Nguyên sử - An Nam truyện

NGUYÊN SỬ: AN NAM TRUYỆN QUYỂN 209

1.安南國,古交趾也。秦幷天下,置桂林、南海、象郡。秦亡,南海尉趙佗擊併之。漢置九郡,交趾居其一。後女子徵側叛,遣馬援平之,立銅柱為漢界。唐始分嶺南為東、西二道,置節度,立五筦,安南隸焉。宋封丁部領為交趾郡王,其子璉亦為王。傳三世為李公蘊所奪,卽封公蘊為王。李氏傳八世至昊旵,陳日煚為昊旵壻,遂有其國。

Nước An Nam trong thiên hạ là xứ Giao Chỉ thời cổ. Nhà Tần được thiên hạ rồi, đặt Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận. Nhà Tần mất, Nam Hải Úy Triệu Đà đánh lấy được nơi ấy. Thời Hán đặt Cửu Quận, Giao Chỉ nằm trong số ấy. Sau có người con gái tên Trưng Trắc làm phản, sai Mã Viện đi bình phục nó, lập cột đồng làm ranh giới nhà Hán. Đầu thời Đường phân làm hai đạo đông và tây Lĩnh Nam, đặt chức Tiết độ sứ, lập chức Ngũ quản. An Nam thuộc nơi ấy. Nhà Tống phong Đinh Bộ Lĩnh làm Giao chỉ quận vương, con Lĩnh là Liễn cũng được phong làm vua, truyền đến đời thứ ba thì bị Lý Công Uẩn soán đoạt, nên phong Uẩn làm vương. Họ Lý truyền đến đời thứ tám là Hạo thì Trần Nhật Cảnh con rể Hạo xưng vương, vậy nên có được nước ấy.

2.元憲宗三年癸丑,兀良合台從世祖平大理。世祖還,留兀良合台攻諸夷之未附者。七年丁巳十一月,兀良合台兵次交趾北,先遣使二人往諭之,不返,乃遣徹徹都等 各將千人,分道進兵,抵安南京北洮江上,復遣其子阿朮往為之援,并覘其虛實。交人亦盛陳兵衛。阿朮遣軍還報,兀良合台倍道兼進,令徹徹都為先鋒,阿朮居後 為殿。十二月,兩軍合,交人震駭。阿朮乘之,敗交人水軍,虜戰艦以還。兀良合台亦破其陸路兵,又與阿朮合擊,大敗之,遂入其國。日煚竄海島。得前所遣使於 獄中,以破竹束體入膚,比釋縛,一使死,因屠其城。國兵留九日,以氣候鬱熱,乃班師。復遣二使招日煚來歸。日煚還,見國都皆已殘毀,大發憤,縛二使遣還。

Nguyên Hiến Tông (tức Mông Kha - Mongke) năm thứ ba, Quý Sửu (1253), Ngột Lương Hợp Thai (Uryangkhadai) theo Thế Tổ (tức Hốt Tất Liệt) bình định nước Đại Lý. Thế Tổ quay về, lưu Ngột Lương Hợp Thai lại để đi đánh các tộc Di chưa thần phục. Năm thứ bảy Đinh Tỵ (1257), quân Ngột Lương Hợp Thai tiến đến phía Bắc Giao Chỉ, trước tiên sai sứ giả hai người đến dụ, không thấy quay về, bèn sai bọn Triệt Triệt Đô, mỗi người chỉ huy một nghìn quân chia đường tiến binh. Đến bờ sông Thao phía bắc kinh thành An Nam, lại sai con là A Truật (Aju) đi chi viện, rồi xem An Nam thực hư ra sao. Người Giao cũng dàn quân đông đúc phòng vệ, A Truật sai người quay về báo tin. Ngột Lương Hợp Thai chia quân làm hai đạo cùng tiến, lệnh Triệt Triệt Đô làm tiên phong, A Truật ở phía sau làm hậu quân. Tháng mười hai, hai quân hội hợp, người Giao kinh hãi. A Truật thừa cơ đánh bại thủy quân người Giao, bắt được thuyền chiến rồi về. Ngột Lương Hợp Thai cũng phá được quân bộ, cùng A Truật phối hợp đánh, địch đại bại, rồi tiến vào kinh thành chúng. Nhật Cảnh (tức Trần Thái Tông) chạy trốn ra hải đảo. Trong ngục tìm thấy hai sứ giả đã sai đi từ trước, đều bị trói bởi dây thừng tre, hằn sâu vào da thịt, lúc cởi trói thì một người đã chết. Vì vậy nên giết sạch dân trong thành. Quân Nguyên lưu lại ở đó chín ngày, vì khí hậu uất nghiệt nên đem quân về. Lại sai hai sứ giả đến dụ cho quy hàng. Nhật Cảnh quay về, thấy quốc đô đều đã bị hủy hoại, rất căm phẫn, bắt trói hai sứ giả đuổi về. (1)(2)

