của người Mông Cổ. Không biết họ có phải là cư dân hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn chinh phục miền tây vào thế kỷ XIII không?

Tuyến đường cứ tiếp tục theo phương pháp “triển tuyến” để đi xuống. Dọc đường, số lượng hầm và cầu sắt nhớ không xuể. Đến hầm số 3 có tên là Tân Quang, người bạn đồng hành của tôi có ý muốn dừng xe nghỉ ngơi và đợi xem cảnh đoàn xe lửa đi qua. Quả đúng như chúng tôi dự liệu, một đoàn xe lửa của công trường đang chạy đến. Nó đi vào đầu này đường hầm và đi ra ở đầu kia. Điểm đặc biệt kỳ lạ là chỗ miệng hầm xe đi ra cũng vừa đúng ngang miệng hầm xe đi vào ở phía dưới. Sai biệt của hai miệng hầm trên dưới này khoảng hơn 70 mét. Như vậy xe chạy trong hầm theo đường trôn ốc. Chính mắt mình trông thấy cảnh ấy nên có ấn tượng rất sâu sắc. Chúng tôi đi dọc sông Ô-la-tư-đài chừng hơn 100 cây số thì bỗng nhiên tầm nhìn trở nên khoảng thoát, trước mắt hiện ra một bình nguyên rộng mênh mông vô hạn, tự nhiên cảm thấy thư thái nhẹ nhàng. Trong người bây giờ cũng trở nên nóng hơn, tôi cởi luôn cả áo ấm. Chúng tôi ra khỏi sông Ô-la-tư-đài và đã đến đồng bằng Yên Kỳ. Ở đây rừng phòng gió dày đặc, ruộng vườn vuông vắn. Hoa cải màu vàng non và ruộng cao lương rạp theo chiều gió nhắc nhở chúng tôi rằng đã đến vùng lục châu gần lòng chảo Tarim.

Đường sắt và đường nhựa song song cạnh một dòng sông chạy qua huyện Yên Kỳ mà trong Tây du ký đã miêu tả là sông Lưu Sa đầy hiểm nguy bất trắc, ngày nay gọi là sông Khai Đô. Dưới lòng sông có một lớp cát xốp dày hơn 100 mét, do đó mà có tên là sông Lưu Sa (Lưu Sa Hà - cát chảy).

Đứng bên sông Lưu Sa nhìn lòng sông khoảng khoát, nước chảy lững lờ khiến ta có cảm giác yên ổn tĩnh lặng, nhưng nào có ai biết nó biến ảo khôn lường, đến mùa nước lớn, ba đào cuồn cuộn tràn ngập cả lòng sông. Những cơn hồng thủy hung hãn đã từng dìm cả huyện thành Yên Kỳ trong dòng nước. Hồi đó, pháp sư Đường Tam Tạng có đến bờ sông Lưu Sa, dẫu có Tôn Đại Thánh đi theo vẫn phải nhìn dòng sông mà ngao ngán.

Đặc biệt dưới lòng sông lâu lớp cát dây trên 100 mét nên đã từng khiến cho những kỹ sư tài giỏi về kiều lộ đành phải bó tay.

Ngày nay có một chiếc cầu sắt dài 439 mét được bắc qua sông Lưu Sa, đoàn xe qua lại an toàn. Hai mươi trụ cầu ấy với kỹ thuật tân tiến đã cắm sâu trong lớp cát xốp của lòng sông một cách ổn định, chắc chắn.

Công nhân viên chức đường sắt đã chinh phục hỏa diệm sơn, động Thủy Liêm, sông Lưu Sa và những hiểm trở thiên nhiên khác, hoàn thành tuyến đường sắt xuyên Thiên Sơn, nối liền lòng chảo Tolophan với lòng chảo Tarim. Điều này tất nhiên đem lại cho Nam Cương một nền kinh tế phát triển và cuộc sông tốt đẹp cho nhân dân. Đường sắt Nam Cương đang được ra sức thi công, nhiều công việc gian lao vất vả trước mắt đang chờ đón họ …

17. TỪ HỒ BOSTEN ĐẾN SÔNG KHỔNG TƯỚC

Trong Đại Đường Tây Vực ký, Đường Huyền Trang có viết: “Ra khỏi đất cũ nước Cao Xương, xứ gần nhất gọi là nước A-kỳ-nỉ”.

Tên gọi A-kỳ-ni ấy có gốc từ tiếng Phạn là Agni mà sử sách tiếng Hán gọi là “Yên Kỳ”. Tiền Hán thư ghi: “Nước Yên Kỳ gần biển có nhiều cá”. Hậu Hán thư cũng viết: “Yên Kỳ ... bốn mặt là núi, tiếp giáp với nước Quy Tư, đường đi hiểm trở, dễ phòng thủ. Có biển, ra vào chỉ toàn là núi là núi”.

Cả hai sách trên đều nói đến “biển” tức muốn nói đến hồ Bosten ở phía đông huyện Yên Kỳ ngày nay. Theo tiếng Uygur, Bosten (Bác-tư-đằng) có nghĩa là “Hồ lục châu”, hồ có diện tích 980 cây số vuông, đó là hồ nước ngọt nội địa lớn nhất Tân Cương.

CÁ, CHIM, XẠ THỬ, CHUỘT, LAU SẬY … CỦA HỒ

Sau khi từ Thiên Sơn xuống phương nam và đi dọc tuyến đường sắt Nam Cương đến huyện Yên Kỳ, tôi men theo sông Khai Đô (tức sông Lưu Sa) theo hướng đông để đến hồ Bosten. Nước hồ do từ sông Khai Đô chảy theo hướng tây bắc đổ vào rồi chảy ra theo hướng tây nam tạo ra sông Không Tước đem theo nước tưới cho vùng lục châu sa mạc Taklamacan. Hồ ở độ cao 1048 mét, hàng năm có nước đổ vào và có nước chảy ra tạo thành một hồ nước ngọt, từ xưa đã thấy được “cái lợi của cá muối cây bồ, cây lau của vùng hồ”.

Không có đường cái đi hồ Bosten, đường đất ở nông thôn thì lại gập ghềnh, ngồi trên xe một tiếng đồng hồ mà chiếc xe cứ nghiêng qua ngả lại, hai tay đã bấu chặt ghế ngồi nhưng tôi vẫn có đôi lần suýt bị văng khỏi xe, đầu đụng phải trần xe. Nhưng rồi cũng đi hết đoạn đường 20 cây số và đến được bên hồ. Nhìn hồ nước ứng mênh mông như biển cả hiện ra trước mắt, mặt hồ phẳng lặng như một tấm gương, trên bầu trời xanh ngắt, đàn hải âu nhỏ trắng bạch đang bay lượn. Đứng bên bờ hồ hít thở không khí trong lành, tôi như đắm mình trong cảnh êm đềm u tĩnh này, bao nhiêu mệt nhọc của cuộc lữ hành trước đây đều tiêu tan hết.

Tôi rảo bước hướng về bến cảng đằng kia có hai tàu đánh cá thuộc công ty ngư nghiệp quốc doanh đang giở cá, mùi tanh bốc lên nồng nặc. Hồ Bosten có nhiều cá đầu bự và cá mõm nhọn, thịt chúng vừa ngon vừa béo. Chúng rất to, con nhỏ cũng đến vài ba cân, con lớn có khi cả mười mấy cân. Hai loại cá này là giống đặc biệt của hồ Bosten. Năm 1966, người ta thành lập khu nuôi trồng thủy sản, tự gây cá giống, chủ yếu thả nuôi bốn loại cá nước ngọt: cá trắm đen, cá trắm cỏ, cá mè, cá mè hoa.

Sau đó đem giống cá chép, cá diếc, cá bản từ Trường Giang về nuôi, tăng giống cá nuôi lên đến mười ba loại, sản lượng gia tăng gấp bội. Ngày nay, hồ Bosten có đến hơn mười đơn vị làm nghề cá, trở thành khu ngư nghiệp trọng điểm của Tân Cương.

Sau khi tuyến đường sắt Nam Cương thông xe, cá đánh bắt được ở đây sẽ dễ dàng vận chuyển đi các nơi khác.

Không thể theo tàu đánh cá để ra hồ thì đạo chơi trên sóng nước ven hồ bằng một chiếc thuyền gỗ cũng đủ cho cuộc du hành đầy hứng thú này vậy- Anh bạn đồng hành của tôi hiểu ý, mượn một chiếc thuyền gỗ nhỏ và chèo ra hồ.

Chèo dọc ven hồ nơi bãi nước cạn mọc đầy lau sậy vừa cao vừa to xanh mởn như trúc non. Chúng tôi chèo tới chèo lui trong đám lau sậy um tùm như đang đi thuyền trong rừng trúc, thật thú vị!

Lau sậy là nguồn thực vật lấy mãi không hết, dùng mãi không tận của hồ Bosten. Diện tích lau sậy toàn cả hồ chiếm 44 vạn mẫu, hàng năm sản xuất hơn 30 vạn tấn. Lau sậy có thể dùng làm giấy, có thể chế tạo sợi nhân tạo kết hợp với bông vải, lông thú, tơ lụa hoặc đay gai dệt thành vải. Nó còn là một chất liệu dùng trong xây dựng, bền chắc và lâu hư. Sau này, trong một cổ thành đời Đường tại sa mạc Taklamacan tôi thấy người ta đã dùng lau sậy kết thành bó xây tường, bên ngoài tô trét thêm đất sét. Cạo lớp đất ngoài ra, lau sậy bên trong vẫn còn y nguyên, không hư mục, không giòn nát. Ngày nay các tỉnh vùng đông bắc và Hoa Bắc vẫn đi ngàn dặm đến hồ Bosten để chở lau sậy đem về chủ yếu dùng trong xây dựng. Năm 1976, sau trận động đất ở Đường Sơn, nhân dân các tộc người ở ven hồ đã chi viện hơn hai vạn tấn lau sậy cho đồng bào anh em bị nạn để dựng lại nhà cửa.

Chúng tôi bơi thuyền ven hồ nhìn ngắm cảnh. Trời chiều bảng lảng, mặt nước phản chiếu ánh tà dương tạo thành những mảng ráng trời rực rỡ. Tôi đang trầm tư mặc tưởng thì bỗng anh bạn đồng hành gọi lớn:

- Nhìn kia, chuột nước!

Tôi quay mặt nhìn thì thấy trên bãi cạn một cặp mắt tí xíu đầy cảnh giác trong đám lau sậy um tùm đang chằm chặp nhìn chúng tôi. Động vật bé nhỏ ấy có dạng như một chú thỏ con, đầu chuột, khoác lông màu đà hồng óng ánh trơn tuột. Thấy chúng tôi chăm chú nhìn nó, nó quay đầu bỏ chạy.

Chuột nước là loại thú dùng để lấy lông và da rất quý hiếm, có tên là “xạ thủ”, chúng thích ở trong những hang nước sâu, ăn rong rêu, chân sau có màng nên có thể bơi lội trong nước. Bộ lông của nó rất dày, mềm, giữ ấm, chống lạnh, có thể dùng làm cổ áo, khăn quàng, mũ da đẹp không thua gì lông chồn. Xạ thử còn có hai túi thơm cho ra xạ hương, đó là thứ hương liệu cao cấp.

Sản địa chính của chúng là ở Bắc Mỹ. Ở Tân Cương và Hắc Long Giang, Trung Quốc, người ta đã phát hiện ra giống chuột này. Xạ thử sinh sản rất mạnh. Năm 1959, người ta đem từ Y Lê về hồ Bosten 140 con, đến nay đã sinh sản hơn 60 vạn con, hàng năm bán ra hơn 10 vạn tấm da lông xạ thử.

Hồ Bosten còn là nơi hội tụ của hàng trăm giống chim và cho ra rất nhiều muối. Hồ Bosten thật không hỗ là cái “bồn chứa của quý” của Tân Cương.

MẶT TƯỢNG PHẬT Ở TÂY VỰC

Sau khi từ hồ Bosten trở về huyện Yên Kỳ, ngủ lại một đêm, sáng hôm sau chúng tôi xuôi về nam. Vượt qua cây cầu dài 282 mét bắc ngang sông Khai Đô là đến công xã “Tứ thập lý Thành tử”. Các nhà khảo cổ học cho rằng thủ phủ của nước Yên Kỳ cổ đại đóng ở Tứ thập lý Thành tử. Chúng tôi yêu cầu cán bộ công xã phái người hướng dẫn chúng tôi đi thăm di chỉ cổ thành ở đây.

Nơi cách đường cái phía đông không xa có một cái nhà hang thấp, bọn trẻ đang chăn thả dê, bò ở đấy; lội qua một con khe nhỏ thì chúng tôi đến cổ thành hoang phế. Đất xây tường vẫn còn tương đối hoàn chỉnh có dáng hình vuông, quy mô khá lớn. Chu vi vòng thành ước chừng 4000 bước chân. Đứng một nơi cao nhất của tường thành nhìn quanh quất thì nội thành trống không hoang vắng, kể cả vách tường đổ sụp cũng không còn lưu dấu, chỉ trơ một vài mô đất cao thấp không đều, có thể đó là nền đài xây dựng ngày xưa. Các nhà khảo cổ học đã từng nhặt được ở khu nội thành tiền đồng thời Khai Nguyên đời Đường; điều này chứng tỏ thành vẫn tồn tại ít nhất cho đến trước thế kỷ thứ VIII.

Từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ VIII, các danh tăng như Pháp Hiển, Tống Vân, Huyền Trang, Huệ Siêu, Ngộ Không ... trước sau đã kinh qua nước Yên Kỳ để đi Tây Vực. Trong Đại Đường Tây Vực ký, Huyền Trang nói nước Yên Kỳ có hàng chục ngôi chùa, có hàng ngàn tăng chúng. Cùng với Phật giáo truyền nhập sang phương Đông, văn hóa Ấn Độ cũng có ảnh hưởng tương đối sâu sắc đối với Yên Kỳ ...

Viện bảo tàng Tân Cương trưng bày 10 bức đấu tượng đào được ở Yên Kỳ, qua đó có thể thấy rõ phong cách nghệ thuật Kiến Đà la. Trong đó có một tượng đầu Phật mũi cao, mắt sâu, lông mi dài, miệng nhỏ, môi dày, khuôn mặt toàn thân không giống người Hán mà giống người Ấn Độ hoặc người Trung Á. Phần mặt biểu hiện nét đoan trang, xinh đẹp, thật xứng danh là kiệt tác tượng hình cổ đại.

Địa điểm khai quật các đầu tượng này ở cách Tứ thập lý Thành tử chừng 20 cây số về phía tây nam gọi là “Thiên gian phòng” (ngàn gian phòng), tương tự như “Thiên Phật động”. Điều này chứng tỏ rằng nơi đây đã từng có nhiều đền đài miếu vũ. Chúng tôi tìm đến “Thiên gian phòng” thì đúng là hoàn toàn thất vọng. Trên đất bằng chỉ còn lại vài manh tường đất, trên sườn núi có một vài hang động, đi đến tìm kỹ thì thấy tàn tích của bích họa vẽ màu. Đầu thế kỷ thứ XX đã từng có một người Anh đến khai quật ở đây trong hơn 40 ngày, đã lấy cắp đi rất nhiều văn vật. Nhà khảo cổ học Hoàng Văn Bách đã khai quật một số lượng đất vào năm 1928 tại “Thiên gian phòng”, bao gồm đầu tượng Phật, bồ tát, người cúng dường và các võ sĩ. Những gì tôi nhìn thấy ở viện bảo tàng Tân Cương chính là những di vật quý giá được phát hiện từ sau ngày giải phóng.

THIÊN MÔN QUAN VÀ NÚI CÔNG CHÚA

Trở lại đường cái , chúng tôi đi về hướng tây nam, qua hồ Bosten, nơi phát nguyên của sông Không Tước, rồi quanh co trên khu núi đá trơn trụi, một tấc cỏ cũng không mọc được, đó là núi Khố Lỗ Khắc. Trèo lên đỉnh núi nhìn khắp một lượt thì trước mặt là vùng bình nguyên khoảng khoát mênh mông.

Màu xanh của đồng bằng được điểm xuyết bằng những ngôi nhà gạch đỏ chói. Một dòng sông uốn khúc lấp lánh dưới ánh mặt trời như sắc bạc long lanh. Chúng tôi đang đến gần vùng lục châu Korla nằm bên rìa đại sa mạc Taklamacan.

Tôi đứng trên núi nhìn ngắm quang cảnh bình nguyên mà nghĩ đến Huyền Trang đã ghi trong Đại Đường Tây Vực ký: Rời Yên Kỳ đi về hướng tây nam, “qua một ngọn núi nhỏ, vượt hai con sông lớn thì đến vùng đồng bằng ở phía tây”. Ngày tháng trôi qua, cảnh sắc vẫn y cựu. Ngọn núi nhỏ đó chính là núi Khố Lỗ Khắc đang ở dưới chân tôi, còn hai con sông lớn kia há chẳng phải là sông Khai Đô và sông Khổng Tước là gì!

Đường tơ lụa thời cổ đại và đường cái ngày nay đến chân núi Khố Lỗ Khắc phân rẽ thành hai đường khác nhau. Nó men theo sông Khổng Tước rồi xuyên hẻm núi “Tứ thập công lý” qua cửa ải Thiết Môn quan thì gặp vùng lục châu Korla. Sầm Tham nhà thờ biên tái đời Đường có bài thơ viết về Thiết Môn quan như sau:

Thiết quan thiên Tây nhai,

Cực mục thiểu hành khách;

Quan môn nhất tiểu lại,

Chung nhật đối thạch bích.

Tạm dịch:

Thiết quan góc trời tây,

Nhìn khắp người qua vắng,

Đóng cửa chức quan nhỏ,

Nhìn vách đa ngày ngày.

Chúng tôi theo đường cái đến thẳng Korla, rồi đi dọc sông Khổng Tước, rẽ về Thiết Môn quan đi thăm con đường tơ lụa xưa. Khi về đến cửa ải, quả nhiên thấy hai bên sừng sững vách đá dựng đứng, thế núi chênh vênh. Sông Khổng Tước chảy qua một hẻm núi hẹp, cạnh sông là một con đường nhỏ uốn khúc chỉ vừa cho một chiếc xe đi qua, thật đúng là một nơi chỉ cần một người trấn giữ, vạn người không làm gì được.

Người bạn đồng hành chỉ cho tôi xem một dòng chữ lệ khắc trên vách đá: “Khâm sơn đái hà” (áo núi đai sông). Bốn đại tự này cho ta hình dung thế đất ở Thiết Môn quan rất gắn bó. Năm viết là năm 1933, tên họ người viết đã phai mờ đọc không ra.

Ngay nay, một đoạn sông của sông Khổng Tước chảy qua Thiết Môn quan đã khô cạn vì trên hẻm núi người ta đã lấp dòng chảy xây lên một đập lớn cao hơn 20 mét dùng chắn nước làm thủy điện. Từ trạm thủy điện, dòng chảy rẽ ngoặt qua Thiết Môn quan rồi chảy vào hạ lưu sông Khổng Tước. Chúng tôi đi thăm trạm thủy điện xong thì dừng lại bên bờ sông bổ dưa hấu ăn giải khát. Dưa ngon mát lạnh cả người. Dung lượng điện của trạm thủy điện Thiết Môn quan ước chừng ba vạn năm ngàn kilôwat, cung cấp điện sinh hoạt và điện sản xuất cho toàn thành phố Korla.