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Lời bình: Nguyên Sử quyển 121, Ngột Lương Hợp Thai truyện và An Nam Chí Lược có chép tường tận hơn, phía sau xin trích dịch:

(1) Bổ sung: Nguyển Sử quyển 121 - phần về Ngột Lương Hợp Thai:

秋九月,遣使招降交趾,不報。冬十月,進兵壓境。其國主陳日煚,隔江列象騎、步卒甚盛。兀良合台分軍為三隊濟江,徹徹都從下流先濟,大帥居中,駙馬懷都與阿朮在後。仍授徹徹都方略曰:「汝軍既濟,勿與之戰,彼必來逆我,駙馬隨斷其後,汝伺便奪其船。蠻若潰走,至江無船,必為我擒矣。」師既登岸,即縱與戰,徹徹都違命,蠻雖大敗,得駕舟逸去。兀良合台怒曰:「先鋒違我節度,軍有常刑。」徹徹都懼,飲藥死。兀良合台入交趾,為久駐計,軍令嚴肅,秋毫無犯。越七日,日煚請內附,於是置酒大饗軍士。還軍柙赤城。

Mùa thu tháng chín, sai sứ giả chiếu hàng Giao Chỉ, không thấy báo lại. Mùa đông tháng mười, tiến binh đến sát biên cảnh. Quốc vương Trần Nhật Cảnh bày trận bên kia sông, quân tượng, kỵ, bộ rất đông. Ngột Lương Hợp Thai phân binh làm ba đội vượt sông, Triệt Triệt Đô theo hạ lưu sang sông trước, đại súy (tức Ngột Lương Hợp Thai) đi giữa, phò mã Hoài đô và A Truật ở phía sau, còn bày kế lược cho Triệt Triệt Đô rằng: "Quân nhà ngươi sang sông rồi, chớ đánh chúng vội, chúng tất đến chống lại ta, phò mã theo sau cắt hậu quân của chúng, ngươi rình cướp lấy thuyền, quân Man nếu tan vỡ chạy ra sông mà không có thuyền tất đều bị ta bắt." Quân vừa lên bờ, lập tức xông vào giáp chiến, Triệt Triệt Đô trái mệnh, quân Man tuy đại bại, nhưng lại leo lên thuyền trốn mất. Ngột Lương Hợp Thai giận nói: "Quân tiên phong không nghe theo sự sắp xếp của ta, ngươi chắc chắn phải chịu hình pháp." Triệt Triệt Đô sợ, uống thuốc độc tự tử. Ngột Lương Hợp Thai tiến vào Giao Chỉ, định trú lại lâu dài, quân lệnh nghiêm túc, không hề xâm phạm dân chúng. Quá bảy ngày, Nhật Cảnh xin nội phụ, vậy nên đặt tiệc rượu đại khao quân sĩ, đem quân quay về thành Áp Xích.

Lời bình: Đem so giữa hai phần ghi chép trong An Nam Truyện và Ngột Lương Hợp Thai truyện có chỗ không khớp, rất đỗi mâu thuẫn. Ngột Lương Hợp Thai vì thấy sứ giả hai người đã bị trói, một ngưỡi đã chết nên lập tức cho giết sạch dân chúng trong thành Thăng Long (nguyên văn Hán tự 屠城. Vậy thì làm sao lại nói rằng Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy quân không mảy may xâm phạm dân chúng (nguyên văn Hán tự là thành ngữ 秋毫無犯).

Việc Ngột Lương Hợp Thai làm phù hợp với pháp chế người Mông Cổ. Trước khi tấn công một thành nào, họ sẽ khuyên răn người thủ thành đầu hàng trước tiên, nếu chống cự, thì họ sẽ tàn sát toàn bộ thành trì. Điển hình là cách người Mông Cổ tàn sát dân chúng thành Otrar, Bukhara, Samarqand, vâng vâng trong chiến dịch tiêu diệt đế chế Khwarezmia. Đây cũng là lần đầu tiên thành Thăng Long lại bị tàn phá nặng nề bởi một đạo quân nước ngoài kể từ khi Ngô Quyền xác lập địa vị độc lập của Giao Chỉ-An Nam năm 938.

(2) Bổ sung: An Nam Chí Lược Quyển Bốn Chinh Thảo Vận Hướng

憲宗皇帝癸丑歲,世祖黃帝即立議平雲南。留太帥兀良合解經略。丁巳命大將統師自雲南途經安南邊邑,欲出邕 、桂、會大兵於鄂 ,以征宋。十二月,師上錫弩原,國主陳王,士卒乘象迎。時大師 子阿述,年十八,率善射者射其象;象驚奔,反蹂,其衆大潰。翌日,陳王斷扶鹵橋 ,對岸而陣。師欲未淺 深

Đời Hiến Tông Hoàng Đế, năm Canh Thân (1260), Thế Tổ lên ngôi, bàn luận việc đánh Vân Nam, lưu Thái soái là Ngột Lương Hiệp Giải lại đặng kinh lược. Mùa đông năm Đinh Tỵ (1257), khiến Thái soái xuất quân từ đường Vân Nam qua đến biên giới An Nam, muốn ra Ung Châu và Quế Châu , họp đại binh tại Ngạc Châu để đánh nhà Tống. Tháng 12, đại quân đóng tại Nỗ Nguyên, vua Trần sai quân lính cưỡi voi ra nghênh chiến. Lúc ấy có người con Thái soái tên A Truật, mới 18 tuổi, suất lính bắn giỏi ra bắn voi, voi kinh hoảng bỏ chạy, quay lại chà đạp quân lính, khiến cho quân Trần tan rã. Đến sáng ngày mai, vua Trần cắt đứt cầu Phù Lỗ, rồi thiết trận tại một bên bờ sông. Quân Nguyên muốn lội qua sông, nhưng không biết sâu cạn, mới đi dọc theo bờ sông mà bắn tên lên trời, tên rơi cắm xuống nước mà không nổi lên, biết là chỗ ấy cạn, bèn sai kỵ binh qua sông, ngựa nhạy lên đất, đánh tan rã cánh quân An Nam, tiếp đó, đại quân giết hàng muôn người, chém tôn tử An Nam là Phú Lương Hầu, vua Trần bèn chịu hàng, rồi quan quân lui về.

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

3.八年戊午二月,日煚傳國于長子光昺,改元紹隆。夏,光昺遣其壻與其國人以方物來見,兀良合台送詣行在所,別遣訥剌丁往諭之曰:「昔吾遣使通好,爾等執而不返,我是以有去年之師。以爾國主播在草野,復令二使招安還國,爾又縛還吾使。今特遣使開諭,如爾等矢心內附,則國主親來,若猶不悛,明以報我。」光昺曰:「小國誠心事上,則大國何以待之?」訥剌丁還報。時諸王不花鎮雲南,兀良合台言于王,復遣訥剌丁往諭,使遣使偕來。光昺遂納款,且曰:「俟降德音,卽遣子弟為質。」王命訥剌丁乘傳入奏。

Năm thứ tám (1258) mậu ngọ, tháng hai, Nhật Cảnh truyền ngôi cho con trưởng là Quang Bính, đổi niên hiệu thành Thiệu Long. Mùa hạ, Quang Bính sai con rể cùng người trong nước đem phương vật đến yết kiến. Ngột Lương Hợp Thai đưa họ đến hành tại sở, rồi sai Nột Lạt Đinh đến dụ Quang Bính rằng: "Trước ta sai sứ giả đi thông hiếu, các ngươi giữ lại không cho về, vậy nên mới có chuyện ta xuất quân năm ngoái, khiến cho chúa nước ngươi phải chảy trốn ra nơi thảo dã. Ta lại sai sứ đến chiêu an, ngươi lại trói sứ ta đuổi về. Nay sai sứ đến dụ rõ, nếu như các ngươi thực tâm nội phụ, thì quốc chủ nước ngươi phải thân hành đến, còn nếu như không sửa đổi, thì báo rõ cho ta." Quang Bính nói: "Nếu tiểu quốc thành tâm thờ phụng bề trên, thì đại quốc đối xứ với tiểu quốc như thế nào?" Bấy giờ vương chư hầu là Bất Hoa đang trấn thủ Vân Nam, Ngột Lương Hợp Thai nói với vương, lại sai Nột Lạt Đinh đến dụ, bắt Quang Bính sai sứ như lần trước, Quang Bính xin quy phục, còn nói: "Đợi đức ân giáng xuống lập tức sai con em làm con tin ngay." Vương (Bất Hoa) liền sai Nột Lạt Đinh đi xe nhập tấu."

4. 世祖中統元年十二月,以孟甲為禮部郞中,充南諭使,李文俊為禮部員外郞,充副使,持詔往諭之。其略曰:「祖宗以武功創業,文化未修。朕纘承丕緒,鼎新革故,務一萬方。適大理國守臣安撫聶只陌丁馳馹表聞,爾邦有嚮風慕義之誠。念卿昔在先朝已嘗臣服,遠貢方物,故頒詔旨,諭爾國官僚士庶:凡衣冠典禮風俗一依本國舊制。已戒邊將不得擅興兵甲,侵爾疆埸,亂爾人民。卿國官僚士庶,各宜安治如故。」復諭甲等,如交趾遣子弟入覲,當善視之,毋致寒暑失節,重勞苦之也。