Đứng dưới chân Thiết Môn quan ngẩng đầu nhìn ngọn núi vừa uy nghi vừa xinh đẹp được gọi là núi Công Chúa. Truyền thuyết kể rằng trên núi là hai ngôi mộ hợp táng của công chúa nước Yên Kỳ và con trai của một vị thừa tướng. Nơi đây đã diễn ra một tấn bi kịch theo kiểu Roméo và Juliet.

Công chúa Nhu Hòa Na và con của thừa tướng là Tháp Ỷ Nhĩ từ nhỏ đã sống với nhau ở trong cung cho đến lớn, họ đã yêu thương nhau và được quốc vương chấp thuận. Nhưng chẳng may vị thừa tướng can gián thẳng thừng nên bị thất sủng và bị chết thảm, họa nhà lây đến cả Tháp Ỷ Nhĩ. Anh ta bị bắt nhốt trong một chiếc hòm. gỗ, rồi ném xuống sông Khổng Tước trôi nổi phiêu linh ra khỏi xứ, nhưng sau được một công chúa nước khác cứu. Công chúa này thấy chàng đâm ra xiêu lòng. Phụ vương nàng cũng muốn nhận chàng làm phò mã, đồng thời sẽ kế thừa ngôi báu; nhưng vì trót yêu công chúa Nhu Hòa Na, nên chàng tìm lời thoái thác.

Sau khi đuổi Tháp Ỷ Nhĩ ra khỏi xứ, quốc vương nước Yên Kỳ ép con gái mình lấy con trai của một gian thần có biệt hiệu là “Hắc anh hùng”. Trong cung giăng đèn kết hoa chuẩn bị cử hành hôn lễ. Nhu Hòa Na đang mặc quần áo cô dâu thì Tháp Ỷ Nhĩ từ trong rương được khiêng vào cung nói dối là đồ dẫn cưới nhảy ra. Đôi tình nhân gặp lại nhau như một chuyện thần kỳ. Thì ra sau khi Tháp Ỷ Nhĩ cự tuyệt lời cầu hôn của công chúa nước láng giềng, chàng trở về nước mình, dân chúng ở biên cảnh đem chàng đóng vào một cái rương nói là đồ dẫn cưới khiêng vào nội cung.

Hai “chàng vị hôn phu” gặp nhau trong hoàn cảnh éo le, không ai nhường ai, họ rút kiếm quyết đấu, “Hắc anh hùng” bị chém chết. Quốc vương tức giận ra lệnh đem Tháp Ỷ Nhĩ treo cổ. Công chúa khổ công cầu xin nhưng vô ích, rồi nàng cũng bị người cha tàn bạo bức tử.

Dân chúng nơi biên cảnh chạy đến cứu viện, nhưng đã thấy công chúa và con trai thừa tướng cùng chết. Họ khiêng thi thể của đôi tình nhân lên ngọn núi gần Thiết Môn quan vừa đi vừa hát lời ai vãn bi thống, cử hành lễ hợp táng. Một đôi tình nhân thuần khiết, lúc sống không được thành thân, chết đi chắc chắn họ được cùng yên nghỉ ở chốn núi cao tĩnh mịch này, vĩnh viễn cúi nhìn dòng sông Khổng Tước chảy qua tổ quốc thân yêu của mình.

Vẫn biết đây là câu chuyện hư cấu được truyền tụng trong dân gian, nhưng nghe xong tôi không khỏi bồi hồi bịn rịn khi đứng dưới ngọn núi Công Chúa này.

Ở Tây Vực có hai Thiết Môn quan. Cái thứ nhất là Thiết môn quan mà tôi đã đến, còn một cái nữa hiện nay ở Kirsint thuộc khu vực Osbiek của Liên Xô cũ. Đây chính là cửa ải Thiết Môn quan mà Huyền Trang phải qua để đến nước Kiết Sương Na, theo đó thì “hai bên phải trái vách đá dựng đứng, màu đá như màu sắt”, là cửa ngõ giao thông quan trọng của vùng nam - bắc Trung Á thời cổ đại.

VÔ HOA QUẢ HƯƠNG LÊ

Dòng nước trong xanh của sông Khổng chảy ra khỏi Thiết Môn quan chừng 5 cây số đem tưới cho vùng lục châu Korla. Korla lưng nằm sát núi Khố Lỗ Khắc của dãy Thiên Sơn, mặt hướng ra lòng chảo Tarim rộng lớn. Thiên Sơn là bình phong ngăn gió lạnh từ phía bắc tràn xuống, vùng rừng nguyên thủy hồ dương dọc hai bờ sông Tarim chắn giữ gió cát từ phía nam lại Về mặt địa lý, Korla được thiên nhiên ưu đãi, khí hậu ôn hòa, những ngày trong năm đều có gió mát, trời đẹp, nguồn nước sung túc, đất đai phì nhiêu, từ xưa đến nay là vùng đất lý tưởng cho nông nghiệp của Nam Cương. Về lịch sử, vùng đất này vốn được người Hán khai phá lập đồn điền đầu tiên ở Tây Vực. Năm 101 trước CN, để cung cấp lương thực cho quan binh đóng ở Tây Vực, chính quyền Tây Hán trước tiên đã cho lập đồn điền ở Luân Đài và Cừ Lê. Korla tức thuộc địa phận nước Cừ Lê cũ mà Luân Đài của nhà Hán chỉ cách Korla hơn 100 cây số về phía tây.

Lịch sử thành phố Korla còn rất trẻ. Năm 1758, nhà Thanh đặt chức quan tam phẩm điều hành ở đây và thuộc dưới quyền quản hạt của huyện Yên Kỳ. Sau Cách mạng Tân Hợi (1911), lần đầu tiên mới thành lập huyện vào năm 1929. Khi mới giải phóng, đây chỉ là một trấn nhỏ với số dân 4700 người. Ngày nay, thành phố Korla có hơn 10 vạn người, công thương nghiệp phát triển, là thủ phủ của châu tự trị Mông Cổ Bainkelen, chiếm 1/4 diện tích toàn Tân Cương. Sông Khổng Tước chảy qua thành phố rồi xuôi về hướng nam, tuyến đường sắt Nam Cương sau khi đặt đường ray đến Korla sẽ tiếp tục kéo dài thẳng xuống phía nam.

Đi sâu vào từng khu phố tôi mới thấy thành phố này còn rất trẻ. Nó được quy hoạch rất chỉnh chu, gọn ghẽ. Trên các đường phố lớn không thấy nhà cửa kiểu cổ. Cách kiến trúc ngân hàng, hiệu buôn, bưu điện, nhà hát đều tân kỳ và rộng thoáng. Hai bên đường, những hàng bạch dương cao vút tô điểm thêm cho đường phố vừa tự nhiên vừa sạch đẹp.

Hàng hóa trong chợ tương đối dồi dào. Tôi đặc biệt chú ý đến mặt hàng thực phẩm như bắp cải, cà pháo, hành tây, ớt cà chua, tỏi... Khi còn ở Bắc Kinh tôi không bao giờ nghĩ ra rằng vùng lục châu ven rìa sa mạc Taklamacan lại có thể sản xuất ra nhiều loại rau đậu đến như thế. Trái cây thì gồm có dưa hấu, dưa Ha Mật và nho. Có một loại trái cây màu vàng, hình tròn dẹp, hỏi xem thử là loại trái gì, người ta bảo là trái xộp xộp (tiếng Hán gọi là “quả vô hoa” - tức “vô hoa quả”. Tôi chưa từng được ăn, mua vài trái ăn thử thì thấy cơm mềm, bỏ vào miệng không cần nhai cũng tan biến ra, vị ngọt nhưng có mùi thơm đặc biệt. Trong quyển Bổn thảo cương mục của nhà y dược học Lý Thời Trân đời Minh có ghi: “Quả xộp xộp (vô hoa quả) có gốc từ Ba Tư, sau khi đưa vào Trung Quốc được trồng nhiều ở Tân Cương”. Ngày nay, các nơi ở Hoa Nam cũng có trồng giống cây này. Quả khô dùng làm thuốc, có công năng khai vị, chuyên trị viêm họng.

Ở Korla, từ đầu hạ đến cuối thu dưa hấu không bao giờ thiếu. Bày bán ở chợ nhiều nhất là dâu và hạnh, thứ đến là anh đài, mận và đào mật tiếp theo là dưa tây, nho, hồng, dưa Ha Mật và trái xộp xộp, và sau cùng là hương lê Korla nổi tiếng trong toàn quốc.

MÁU THIẾU NỮ THẤM RỄ CÂY HƯƠNG LÊ

Khi tôi đến Korla thì đúng vào mùa nho và xộp xộp, còn hương lê không thấy bày bán ở chợ, phải đi vào vườn mới có.

Tiếng Uygur gọi hương lê là “nãi tây mẫu đề”, quả có hình con sợi (hình búp len), nhỏ hơn so với lê nội địa, trọng lượng trung bình chừng 150 gam. Quả màu trắng thoáng xanh nhạt, thịt mềm, có mùi thơm, hàm lượng nước đến 80%. Vỏ dày, có thể để lâu, quả chín vào mùa thu có thể để đến tháng ba, tháng tư năm sau.

Truyền thuyết dân gian của người Uygur cho rằng Korla vốn không sản xuất lê, mà chỉ có bọn gian thương mua lê từ nơi khác về bán rất đắt, người nghèo không mua nổi mà ăn.

Có một cô gái trẻ đẹp tên là Ngãi lệ Mạn quyết tâm đến phương đông kiếm lê về trồng. Cô đã vượt qua 99 ngọn núi, tìm khắp 99 thị trấn, cưỡi chết 99 con lừa, đem về 99 cây lê giống. Sau khi trồng chúng trên đất mình, thì 98 cây giống bị chết chỉ có một cây chịu được đất mới là sống sót và đâm hoa kết trái. Trái chín mùi thơm bay tỏa khắp nơi, mọi người đồng thuận gọi nó là “nãi tây mẫu đề” (có nghĩa là hương của trái lê).

Chúa đất ở đây biết được ,muốn độc chiếm loại hương lê ấy bèn sai báo người báo tin cho Ngãi Lệ Mạn rằng: “Chỉ cần cô chịu đem bán cây lê giống ấy cho ông ta thì muốn bao nhiêu tiền cũng được”. Ngãi Lệ Mạn trả lời: “Dê không thể chơi với sói được!” Nhưng tay chúa đất không chịu thôi lại sai người đem vải vóc, lụa là đến dâng tặng và xuống nước nói: “Chỉ cần Ngãi Lệ Mạn bảo đảm không đem truyền kỹ thuật trồng lê ra ngoài thì hứa sẽ để tự cô một mình phát tài giàu có”. Cô vẫn giữ phép từ chối đồng thời nói rõ ý nguyện của cô: “nãi tây mẫu đề cần phải để cho mọi nhà tỏa hương”.

Tay chúa đất kéo đám tay chân rầm rộ đến nhà cô, đốn ngã vườn lê. Ngãi Lệ Mạn ra sức chống đối nhưng ít không địch lại nhiều, cô phải nằm chết trong vũng máu. Máu tươi của cô chảy thấm đến rễ cây hương lê. Năm sau, những cành cây bị đốn gãy, mọc ra những chồi xanh non trông tươi tốt hơn cây mẹ. Dân làng âm thầm đến chiết cành về ghép cây, hết lòng chăm sóc. Tâm huyết của Ngãi Lệ Mạn đối với vùng lục châu Korla đã được đền đáp, cây hương lê ở mọi nhà đã ra hoa kết trái, đời đời sinh sôi nảy nở không dứt.

Giống hương lê Korla đem từ đông bộ nội địa là một điều đáng tin. Căn cứ tài liệu lịch sử ghi chép thì hai, ba ngàn năm trước vùng đất rộng lớn thuộc lưu vực sông Hoài và sông Hoàng Hà đã có trồng lê. Sau khi Trương Khiên mở đường thông Tây Vực, cây nho, cây hồ đào từ Tây Vực đưa vào nội địa, đồng thời một số cây nông nghiệp và cây ăn quả ở nội địa cũng được truyền đến Tây Vực. Đó là sự trao đổi tự nhiên. Đặc biệt vào năm 101 CN. Nhà Hán bắt đầu khai khẩn lập đồn điền ở Korla, tất nhiên phải đưa giống và kỹ thuật trồng trọt từ nội địa sang. Theo Ngụy thư ghi chép, thế kỷ thứ II CN các giống cây đem trồng ở đồn điền Tây Vực trong đó có giống lê. Và theo Đại Đường Tây Vực ký, thế kỷ thứ VII CN, Đường Huyền Trang đã chính mắt trông thấy nhiều cây hương lê được trồng ở Korla và Khố Xa. Những năm gần đây, trong ngôi cổ mộ Astana, đời Đường, người ta đào được ở Tolophan thấy có lê khô và có khắc các chữ “Mại lê” và “lê thực” trên các thẻ tre. Những điều trên đây chỉ ra rằng việc giao lưu văn hóa kinh tế thông qua con đường tơ lụa là điếu không thể chối cãi, giống lê ở nội địa đã sớm được đưa vào Tây Vực.

Có một điều lý thú nữa là có người cho rằng lê ở Ấn Độ được truyền nhập từ Trung Quốc qua con đường tơ lụa. Theo một vài tài liệu hữu quan thì vào thế kỷ thứ I trước CN, Ấn Độ chưa có lê. Đầu thế kỷ thứ II CN, trong thời gian trị vì của quốc vương Kaniska của nước Quý Sương đã nhập cây đào và cây lê từ Trung Quốc vào Ấn Độ và bắt đầu trồng ở đông bộ tỉnh Punjab.

NHỮNG NGƯỜI ĐI TRÊN CON ĐƯỜNG TƠ LỤA CỔ ĐẠI

Trên khu đất mở đầu việc khai khẩn đồn điền ở Tây Vực thời cổ đại, bình nguyên Korla hiện phân ra mấy khu vực cho quân giải phóng khi tiến vào Tân Cương khai khẩn vùng biên cương của tổ quốc vào đầu thập niên năm mươi làm nông trường. Nông trường quốc doanh Ba Châu số 29 là một trong những nông trường có thành tích nổi bật nhất.

Rời khu tự trị Korla đi về hướng Khố Xa chừng 61 cây số thì đến nông trường 29. Hai bên những con đường ngang dọc không hề thấy những hàng bạch dương cao chọc trời. Ở Tân Cương, một khi có nước là có lục châu, có lục châu ắt có bạch dương, nhưng ở đây lại khác, khiến tôi lấy làm lạ. Về sau hỏi ra mới rõ, nông trường 29 được khai phá trên một vùng đất phèn khá nặng, trồng cây rất khó, hiện nay chỉ cố gắng trồng cây hồ dương chịu phèn mà thôi.

Nhìn vẻ bên ngoài của nông trường 29 không đẹp bằng nông trường của khu Thạch Hà Tử, đường sá không có bóng mát mà kiến trúc lại không tráng lệ, thế nhưng đi sâu vào nông trường xem xét ta mới cảm nhận cây cối ở đây rất tốt, ruộng đất trù mật. Có hai vạn mẫu lúa nước, mỗi mẫu sản xuất hơn ngàn cân thóc, một vạn mẫu ruộng trồng bông, mỗi mẫu sản xuất hơn trăm cân, tại khu đất phèn nặng mà có sản lượng cao như vậy không thể không khiến người ta bội phục.

Công nhân viên chức nông trường toàn là những ngươi từ nội địa đến biên cương khai khẩn. Tôi tình cờ gặp anh công nhân nông nghiệp nói giọng Giang Tô, họ dẫn tôi lội bộ đến khu ruộng trước của họ. Hai bên bờ ruộng sũng nước trồng nhiều cây môn trắng đem từ Giang Nam đến, trong ao có trồng cả sen và từ cô. Hoa sen nở từng đóa, từng đóa thơm dịu, tinh khiết và tao nhã, lá sen phủ kín mặt ao; trên mỗi ngọn lá, từng giọt nước như hạt ngọc chao đảo long lanh trông rất đáng yêu. Tôi nhìn ngắm say sưa không phải ngẩng cao đầu nhìn tuyết trên đỉnh Thiên Sơn hoặc phải dầm mình trong dòng nước như ở Giang Nam.

Tôi đến thăm một vị bô lão đặt lát cày đầu tiên tại vùng đất hoang hóa này ngày xưa, ông tên là Hoàng Kim Sơn. Gia đình ông gốc ở Tân Lâm, vịnh Bột Hải, tỉnh Sơn Đông. Năm 1947 tham gia quân đội giải phóng, theo quân đoàn chiến đấu tại Tây An. Ông thuộc tiểu đoàn 18, sư đoàn 6 quân dã chiến, tháng hai năm 1949 nhận mệnh lệnh đi Tân Cương khai khẩn đất hoang, ông lập tức lên đường tiến quân, cuối năm 1949 thì đến Korla. Năm sau tại vùng đất hoang hóa này đào mương dẫn nước từ sông Khổng Tước vào, cải tạo vùng đất phèn chua thành nông trường.

- Lúc đó bác phải đi bộ từ Tây An đến Korla sao? - Tôi kinh ngạc hỏi - Một lộ trình ít ra cũng phải 2500 cây số!

- Thì đi bộ chứ sao? Lúc ấy khu chưa có đường sắt, bộ đội chỉ lấy được của địch mấy chiếc xe hư, ít ỏi lắm!

- Thế thì bác đã đi bộ qua những nơi nào?

Ông nhớ lại rồi kể luôn một lô địa danh gồm Tây An - Bảo Kê - Thiên Thủy - Tây Ninh - Dân Lạc - Trương Dịch - Tửu Tuyền - Ha Mật - Tolophan - Khố Mễ Thập - Hòa Thạc - Yên Kỳ - Korla.

Ồ, thì ra đó là những lộ tuyến chủ yếu của con đường tơ lụa thời cổ đại! Tôi nghe mà vô cùng thích thú, vỗ tay buột miệng khen hay! Đồng thời cũng có mấy điều nghi ngại, liền hỏi ông:

- Thế bác qua sông Hoàng Hà tại bến đò nào?

- Tại huyện Vĩnh Tĩnh, Cam Túc.

Quả đúng như tôi dự đoán. Chùa Bính Linh ở huyện Vĩnh Tĩnh dù đời xưa đời nay vẫn là bến đò trọng yếu để qua sông Hoàng Hà nếu muốn từ nội địa đi Tây Vực.

Tôi hỏi tiếp:

- Thế từ Thanh Hải đến Cam Túc đi theo đường nào?

Ông suy nghĩ một lát rồi nói:

Qua Thanh Hải có một nơi tên là Nga Bác, phải trèo lên núi cao, lạnh chết người đi được, đến huyện Dân Lạc, Cam Túc thì ấm áp hẳn lên.

Xem ra, ông đi từ Nga Bác vượt núi Kỳ Liên, tức theo con đường mà Tùy Dạng Đế đã đi vào đầu thế kỷ thứ VII gặp bão tuyết ở cửa khẩu Biên Đô trên con đường đến hành lang Hà Tây. Con đường ông phải đi qua là: Vĩnh Tĩnh - Nga Bác - Biên Đô khẩu - Dân Lạc - Trương Dịch - và lộ trình này đúng là tuyến nam vượt sông Hoàng Họ đi Tây Vực của con đường tơ lụa.

Tôi phấn chấn nắm bàn tay thô tháp của ông lão Hoàng Kim Sơn nói:

- Con đường bác vào Tân Cương chính là một trong ba lộ tuyến của con đường tơ lụa cổ đại. Bác vì sự nghiệp giải phóng đất nước ở thế kỷ XX mà đã đi theo dấu chân của người xưa vào đến Tân Cương. Nghị lực và tinh thần ấy khiến tôi rất khâm phục.

Một điều khiến tôi khâm phục hơn nữa là chính ông đã cống hiến cả cuộc đời thanh xuân quý báu cho vùng núi Thiên Sơn và sông Khổng Tước. Lúc vào Tân Cương ông chỉ mới hơn hai mươi. tuổi, nay ông đã quá nửa đời người. Ba mươi năm ông chưa trở lại quê hương, chỉ có một lần về nội địa, đó là vào năm 1970, ông đại diện cho nông trường 29 mang sản phẩm về Quảng Châu tham dự hội chợ triển lãm giao dịch hàng xuất khẩu. Ông nói:

- Từ Tolophan đi xe lửa thẳng đến Tây An, rồi đi Quảng Châu, một bước chân cũng không đụng tới, thật là sướng hết chỗ nói!

Chỉ có những người đã đặt từng bước chân của mình trên con đường tơ lụa dài hơn 2500 cây số mới cảm nhận hết cái niềm thích thú ấy. Ông nói tiếp:

Ngày nay, Korla đã có xe lửa, sau này có cơ hội trở về thăm quê cũ Sơn Đông cũng sẽ tiện lợi biết bao!

18. TỪ KORLA ĐẾN KHỐ XA

Rời Korla theo hướng tây đi Khố Xa. Đường cái quan bằng phẳng thẳng tắp dọc chân núi nam Thiên Sơn, một bên là dư thế của Thiên Sơn không cao lắm, còn một bên là vùng đất rộng hơi chếch về phía nam, chạy thẳng đến bờ sông Tarim. Sông Tarim chảy từ tây sang đông mà phía nam là sa mạc Taklamacan có diện tích 236,000 cây số vuông chiếm 1/5 tổng diện tích toàn Tân Cương.

Ngồi trên chiếc Jeep chạy bon bon, tôi thường dõi mắt nhìn về phía xa, cứ tưởng là sông Tarim gần trong gang tấc, nhưng thực ra, nó cách xa đến hơn 100 cây số, ngay cả bóng dáng một làn nước của nó cũng không thấy. Chạy lướt bên ngoài của xe là rìa sa mạc trải dài bất tận, mọc đầy cây hồng liễu, cây hồ dương và những thôn trang yên tĩnh. Chạy được 70 cây số vừa đúng buổi trưa thì thấy chung quanh nhà cửa người ở khắp nơi.

Không khí của cuộc hành trình rất tĩnh mịch, an toàn, nhưng lòng tôi lại nôn nao. Cuối cùng, tôi cũng được đi quanh một vòng đại sa mạc Taklamacan và có thể đi khắp tuyến nam và tuyến giữa của con đường tơ lụa. Trước mắt tôi cần phải đến hai nơi mà sử sách đã từng ghi đó là Tây Vực Đô hộ phủ đời nhà Hán (nay là Luân Đài) và An Tây Đô hộ phủ đời nhà Đường (nay là Khố Xa).

NƯỚC Ô LŨY CỔ ĐẠI Ở CHỐN NÀO?

Khi còn ở Urumqi, thủ phủ của Tân Cương, phó giám đốc viện bảo tàng khu tự trị Tân Cương Lý Ngẫu Xuân có nói với tôi rằng nước Ô Lũy vốn là trú sở của Tây Vực Đô hộ phủ đời Hán, nay là công xã Sách Đại Nhã thuộc huyện Luân Đàì. Không có người hướng đạo cùng đi, tôi một mình tiến vào khu vực huyện. Mỗi lần thấy lục châu là dừng xe hỏi thăm đây có phải là Sách Đại Nhã không. Hai lần không đúng, hỏi đến lần thứ ba thì chúng tôi tìm được.

Rời đường cái, chúng tôi đi vào một thôn trang. Ruộng trồng bông vải, sơn giới và cao lương. Trụ sở của công xã tọa lạc tại ngã tư thị trấn. Chủ nhiệm công xã Tư La Mẫu là một ông lão người Uygur, ân cần mời tôi thưởng thức món mì sợi.

Hỏi đến khu vực Sách Đại Nhã thời cổ đại có một nước tên là Ô Lũy, Tư La Mẫu lắc đầu có vẻ không hiểu. Tôi nói:

- Sách cổ có ghi Ô Lũy rất nhỏ chỉ có 110 hộ, tổng cộng 1200 người và quân đội có 300 binh lính.

Ông lão Tư La Mẫu vừa gật đầu vừa chậm rãi nói:

- Ồ, thì ra là. như vậy Sách Đại Nhã của chúng tôi có 1500 hộ với hơn 7000 người, so với nước Ô Lũy kia thì lớn hơn nhiều? Gọi hết nam nữ dân binh ra không chỉ có 300 người đâu nhé !

Tôi nói:

- Thế thì bác có thể trở thành đại vương của nước Sách Đại Nhã rồi còn gì!

Mọi người đều cười lớn.

Tôi hỏi, trong khu vực Sách Đại Nhã có thành cũ, gò hoang nào không? Tư La Mẫu nói có hai nơi: một ở sâu trong sa mạc, còn một ở phía bắc đường cái, ông vui vẻ tự dẫn tôi đến đó tìm hiểu. Đi xe chừng 8 cây số thì thấy thấy đồi cát, ở đây không thấy có dấu hiệu gì cả, chỉ trông giống như một ngôi mộ. Kỳ thực, tôi đã sớm biết điều này cho dù các nhà khảo cổ học suy đoán có nước Ô Lũy đời Hán ở tại khu vực Sách Đại Nhã nhưng đến nay vẫn chưa phát hiện ra di chỉ Tây Vực Đô hộ phủ đời Hán là ở đâu cả.

TRUNG TÂM CHÍNH TRỊ NHÀ HÁN TẠI TÂY VỰC

Theo sử sách ghi chép thì phủ đô hộ Tây Vực đời Hán thiết lập vào năm 60 trước CN. Năm ấy, Tây Hán Và Hung Nô tranh giành khu Tây Vực, vua Hung Nô là Nhật Trục hàng Hán, thế là triều đình nhà Hán bổ nhiệm Thị lang Trịnh Cát làm Tây Vực đô hộ đóng trú sở tại nước Ô Lũy và lập đồn điền ở Luân Đài, Cừ Lê. Từ đó về sau, bắc đến hồ Barcashi thuộc phía nam nước Ô Tôn, đông đến phía tây núi Thông Lĩnh của nước Đại Oản, nam đến các tiểu quốc ở chân núi bắc Côn Luân, tất cả đều chịu dưới sự quản hạt của quan đô hộ Tây Vực và liệt vào bản đồ nhà Tây Hán, phạm vi của nó lớn bằng khu tự trị Uygur Tân Cương ngày nay.

Hán thư ghi: “Trịnh Cát lập mạc phủ giữa Tây Vực, cai trị thành Ô Lũy, trấn định các tiểu quốc ... nhận mệnh lệnh của triều đình nhà Hán ban khắp Tây Vực”.

Tại sao Trịnh Cát chọn Ô Lũy, một xứ nhỏ nhoi để đặt trú sở Tây Vực Đô hộ phủ? Nhìn qua bản đồ Tây vực, ta có thể hiểu ngay. Từ Ô Lũy đi Lâu Lan (nay là La Bố Bạc) 1785 dặm, đi Sơ Lặc ở phía tây (nay là Ca Thập) 2210 dặm; đi Xa Sư ở phía đông bắc (nay là Tolophan) 1800 dặm, như vậy Ô Lũy nằm ở trung tâm Tây Vực. Nói “lập mạc phủ giữa Tây Vực, cai trị thành Ô Lũy” chính là nói đến điều đó.

Ngoài ra, Trịnh Cát còn chỉ đạo việc lập trung tâm đồn điền ở Luân Đài và Cừ Lê cách Ô Lũy vài ba trăm dặm và có thể nói đó là kho lương của Đô hộ phủ.

Bắt đầu từ Trịnh Cát, Tây Hán bổ nhiệm đến Tây Vực 18 người, người được bổ nhiệm sau cùng là Lý Sùng, thời gian tất cả kéo dài từ năm 16 CN đến năm 213 CN. Tại viện bảo tàng Tân Cương tôi có thấy một con dấu bằng đồng khắc năm chữ triện lõm Lý Sùng chi ấn tín (ấn tín của Lý Sùng). Con dấu bằng đồng này được tìm thấy ở huyện Sa Nhã cách tây nam công xã Sách Đại Nhã chừng 150 cây số.

Từ Sách Đại Nhã đến huyện lỵ Luân Đài khoảng 60 cây số. Đây là di chỉ Luân Đài thuộc nhà Hán. Hai câu thơ thật hay nói đến địa danh “Luân Đàn của Sầm Tham đời Đường: “Luân Đài thành đấu dạ xây giác, Luân Đài thành bắc mao đầu lạc” (nghĩa là đêm đêm tiếng tù và thổi ở đầu thành Luân, Đài còn ở phía bắc của thành Luân Đài thì sao mao đầu sắp lặn) thường bị người ta hiểu lầm là “Luân Đài” ở đây. Thực ra, Luân Đài của nhà Đường ở về phía đông bắc gần Urumqi.

ĐÊM NGỦ TẠI “NGHINH TÂN QUÁN” CỦA AN TÂY ĐÔ HỘ PHỦ ĐỜI ĐƯỜNG

Rời huyện Luân Đài tiếp tục đi về hướng tây, sau khi băng qua một đám ruộng trồng hoa hướng dương vàng óng, chúng tôi đi vào sa mạc cách chừng 20 cây số thấy có một phong hỏa đài. Rồi đi tiếp chừng 40 cây số nữa lại thấy một phong hỏa đài khác, bên cạnh có một gò cao hoang phế, trông giống như một cái lô-cốt. Dưới bầu trời xanh, mấy chú lạc đà thủng thẳng bước đi trên sa mạc. Cảnh tượng trước mắt kéo dòng tư tưởng của tôi trở về thời đại của hàng ngàn năm trước. Tôi đang tưởng tượng ngày xưa cảnh thiên binh vạn mã ào ào giữa chốn sa trường, hoặc cảnh từng đoàn lạc đà chở đầy của quý và tơ lụa chậm rãi tiến bước ... Đang khi tâm tưởng như vậy, trước mắt bỗng hiện ra dàn khoan dầu khí đồ sộ, rồi lát sau lại thấy trên phi trường Khố Xa những chiếc máy bay màu bạc lấp loáng. Thời gian trôi đi, chúng ta đang ở vào những năm cuối của thế kỷ XX, bên bờ sa mạc Taklamacan, người ta đang thăm dò dầu khí. Nước Quy Tư cổ ngày xưa đã có những chuyến bay định kỳ đi Urumqi, Ca Thập, Hòa Điền.

Bốn giờ chiều xe đến Khố Xa. Korla đến đây đoạn đường dài 310 cây số. Thành Khố xa đầy hương sắc cổ kính. Kiến trúc kiểu vòm tháp tròn nhọn của chùa Thanh Châu mang phong cách Trung Á càng làm tăng thêm sắc thái Tây Vực. Sát nách khu cổ thành là kiến trúc khu đô thị tân tiến. Đường phố rộng rãi, cây xanh rợp bóng, phố xá mang màu sắc tân kỳ. Trong thành phố không có xe buýt công cộng, chỉ có một loại xe gọi là “xe ngựa công cộng” chở chừng 20 người qua lại giữa thành cổ và khu thị tứ mới. Một con ngựa ngẩng cao đầu kéo một chiếc xe trên đó đám con trai, con gái ngồi quanh một tấm ván dùng làm ghế chạy qua các đường phố, cảnh tượng này nếu người ngoại quốc trông thấy chắc sẽ lấy làm lạ lắm.

Nhà khách của huyện Khố Xa tọa lạc ở khu phố mới. Sau khi chúng tôi nhận phòng trọ, thì gặp ngay ông phó giám đốc viện bảo tàng Tân Cương Lý Ngẫu Xuân. Tại Urumqi chúng tôi có hẹn nhau cùng đi quanh một vòng đại sa mạc Taklamacan. Lúc ấy vì bận công vụ, ông không dám hứa chắc, nhưng nay lại gặp nhau ở đây, tôi thật sự vui mừng. Sau này, trên đường du lãm có chuyên gia như ông cùng đi thật là một điều may mắn và khích lệ biết bao! Cơm chiều xong, chúng tôi cùng nhau trò chuyện.

Ông nói:

- Anh có biết không, nơi chúng ta đang trú ngụ chính là góc tây bắc của thủ phủ nước Quy Tư cổ đại đấy?

- Thế khu cổ thành không phải tại Bì Lang sao? - Tôi hỏi - Như vậy, chúng ta ở đây chính là Bì Lang rồi còn gì!

- Phải, khu phố mới của huyện bao gồm cả Bì Lang. Sát bên trái của chúng ta là trụ sở huyện. Đằng sau huyện có một đoạn tường của cổ thành.

Theo lời Lý Ngẫu Xuân, tôi đi tìm bức tường cổ ấy. Đúng sau trụ sở huyện có một đoạn chân tường xây bằng đất khá dài, cao thấp không đều, chạy ngoằn ngoèo theo hướng tây.

Đây là bức tường phía bắc của cổ thành, tường đông và tường nam vẫn còn dấu tích, chỉ thiếu bờ tường phía tây. Theo khảo sát của các nhà khảo cổ học, cổ thành có hình vuông, chu vi chừng 8 cây số, điều này tương đối phù hợp với những gì Huyền Trang ghi trong Đại Đường Tây Vực ký: “Đô thành lớn, chu vi bảy, tám dặm”.

Theo khảo chứng của Lý Ngẫu Xuân, thủ phủ nước Quy Tư đời Hán gọi là Diên Thành, tức là thành Y La Lô thủ phủ nước Quy Tư đời Đường. Còn An Tây Đô hộ phủ của nhà Đường thiết đặt ở Tây Vực từ năm Trinh Quán thứ hai mươi hai thì mới bắt đầu thiên di từ thành Giao Hà (nay là Tolophan) đến thành Y La Lô, ở đây, trước sau hiệu lệnh của nhà Đường kéo dài hơn 200 năm.

Tôi nói:

- Như vậy, chúng ta đang trú ngu tại “nghinh tân quán” (nhà khách) của An Tây Đô hộ phủ đời Đường rồi còn gì?

Ông cười, nói:

- Anh tưởng ra như vậy cũng không có gì sai cả!

CAO TĂNG VÀ NHẠC SƯ

Ở một nơi có nhiều dấu ấn lịch sử như vậy, đêm khuya tĩnh mịch, tôi nằm trên thường nghĩ ngợi miên man không tài nào ngủ được.

Tôi nghĩ về vị cao tăng Cứu Ma La Thập cất tiếng khóc chào đời ở đây vào thế kỷ thứ IV CN. Thân mẫu của ngài là em gái của vua nước Quy Tư, còn thân phụ là người Thiên Trúc. Em gái vua Quy Tư làm sao kết hợp với người Thiên Trúc nhỉ? Nguyên đo thân phụ của ngài là Cưu Ma La Viêm cùng tổ tiên đã nhiều đời là tướng quốc Thiên Trúc. La Viêm không muốn thừa kế chức tướng quốc, từ chối và xuất gia, vượt núi Thông Lĩnh đi về hướng đông đến nước Quy Tư. Vua Quy Tư nghe danh đón lâm quốc sư. Nhà vua có người em gái, tài trí hơn người, các nước tranh nhau đem ngàn vàng sính lễ nhưng thảy đều không được, chỉ nhắm có La Viêm. Dưới sự điều hành và lo liệu độc đoán của quốc vương, đôi trai gái kết thành lương duyên và sinh ra La Thập.

Từ bé, Cứu Ma La Thập rất thông minh lúc lên bảy đã cùng mẹ xuất gia, đến năm hai mươi tuổi, danh tiếng đã nổi khắp Tây Vực. Tương truyền rằng mỗi khi ngài giảng kinh, quốc vương các nước Tây Vực đều muốn quỳ xuống để ngài bước lên trên lưng từng người mà đăng đàn giảng kinh.

Năm 384 CN, đại tướng Tiền Tần Lã Quang đánh nước Quy Tư, đón Cưu Ma La Thập về Vũ Uy, Cam Túc ở lại trong mười bảy năm, sau đưa ngài về Trường An, tiếng tăm của ngài vang khắp Trung Nguyên. Cưu Ma La Thập là người Thiên Trúc, sinh tại nước Quy Tư, đối với việc dịch kinh Phật từ tiếng Phạn ra tiếng Hán, ngài đã có những cống hiến rất to lớn.

Tôi tiếp tục nghĩ về nhạc sư trứ danh Tô Chỉ Bà của nước Quy Tư, nghệ thuật chơi nhạc quản huyền của Quy Tư được kể là đứng đầu ở Tây Vực. Thời Nam - Bắc triều (420 - 589 CN), Tô Chỉ Bà đến nội địa đem âm nhạc Quy Tư truyền bá đến Trung Nguyên vang danh một thời. Đến thời Tùy Đường, trong chín bộ nhạc được quy định có một bộ của nhạc Quy Tư. Rất tiếc, âm nhạc không giống loại nghệ thuật tạo hình nên không thể lưu truyền lại cho hậu thế được. Ngày nay chúng ta không có cách gì biết được âm nhạc Quy Tư rốt cuộc là loại âm nhạc như thế nào.

GIAI THOẠI DÂN GIAN LƯU TRUYỀN Ở TÂY VỰC

Quy Tư là một nước lớn ở Tây Vực trong số hơn năm mươi nước ở đây vào đời nhà Hán, lớn nhất là nước Ô Tôn, có hơn 60 vạn dân; nước thứ hai là Đại Oản, có 30 vạn dân. Sau Ô Tôn và Đại Oản phải kể đến Quy Tư, có 81317 người với 6970 hộ. Đối với việc thống kê nhân khẩu nước Quy Tư so với các nước khác, Hán thư nói kỹ hơn cả, điều này cho thấy mối quan hệ giữa nhà Hán với nước Quy Tư khá mật thiết so với các nước khác trong khu vực.

Dưới triều nhà Hán, lãnh vực của nước Quy Tư bao gồm sáu huyện ngày nay là Luân Đài, Khố Xa, Sa Nhã, Bái Thành, A Khắc Tô và Tân Hòa, trong đó Khố Xa là trung tâm.

Vùng đất trung tâm Tây Vực thuộc xứ Quy Tư chẹn ngang tuyến giữa của con đường tơ lụa. Phía bắc, qua khỏi núi Thiên Sơn còn có đường đi Ô Tôn, đó là một chi tuyến trọng yếu của con đường tơ lụa. Nhà Hán và Ô Tôn qua lại với nhau đều phải đi qua nước Quy Tư.

Nói đến đây tôi chợt nghĩ trong mối quan hệ giữa nhà Hán với nước Ô Tôn và nước Quy Tư có một giai thoại lịch sử như thế này:

Công chúa Giải Ưu của nhà Hán gả cho nước Ô Tôn sanh được một người con gái, khi trưởng thành cho đưa về Trường An học đàn và phải đi qua nước Quy Tư. Vua Quy Tư là Giáng Tân đã từng sai sứ sang Ô Tôn xin cầu hôn với người con gái của công chúa Giải Ưu, nhưng không được. Lần này, cô nàng đi qua nước Quy Tư, Giáng Tân liền chớp cơ hội, trước tiên giữ cô gái ở lại rồi sai sứ đi Ô Tôn xin cầu hôn một lần nữa, cuối cùng thì đắc thắng.