Năm đầu niên hiệu Trung Thống (1260) đời Thế Tổ (tức Khublai), tháng 12 (tức tháng giêng năm 1261 công lịch), sai Mạnh Giáp làm Lễ Bộ Lang Trung, nhậm chức Nam Chiếu Sứ, Lý Văn Tuấn làm Lễ Bộ Thị Lang, nhậm chức Phó Sứ, cầm chiếu đến dụ An Nam. Chiếu đại để nói: "Tổ tông ta lấy võ công mà hưng nghiệp, chưa tu sửa văn hóa, trẫm tiếp nối đại nghiệp, lập mới phế cũ, chuyên tâm thống nhất vạn phương. Vừa rồi thú thần nước Đại Lý là Nejim ud-Din (nguyên văn tiếng Trung là Nhiếp Chỉ Mạch Đinh) chạy trạm dâng tấu nói nước ngươi có lòng hướng phong mộ nghĩa. Lại nghĩ khanh trước kia từng thần phục tiên triều, từ nơi xa cống phương vật, nên nay ban chiếu chỉ, nói cho quan liêu thứ dân nước ngươi biết: phàm áo mũ, điển lễ phong tục, cứ theo chế độ cũ nước mình không cần thay đổi. Ta đã cấm các biên tướng không được tự tiện hưng binh xâm phạm bờ cõi nước ngươi, quấy rối dân chúng nước ngươi. Quan liêu sĩ thứ nước ngươi cứ yên ổn bình trị như cũ." Lại bảo bọn Mạnh Giáp rằng nếu Giao Chỉ sai con em vào gặp, thì phải tiếp đãi chu đáo, không được nóng lạnh làm trái lễ tiết mà làm khổ bọn chúng vậy.

二年,孟甲等還,光昺遣其族人通侍大夫陳奉公、員外郞諸衞寄班阮琛、員外郞阮演詣闕獻書,乞三年一貢。帝從其請,遂封光昺為安南國王。

Năm thứ hai (1262), bọn Mạnh Giáp quay về, Trần Quang Bính sai người trong họ là Thông Thị Đại Phu Trần Phụng Công, Viên Ngoại Lang Chư Vệ Ký Ban Nguyễn Thâm và Viên Ngoại Lang Nguyễn Diễn đến cửa khuyết dâng thư, xin cứ ba năm được tiến cống một lần. Đế chấp thuận lời xin đó, rồi phong cho Quang Bính làm An Nam Quốc Vương.

5. 三年九月,以西錦三、金熟錦六賜之,復降詔曰:「卿旣委質為臣,其自中統四年為始,每三年一貢,可選儒士、醫人及通陰陽卜筮、諸色人匠,各三人,及蘇合油、光香、金、銀、朱砂、沉香、檀香、犀角、玳瑁、珍珠、象牙、綿、白磁盞等物同至。」仍以訥剌丁充達魯花赤,佩虎符,往來安南國中。

四年十一月,訥剌丁還,光昺遣楊安養充員外郞及內令武復桓、書舍阮求、中翼郞范舉等奉表入謝,帝賜來使玉帶、繒帛、藥餌、鞍轡有差。

至元二年七月,使還,復優詔答之,仍賜曆及頒改元詔書。

三年十二月,光昺遣楊安養上表三通,其一進獻方物,其二免所索秀才工匠人,其三願請訥剌丁長為本國達魯花赤。四年九月,使還,答詔許之,仍賜光昺玉帶、金繒、藥餌、鞍轡等物。未幾,復下詔諭以六事:一,君長親朝;二,子弟入質;三,編民數;四,出軍役;五,輸納稅賦;六,仍置達魯花赤統治之。十一月,又詔諭光昺,以其國有回鶻商賈,欲訪以西域事,令發遣以來。是月,詔封皇子為雲南王,往鎮大理、鄯闡、交趾諸國。

五年九月,以忽籠海牙代訥剌丁為達魯花赤,張庭珍副之,復下詔徵商賈回鶻人。

六年十一月,光昺上書陳情,言:「商旅回鶻,一名伊溫,死已日久,一名婆婆,尋亦病死。又據忽籠海牙謂陛下須索巨象數頭。此獸軀體甚大,步行甚遲,不如上國之馬,伏候敕旨,於後貢之年當進獻也。」又具表納貢,別奉表謝賜西錦、幣帛、藥物。

七年十一月,中書省移牒光昺,言其受詔不拜,待使介不以王人之禮,遂引春秋之義以責之,且令以所索之象與歲貢偕來,又前所貢藥物品味未佳,所徵回鶻輩,託辭欺誑,自今已往,其審察之。

八年十二月,光昺復書言:「本國欽奉天朝,已封王爵,豈非王人乎?天朝奉使復稱:王人與之均禮,恐辱朝廷。況本國前奉詔旨,令依舊俗,凡受詔令,奉安于正殿而退避別室,此本國舊典禮也。來諭索象,前恐忤旨,故依違未敢直對,實緣象奴不忍去家,難於差發。又諭索儒、醫、工匠,而陪臣黎仲佗等陛見之日,咫尺威光,不聞詔諭,況中統四年已蒙原宥,今復諭及,豈勝驚愕,惟閤下其念之。」

九年,以葉式捏為安南達魯花赤,李元副之。

十年正月,葉式捏卒,命李元代式捏,以合撒兒海牙副之。中書省復牒光昺言:

比歲奉使還者言,王每受天子詔令,但拱立不拜,與使者相見或燕席,位加於使者之上。今覽來書,自謂旣受王爵豈非王人乎?考之春秋敍王人於諸侯之上,釋例云:王人蓋下士也。夫五等邦君,外臣之貴者也。下士,內臣之微者也。以微者而加貴者之上,蓋以王命為重也。後世列王為爵,諸侯之尤貴者,顧豈有以王爵為人者乎?王寧不知而為是言耶,抑辭令之臣誤為此言耶?至於天子之詔,人臣當拜受,此古今之通義不容有異者也。乃云前奉詔旨,並依舊俗,本國遵奉而行,凡受詔令,奉安於正殿而退避別室,此舊典禮也。讀之至此,實頓驚訝。王之為此言,其能自安於心乎?前詔旨所言,蓋謂天壤之間不啻萬國,國各有俗,驟使變革,有所不便,故聽用本俗,豈以不拜天子之詔而為禮俗也哉?且王之敎令行於國中,臣子有受而下拜者,則王以為何如?君子貴於改過,緬想高明,其亮察之。

十一年,光昺遣童子冶、黎文隱來貢。

十二年正月,光昺上表請罷本國達魯花赤,其文曰:

微臣僻在海隅,得霑聖化與函生,驩忭鼓舞。乞念臣自降附上國,十有餘年,雖奉三年一貢,然迭遣使臣,疲於往來,未嘗一日休息。至天朝所遣達魯花赤,辱臨臣境,安能空回,況其行人,動有所恃,凌轢小國。雖天子與日月並明,安能照及覆盆。且達魯花赤可施於邊蠻小醜,豈有臣旣席王封為一方藩屏,而反立達魯花赤以監臨之,寧不見笑於諸侯之國乎?與其畏監臨而修貢,孰若中心悅服而修貢哉。臣恭遇天朝建儲、册后,大恩霶霈,施及四海,輒敢哀鳴,伏望聖慈特賜矜恤。今後二次發遣綱貢,一詣鄯闡奉納,一詣中原拜獻。凡天朝所遣官,乞易為引進使,庶免達魯花赤之弊,不但微臣之幸,實一國蒼生之幸也。

二月,復降詔,以所貢之物無補於用,諭以六事,且遣合撒兒海牙充達魯花赤,仍令子弟入侍。十三年二月,光昺遣黎克復、文粹入貢,以所奏就鄯闡輸納貢物,事屬不敬,上表謝罪,幷乞免六事。

十四年,光昺卒,國人立其世子日烜,遣中侍大夫周仲彥、中亮大夫吳德卲來朝。

十五年八月,遣禮部尚書柴椿、會同館使哈剌脫因、工部郞中李克忠、工部員外郞董端,同黎克復等持詔往諭日烜入朝受命。初,使傳之通也,止由鄯闡、黎化往來,帝命柴椿自江陵直抵邕州,以達交趾。閏十一月,柴椿等至邕州永平寨,日烜遣人進書,謂:「今聞國公辱臨敝境,邊民無不駭愕,不知何國人使而至於斯,乞回軍舊路以進。」椿回牒云:「禮部尚書等官奉上命與本國黎克復等由江陵抵邕州入安南,所有導護軍兵,合乘驛馬,宜來界首遠迓。」日烜差御史中贊兼知審刑院事杜國計先至,其太尉率百官自富(梁)〔良〕江岸奉迎入館。十二月二日,日烜就館見使者。四日,日烜拜讀詔書。椿等傳旨曰:「汝國內附二十餘年,向者六事猶未見從。汝若弗朝,則修爾城,整爾軍,以待我師。」又云:「汝父受命為王,汝不請命而自立,今復不朝,異日朝廷加罪,將何以逃其責。請熟慮之。」日烜仍舊例設宴于廊下,椿等弗就宴。旣歸館,日烜遣范明字致書謝罪,改宴于集賢殿。日烜言:「先君棄世,予初嗣位。天使之來,開諭詔書,使予喜懼交戰于胸中。竊聞宋主幼小,天子憐之,尚封公爵,於小國亦必加憐。昔諭六事,已蒙赦免。若親朝之禮,予生長深宮,不習乘騎,不諳風土,恐死於道路。子弟太尉以下亦皆然。天使回,謹上表達誠,兼獻異物。」椿曰:「宋主年未十歲,亦生長深宮,如何亦至京師?但詔旨之外,不敢聞命。且我四人實來召汝,非取物也。」椿等還,日烜遣范明字、鄭國瓚、中贊杜國計奉表陳情,言:「孤臣稟氣軟弱,恐道路艱難,徒暴白骨,致陛下哀傷而無益天朝之萬一。伏望陛下憐小國之遼遠,令臣得與鰥寡孤獨保其性命,以終事陛下。此孤臣之至幸,小國生靈之大福也。」兼貢方物及二馴象。