Về sau, công chúa Giải ưu trình thư lên triều đình nhà Hán, xin được nhà vua coi con gái của mình là thành viên của tôn thất nhà Hán và cho được nhập triều. Trong khi đó, Giáng Tân cũng trình thư lên triều đình nói rõ là xin được thành tôn với cháu ngoại của vua nhà Hán và rất vinh hạnh được cùng phu nhân nhập triều.

Năm 65 trước CN, Giáng Tân cùng phu nhân đến Trường An, ở lại một năm được đối đãi rất tử tế. Phu nhân được phong công chúa, được ban tặng ngựa xe, cờ trống và ca thủ, nhạc công đến hàng chục người. Họ rất thích áo mũ và lễ nghi của nhà Hán. Sau khi trở về nước, Giáng Tân xây cung thất, cử hành triều lễ đều phỏng theo nhà Hán. Giáng Tân mất, con được kế vị tự gọi là cháu ngoại nhà Hán và qua lại với nhà Hán rất mật thiết.

HAI VỊ DANH TƯỚNG NGUỜI THIỂU SỐ

Lúc đầu trong chuyến đi vượt con đường tơ lụa của tôi, tại Tây An khi thăm khu lăng mộ Đường Thái Tông gọi là Chiêu lăng, tôi có thấy chôn theo cùng với giấc ngủ ngàn thu của nhà vua có mấy vị đại thần và đại tướng không phải là người Hán, trong đó có A-sử-na-xã-nhĩ và Khế-tất-hà-lực. Lúc ấy tôi rất khâm phục sự sáng suốt của Đường Thái Tông đã dám sử dụng nhân tài người dân tộc thiểu số. A-sử-na-xã-nhĩ và Khê-tất-hà-lực đều vì sự nghiệp thống nhất Tây Vực của nhà Đường trong chiến dịch làm xoay chuyển tình thế nước Quy Tư và đã lập được công to. Nay tôi đến Khố Xa đương nhiên lại nghĩ ngay đến họ.

Thời kỳ đầu của nhà Đường, thế lực của Tây Đột Quyết khống chế cả vùng Tây Vực, làm gián đoạn sự thông thương của con đường tơ lụa. Để thông vãng trở lại, Đường Thái Tông phát động nhiều chiến dịch trong đó chiến dịch Quy Tư có ý nghĩa quyết định. A-sử-na-xã-nhĩ lĩnh nhận thống soái mười vạn quân cùng với Quách Hiếu Khác, Khế-tất-hà-lực đồng xuất chiến.

A-sử-na-xã-nhĩ là người đa mưu, thiện chiến, dùng chiến thuật phân binh tập kích. ông phái một cánh quân bao vây chân núi bắc Thiên Sơn, cắt đứt đường liên lạc giữa Quy Tư và Tây Đột Quyết, và một cánh quân khác đánh Biên Thành. Giả thua, rút lui. Vua Quy Tư suất đại binh truy đuổi, trúng vào quân mai phục, đại bại phải lui binh. Còn A-sử-na-xã-nhĩ đích thân đem một cánh quân nữa đi đánh Đô Thành, hoàn toàn thủ thắng. Trong chiến dịch này, quân đội nhà Đường đánh hạ năm tòa thành lớn, những thành nhỏ còn lại lũ lượt xin hàng.

Đại thắng trong chiến dịch Quy Tư, An Tây Đô hộ phủ được dời về Quy Tư. Từ đó, Quy Tư trở thành trung tâm chính trị, kinh tế của nhà Đường tại Tây Vực.

A-sử-na-xã-nhĩ là con của vua nước Tây Đột Quyết. Năm 635 quy thuận nhà Đường, được Đường Thái Tông trọng dụng và nhiều lần được ban thưởng. Trong chiến dịch Quy Tư, tướng người Hán là Quách Hiếu Khác sinh hoạt rất xa xỉ, khi đi hành quân đem theo cả giường đệm, bàn ghế, trang sức toàn bằng vàng ngọc. Còn A-sử-na-xã-nhĩ vẫn giữ cách sống cần kiệm, đơn giản, không những không tơ hào động đến tài sản của dân mà ngay đến vật dụng xa hoa của Quách Hiếu Khác đem tặng cũng kiên quyết từ chối. Việc này truyền đến hai Đường Thái Tông, nhà vua than: “Hai tướng ấy ai hay ai dở từ đó cũng đã quá rõ rồi, cần gì phải hỏi ai nữa!”

Sau khi A-sử-na-xã-nhĩ chết được ban đặc ân cho chôn mạnh nhà vua. Đây là một ân sủng rất vinh hạnh đối với xã lội phong kiến ngày xưa.

Đường Thái Tông đối xử rất đúng mực đối với những hiền tài người dân tộc thiểu số, tin dùng họ mà không hề có ý kỳ thị. Nhà vua tự nhủ: “Từ xưa đến nay ai cũng quý trọng người Hán mà coi thường di dịch, chỉ có ta là không có thiên kiến ấy; đối đãi với người Hán cũng như không phải người Hán đều bình đẳng, do đó, các bộ tộc bên ngoài đều gần gũi, thân thiết. Đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến thành công của ta vậy”. Lời nói ấy nghe rất có lý.

Đường Thái Tông trọng dụng các tướng lãnh người thiểu số, đáp lại họ cũng rất trung thành với triều đình. Cùng với A-sử-na-xã-nhĩ lập công trong chiến dịch Quy Tư còn có Khiết-tất-hà-lực. ông là người Khiết Lặc, có lần trở về bộ lạc cũ của mình thăm gia đình, ông bị bắt đưa đến nước Tiết Diên Đà. Tin này loan đến triều đình nhà Đường, mọi người nhốn nháo nói với nhau là Hà Lực sẽ không trở về nữa, Đường Thái Tông nói: “Người này lòng như sắt đá, tất không phản bội trẫm”. Quả nhiên đúng như nhà vua dự liệu, Khế-tất-hà-lực bị dẫn đến trước mặt vua Tiết Diên Đà, không hề khuất phục, mặt hướng về phía đông nói lớn: “Thà làm liệt sĩ nước Đại Đường chứ lẽ nào chịu nhục nơi chốn phiên trấn này. Trời đất âm dương mong hiểu lòng ta!” Rồi lấy dao cắt đứt lỗ tai của mình biểu thị ý chí bất khuất. Đường Thái Tông hay tin, cảm động ứa nước mắt, liền sai sứ đi Tiết Diên Đà đem công chúa gả cho vua Tiết Diên Đà coi như điều kiện để đổi Khiết-tất-hà-lực.

PHONG HỎA ĐÀI “NHI NỮ LƯU HẠ”

Từ huyện lỵ Khố Xa đi về phía tây chừng 9 cây số, tại cửa ải thông vãng huyện Bái Thành, sừng sững một phong hỏa đài thời Tây Hán. Đài cao 18 mét, trên đỉnh còn lưu lại hơn mười cây gỗ ngổn ngang. Thân đài làm bằng đất nện, trên đó có nhiều hang lỗ giống như dấu vết của những cọc gỗ đóng vào.

Phong hỏa đài này nằm trên một hình thế địa lý rất hiểm yếu Một bên là cửa ải thông vãng huyện Bái Thành, một bên là nhìn xuống bình nguyên Khố Xa. Cứ tưởng tượng năm xưa đốt lửa lên là ngọn lửa bừng bừng chiếu sáng cả cánh đồng trông thật hùng tráng.

Dưới phong hỏa đài là một khe nước sâu, trắng xóa có tên là khe Diêm Thủy. Đứng cạnh dốc đã nhìn xuống, hai gối ta sẽ phát run. Khe rộng ba, bốn chục mét, nhưng không thấy có nước chảy. Theo như người ta nói vào những ngày hè, khi tuyết trên núi Thiên Sơn tan ra, sóng nước cuồn cuộn đục khoét, xung phá lòng khe mà rộng như vậy.

Dưới chân phong hỏa đài còn dựng một tấm bia đề dòng chữ “Khắc tư nhĩ gả ha thổ tháp” (Tháp đất Khắc tư nhĩ gả ha). Anh bạn đồng hành của tôi giải thích “khắc tư nhĩ gả ha” là tiếng Uygur có nghĩa là “con gái ta ở đây”.

Truyền thuyết xưa kể rằng có một ông vua tàn bạọ, dân tình rất phẫn uất, ông chỉ yêu thương đứa con gái nhỏ của ông mà thôi. Một ngày nọ, có một gã thầy bói từ phương tây lại nói người con gái bé bỏng của nhà vua phải bị tai họa trong vòng đúng 100 ngày, cần phải trốn trên tháp xây bằng đất may ra thoát nạn. Ông vua tàn bạo ấy tin lời và đem đứa con gái yêu dấu của mình đến phong hỏa đài, ngày ngày sai người mang cơm nước đến. Và cứ thế qua được 99 ngày. Đến ngày cuối cùng, nhà vua sai người đem đến cho cô bé một trái hồng, thứ trái cây mà cô rất ưa thích. Cô bé ăn trái hồng ấy, không ngờ một con bò cạp độc từ trong chui ra cắn chết cô bé. Vua cha khóc ngất, ngã lăn dưới chân tháp, la lớn:

- Con gái yêu quý của ta hãy ở lại!

Dù cho ngày thường ông ta tác oai tác quái, nhất hô bách ứng nhưng bây giờ đối mặt với tấn thảm kịch có tính chất định mệnh này, ông chỉ còn cách kêu than lời tuyệt vọng giữa chốn đồng không mông quạnh mà thôi!

TRUNG TÂM PHẬT GIÁO BÊN HAI BỜ SÔNG ĐỐI XỨNG

Qua ngày thứ hai ở Khố Xa, tôi cùng Lý Ngẫu Xuân đi thăm cổ thành Tô Ba Thập cách huyện ly 18 cây số về phía bắc.

Di chỉ này đã được nhà khảo cổ học Hoàng Văn Bật khảo sát vào năm 1928 và cho ràng đó là thủ phủ Y La Lô của nước Quy Tư. Đến năm 1957, ông khảo chứng lại và tự thấy không đúng nên đã cải chính, nhưng rốt cuộc thành Tô Ba Thập là di chỉ loại gì thì ông không khẳng định.

Lý Ngẫu Xuân nói:

- Chắc chắn nó không phải là đô thành mà là một trung tâm Phật giáo gì đó, rất giống với chùa Chiêu Hộ Ly mà Huyền Trang đã ghi trong Đại Đường Tây Vực ký.

Đến hiện trường xem xét thì thấy cách nhìn nhận của ông rất có lý.

Di chỉ nằm rải rác hai bên bờ sông Khố Xa đông tây đối nhau, hình giống như hai lá phổi. Hai ven sông, mỗi bên có ba tòa tháp Phật, xa cách nhau nhưng bổ trợ cho nhau. Bao quanh mỗi tòa tháp là miếu vũ và Phật động. Tổng diện tích của hai nơi khá rộng, ước chừng hai mươi vạn mét vuông Nhưng không tìm thấy dấu vết tường thành tức là cái không thể thiếu đối với một thành trấn thời cổ đại.

Trong Đại Đường Tây Vực ký, Huyền Trang viết: “Cách một con sông có hai ngôi chùa đều có tên là Chiêu Hộ Ly, đông tây đối nhau”. Đoạn miêu tả trên so với địa hình ở cổ thành Tô Ba Thập hoang phế này rất giống nhau.

Tôi theo Lý Ngẫu Xuân leo lên nền tháp Phật ở góc tây nam, phóng tầm mắt nhìn quanh thì thấy đầy rẫy những tường xiêu vách đổ, hình giống tổ ong. Di chỉ được bảo tồn khá hoàn chỉnh có thể sánh ngang với di chỉ cổ thành Cao Xương và cổ thành Giao Hà.

Lý Ngẫu Xuân lấy thước dây đo thân tháp, phần còn lại cao 8 mét. Tháp được bảo tồn tương đối hoàn chỉnh. Ông dẫn tôi đi vào một đường hẻm dưới chân tháp, hai đầu thông nhau, trên vách còn sót lại những bức bích họa vẽ người, vật tô màu. Rất tiếc đường hẻm quá chật không đủ cự ly để chụp hình.

Ông tiếp tục dẫn tôi đi vào một cái động nằm dưới nền tháp ở đó người ta đã khai quật một cổ mộ đời Ngụy Tấn (thế kỷ thứ III - thứ V CN) cách nay không lâu. Về sau tôi thấy một số văn vật đào được ở ngôi mộ trên trưng bày tại phòng văn hóa huyện gồm những tấm gấm dệt rất tinh mỹ và những đầu thú gỗ chạm khắc rất tinh vi. Điều thú vị nhất là phần sau hộp sọ của mộ chủ nhân dẹp hơn sọ của người bình thường, điều này xem ra rất phù hợp với phong tục của người Quy Tư mà Huyền Trang đã ghi lại trong Đại Đường Tây Vực ký: “sanh con trai thì lấy gỗ ép đầu làm cho đầu lép đi”. Đối với người Quy Tư cổ đại thì phần sau não phải lép mới đẹp.

Chúng tôi lại đi vào một ngôi miếu vây quanh trong các bức tường đổ nát hình chữ U. Tường cao đến 10 mét, kiến trúc này nếu còn nguyên vẹn ắt hẳn sẽ hùng vĩ biết chừng nào. Dấu tích trụ đứng cao lớn áp sát tường vẫn còn trông rõ. Trên đất rơi vãi nhiều mảnh gạch ngói màu men xanh. Chính giữa đại điện là tượng Phật ngồi, chung quanh có khám thờ, trước điện, nơi gần bờ sông là nền của một tháp Phật. Có lẽ năm xưa tháp Phật nguy nga này đang cúi nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy về phía nam. Bên kia sông, đỉnh tháp cao vút trời xanh lấp lánh ánh kim quang, điện đường miếu vũ kề nhau san sát. Đông tây chùa Chiêu Hộ Ly đối nhau cách bởi một dòng sông, nơi đây ngày xưa đã một thời huy hoàng biết bao!

CẢNH ĐẸP VÀ TRUYỀN THUYẾT

Trong Đại Đường Tây Vực ký Huyền Trang có kể lại một truyền thuyết về hồ Long Trì ở nước Quy Tư. Một nhân viên tiếp đón chúng tôi có nói bên ngoài huyện lỵ Khố Xa có một hồ lớn (đại lạo ba), phong cảnh rất xinh đẹp, khuyên chúng tôi đi thăm một chuyến. Những muốn mời Lý Ngẫu Xuân cùng đi để xem ông khảo chứng có giống điều mà Huyền Trang nói là hồ Long Trì hay không, nhưng ông từ chối không đi.

Truyền thuyết kể rằng: Ở mặt đông nước Quy Tư, trước thành Thiên Từ về hướng bắc, có hồ Long Trì rất lớn. Trong thành không có nước, phụ nữ phải đến hồ để lấy nước. Rồng ẩn trong hồ đã biến thành người và giao phối với phụ nữ đi lấy nước, rồi sinh ra những đứa con trai kiên dũng, gan dạ đi lại giống như ngựa phi. Lâu dần, lâu dần thành ra một loạt “người rồng”, chúng ỷ mình sức mạnh hơn người, không còn nghe theo lệnh của nhà vua nữa. Vua bên gọi người Đột Quyết vào giết sạch, phá sạch người trong thành. Thế là từ đó thành trở nên hoang vắng, không người.

Đi một vòng quanh hồ, tôi nói với người đồng hành:

- Truyền thuyết chỉ là chuyện hư cấu nên ông phó giám đốc viện bảo tàng không hứng thú để đi. Câu chuyện trên chẳng qua là nói đến sự cấu kết giữa vua nước Quy Tư và người Đột Quyết để trấn áp tinh thần chống đối của dân chúng và đó cũng là một mặt phản ánh phần nào sự thật lịch sử.

Ông bạn đồng hành của tôi nói:

- Hồ lớn này (đại lạo ba) có phải là hồ Long Trì ngày xưa lay không thì tôi không biết, nhưng tôi tin chắc rằng trên lường du hành của anh sẽ khó tìm ra một nơi nào có phong cảnh xinh đẹp như thế này.

Chúng tôi lên xe men theo sông Khố Xa tiến vào lòng Thiên Sơn. Đường đi quanh co khúc khuỷu, khi đứt, khi nối, chênh vênh khó đi. Cũng may tôi đã được rèn luyện, chao đảo ngả nghiêng cũng chẳng sao. Xe đi chừng 45 cây số thì đến một vùng khoảng khoát, bỗng nghe anh phó nhòm Tiểu Kim la lớn: “Dừng xe lại!” Cậu ta vừa lẩm bẩm “đẹp tuyệt” vừa )ước ra khỏi xe, tôi vội vàng bấm máy. Tôi xuống xe, nhìn quanh một lượt cũng phải buột miệng khen tuyệt.

Đây là một bình nguyên được vây bọc bởi núi non, có tên là “Khắc tư nê nhã”, tiếng Uygur có nghĩa là nham thạch màu đỏ. trên những núi đá trọc lóc, màu sắc rực rỡ, quang thái chói lòa. Màu đỏ hồng như lửa của nham thạch nổi bật giữa bầu trời xanh ngắt so với hỏa diệm sơn ở Tolophan có lẽ còn hừng hực hơn nữa. Nhìn kỹ vùng nham thạch quanh một vòng thì thấy sắc màu của chúng rất khác nhau: màu nâu, màu tím đậm, màu cát cánh, màu cổ đồng, màu lam, màu xám tro ... Tôi vừa khen ngợi Tiểu Kim là một nhà nhiếp ảnh có con mắt tinh đời vừa tự tiếc mình không phải là một họa sĩ, trước mắt là cảnh phong quang tráng lệ, biến ảo đa đoan của sắc núi mà tôi chỉ việc giương mắt há miệng mà nhìn chứ chẳng biết làm gì hơn!

Thế núi lên xuống ngoằn ngoèo như vậy lại càng bày ra thiên hình vạn trạng, bên này là khối đá to lớn sừng sững bị phong hóa, đội trời đạp đất, giống như một người khổng lồ mặc áo trường bào khuỳnh tay mà đứng; bên kia, trên vách đá dựng đứng có các kiến trúc cổ đại giống như những pháo đài Âu châu thời Trung cổ.

Đàng xa, từng dãy núi nhọn như đao chĩa lên trời thật đúng với tên gọi là “Đao sơn”. Xa hơn nữa là hàng hàng lớp lớp đỉnh núi nhấp nhô chạy suốt cùng một hướng cùng ngả về một phía nhìn từ xa chẳng khác nào sóng nước dập dồn cuồn cuộn đổ về phía trước.

Tôi thật bái phục những tác phẩm kỳ diệu của thiên nhiên hiện ra trước mắt, tôi vội lấy tập vở ra ghi chép, vẽ qua loa mấy trang để ghi nhớ cảnh này. Khi trở về Khố Xa, tôi đem mấy trang vẽ chẳng ra hình thù gì đó đưa cho một họa sĩ từ Bắc Kinh đến, anh vừa nhìn trang vẽ vừa nghe tôi thuật lại cảnh sắc ở đó, không ngờ anh nổi hứng nói: “Tôi nhất định phải đi đến đó để vẽ, nếu không, hóa ra đến Tân Cương lần này phải trở về không chăng!”

KHÔNG UỔNG CÔNG CHO MỘT CHUYẾN ĐI

Tiếp tục đi chừng 50 cây số nữa thì đến một nơi có tên là Khả Khả Sa. Dưới chân núi màu cổ đồng có di chỉ đãi tìm đồng của thời cổ đại. Từ đời Hán đến đời Đường, sử sách đều nói nước Quy Tư có nghề đãi kim khí, sản xuất ra vàng, đồng, sắt chì, kẽm ...