十六年三月,椿等先達京師,留鄭國瓚待於邕州。樞密院奏:「以日烜不朝,但遣使臣報命,飾辭托故,延引歲時,巧佞雖多,終違詔旨,可進兵境上,遣官問罪。」帝不從,命來使入覲。十一月,留其使鄭國瓚于會同館。復遣柴椿等四人與杜國計持詔再諭日烜來朝,「若果不能自覲,則積金以代其身,兩珠以代其目,副以賢士、方技、子女、工匠各二,以代其土民。不然,修爾城池,以待其審處焉。」

十八年十月,立安南宣慰司,以卜顏鐵木兒為參知政事、行宣慰使都元帥,別設僚佐有差。是月,詔以光昺旣歿,其子日烜不請命而自立,遣使往召,又以疾為辭,止令其叔遺愛入覲,故立遺愛代為安南國王。

二十年七月,日烜致書于平章阿里海牙,請還所留來使,帝即遣還國。是時,阿里海牙為荊湖占城行省平章政事,帝欲交趾助兵糧以討占城,令以己意諭之。行省遣 鄂州達魯花赤趙翥以書諭日烜。十月,朝廷復遣陶秉直持璽書往諭之。十一月,趙翥抵安南。日烜尋遣中亮大夫丁克紹、中大夫阮道學等持方物從翥入覲,又遣中奉 大夫范至清、朝請郎杜抱直等赴省計事,且致書于平章,言:

添軍一件:占城服事小國日久,老父惟務以德懷之,迨于孤子之身,亦繼承父志;自老父歸順天朝,三十年于茲,干戈示不復用,軍卒毀為民丁,一資天朝貢獻,一 示心無二圖,幸閤下矜察。助糧一件:小國地勢瀕海,五穀所產不多,一自大軍去後百姓流亡,加以水旱,朝飽暮饑,食不暇給;然閤下之命,所不敢違,擬於欽州 界上永安州地所,俟候輸納。續諭孤子親身赴闕,面奉聖訓。老父在時,天朝矜憫,置之度外;今老父亡歿,孤子居憂,感病至今,尚未復常,況孤子生長遐陬,不 耐寒暑,不習水土,艱難道塗,徒暴白骨。以小國陪臣往來,尚為沴氣所侵,或十之五六,或死者過半,閤下亦已素知。惟望曲為愛護,敷奏天朝,庶知孤子宗族官 吏一一畏死貪生之意。豈但孤子受賜,抑一國生靈賴以安全,共祝閤下享此長久自天之大福也。

Năm thứ hai mươi, tháng bảy, Nhật Huyền gửi thư cho Bình Chương A Lý Hải Nha, xin trả lại sứ giả đã lưu lại, vua liền cho sứ về nước. Lúc này, A Lý Hải Nha làm Kinh Hồ Chiêm Thành Hành Tỉnh Bình Chương Chính Sự, vua muốn Giao Chỉ giúp binh lương để đánh Chiêm Thành, lệnh lấy mình dụ An Nam. Hành tỉnh sai Đạt Lỗ Hoa Xích Châu Ngạc Châu là Triệu Chử viết thư dụ Nhật Huyền. Tháng mười, triều đình lại sai Đào Bỉnh Trực cầm ấn đưa thư đến dụ y. Tháng mười một, Triệu Chử đến An Nam. Nhật Huyền lại sai Trung Lượng Đại Phu là Đinh Khắc Thiệu, Trung Đại Phu là Đinh Khắc Hộc đem phương vật theo Chứ vào cung gặp vua, lại sai Trung Phụng Đại Phu là Phạm Chí Thanh, Triều Thỉnh Lang Đỗ Bảo Trực đến Trung Thư Tỉnh bàn việc, rồi đưa thư cho Bình Chương, nói:

"Về việc thêm quân: Chiêm Thành thờ phụng tiểu quốc đã lâu, cha tôi chỉ lấy đức che chở nó, đến cô nhi tôi (nguyên văn là "cô tử”) nối chi cha; từ lúc cha tôi quy thuận thiên triều, đến nay đã ba mươi năm, gươm giáo không còn dùng đến nữa, quân sĩ cho về làm dân đinh, một lòng cống hiến thiên triều, một lòng biểu hiện trong tâm không có mưu đồ gì khác, xin các hạ thương mà xét cho. Về việc giúp lương, tiểu quốc địa thế ven biển, sản lượng ngũ cốc không nhiều, từ sau khi đại quân rút về trăm họ lưu vong, lại bị thêm lũ hạn, sớm no tối đói, lương thực không đủ dùng; nhưng các hạ đã mệnh, không dám trái, định ở Vĩnh An Châu trên địa giới Khâm Châu, xin đợi giao nạp. Liên tục dụ cô nhi tôi đến kinh thành, đến trước mặt mà nghe thánh huấn. Lúc cha tôi còn sống, thiên triều thương xót, đối với việc này không để tâm, nay cha tôi đã mất, cô nhi tôi chịu tang, mắc bệnh đến nay, vẫn chưa hồi phục, hơn nữa cô nhi tôi sinh trưởng ở nơi xa xăm, không chịu được nóng lạnh, không quen thủy thổ, đường đi gian nan,