Đi thêm một đoạn nữa là mỏ dầu hiện đại. Tại đây, ăn cơm trưa xong, lại tiếp tục men theo đường núi phía bắc đi lên. Tôi càng đi càng nghi ngại, lẽ nào hồ Đại Lạo Ba (tức hồ Long Trì) lại xa như thế? Nhưng anh chàng đồng hành cứ bảo sắp đến rồi.

Lại đi tiếp một đoạn nữa thì đằng trước hiện ra một thác nước giống như dải lụa trắng từ núi cao xanh thẳm bay xuống. Xe chạy quanh co lòng vòng để tìm lối đến thác nước, tiếng nước đổ ầm ầm. Rồi leo lên phía trước thì thấy một hồ nhỏ, tức Tiểu Lạo Ba. Đi thêm chừng 5 cây số nữa, cuối cùng cũng đến được nơi muốn đến, đó là hồ Đại Lạo Ba. Hai hồ lớn nhỏ thông nhau bằng một con khe.

Đại Lạo Ba vốn là một hồ nhỏ trên núi cao. Quang cảnh rất xinh đẹp, nước hồ xanh biếc, sóng nước lăn tăn. Bờ núi hướng đông, tùng bách um tùm xanh tốt. Đầu kia của hồ nước là vùng thảo nguyên phô sắc cỏ màu vàng óng ánh. Từng tụm vài ba con bò, dê đang nhàn nhã đi đi lại lại trên đó. Đằng sau những lều bạt màu trắng của mục dân là những đỉnh núi tuyết của dãy Thiên Sơn cao sừng sững. Chúng tôi đi từ rìa sa mạc Taklamacan rồi trở lại mục trường Thiên Sơn là nơi đã từng đi qua, biết đến.

Và một lần nữa lại thưởng thức món trà sữa thơm ngon của mục dân, sau đó quay về. Thâm tâm tôi nhận ra rằng lần đi này thật là vô ích, nhưng ngoài miệng vẫn cứ trách bảo: hồ Long Trì là cái gì nào? Rõ ràng là bị lừa. Phụ nữ thành Quy Tư đi lấy nước mà phải qua một đoạn đường dài 100 cây số chăng?

Ông bạn đồng hành cười nói:

- Sao gọi là bị lừa? Không phải anh đang đi trên con đường tơ lụa cổ đại đấy chăng? Đoạn đường tắt này đi từ Quy Tư đến Ô Tôn đấy! Lẽ nào anh không biết mình đã thành công chăng?

Qua lời nói ấy tôi bỗng hiểu ra tất cả, dãy núi tuyết kia chính là vùng đất Y Lê cách nước Ô Tôn, nơi công chúa Giải Ưu làm dâu không xa. Tôi khoái chí cười lớn, nói:

- Anh rõ là một tay hướng đạo cừ khôi và thông minh!

Đang khi chúng tôi cười nói thì một đàn lừa ngựa của đám thanh niên Uygur đi qua. Trai đi bộ vung roi, gái cưỡi trên lưng những con vật vừa đi vừa hát những bài sơn ca, tôi buộc miệng gọi Tiểu Kim bảo:

- Cảnh này khó gặp lắm đấy, cậu hãy chớp nhanh mấy kiểu. Họ là những lữ khách hiện đại đang đi trên một nhánh của con đường tơ lụa cổ đại, tức là Quy Tư đi thẳng đến Ô Tôn đấy?

19. TỪ THIÊN PHẬT ĐỘNG Ở KHẮC TƯ NHĨ ĐẾN SÔNG KORLA

Rời huyện lỵ Khố Xa đi qua một lần nữa cạnh phong hỏa đài đời Hán có tên là “Nhi nữ lưu hạ” rồi theo hướng núi đi huyện Bái Thành để đến Thiên Phật động ở Khắc Tư Nhĩ.

CHÙA HANG ĐỘNG SỚM NHẤT Ở TÂY BỘ TRUNG QUỐC

Thiên Phật động (ngàn động thờ Phật) ở Khắc Tư Nhĩ là những hang động thờ Phật cỡ lớn ở tây bộ Trung Quốc, niên đại kiến tạo hang động sớm hơn so với quần thể hang động Mạc Cao ở Đôn Hoàng. Việc tìm hiểu nguồn mạch nghệ thuật Phật giáo được truyền sang phương đông của các học giả ở Thiên Phật động Khắc Tư Nhĩ rất được coi trọng.

Đường núi đi về phía tây bằng phẳng dễ đi hơn nhiều so với đường đi về phía bắc đến hồ Đại Lạo Ba. Cảnh sắc núi non dọc đường không kỳ lạ như từng thấy trên đường đi phía bắc. Suốt đường đi, lòng tôi cứ thầm nhủ: đường xa ngàn dặm đi Thiên Phật động Khắc Tư Nhĩ không biết mình được xem bao nhiêu bích họa đây?

Số là thế này, trước đó một ngày tôi có đi một lượt Thiên Phật động ở Khố Mộc Thổ La do hứng chí. Lên xe hướng tây nam huyện Khố Xa đi chừng 27 cây số thì đến trạm thủy điện Mộc Trát Đề, sau đó men theo hồ chứa nước đi bộ hai cây số nữa mới đến nơi. Trên vách núi hiện còn sót lại 33 bức bích họa, tôi đi thăm một mạch mấy chục động, nhưng không tìm thấy một bức bích họa nào hoàn chỉnh cả. Bọn dị giáo thời xưa và các phần tử đế quốc chủ nghĩa gần đây thật là vô lương tâm đã phá hoại hầu hết những bích họa ở Khố Mộc Thổ La.

Sau khi trở lại Khố Xa, tại phòng văn hóa huyện tôi được xem một số đầu tượng bồ tát có tô màu đào được ở Khố Mộc Thổ La, nhìn ngắm một hồi lâu mới hết cơn giận. Sau những tai họa lớn mà lịch sử phải kinh qua, bảo tồn được những tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh như thế này thật là vô cùng khó khăn. Đầu tượng này có khuôn mặt dạng trứng ngỗng, sắc da màu nâu, mi mắt thanh tú trông rất có thần. Khuôn mặt ấy khiến người ta liên tưởng đến nữ thần cổ Ai Cập, có lẽ là khuôn mặt của một phụ nữ quý tộc Quy Tư chăng?

Không cần để ý nhớ lại hàng loạt những gì đã xảy ra, không còn nhớ mình đã ngồi xe khổ sở như thế nào để vượt đoạn đường hơn 70 cây số. Bỗng xe chạy vào rìa sa mạc không lối và đi tiếp một đoạn nữa thì đụng phải vách đá Cấp Sát Xa mà tên dưới là lòng sông Mộc Trát Đề. Chiếc xe men theo đường dốc trơn trượt rất nguy hiểm mà chạy xuống phía hang, quay đầu nhìn lại độ dốc nghiêng ước chừng 45 độ, không biết lát nữa xe có bò lên lại nổi không.

Ven sông, cây xanh tươi tốt, phong cảnh xinh đẹp. Ẩn mình trong tán lá rợp bóng là mấy gian nhà xinh xắn của nhân viên bảo quản văn vật Thiên Phật động Khắc Tư Nhĩ cư trú. Chúng tôi được dẫn vào phòng khách đầy tiện nghi tạm nghỉ ngơi chốc lát. Mọi cái ở đây tuy không mang tính quy mô như ở sở nghiên cứu văn vật Đôn Hoàng, nhưng thấy rất ngăn nắp. Cạnh con sông là vườn rau dưa và vườn cây ăn quả. Lưu trú mấy ngày bên dòng sông u tĩnh cách xa chốn bụi trần náo nhiệt cũng đáng thích thú lắm chứ!

Tôi không quên điều mình quan tâm nhất nên không chờ được, bèn hỏi:

- Ở đây có bao nhiêu hang động hoàn chỉnh để thăm viếng?

Nhân viên tiếp khách sở tại trả lời tôi bằng một câu hỏi:

- Thế các anh định ở lại mấy ngày?

- Phải trở lại Khố Xa trong ngày. Tôi băn khoăn nói.

- Sao lại vội thế. Chúng tôi có 75 hang động tương đối hoàn chỉnh. Nếu không phải nghiên cứu kỹ lưỡng cũng phải mất một tuần mới có thể đi xem hết một lượt.

Theo lời giới thiệu của người hướng dẫn, Thiên Phật động Khắc Tư Nhĩ đã đánh số, cộng tất cả 236 hang động, nằm rải rác nơi những vách đá có dốc cao nguy hiểm trên đường chúng tôi vừa đi qua, đông tây thành dãy kéo dài chừng hai cây số.

Kinh qua những cuộc tàn hại lớn trong lịch sử, tượng đất đương nhiên không còn nữa, bích họa tuy hư khuyết nhưng cũng còn một số tương đối hoàn chỉnh có thể thưởng ngoạn hoặc nghiên cứu. Chúng tôi có nửa ngày, chỉ có thể tham quan tám hang động gọi là đại biểu, nhưng cũng tạm coi là am hiểu phần nào những nét tinh hoa của bích họa ở Thiên Phật động Khắc Tư Nhĩ.

BỒ TÁT SOI ĐUỐC DẪN ĐƯỜNG CHO KHÁCH THUƠNG TRÊN CON ĐUỜNG TƠ LỤA

Trước hết, nhân viên hướng dẫn chúng tôi tham quan hang động có sớm nhất, hang thứ 17.

Thận trọng theo con đường nhỏ quanh co trên vách núi, chúng tôi đến dưới miệng hang, rồi leo thang đi lên. Hang có hình chữ nhật, chia trước sau hai gian. Mặt vách chính gian trước đục khám thờ có chỗ cho tượng Phật, rất tiếc tượng đã bị phá hoại không còn dấu vết nào cả. Khám thờ Phật hai bên có đường thông ra gian sau. Gian trước có ánh sáng của cửa hang chiếu rọi có vẻ sáng sủa, còn gian sau tối tăm. Bất kể gian trước, gian sau hoặc đường thông, trên vách đâu đâu cũng cũng có bích họa.

Người hướng dẫn nhắc tôi ngẩng đầu nhìn bích họa trên đỉnh vòm. Toàn bức họa là do rất nhiều hoa văn hình thoi tạo thành. Trong mỗi ô hình thoi có một bức họa vẽ sự tích Thích ca Mâu ni tại thế quên mình cứu người, tránh ác làm thiện, được gọi là “bổn sinh cố sự” (sự tích đức Phật).

Tôi chú ý đến một ô hình thoi, trong đó vẽ lại sự tích một bồ tát giữa đêm khuya dẫn đường cho một khách thương.

Bạn đồng hành của tôi nói:

- Anh xem, vị bồ tát thiện tâm kia quan hoài đến lữ khách của con đường tơ lụa đấy, đúng không?

Bức họa vẽ một bồ tát để lộ phần thân trên, đeo thắt lưng đưa cao hai tay, hai bàn tay biến thành hai ngọn đuốc soi sáng cho hai khách thương đang đi trong đêm tối. Nét bút của ông họa công thô dữ, nhưng giản dị trong sáng, tức muốn vẽ ra dáng dấp nhẹ nhàng và hòa thiện của bồ tát. Còn hai khách thương mặc trang phục Tây Vực, ngẩng đầu nhìn bồ tát đưa tay phải lên biểu thị ý muốn nói vô cùng cảm kích. Ba nhân vật trong một ô hình vuông nhỏ đã tạo ra một bức họa cực kỳ sinh động.

Trong những bích họa ở Thiên Phật động Khắc Tư Nhĩ, bức vẽ “bổn sinh cố sự” trong sáu hình thoi chiếm vị trí nổi bật. Theo các chuyên gia thống kê, có tất cả sáu, bảy mươi loại “bổn sinh cố sự”, trong khi đó các khu hang động lớn của cả nước như Đôn Hoàng, Vân Cương, Long Môn v.v... chỉ vẽ khoảng hơn ba mươi loại “bổn sinh cố sự”. Cho nên bức vẽ “bổn sinh cố sự” trong các sáu ô hình thoi ở Thiên Phật động Khắc Tư Nhĩ rất được học giả trong và ngoài nước coi trọng.

Về mặt cấu tứ, các bức họa “bổn sinh cố sự” ở hang động Khắc Tư Nhĩ có một đặc điểm: chọn những gì đặc trưng nhất và những tình tiết có sức truyền cảm nhất để thể hiện chủ đề của sự tích. Ví dụ như bích họa “bổn sinh cố sự” về vua Khỉ mặt đỏ (Mị Hầu vương) cứu bầy khỉ ở hang thứ 69. Người vẽ chọn giây phút Mị Hầu vương dùng chính thân thể của mình làm cầu. Người đi săn đã giương cung chờ bắn thì chính lúc đó Hầu vương dùng hai chân trước và hai chân sau bám chặt vào cành cây nằm hai bên bờ suối tạo thành chiếc cầu để đàn khỉ đi qua. Chân trước của Hầu vương ôm chắc một cành cây, lại quay đầu nhìn chờ đàn khỉ qua hết, tình hình khẩn cấp, lo sợ, xả thân cứu người ấy được lột tả một cách linh động, rõ nét.

Bức họa bồ tát đưa đuốc chiếu sáng người lữ hành trong đêm mặc áo trường bào khiến tôi rất thích thú. Sau này trong nhiều hang động khác tôi còn nhiều lần thấy cách phục sức ấy, có người cho đó là y phục của người Quy Tư, còn tôi thấy rất giống y phục của người Tây Á.

Trường bào dài quá gối để lộ hai ống chân mang ủng, cổ áo lật tòe ra, tay áo hẹp bó, eo thắt, vạt dưới rộng, cổ áo và vạt áo trước có thêu những đường hoa văn. Có những bức họa dũng sĩ cũng mặc trường bào như thế, có thêm thắt lưng, một bên có giắt đoản kiếm hoặc đao. Theo nhận xét của tôi thì đó là trang phục đương thời vừa trang nhã đẹp mắt, vừa tiện lợi hợp thời.

HANG ĐỘNG ĐUỢC KIẾN TẠO SỚM HƠN Ở ĐÔN HOÀNG

Rời hang số 17, lại leo lên hang thứ 48 thấy trên nóc có ba thiên thần đầu đội quang luân, dáng dấp như nam tính, cho ta cái cảm giác hùng dũng, nét vẽ còn rất thô tháp, hoàn toàn không giống tư thế mềm mại, phiêu bồng như tiên của các thiên thần trên những bích họa ở Đôn Hoàng.

Người bạn đồng hành nói với tôi rằng hang 17 và hang 48 này các chuyên gia cho là chúng được kiến tạo vào khoảng thế kỷ thứ III, tức tương đương với những năm cuối của nhà Đông Hán hoặc chậm hơn thì cũng vào thời Tây Tấn (năm 265 - 420).

Tôi ngạc nhiên nói:

- Thế thì có rất sớm so với Đôn Hoàng nhỉ?

- Phải. Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Trung Quốc tất nhiên phải qua Tây Vực trước chứ, đúng không?

Về thời điểm kiến tạo hang động Mạc Cao ở Đôn Hoàng, căn cứ sử sách ghi lại thì vào năm 366 CN, còn phần lớn những bích họa khác mà chúng tôi được xem qua là Vào thời Bắc Ngụy (năm 386 - 534 CN). Nếu quả đúng hang 17 và hang 48 ở Khắc Tư Nhĩ là những hang động được kiến tạo vào cuối đời ĐôngHán thì tôi có diễm phúc chính mắt mình trông thấy hang động Phật giáo được khai đục sớm nhất ở Trung Quốc vậy.

CÔNG CHÚA ẤN ĐỘ, ÂM NHẠC QUY TƯ, ĐIỆU MÚA XOAY CỦA NGƯỜI HỒ …

Đứng trên góc độ đơn thuần về mặt thưởng thức nghệ thuật mà xét thì Thiên Phật động ở Khắc Tư Nhĩ có nhiều bức họa rất tinh mỹ khiến người ta phải lưu luyến xem mãi, quên về.

Ở hang 38, tôi thấy phía trên cửa hang vẽ một bức bồ tát đang thuyết pháp, tôi bỗng thầm nhủ rất tuyệt. Người bạn đồng hành của tôi nói:

- Có nhà mỹ thuật nọ gọi vị bồ tát này là công chúa Ấn Độ cao quý đấy.

- Ít ra đó cũng là một tuyệt sắc giai nhân Ấn Độ Tôi nói.

Tượng bồ tát này toàn dùng đường chỉ kẻ để phác thảo, hầu như thủ bút của một đại sư sáng tạo. Thân trên để hở, đường chỉ kẻ để tạo nên hình người rất đơn giản, rõ ràng cân xứng hoàn toàn với hình thể con người trong môn giải phẫu học (anatomie). Hai tay như đang làm động tác xòe múa, tay trái đưa cao về phía phải, tay phải hứng trước ngực, động tác đẹp tự nhiên. Năm ngón tay mảnh khảnh được vẽ rất tinh tế lại có ý biểu lộ tình cảm. Đầu hơi nghiêng về phía trái và hơi cúi xuống. Đôi mắt lá liễu như khép, như mở, vừa như ẩn chứa nỗi buồn vô hạn vừa như chìm đắm trong cõi trầm tư sâu lắng. Tôi thầm nghĩ mình từ nơi xa ngàn dặm đến xứ Khắc Tư nhĩ này được thưởng ngoạn bức họa kiệt tác của người Quy Tư cổ đại cũng đã đáng giá lắm rồi.

Lúc ấy có vài người nói giọng Thượng Hải leo lên động cùng tham quan với chúng tôi, trong đó có một người tuổi cỡ trung niên mang kính đang thì thầm giảng giải cho người bạn đồng hành ra vẻ như có nghiên cứu về nghệ thuật hang động. Sau này, qua giới thiệu tôi mới biết ông là nhà sinh hóa nổi tiếng ở Thượng Hải có tên là Bành Gia Mộc. Những năm sáu mươi, báo chí đã từng giới thiệu về sự nghiệp của ông, bị ung thư, nhưng ông vẫn miệt mài nghiên cứu khoa học. Vừa rồi ông đến sông Tarim làm công tác điều tra khoa học, trên đường về vòng qua Khắc Tư Nhĩ ghé tham quan những bích họa của Thiên Phật động.

Tôi rất lấy làm kính phục ông, tôi hỏi:

- Ông trèo đèo lội suối đến Tân Cương, sức khoẻ ông có chịu đựng nổi không?

- Không sao. - Ông nói, - mỗi năm tôi đều đến Tân Cương một lần để điều tra khoa học, tiện đường cũng đi xem qua những văn vật cổ tích của con đường tơ lụa. Đây là lần thứ hai đi thăm động Phật ở Khắc Tư Nhĩ.

Nghệ thuật hang động tất nhiên có sức hấp dẫn lớn đối với nhà nghiên cứu sinh hóa. Thực ra cũng không có gì lạ, khoa học và nghệ thuật xưa nay vốn là hai chị em sinh đôi. Có duyên gặp được Bành Gia Mộc lại tăng thêm lòng kính ái của tôi đối với ông. Một năm sau, trên đường đi khảo sát ở La Bố Bạc, ông đã hy sinh, tin ấy được truyền đi làm cho tôi kinh ngạc và thương tiếc không nguôi. Sau cùng, chúng tôi tham quan hang thứ 153. Vòm mái của hang này như muốn sụt lở, cũng may những bích họa chơi nhạc trong từng ô tròn còn lại hơn một nửa. Trên vòm mái chia thành hàng chục ô theo từng hướng, trong mỗi ô vẽ một bồ tát chơi nhạc, có ô đang tấu nhạc, có ô đang nhảy múa. Loại hoa văn “bức xạ” kiểu ô tròn này không hề thấy trên các bích họa ở Đôn Hoàng. Tôi để ý xem xét từng ô vẽ kiểu chơi nhạc ấy, mỗi mỗi đều rất có thần, rất sinh động. Cám ơn Trời Phật, rốt cuộc tôi cũng được may mắn xem những hình ảnh như thế. Âm nhạc Quy Tư đã từng làm chấn động cõi lòng người Trường An không còn cách gì tái hiện được nữa. Ngày nay chúng ta có thể căn cứ vào những bức bích họa chơi nhạc trong cách diễn tấu ống tiêu và trống cơm để tìm ra âm luật và tiết tấu của âm nhạc Quy Tư cổ đại.