二十一年三月,陶秉直使還,日烜復上表陳情,又致書于荊湖占城行省,大意與前書略同。又以瓊州安撫使陳仲達聽鄭天祐言「交趾通謀占城,遣兵二萬及船五百以 為應援」,又致書行省,其略曰:「占城乃小國內屬,大軍致討,所當哀籲,然未嘗敢出一言,蓋天時人事小國亦知之矣。今占城遂為叛逆,執迷不復,是所謂不能 知天知人者也。知天知人,而反與不能知天知人者同謀,雖三尺兒童亦知其弗與,況小國乎?幸貴省裁之。」八月,日烜弟昭德王陳璨致書於荊湖占城行省,自願納 款歸降。十一月,行省右丞唆都言:「交趾與占臘、占城、雲南、暹、緬諸國接壤,可即其地立省;及於越里、潮州、毗蘭三道屯軍鎮戍,因其糧餉以給士卒,庶免 海道轉輸之勞。」

Năm thứ hai mươi mốt, tháng ba, Đào Bỉnh Trực đi sứ về, Nhật Huyền lại dâng biểu trần tình, lại sai đưa thư đến Kính Hồ Chiêm Thành Hành Tỉnh, đại ý khá giống với thư trước, lại vì Huỳnh Châu An Phủ Sứ Trần Trọng Đạt nghe Trịnh Thiên nói: "Giao Chỉ thông mưu với Chiêm Thành, sai hai vạn quân cùng năm trăm thuyền làm ứng viện." Lại đưa thư đến Hành Tỉnh, sơ lược nói: "Chiêm Thành nội thuộc tiểu quốc, đại quân đến đánh, tiểu quốc đương vì nó kêu thương, song chưa từng dám nói một lời, vì chuyện thiên thời nhân sự tiểu quốc cũng biết đó vậy. Nay Chiêm Thành lại là phản nghịch, chấp mê không phục, đó chính là không biết trời biết người. Biết trời biết người mà lại cùng kẻ không biết trời biết người đồng mưu thì con nít cao ba thước cũng biết là không nên dự vào, huống chi tiểu quốc. Xin quý Tỉnh xem xét cho." Tháng tám, em Nhật Huyền Chiêu Đức Vương Trần Xán đưa thư cho Kính Hồ Chiêm Thành Hành Tỉnh, tự nguyện nạp khoản quy hàng. Tháng mười một, Hành Tỉnh Hữu Thừa Toa Đô nói: "Giao Chỉ liền đất với các nước Chiêm Lạp (Chân Lạp tức Khmer), Chiêm Thành, Vân Nam, Xiêm, Miến, có thể lập tỉnh ngay trên đất ấy và đóng quân trấn giữ ở ba đạo Việt Lí, Trì Châu, Tỳ Lan, lấy lương hướng ở đấy cấp cho quân lính, tránh được việc khó nhọc chuyển vận bằng đường biển."

二十二年三月,荊湖占城行省言:「鎮南王昨奉旨統軍征占城,遣左丞唐兀馳驛赴占城,約右丞唆都將兵會合。又遣理問官曲烈、宣使塔海撒里同安南國使阮道學等,持行省公文,責日烜運糧送至占城助軍;鎮南王路經近境,令其就見。」 比官軍至衡山縣,聞日烜從兄興道王陳峻提兵界上。既而曲烈及塔海撒里引安南中亮大夫陳德鈞、朝散郎陳嗣宗以日烜書至,言其國至占城水陸非便,願隨力奉獻軍糧。及官軍至永州,日烜移牒邕州,言:「貢期擬取十月,請前塗預備丁力,若鎮南王下車之日,希文垂報。」行省命萬戶趙修己以己意復書,復移公文,令開路備 糧、親迎鎮南王。

及官軍至邕州,安南殿前范海崖領兵屯可蘭韋大助等處。至思明州,鎮南王復令移文與之。至祿州,復聞日烜調兵拒守丘溫、丘急嶺隘路,行省遂分軍兩道以進。日烜復遣其善忠大夫阮德輿、朝請郞阮文翰奉書與鎮南王,言:「不能親見末光,然中心欣幸。以往者欽蒙聖詔云別敕我軍不入爾境;今見邕州營站橋梁,往往相接,實深驚懼,幸昭仞忠誠,少加矜恤。」又以書抵平章政事,乞保護本國生靈,庶免逃竄之患。鎮南王命行省遣總把阿里持書與德輿同往諭日烜以興兵之故實為占城,非為安南也。至急保縣地,安南管軍官阮盝屯兵七源州,又村李縣短萬劫等處,俱有興道王兵,阿里不能進。行省再命倪閏往覘虛實,斟酌調軍,然不得殺掠其民。