Vũ điệu của người Hồ đã từng làm cho Lý Bạch và Bạch Cư Dị phải mắt say lòng đắm cũng đã thất truyền. Ngày nay chúng ta có thể căn cứ vào hình ảnh của các “vũ thần” trên những bức bích họa chơi nhạc để tưởng tượng ra dáng múa mạnh mẽ, ngang tàng của họ thời xa xưa.

Một kho tàng nghệ thuật phong phú như thế chỉ có hơn nửa ngày làm sao xem cho hết được! Khi chiếc xe leo lên con dốc cao hiểm trên đường về, tôi không quan tâm như lúc trước khi tìm đường xuống hang, thậm chí tôi những muốn nó leo lên không được để ở lại, lại càng hay hơn!

TẠM THỜI CÁO BIỆT HUYỀN TRANG

Trở về huyện Khố Xa, nghỉ lại một đêm, sáng hôm sau theo hướng tây nam đi A Khắc Tô.

Trên đường ven sa mạc thấy có ba phong hỏa đài. Ruộng lúa của lục châu rất phì nhiêu, có chỗ giống như nông thôn vùng bình nguyên Hoa Bắc. Đi chừng 200 cây số thì đúng trưa, ruột đói cồn cào. Xe đi vào một thị trấn nhỏ, nhiều loại xe cộ qua đây đang dừng lại nghỉ ngơi. Định đến A Khắc Tô ăn cơm trưa thì không kịp nên chúng tôi dừng xe ở đây, tìm chỗ ăn cơm.

Quán cơm bên đường rộng rãi, sạch sẽ, lữ khách ăn uống ở đây rất đông. Chúng tôi gọi món thịt dê xào ớt trộn mì sợi, ăn rất ngon miệng. Sau bữa ăn, kêu một ấm trà ngồi nhâm nhi. Một cô phục vụ người Hán đi qua, chúng tôi hỏi cô đây là nơi nào, cô bảo đây là nông trường Ha-la Ngọc-nhĩ-cổn thuộc huyện A Khắc Tô, quán cơm này do nông trường quản lý.

Thật không ngờ, tình cờ lại dưng chân mọt nơi mà Huyền Trang đã từng đi qua, đó là thủ phủ nước Bạt Lộc Già.

Huyền Trang rời Khuất Chi (tức Quy Tư) “theo hướng tây đi chừng 600 dặm, qua một sa mạc nhỏ thì đến nước “Bạt Lộc Già” (Đại Đường Tây Vực ký).

Các học giả cho rằng nước Bạt Lộc Già tức là vùng A Khắc Tô hiện nay, nhưng nói là thủ phủ của nước ấy thì không phải. Có người cho là ở Ha-la Ngọc-nhĩ-cổn mà căn cứ chính là vị trí địa lý của nó.

Ha-la Ngọc-nhĩ-cổn có một con đường ở phía bắc thông với cửa khẩu Mộc tư A đặc trong dãy Thiên Sơn. Theo ngôn ngữ của Đột Quyết thì “Mộc tư” có nghĩa là “băng”, “A đặc” có nghĩa là “hang núi”, cho nên Mộc tư A đặc nghĩa là “Hang núi băng” hoặc có thể gọi là “Lăng sơn khẩu”.

Đại Đường Tây Vực ký ghi rằng: Sau khi Huyền Trang đến nước Bạt Lộc Già, “đi theo hướng tây bắc hơn 300 dặm, qua một sa mạc nhỏ thì đến Lăng Sơn” (Lăng Sơn nghĩa là núi băng đây chỉ núi Thiên Sơn). Các học giả nhận định rằng núi băng ấy chính là Mộc tư A đặc. Đặc điểm địa lý của Lăng Sơn mà Huyền Trang miêu tả so với hang núi Mộc tư A đặc ngày nay rất giống nhau. Ngài tả rõ hang núi Lăng Sơn quanh năm đầy tuyết, bất kể xuân hạ đều đóng băng, có khi cũng tan ra, nhưng gặp lạnh thì đông lại tức khắc.

Huyền Trang trải nhiều gian nan, vượt qua núi tuyết đến vùng Y Lê rồi theo hướng tây để đến hồ Issyk Kul. Người Trung Quốc cổ đại gọi hồ nước trên núi cao này là “Nhiệt hải” vì nó ở trên vùng đất cao và lạnh, cao hơn mực nước biển 1600 mét, nhưng quanh năm không đóng băng, trong khi đó núi non quanh quất băng tuyết vĩnh hằng, hồ vẫn không chịu ảnh hưởng nên có tên gọi như thế (Nhiệt hải). Nhà thơ Sầm

Tham có câu thơ rằng: “Tây đầu Nhiệt hải thủy như chữ” (ở phía tây có biển Nhiệt hải nước nóng như nung), điều này cũng đơn thuần là nhà thơ do từ mà nói lên nghĩa qua thơ văn, tuy trung thực nhưng khó tin. Huyền Trang gọi hồ Issyk Kul là “Thanh trì”, vì nước hồ trong xanh, ngài còn tả mặt hồ biến ảo khôn lường: “Đôi khi bất chợt không cần gió nổi sóng lớn cũng vọt cao hàng trượng”, “Tôm cá tuy nhiều, nhưng không ai dám đánh bắt”.

Huyền Trang đi vòng quanh hồ Issyk Kul rồi theo hướng tây đến thành Toái Diệp, tức một trong An Tây tứ trấn của nhà Đường. Tại đây, sau khi Huyền Trang yết kiến vua Tây Đột Quyết lại đi tiếp xuống phía nam tức đi vào bán đảo Ấn Độ.

Sau khi chúng tôi ăn một bữa ăn ngon lành tại nhà hàng nông trường Ha-la Ngọc-nhĩ-cổn, tiếp tục theo thường cái dọc vùng đồng bằng gấp rút tiến về phía tây. Đi chừng 60 cây số thì đến A Khắc Tô. Trên đường đi, hàng bạch dương cao vút dọc ven đường lúc có lúc không chạy dài bất tận, báo trước vùng có nguồn nước sung túc, màu xanh tươi tốt, nông nghiệp phát đạt.

A Khắc Tô là một thành phố khá tấp nập, đường phố rộng rãi, có kiến trúc thuộc thời cận đại, chúng tôi nghỉ ở nhà khách, đầy đủ tiện nghi. Nhân khẩu toàn huyện có mười một vạn, trong đó thị trấn chiếm một vạn ba, phần lớn là người Uygur. Đời nhà Hán, A Khắc Tô thuộc nước Cô Mặc, lúc đó nhân khẩu có 24500 người, đời Đường gọi là thành Bát Hoán. Có học giả cho rằng thủ phủ nước Bạt Lộc Già mà Huyền Trang đã đến là A Khắc Tô chứ không phải là Ha-la Ngọc-nhĩ-cổn. Họ cho rằng Huyền Trang đi về hồ Issyk Kul và thành Toái Diệp bằng con đường qua hang núi biệt Trật Lý cách A Khắc Tô về phía tây chừng 160 cây số. Tôi đến thăm Diêu Ký Thần, trưởng phòng văn hóa huyện, ông đã từng theo con đường này đi về hướng tây, gần hang núi Biệt Trật Lý cách huyện Ô Thập 5 cây số về phía tây, ở đây thấy có một phong hỏa đài đời nhà Hán.

Thật ra, từ vùng A Khắc Tô vượt dãy Thiên Sơn đi về phía tây xưa nay vẫn có hai con đường: một đường là hang núi Mộc tư A đặc (tức Lăng Sơn), một đường là hang núi Biệt Trật Lý. Cả hai đều là chi tuyến của con đường tơ lụa. Rốt cuộc, Huyền Trang chọn đường nào thì đến nay vẫn chưa có chứng cứ thực tế để khảo sát. Nhưng dù thế nào đi nữa tôi từ Tây An bắt đầu lần theo lộ tuyến Tây du của Huyền Trang đến được A Khắc Tô xem ra là đã xong được một phần. Do đó, ngài đã rời khỏi địa giới Tân Cương ngày nay, còn sau này từ Ấn Độ trở về thì nhập vào địa giới Tân Cương tại Taxkorcan (Đáp thập khố nhĩ can) rồi men theo tuyến năm của con đường tơ lụa mà vào nội địa. Tôi sẽ đi ven bờ nam của sa mạc Taxkorcan để tiếp tục theo dấu chân của ngài trên đường từ Ấn Độ thỉnh kinh trở về nước.

CÂY HỒ ĐÀO XỨ TÂY VỰC ĐUỢC ĐƯA VÀO NỘI ĐỊA

Ở A Khắc Tô tôi đi thăm chủ tịch huyện người Uygur tên là Rahman Hasmu. Ông rất mềm mỏng nhiệt tình. Ông đã giới thiệu cho chúng tôi những thành tựu trong sản xuất công nông nghiệp của huyện bằng một thứ tiếng Hán không được lưu loát cho lắm. Xem ra lợi thế của toàn huyện là có ba con sông chảy qua trước khi đổ vào sông Tarim, nên nguồn nước rất sung túc, do đó lương thực, nguyên liệu dầu thực vật, bông vải rất phát đạt. Sản lượng lương thực năm 1978 tăng 2,5 so với năm 1949. Nói về đặc sản ở A Khắc Tô, ông đưa ra giống hồ đào vỏ mỏng. Loại hồ đào này bỏ vào lòng bàn tay vo nhẹ một cái là vỏ ngoài vỡ, hiện ra nhân ngay và cho vào miệng ăn ngon lành.

Tôi nói với ông:

- Bốn năm trước, sân nhà tôi có trồng một cây hồ đào Tân Cương, năm ngoái mới đậu được mấy quả, thật là một giống quý.

Ông ta cười nói:

- Có lẽ nô nhớ quê hương đấy! Nhưng có thể không hợp thủy thổ.

Hồ đào cô nguồn gốc ở Tây Vực. Trong Bản thảo cương mục của nhà y dược học Lý Thời Trân đời Minh có ghi: “Hồ đào còn có tên là hạch đào, Trương Khiên đi sứ Tây Vực lần đầu đưa giống về trồng ở Tần, sau mới đến trung thổ”.

Rahman Hasmu nói ngày nay vùng Hoa Bắc vẫn thường đến A Khắc Tô đem giống hồ đào về trồng. Mỗi năm cần đến hơn một vạn cây giống, nó không thể trồng bằng hạt mà phải bằng cùi, nếu không thì quả sẽ không đậu. Thảo nào cây hồ đào nhà tôi trồng bằng hạt nên đã bốn năm rồi tuy cành lá xanh tốt nhưng quả không sai.

ĐI TRONG SA MẠC GÔBI MỘT BƯỚC CHÂN CŨNG KHÓ

Từ biệt A Khắc Tô, qua sông Tarim ở vùng thượng du rồi đi về hướng tây để đến huyện Ba Sở. Phải vượt nhanh 160 cây số đường nhựa mới đến một nơi mà bản đồ đánh dấu là “nhất gian phòng” (một căn nhà). Ở đây quả đúng chỉ có một gian nhà dành cho công nhân bảo dưỡng quốc lộ trú ngụ. Gian nhà cô quạnh này được ghi trên bản đồ Tân Cương quả là một vinh hạnh.

Từ “gian nhà” này rẽ về hướng đông nam và tách khỏi đường cái để đi tìm di chỉ cổ thành Thoát-khố-tư-tát-lai, quen gọi là thành “Đường Vương”. Phó giám đốc viện bảo tàng Tân Cương Lý Ngẫu Xuân đã từng tham gia khai quật thành này và có nhiều phát hiện quan trọng. Sau khi chúng tôi gặp nhau ở Khố Xa, ông phải đi Ca Thập nên tôi chỉ căn cứ vào những chỉ dẫn của ông về đường sá mà tự đi tìm lấy.

Sau khi xe đi vào đường tắt, chiếc Jeep của chúng tôi chao đảo trên đường đất gồ ghề, chông chênh, có lúc thì bị lún sâu vào vết bánh xe cũ, có lúc lại trơn tuột trong lớp cát mịn. Anh tài xế chú tâm cầm chắc tay lái, đầu xe chao qua đảo về giống như người say rượu. Tôi thấy anh có vẻ khẩn trương nhưng mệt mỏi, xe đi gian nan mà chậm chạp, tôi cảm thấy ân hận là không nên đi theo đường tắt gần chỗ “gian nhà”, với lại không có người dẫn đường, ngôn ngữ lại không thông, không biết có tìm ra “Đường Vương thành” hay không, thật khổ tâm!

Đang lúc nghĩ thầm như vậy thì đối diện một chiếc xe ca đi tới, thùng xe chất đầy bao bố, hàng hóa cao nghều, trọng tâm xe có vẻ bất ổn, mỗi bước mỗi chao, so với xe của chúng tôi thì nó còn lắc lư nguy hiểm hơn nhiều. Tôi nhảy xuống xe chạy lại hỏi đường, thấy trên cửa xe có đề dòng chữ nông trường gì đó. Cũng may, tài xế là một thanh niên ngươi Hán có thể hỏi chuyện được. Tôi hỏi lớn:

- Xin hỏi đến thành Đường Vương đi đường nào vậy?

Cậu ta gật gật đầu.

- Còn xa không?

- Thấy thôn trang là đến.

- Xe anh chở đầy như thế không thấy nguy hiểm sao?

Quen rồi? Không sao đâu. - Cậu thanh niên cười cười đáp.

Tôi nhìn theo cậu ta lái chiếc xe chao chao đảo đảo xa dấn, nghĩ bụng phải chăng cậu ta là một thanh niên Thượng Hải xa quê hương, xa gia đình đi khai khẩn vùng đất hoang bên bờ sông Tarim hay Diệp Nhĩ Khương? Tại sa mạc Gôbi hoang vắng này bèo nước gặp nhau những tưởng chuyện trò đôi câu với cậu ta, dẫu chỉ vài câu thăm hỏi thông thường cũng được, nhưng cậu ta lại cười cười rồi lái xe bỏ đi.

SƠN THÀNH CỔ ĐẠI CÓ BA VÒNG TƯỜNG THÀNH

Xe vẫn tiếp tục đi lên phía trước, tổng cộng đi được 50 cây số trên đoạn đường tắt phải mất hai tiếng rưỡi đồng hồ; và cuối cùng cũng thấy một thôn trang, trên bản đồ ghi là Aktam. Khoảng chừng mười mấy hộ thôn dân đều là người Uygur, ngôn ngữ không thông, không biết làm sao đối thoại.

Rời khỏi thôn trang, men theo đường cái đi về hướng tây, hai phía nam bắc của đường toàn là núi đá, chúng tôi tựa hồ như đang đi giữa lòng sông rộng thoáng mà hai bên là vách núi. Đúng ra thời cổ đại, sông Khắc Tư Lặc đã chảy qua như vậy. Ngày nay sông đã đổi dòng, lòng sông xưa đất đai phì nhiêu đã trở thành đồng ruộng.

Lưng chừng núi phía nam của đường đi rải rác những di chỉ chùa miếu thời cổ, còn lưng núi phía bắc là di chỉ cổ thành. Thành gồm có ba vòng thành: Vòng nội thành bao quanh từ lưng núi xuống chân núi, chu vi chừng 655 mét; hai vòng ngoại thành đều từ chân núi đến đỉnh núi, chu vi lần lượt là 1008 mét và 1688 mét. Tường thành tuy đã sụp đổ nhưng vẫn còn nhận ra chân tường do gạch thô xây nên. Cứ tưởng tượng năm xưa thành này trấn giữ khu núi phía bắc, dưới chân là dòng sông Khắc Tư Lặc cuồn cuộn chảy. Bờ núi phía nam đối diện là đền đài miếu vũ huy hoàng, là những tòa bảo tháp sừng sững chọc trời. Ở bên này sông là thành quách hùng vĩ, bên kia sông chùa chiền đồ sộ, ắt hẳn nơi đây đã một thời nguy nga tráng lệ.

Tôi hỏi Lý Ngẫu Xuân “Thoát khố tư tát lai” có nghĩa là gì? Vào thời cổ đại đó là thành nào? ông nói:

- “Thoát khố tư tát lai” là tiếng Uygur có nghĩa là “chín gian nhà khách”, bởi vì nơi chốn nhà cao cửa rộng của di chỉ này ngày trước có chín ngôi nhà to lớn đẹp đẽ. Người Hán gọi đó là “thành Đường Vương” vì có mấy người tiều phu đã tìm thấy một số tiền đồng thời Đường Khai Nguyên tại đây nên có tên gọi như thế. Trên thực tế thì ngôi thành này vốn đã có từ thế kỷ V CN, tức thời Nam Bắc triều và bị hủy hoại vào thế kỷ Xi, tức thời nhà Tống.

Lý Ngẫu Xuân nói thêm vào thời nhà Hán, đất của khu cổ thành này thuộc nước Úy Đầu, đến đời Tấn và Nam Bắc triều thuộc nước Quy Tư. Nhà Đường xây thành Cứ Sử Đức Tân Đường thư, phần địa chí có ghi: Thành Cứ Sử Đức thuộc địa phận nước Quy Tư, tức châu Úc Đầu (hay châu Úy Đầu) trên núi Cô Thạch ở bờ bắc sông Xích Hà”.

Cổ thành đúng là ở bờ bắc sông Khắc Tư Lặc thời cổ đại (tức sông Xích Hà), vị trí địa lý lại đúng là thuộc nước Úy Đầu, do đó các học giả nhất trí cho rằng cổ thành Thoát khố tư tát lai là châu Úc Đầu của nhà Đường và cũng chính là thành Cứ Sử Đức.

Hai nhà khảo cổ học Hoàng Văn Bật và Lý Ngẫu Xuân trước sau đã khảo sát, khai quật tại di chỉ này, trầm tích văn hóa của nó dày hơn hai mét, thời đại sớm nhất vào khoảng thế kỷ thứ V và chậm nhất vào thế kỷ XI, văn vật đào được rất phong phú và quý giá.

VĂN TỰ CỔ TÂY VỰC, SÁO KHƯƠNG, HẠT BÔNG ĐỜI ĐƯỜNG

Trong số những giấy tờ văn thư đào được có văn bản bằng chữ Hán, chữ Khư Lô, chữ Quy Tư, chữ Tolophan, chữ Hồi Cốt, chữ Ả Rập. Những văn bản này rất có giá trị đối với việc nghiên cứu lịch sử Tây Vực và ngôn ngữ cổ đại.

Tượng đất đào được cũng rất nhiều. Sau này tôi có thấy ở Ba Sở hai bức. Một tượng đầu Phật có mắt sâu, mũi cao, lông mi dài, tai to, miệng nhỏ, vẻ mặt cười hiền từ, khuôn mặt rõ là người Tây Vực. Một tượng đầu bồ tát, có khuôn mặt hình trứng ngỗng, lông mày mảnh, đôi mắt rất có thần, đầu có búi tóc rất to. Tôi còn được thấy một bức phù điêu đầu tượng có hình mặt người dùng để trang trí, nhìn qua thì thấy ngoài cái mũi có nét giống mũi voi ra, còn khuôn mặt có phần giống người, trông rất kỳ lạ, ngộ nghĩnh. Những tượng đất tinh xảo đó là tác phẩm nghệ thuật Phật giáo thời cổ đại đào được tại vùng tây bộ xa nhất của Trung Quốc từ trước đến nay. Vì địa điểm khai quật rất gần Ấn Độ nên những tượng đất này có một giá trị đặc biệt đối với việc nghiên cứu nguồn gốc mỹ thuật Phật giáo truyền nhập vào Trung Quốc.

Ở viện bảo tàng Tắn Cương có trưng bày một đoạn sáo gãy bằng xương cũng đào được ở đấy. Theo phân tích, người xưa đã dùng xương đùi trước của dê để làm ra. Những nhà thơ biên tái đời Đường đã không ngớt ngâm vịnh tiếng sáo của người Khương như Vương Chi Hoán trong bài “Lương châu từ” chẳng hạn:

Khương địch hà tu oán dương liễu,

Xuân phong bất độ Ngọc Môn quan.

Thì không biết có phải là thứ ống sáo đó không?

Ở đấy còn đào được rất nhiều đồ dệt, ngoài các thứ tơ lụa tinh xảo ra còn có hàng dệt bằng bông vải rất đặc sắc.

Trong các trầm tích văn hóa thời Vãn Đường, người ta đào được một chiếc váy có hàng trăm nếp gấp may bằng vải trắng mịn. Lý Ngẫu Xuân tỉ mỉ đếm được 240 nếp gấp. Những nhà tạo mốt hiện đại nếu thấy chiếc váy cổ đại này ắt phải tự thán không bằng được người xưa đấy!

Có điều thích thú nhất là trong số trầm tích văn hóa đó không chỉ đào được những kén tằm và những nén tơ mà còn có những hạt bông vải và hoa bông vải. Điều này tập trung thể hiện một hiện tượng lịch sử rất có ý nghĩa, chính trên con đường tơ lụa này kỹ thuật nuôi tằm dệt tơ và hàng tơ lụa từ Trung Quốc truyền nhập vào Tây Vực, đồng thời bông vải và kỹ thuật dệt vải cũng được đưa vào Trung Quốc.

Hạt bông vải đời Đường đào được ở Thoát-khố-tư-tát-lai đưa về viện khoa học nông nghiệp Trung Quốc giám định xác nhận là một loại bông cỏ tức một giống bông vải ở châu Phi. Gốc loại bông cỏ này có ở Ả Rập, về sau truyền qua Ai Cập và vùng Trung Á, rồi từ Ba Tư truyền đến châu Á. Bông vải ở vùng Tân Cương xem ra do từ Ba Tư đưa đến.

Vùng Tân Cương trồng bông vải và sử dụng hàng vải sớm hơn nội địa hàng thế kỷ. Ở nội địa, việc phổ biến trồng bông vải và dệt vải có lẽ phải đến thế kỷ thứ XI, thời Bắc Tống mới có. Còn trước đó người dân chỉ may áo quần bằng vải bố, gai, lông thú và lụa. Vào thời Nam Bắc triều, ở nội địa có người đến Tolophan thấy hoa cây bông vải nở ra có thể đem dệt thành vải coi là chuyện kỳ lạ ở xứ người, nên khi trở về bàn tán xôn xao nói rằng ở Tolophan có một loại cỏ mà hoa giống như cái kén có thể kéo thành sợi như tơ và có thể dệt ra vải có tên là “bạch điệp tử bổ” (vải bông trắng). Văn vật đào được đã chứng minh vùng Tân Cương thời kỳ mạt diệp nhà Hán tức cuối thế kỷ thứ II CN đã sử dụng hàng dệt bông vải. Đến thời Nam Bắc triều đã biết trồng bông vải và dệt vải. Vào đời nhà Đường, nghề trồng bông vải và nghề dệt vải rất phát triển.

Hạt bông vải đào được ở Thoát-khố-tư-tát-lai và việc cung cấp chăn đệm bông có tính co giãn như ngày nay rất có thể là một chứng cứ đáng tin cậy. Hiện nay những hạt bông quý báu và những chăn đệm bông đang còn trưng bày tại viện bảo tàng Tân Cương.

Chúng tôi rời di chỉ cổ thành, ra đường cái để đi về huyện Ba Sở, đường bằng phẳng đi lại dễ dàng. Chúng tôi ngủ lại Ba Sở một đêm để sáng hôm sau chuẩn bị ngược dòng thượng lưu sông Khắc Tư Lặc. Đường thư, phần địa chí có ghi: “Sông Xích

Hà (tức sông Khắc Tư Lặc) chảy từ đỉnh núi Cát La phía tây Sơ Lặc chảy qua thành Cứ Sử Đức”. Núi Cát La ở thượng du sông Khắc Tư Lặc ngày nay chính là Ô lổ Khác kháp đề, tức một cửa khẩu trọng yếu từ Trung Quốc đi ra của con đường tơ lụa.

20. HAI TUYẾN ĐUỜNG VUỢT NÚI THÔNG LĨNH

Trên những bích họa ở Đôn Hoàng và ở Thiên Phật động Khắc Tư Nhĩ đều có những bích họa vẽ khách buôn gặp kẻ cướp. Vở nhạc kịch Ti lộ hoa vư (Mưa hoa trên đường tơ lụa) (sáng tác và diễn xuất của đoàn ca kịch tỉnh Cam Túc) nổi tiếng trong và ngoài nước đã lấy tình tiết về những lữ khách gặp cường đạo cướp bóc trên con đường tơ lụa, triển khai những mẩu chuyện bi hoan ly hợp giữa người Trung Quốc và người Ba Tư. Trên con đường tơ lụa dài dằng dặc ấy, việc gặp đạo tặc uy hiếp, cướp bóc khách thương đông tây qua lại là điều không thể tránh khỏi. Một điều khá thú vị là các nhà khảo cổ học đã phát hiện tại vừng núi hẻo lánh huyện Ô Kháp một đầu mối cướp đường hơn 1000 năm về trước. Mãi đến ngày nay vẫn chưa có ai học tập cách điều tra tội phạm của Phúc nhĩ Ma tư, mà địa điểm xảy ra vụ án còn để lại một số tiền và vàng Ba Tư cổ đại, điều này càng chứng minh một cách hùng hồn rằng đường núi phía tây huyện Ô Kháp là con đường giao thông ở bắc bộ Trung Quốc dọc theo cao nguyên Pamia đi về hướng tây của con đường tơ lụa. Thời cổ đại, từ nước Sơ Lặc (nay là Ca Thập) đi Đại Oản đều phải qua con đường ấy.

Tôi cứ việc theo lời chỉ dẫn của Lý Ngẫu Xuân đi từ huyện Ba Sở qua huyện Ô Kháp để tìm hiểu đoạn đường cổ đại này. Còn ông bận tham dự công tác nghiên cứu số tiền và vàng Ba Tư vừa khai quật được.

Rời huyện Ba Sở, xe phóng nhanh trên con đường bằng phẳng về hướng tây, đi chừng 200 cây số thì đến A Đồ Thập. Vùng nước non sung túc này rất trù phú so với vùng A Khắc Tô, dọc đường nhiều lần phải vượt sông, qua cầu, đôi khi còn thấy những hồ nước sóng bạc nhấp nhô, ngươi địa phương gọi là “biển”. Như thế là chúng tôi đã đặt chân lên vùng nam Tân Cương trù phú. Từ A Đồ Thập rẽ về hướng tây đi tiếp chừng 100 cây số thì đến huyện Ô Kháp, nơi xa nhất của tây bộ Trung Quốc.

Lộ tuyến chúng tôi đang đi song song với sông Khắc Tư Lặc (tức sông Hồng Hà hoặc sông Ca Thập Ca Nhĩ hoặc sông Xích Hà). Thời cổ đại, con sông này chảy qua Thoát khố tư tát lai của huyện Ba Sở rồi nhập vào sông Tarim, còn ngày nay, sau khi chảy đến Ba Sở thì đổi dòng.

Chúng tôi nghỉ lại một đêm ở huyện Ô Kháp tĩnh mịch, những người bạn đồng hành đều cảm thấy nhức đầu, ngủ không ngon giấc, có lẽ do địa thế khá cao, cao hơn mực nước biển khoảng chừng 2500 mét.

Sáng sớm, lên xe rời huyện lỵ đi về phía tây, xe đi trên đường bằng phẳng chừng 50 cây số thì vào vùng núi non, xa xa về phía chân trời, những ngọn núi tuyết trắng phau hiện ra. Đó chính là vùng núi phía bắc của cao nguyên Pamia.

Pamia là cao nguyên được hình thành do ba dãy núi lớn giao hội đó là dãy Côn Luân Ha la (Ha ra Korum), dãy Hưng đô Khố lập và dãy Thiên Sơn. Cổ nhân gọi là Thông Lĩnh. Các nhà chú thích ngày xưa chỉ xem cho mà đoán nghĩa, cho nên ngộ nhận rằng núi Thông Lĩnh hẳn là xanh tốt sum suê, nhưng thật ra cao nguyên Pamia là vùng đất lạnh, núi băng đất tuyết cây cỏ khó sống.

Chúng tôi đi qua một mỏ than, người hướng đạo nói là đã vào vùng “Bát thập đạo pha” (tám mươi đường đèo). Suốt đường đi phải leo đèo, leo dốc, tổng cộng tám mươi dốc đèo. Chiếc Jeep phải gian khổ quanh co trên đường đất núi, cố mà leo lên. Tôi cũng không nhớ rõ mình đã qua được bao nhiêu đèo chỉ cảm thấy cái lạnh ghê người, đang giữa tháng chín mà phải mặc áo bông.

Cách huyện lỵ chừng 90 cây số là lòng chảo Ô lỗ Khắc kháp đề, tứ bề núi non vây bọc, một con sông đầy phù sa màu đỏ ào ào chảy qua lòng chảo. Đó chính là sông Khắc Tư Lặc (tức sông Xích Hà). Lúc đó có mấy con lạc đà chở đầy hàng hóa lội qua sông. Một người đội trên đầu chiếc mũ da cao nghều đang dắt lạc đà đi trước dẫn đường. Tôi chăm chú nhìn hồi lâu. Hình ảnh trước mắt họ chẳng phải là những bích họa ở Đôn Hoàng, ở Thiên Phật động Khắc Tư Nhĩ đang tái hiện cảnh khách thương thời cổ đại đó sao?

TIỂN BẠC BA TƯ ĐÀO ĐƯỢC NHIỀU NHẤT Ở TRUNG QUỐC

Phần lớn tiền bằng bạc và vàng thỏi cổ Ba Tư đều đào được ở Ô lỗ Khắc kháp đề. Lý Ngẫu Xuân đã cho tôi biết tình hình sự việc ấy.

Tháng năm năm 1959, khi Lý Ngẫu Xuân đang làm công tác tổng kiểm tra khảo cổ ở Ca Thập thì được người ta cho biết công nhân làm đường huyện Ô Kháp đã tìm thấy những đồng tiền cổ ở Ô lỗ Khắc kháp đề. Ông liền đến hiện trường mới hay, khi công nhân đào đường bên vách núi thì thấy từ hốc núi tiền và vàng hiện ra, xem xét kỹ lưỡng mới nhận ra số tiền và vàng thỏi ấy từ trong một khe đá đổ ra.

Tại đây, Lý Ngẫu Xuân đã đào tìm và khảo sát. Khi đào lên, vàng và tiền lộn chung với nhau, rất nhiều đồng tiền bạc xâu thành chuỗi. Đồ đựng có thể là một túi xách hay một khăn gói gì đó, nhưng đồ đựng ấy đã mục nát không còn dấu vết gì cả. Nhặt riêng ra từng thứ thì được mười ba thỏi vàng và 947 đồng tiền cổ Ba Tư. Tổng trọng lượng số tiền ấy là 3820 gam, trong đó có hai đồng thuộc đời thứ nhất vua Ba Tư Kuslao, thế kỷ thứ VI; 567 đồng thuộc đời thứ hai vua Kuslao, cuối thế kỷ thứ VI đầu thế kỷ thứ VII, 281 đồng thuộc triều đại Omia, những năm sáu mươi của thế kỷ thứ VIII.

Đây là lần đầu tiên dào được một số lượng tiền bằng bạc nhiều nhất thuộc vương triều Tashan của Ba Tư. (Thứ đến là ở Tây Ninh, tỉnh Thanh Hải 67 đồng và ở Tân Cương 63 đồng). Sự kiện này đã khiến nhiều nhà khảo cổ học rất chú trọng.

Đất lẫn lộn trong những mô đá, những khe đá, những dốc đá và ngay cả một vùng vách đá và mặt đất kéo dày mấy cây số, tất cả đều là màu đất đỏ đậm, chung quanh không hề có một di chỉ kiến trúc cổ nào hay bất cứ một di tích văn hóa nào. Rõ ràng đây là một vùng hẻo lánh rất dễ xảy ra nạn chọn đường cướp của của bọn lục lâm thảo khấu. Nghiên cứu địa điểm và tình hình chung quanh nơi khai quật, Lý Ngẫu Xuân suy đoán số tiền bạc và số vàng thỏi ấy chắc chắn không phải là đồ chôn theo trong các ngôi cổ mộ, cũng không phải là đồ cất giấu của dân cư mà rất có thể là thương lữ gặp tình hình bất trắc, khẩn cấp lúc qua đây vội vàng chôn giấu bên đường. Niên đại chôn giấu khoảng cuối thế kỷ thứ VII đến đầu thế kỷ thứ VIII, tức vào thời Thịnh Đường, cũng chính là thời hưng thịnh nhất trong việc giao lưu kinh tế văn hóa giữa

Trung Quốc và phương Tây.

Lý Ngẫu Xuân nói:

- Chúng ta thử tính, số lớn tiền và vàng ấy là tài sản của những thương nhân kinh doanh buôn bán giữa Trung Quốc và Ba Tư. Nhưng tại sao lại phải chôn giấu bên đường ở một nơi hoang vắng như thế? Thật không khó để suy đoán, thương nhân bất hạnh rất có thể giữa đường gặp cường đạo, trong khi vợi vàng chạy trốn đem số tiền và vàng mang theo ấy tạm chôn giấu đâu đấy, về sau có thể đã bị giết hại hoặc vì một nguyên nhân nào khác không có cơ hội để tìm lấy nên chúng đã nằm mãi cho đến ngày nay và chúng đã cho chúng ta chứng cứ xác đáng bằng hiện vật để hiểu thêm phần nào lịch sử thông thương giữa Trung Quốc và phương Tây.

Theo những vị bô lão của bản địa nói, thời cận đại từ huyện Ô Kháp đến Ô lỗ Khắc kháp đề, cho đến phía Tây mẫu Ha la, nơi phát nguyên của con sông Khắc Tư Lặc có đường đi đến liên bang Nga.

Chúng tôi rời Ô lỗ Khắc kháp đề để tiếp tục đi lên phía trước, giữa đường gặp một thanh niên cưỡi ngựa đi tới, người có da ngăm ngăm đen trông rất oai vệ, người hướng dẫn giới thiệu với chúng tôi anh là xã trưởng công an xã Cát Căn. Đứng trước mặt tôi là một người thuộc dân tộc Kirghiz. Từ sáng sớm đến trưa, đi hơn 100 cây số, thì anh ấy là người thứ hai chúng tôi gặp giữa đường, xem thế có thể thấy vùng đất này dân số quá thưa thớt, toàn huyện chỉ có hơn hai vạn người.

Lại tiếp tục men theo đường núi để đến công an xã Cát Căn. Khi thấy những xã viên Kirghiz tôi mới có cảm giác mình đang trở về với xã hội loài người. Có một cô gái đang chăn gia súc trên thảo nguyên bên bờ sông Hồng (tức sông Khắc Tư Lặc Xích Hà). Cô mặc áo đen và quần màu đỏ, đầu đội khăn rằn, màu sắc rất tươi. Nhiều phụ nữ đang cày cấy trên đồng ruộng. Trên bãi cỏ trước thôn, một cô gái đang dệt vải bàng chiếc khung dệt thô sơ của mình. Hoa văn tươi đẹp của tấm vải bày ra trên thảm cỏ màu lục đậm trông rất thích mắt.

Công xã Cát Căn là một công xã ở cực tây của đất nước Trung Quốc, chỉ khoảng vài ngàn xã viên người Kirghiz, đa số sống bằng nghề chăn nuôi. Thế kỷ thứ III trước CN, người Kirgiz chăn thả súc vật tại lưu vực sông Diệp Ni Tái, khoảng những năm bốn mươi của thế kỷ thứ IX đã từng dựng nước xưng vương, cương vực gồm đông từ hồ Bối Gai Nhĩ, tây đến lưu vực sông Đáp La Tư ở Trung Á. Đầu thế kỷ thứ XVI, một số người Kirgiz thiên di đến định cư ở cao nguyên Pamia và khu vực Thiên Sơn.

DỪNG CHÂN TRÊN ĐƯỜNG BIÊN GIỚI XA NHẤT Ở TÂY BỘ TRUNG QUỐC

Tiếp tục men theo sông Khắc Tư Lặc tiến về phía Tây, quá 74 độ kinh đông, chúng tôi tìm thấy đồn biên phòng Tây mẫu Ha la trong một khe núi. Chúng tôi được các chiến sĩ biên phòng nơi biên giới xa nhất của tồ quốc đón tiếp nồng nhiệt. Tây mẫu Ha la cùng với vùng biên cảnh bên sông Hoắc nhĩ quả tư ở địa khu Y Lê, nơi tôi đã từng đi qua, đều là biên giới phía tây của tổ quốc. Sau một chuyến đi dài, được ngồi thư thả trong nhà ăn của đồn biên phòng ăn một bát mì nóng, bao nhiêu hơi lạnh và lao nhọc đều tiêu tan hết. Các chiến sĩ trẻ ở đây hầu như rất hợp với khí hậu cao nguyên, nhìn họ chơi bóng rổ trên sân ai nấy đều khỏe mạnh, chạy nhảy lui tới nhanh nhẹn vững vàng. Được các chiến sĩ hướng dẫn, chúng tôi leo lên một ngọn núi cao hơn 3000 mét, nhìn bao quát thấy núi non trùng điệp bên kia nước Nga. Mây mù bàng bạc, bàng tuyết trắng xóa, phải chăng đó chính là một bộ phận của núi Thông Linh mà sử sách Trung Quốc thường hay nói đến? Trong lịch sử biết bao nhiêu người có chí khí đi tiên phong, không ngại gian khổ vượt núi Thông Lĩnh, đã đem lại những cống hiến bất hủ vì sự nghiệp giao lưu văn hóa Đông Tây.

Nghĩ đến điều đó, cả đoàn chúng tôi vô cảnh hưng phấn: nơi chứng tôi đang đứng hiện nay rất có thể là thủ phủ Diễn Tôn Cốc của nước Quyên Độc đời Hán. Hán thư viết: “Nước Quyên Độc đô ở Diễn Tôn Cốc cách Trường An 9860 dặm, có 380 hộ, nhân khẩu 1100 người ... Phía tây là núi Thông Lĩnh, tức là nước Hưu Tuần, còn tây bắc cách nước Đại Oản 1030 dặm ...”

Lần thứ nhất, Trương Khiên đi sứ Tây Vực phải đi từ chân núi nam Thiên Sơn lên phía tây, rồi vượt núi Thông Lĩnh để đến nước Đại Oản, rất có thể đã đi theo lộ tuyến từ Ô lỗ Khắc kháp đề đến Tây mẫu Ha la. Sau khi ông về nước đã báo cáo rõ tình hình Tây Vực lên triều đình. Sử ký, Đại Oản liệt truyện chắc hẳn Tư Mã Thiên đã dùng tài liệu báo cáo của Trương Khiên.

Căn cứ những báo cáo của Trương Khiên, thì nước Đại Oản là một nước lớn ở Tây Vực, thành ấp trực thuộc có hơn bảy mươi cái, nhân khẩu 30 vạn, lấy nông ngiệp làm chính, cộng thêm nghề chăn nuôi; sản phẩm chính là lúa mạch và rượu nho, một nhà giàu có thể cất giữ hàng vạn thạch rượu nho, trải qua hàng chục năm không ai đánh bại. Trương Khiên còn cho biết Đại Oản sản xuất ngựa quý, mồ hôi ngựa xuất ra đỏ như máu nên gọi là hãn huyết mã, truyền thuyết dân gian cho là con của ngựa trời. Người đời sau giải thích ý nghĩa của “thiên mã” như thế này: “Nước Đại Oản có núi cao, ngựa sống trên đó rất khó bắt, vì thường có ngựa ngũ sắc từ trời xuống giao phối với ngựa ở đấy mà sinh ra ngựa con (gọi là câu) mồ hôi đỏ như máu (hãn huyết câu) nên gọi là con của ngựa trời (thiên mã tử)”. Về mặt di truyền học ngày nay mà nói, đoạn truyền thuyết hoang đường vô sử vô sách kể trên phần nào phản ánh người Đại Oản đương thời đã biết cách tuyển chọn ngựa giống trong việc giao phối sinh dục.

Vua Hán Vũ Đế rất thích giống ngựa hãn huyết mã, bèn phái sứ giả đến Đại Oản dùng vàng ròng để đổi ngựa quý. Bấy giờ Đại Oản và Hung Nô đang bất hòa, nên họ không những không giao ngựa mà còn giết hại sứ giả nhà Hán. Hán Vũ Đế tức giận liền sai Nhị Sư tướng quân Lý Quảng Lợi đem quân chinh phạt Đại Oản, thắng trận, địa vị của nhà Tây Hán được củng cố ở Tây Vực. Lần chiến thắng này không những có được hãn huyết mã mà còn đem về Trường An giống nho và giống cỏ linh lăng của bản quốc nữa.

TRẠM ĐẦU TIÊN NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO TRUYỀN VÀO TRUNG QUỐC

Từ Tây mẫu Ha la trở về huyện Ô Kháp nghỉ lại một đêm rồi đi Ca Thập và trước tiên là đi gặp Lý Ngẫu Xuân như đã ước hẹn. Tôi thích thú thuật lại việc tìm ra nơi mà ông đã tìm thấy tiền bạc và vàng thỏi cổ Ba Tư trước đó. Ông vui vẻ nói:

- Trên đường thông vãng với núi Thông Lĩnh có ba hang đá nằm trên một hàng ngang, tục gọi là “Tam tiên động” (ba động tiên), trong đó có những bích họa về Phật giáo. Chúng để lại dấu tích của Phật giáo khi truyền vào Trung Quốc qua con đường tơ lụa.

- Tam tiên động ở đâu? - Tôi hỏi.

- Từ huyện Ô Kháp anh đi về hướng đông, tại chỗ rẽ phía nam đi Ca Thập một đoạn không xa thì đó là khu vực “Tam tiên động” - Ông nói - Vị trí chính xác là 75,55 độ kinh đông và 39,35 độ vĩ bắc.

- Như vậy có phải “Tam tiên động” là di chỉ Phật giáo truyền nhập vào phương Đông ở tây bộ xa nhất của nước ta phải không - Tôi hỏi.

- Vâng, cũng có thể cho là như vậy! Anh xem hiện nay chùa hang động ở tây bộ xa nhất của nước ta là Thiên Phật động Khắc Tư Nhĩ nằm giữa khoảng 82 đến 83 độ kinh đông. Tam tiên động tuy chỉ có ba hang động không thể sánh với các loại chùa hang động khác, nhưng vị trí của nó lại ở phía tây Thiên Phật động của Khắc Tư Nhĩ, kinh độ chỉ sai biệt sáu bảy độ và rất gần núi Thông Lĩnh, cho nên đối với việc nghiên cứu nguồn gốc nghệ thuật Phật giáo truyền nhập vào phương Đông, nó có một giá trị đặc biệt.

Lời giảng giải của ông khiến tôi đi thăm “Tam tiên động” với một niềm hứng thú sâu đậm, và chứng tôi hẹn ngày xuất phát.

Từ Ca Thập, chúng tôi đi xe trên con đường vừa mới trùng tu để ra đường nhựa đi Ô Kháp. Xe chạy chừng hơn 10 cây số thì qua một chiếc cầu bằng xi-măng, rồi tách đường cái xe chạy giữa lòng sông rộng, nước cạn, chảy yếu, đi ngược về hướng tây. Xe chạy trên cát sỏi của lòng sông chừng ba cây số thì dừng lại.

Trên lưng chừng núi ở bờ nam của dòng sông sừng sững vách núi dựng đứng bày hàng ngang ba hang động, đó chính là “Tam tiên động”. Cửa động hình chữ nhật, cách mặt đất chừng 30 mét, nếu không có thang đủ cao không thể leo lên được Người ta nói rằng gần đây có những người Nhật nghe danh đến thăm viếng đứng nhìn động mà than, họ chỉ còn cách đứng từ xa quan sát qua ống nhòm.

Tôi may mắn được đi với Lý Ngẫu Xuân, có điều kiện thuận lợi. Trước hết, ông đề nghị xin đội cứu hỏa thành phố Ca Thập lái đi theo một chiếc xe cứu hỏa, từ mặt đất bắc thang ngay đúng cửa động ở giữa lên xuống hồ chiều. Trước tiên mấy anh lính chữa cháy leo thang vào cửa động trước rồi từ cửa động thòng dây bảo hiểm xuống, bấy giờ mọi người mới lần lượt vin dây bảo hiểm đi lên.

“Tam tiên động” vốn không liền nhau, không biết người ta đục mở vào thời nào. Ba động đều có trước sau hai gian, gian trước dài rộng 4 mét, gian sau khoảng bằng nửa gian trước, phần nóc là uốn kiểu mái vòm.

Dưới triều nhà Thanh, hang giữa đã bị quét vôi, bích họa còn lại rất ít. Hang ở phía tây mặt đá lộ ra bên ngoài, trên vách dấu đục ngang dọc chứng tỏ chưa làm xong, bị bỏ nửa chừng. Hang ở phía đông bích họa được bảo quản tương đối đầy đủ.

Lý Ngẫu Xuân thấy trên tường của hang động này toàn là tượng Phật, còn giữ được đến hơn bảy mươi bức, điều này làm ông phấn khích. Ông nói:

Trên các bích họa của động Phật không thấy có sự tích được chép trong kinh Phật, cũng không có tượng người cúng dường.

Có một tượng Phật ngồi, mình khoác áo cà sa có hoa văn hình ô vuông, dùng màu xanh cánh trả và màu đỏ nhạt vẽ thành, sau lưng vẽ những ngọn lá bồ đề. Ông đưa ra nhận xét:

- Cách phục sức này chỉ có trên những tượng bích họa của thời kỳ đầu.

Gian sau của một hang động có vẽ một bức tượng Phật đứng là tương đối hoàn chỉnh nhất. Phần thân trên để trần, tay phải nâng một vật đưa ngang thắt lưng, tay trái duỗi tự nhiên. Cách phục sức của tượng Phật này rất ít thấy: phần thân dưới mặc một loại quần gồm ba màu lục, xanh, hồng kết thành sọc ngang, có vẻ hơi giống loại váy màu của người vùng Đông Nam Á hay mặc.

Những người cùng đi, trừ Lý Ngẫu Xuân và nhà khảo cổ học, còn có các họa sĩ, các nhà nhiếp ảnh. Mọi người mượn cơ hội hiếm hoi này tranh nhau đo đạc, mô phỏng và chớp hình, bận rộn tíu tít trong hơn hai tiếng đồng hồ mới bịn rịn xuống thang y như lần đi lên. Xong xuôi, mọi người đến bên cạnh bờ sông vây quanh Lý Ngẫu Xuân vừa ăn dưa hấu vừa lắng nghe ông phát biểu cảm tưởng. Ông nói:

- Quý hóa quá? Thật là quý hóa. Thời kỳ đục mở hang động sớm hơn nhiều so với dự đoán ban đầu của chúng tôi.

Căn cứ cách thể hiện nội dung các bích họa và phong cách nghệ thuật mà phân tích, ông cho rằng thời gian đục mở “Tam tiên động” không sớm lắm so với Thiên Phật động ở Khắc Tư Nhĩ, chậm nhất là vào thế kỷ thứ IV CN. Do đó, ba hang động này có thể là di tích sớm nhất còn lưu lại sau khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc tại vùng tây bộ xa nhất này. Ông nói:

- Không nên gọi là “Tam tiên động” nữa vì giữa chúng và Đạo giáo không hề có quan hệ nào cả, có lẽ nên gọi là “Tam Phật động” (ba động Phật) thì đúng hơn.

TRUYỀN THUYẾT VỀ THÀNH LŨY CÔNG CHÚA

Trở về Ca Thập, tôi và Lý Ngẫu Xuân theo một lộ tuyến khác vượt qua núi Thông Lĩnh để tìm hiểu con đường tơ lụa. Từ Taxkorcan vượt Thông Lĩnh đi Kashmir. Sau khi từ Ấn Độ thỉnh kinh trở về, Huyền Trang cũng qua Kashmir rồi vượt núi đến Taxkorcan sau đó mới trở lại Ca Thập.

Vùng Taxkorcan nằm giữa cao nguyên Pamla và núi Côn Luân, thời nhà Hán gọi là nước Bồ Lê và nước Ỷ Nại thuộc quyền quản hạt của Tây Vực Đô hộ phủ. Đến đời nhà Đường đặt làm thủ tróc thông lĩnh, thuộc quyền quản hạt của An Tây Đô hộ phủ. Đó là cứ điểm quân sự quan trọng và là cửa khẩu trọng yếu ở núi Thông Lĩnh.

Thời Huyền Trang qua đây gọi là nước Yết Bàn Đà. Trong Đại Đường Tây Vực ký ngài có viết: “Nước rộng. thành lớn, thành nằm trên một núi đá cao, sau vách núi có nhiều sông, núi này tiếp núi kia, đất hẹp, cây cối thưa thớt, hoa quả ít oi ...” Rõ ràng đây là một nước nhỏ ở trên núi cao.

Theo ghi chép của Huyền Trang, quốc vương nước Yết Bàn Đà tự xưng là “Hán nhật thiên chủng”, bởi vì theo truyền thuyết thì thân mẫu tổ tiên của nhà vua vốn là người Hán, còn thân phụ là “mặt trời từ cõi trời bước xuống”, dáng mạo giống người Hán mà thân thể thì mặc quần áo người Hồ.

“Hán nhật thiên chủng” là một sự tích rất thú vị. Trước khi nước Yết Bàn Đà được kiến lập thì trên núi Thông Lĩnh chỉ là vùng hoang vu. Quốc vương xứ Ba Lợi Tư phái sứ giả đi rước công chúa của triều Hán về nước đi ngang qua vùng đất hoang vu này. Lúc ấy đang xảy ra chiến loạn, giao thông đông tây bị gián đoạn. Sứ giả bèn đưa công chúa đến an trí trên một ngọn núi vắng vẻ, núi cao vách hiểm, vệ sĩ ngày đêm canh gác nghiêm mật, tuyệt đối không được để mất công chúa. Trú lại ở đây một thời gian ba tháng, chiến tranh mới chấm dứt. Chính lúc chuẩn bị bắt đầu lên đường trở về nước thì công chúa có mang. Bọn sứ thần hết sức hoảng sợ. Công chúa chưa thành thân mà đã mang thai thế thì khi về nước trình bày thế nào với nhà vua đây? Thế là sứ giả bắt đầu kiểm tra, thăm dò trong tất cả mọi người, không tìm ra kẻ phạm pháp để trị tội không xong.

Đang khi mọi người hoảng loạn, một thị nữ của công chúa nói thầm với sứ giả:

- Không cần phải quở trách nhau làm gì, không phải người phạm tội đâu, mà là thần đấy. Hằng ngày vào giữa trưa có một người đàn ông từ trên trời cưỡi ngựa phi xuống và cùng với công chúa gặp nhau.

Bọn sứ thần nghe xong ai nấy đều kinh ngạc và không biết nên làm như thế nào. Sau nhiều lần bàn bạc, họ không dám trở về nước nữa, thế là ở lại trên ngọn núi cao, xây thành đưa công chúa lên nhiếp chính. Về sau, công chúa sinh ra một con trai, lớn lên lập làm quốc vương, người này có thể bay lượn giữa trời, chế ngự được mưa gió, các nước chung quanh không ai là không thần phục. Sau khi vua chết, người ta an táng nhà vua trong một thạch động nằm ở phía nam của thành hơn 100 dặm, thi thể nhà vua lâu ngày trở thành khô, không bị thối rữa, trông như đang ngủ. Người trong nước thường thay y phục cho nhà vua và luôn luôn cúng bái hương hoa. Con cháu ngày càng đông đúc, hiệu xưng là “Hán nhật thiên chủng” (người Hán giống trời).

Ngày nay, trong hẻm núi ở phía nam huyện tự trị Taxkorcan Tajik có một khu đất gọi là Kizikorcan. Tiếng Uygur có nghĩa là “thành lũy của công chúa”.

Tôi hỏi Lý Ngẫu Xuân, theo góc độ của nhà khảo cổ học, thành lũy này có ý nghĩa như thế nào? Ông cười, nói:

- Sự tích về truyền thuyết có phải là sự thật không? Có điều mấy năm gần đây những người làm công tác khảo cổ đến đây tìm thấy những đồ dùng bằng gỗ, họ đem giáo nghiệm thì thấy cái gọi là “thành lũy công chúa” chỉ là di chỉ được kiến trúc khoảng mấy trăm năm trở lại đây mà thôi.

CON ĐƯỜNG XƯA THÔNG VÃNG KASHMIR

Lịch sử của tuyến đường Ca-thập - Taxkorcan - Kashmir có nhiều nhà sư nổi tiếng, nhiều nhà du lịch và nhiều nhà thám hiểm đã từng đi qua. Và tôi cũng không bỏ lỡ cơ hội đi thăm một chuyến trên tuyến đường này. Nhưng thật không may, trước khi đến Ca Thập, nhà đương cục địa phương đưa ra quyết định: phàm du khách đến Taxkorcan phải qua bác sĩ kiểm tra sức khỏe và phải có giấy bác sĩ cho phép mới được đi lại. Nguyên nhân là trước đó xảy ra một chuyện: có chị cán bộ đi Taxkorcan tham dự hội nghị, dọc đường phải qua vùng cao nguyên cao trên 4000 mét phải bị chết vì đau tim đột ngột. Tôi vốn cao huyết áp, chắc sẽ không được bác sĩ cho phép, chỉ biết ngồi than thở không biết làm gì hơn!

Nhưng rồi tôi men theo tuyến đường ấy dọc theo sông Cái Tư mà đi, đi đến một nơi cách sông Cái Tư không xa là ngọn núi chính của cao nguyên Pamia, ngọn Kongur cao 7719 mét.

Từ Ca Thập đi theo hướng nam chừng 80 cây số trên vùng bình nguyên lục châu thì phải vào một vùng núi, sông Cái Tư vẫn cuồn cuộn chảy về hướng bắc. Men theo dòng phát nguyên của con sông to lớn ấy trên cao nguyên mà đi chừng 40 cây số nữa thì đến đồn kiểm tra biên phòng. Xuống xe ở đây, đi bộ qua chiếc cầu gỗ, dọc theo một con đường nhỏ quanh co khúc khuỷu, rồi leo lên một dốc cao khoảng 200 mét thì đến một vùng đất bằng nhỏ ở lưng chừng núi. Trên đồng bằng này có ruộng lúa và nhà cửa, xã viên người Kirghiz thấy có người lạ đến liền nghênh tiếp. Thanh niên, phụ nữ mặc quần đỏ, áo đen tay cụt, đeo khuyên tai và dây chuyền, trên dây chuyền có treo lủng lẳng những đồ trang sức khác bằng đồng hoặc bằng bạc trông rất lạ mắt.

Nói chuyện với một cán bộ hiểu tiếng Hán thì mới biết đấy là đại đội Cái Tư thuộc công xã Bố Luân Khẩu, có tất cả 467 người vừa canh tác vừa chăn nuôi. Có 130 mẫu đất ruộng trồng đại mạch và thanh khỏa (tức một loại lúa mạch trồng ở vùng lạnh). Tiểu mạch và lúa gạo không hợp thủy thổ ở cao nguyên. Đại đội có một trường tiểu học dạy tiếng Kirghiz và tiếng Hán.

Ở đây ngước đầu nhìn lên thì thấy núi tuyết, phải chăng đấy là ngọn Kongur cao 7719 mét? Tôi cảm thấy hơi nhức đầu, địa thế có lẽ không còn thấp nữa. Tôi nghĩ, nếu tiếp tục đi vượt qua vùng núi cao có tên là “Tiểu đầu thống”, “Đại đầu thống” theo như những nhà du lịch miêu tả thì tôi e không nổi.

Hán thư, phần nói về Tây Vực có một đoạn miêu tả tình trạng vượt đường qua núi Thông Lĩnh như sau: “Vượt qua núi “Đại đầu thống”, “Tiểu đầu thống” ... trong người hầu như lạnh ngắt, đầu đau váng vất, nôn mửa, không hề thấy lừa ngựa ... Đường rất hẹp, khoảng chừng sáu, bảy tấc, dài đến 30 dặm. Hai bên vách núi chênh vênh. Bên dưới là vực sâu. Người qua lại phải dìu nhau từng bước, phải vịn dây mà đi ...”

Huyền Trang cũng miêu tả núi Thông Lĩnh rất đúng: “Có đến hàng trăm dây vách núi, hang sâu hiểm trở, băng tuyết quanh năm, hơi lạnh thấu xương”. “Người đi qua đấy chỉ thấy mây mù dày đặc, thương lữ vãng lai khổ sở gian nan”.

Xem thế đủ thấy từ xưa đến nay, lữ khách trong ngoài đều cho rằng con đường vượt qua núi Thông Lĩnh là con đường đáng sợ, người không có óc mạo hiểm thường chỉ đứng nhìn núi cao mà không dám đi tới.

Người hướng đạo chỉ cho tôi thấy con đường núi quanh co trên dốc núi cao kia là con đường ngày xưa thông vãng Taxkorcan. Đời nhà Thanh vẫn còn có khách thương qua lại. Ngày nay đã được thay bằng đường công lộ men theo sông Cái Tư. Con đường quốc tế này, sau khi ra khỏi biên cảnh quốc gia sẽ qua Kashmir để đi Baishawa của nước Pakistan.

Trên đường ngôi xe trở về Ca Thập, lòng tôi đầy xao động không chỉ cảm thấy nuối tiếc mà còn cảm thấy xấu hổ khi nghĩ đến những nhà thám hiểm cổ đại như Huyền Trang, Huệ Siêu, Pháp Hiển ..

(còn tiếp)