Lúc quan quân đến Ung Châu, An Nam Điện Tiền Phạm Hải Nhai lĩnh binh đóng ở các xứ Khả Lan Vi và Đại Trợ. Đến Châu Tư Minh, Trấn Nam Vương phục mệnh đưa thư cho chúng. Đến Lục Châu, lại nghe thấy Nhật Huyền điều binh trấn thủ các đường vào ải Khâu Ôn, Khâu Cấp, Hành Tỉnh (tức Ariq Khaya) bèn phân quân làm hai đạo mà tiến.(1) Nhật Huyền phục mệnh cho Thiện Trung Đại Phu là Nguyễn Đức Dư mang thư đến cho Trấn Nam Vương, nói: " Không thể tận mắt trông thấy cái hào quang của ngài, nhưng trong lòng lấy làm hoan hĩ. Nhân vì ngày trước có nhận được thánh chiếu nói rằng: "Sắc riêng cho quân ta không phạm vào nước ngươi", mà nay thì thấy ở Ung Châu doanh trạm cầu đường nối nhau san sát, trong lòng thật lấy làm kinh sợ, mong hãy xét rõ lòng trung thành, nếu có gì thiếu sót xin lượng thứ cho.", lại đưa thư cho Bình Chương Chính Sự (Ariq Khaya), xin bảo toàn sinh linh nước ấy. Trấn Nam Vương mệnh cho Hành Tỉnh (Ariq Khaya) sai Tổng Bả A Lý (Ali) đem thư cùng Đức Dư đến dụ Nhật Huyền, rằng sở dĩ hưng binh là để phạt Chiêm Thành, chứ không phải An Nam. Đến địa phận huyện Cấp Bảo, An Nam Quản Quân Quan là Nguyễn Nộn đóng binh ở Thất Nguyên Châu. ngoài ra ở huyện Thôn Lí, Đoản Vạn Kiếp đều có quân của Hưng Đạo Vương (2). A Lí không tiến lên được. Hành Tỉnh lại mệnh cho Nghê Nhuận đến dò xét thực hư, đặng châm chước mà điều quân, nhưng không được cướp giết dân chúng.

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

(1) Lời bình: Nguyên Sử không chép rõ về việc chia quân thành hai đường, An Nam Chí Lược lại chép rõ hơn tiến trình quân Nguyên tấn công Khâu Ôn, Khâu Cấp.

An Nam Chí Lược, quyển 4, Chinh Thảo Vận Hướng chép:

二月二十一日甲子,帥次安南界,分道:萬戶孛羅合答而,招討阿深西由丘溫縣進;怯薛撒略而,萬戶李邦憲,東由急嶺進;王大兵繼之。

Ngày 21 tháng 12, ngày Giáp-Tý (tức ngày 27-1-1285), quân tiến đến biên giới An-nam, chia đường đi: Vạn-Hộ Bột La Hiệp Đáp Nhi (Bolqadar),Chiêu-Thảo A-Thâm (theo Hà Văn Tấn tiên sinh có lẽ là tên Atsim), phía Tây do huyện Khâu-Ôn mà tiến; Khiếp tiết (Khiết Tiết là tên phiên âm của chữ Keshik, tiếng Mông Cổ có nghĩa là cận vệ, vị này có lẽ là thành viên trong đội cận vệ của Khả Hãn Kublai) Sát Lược Nhi (Satartai-Satardai), Vạn-Hộ Lý-Bang Hiến phía đông do Cấp Lĩnh (hay Khâu Cấp Lĩnh theo Nguyên Sử) mà tiến; rồi đại binh của Trấn-Nam-Vương kế tiếp tới sau.

Cứ theo như lời An Nam Chí Lược chép thì quân Nguyên ắt hẳn đã đánh lui quân Trần trấn giữ ở hai ải Khâu Ôn và Khâu Cấp, vì Nguyên Sử còn nói vua Trần đã sai quân chẹn các đường lên ải này. Từ đây Arig Khaya mới lệnh cho quân đội chia thành 2 đường mà tiến, tức tổng cộng có 3 thành phần, 2 mũi tiến công và đại quân do Arig Khaya cùng Tokhan (Thoát Hoan) chỉ huy theo sau.

Vua Trần có lẽ thấy quân Nguyên đánh phá quân Trần ở hai ải nên vội gửi thư ngay cho Arig Khaya để nói nhắc nhở cho ông ta nhớ về việc vua Nguyên từng viết tờ chiếu năm 1261 hứa hẹn sẽ không tấn công An Nam. Hai bên tuy qua lại thư từ nhưng quân Nguyên vẫn tiến quân.

(2) Kinh Thế Đại Điển, mục Chinh Phạt, An Nam có ghi rõ số quân của Hưng Đạo Vương trấn thủ các ải:

二一年十月,師至永州,安南遣興道王率衆二萬屯衝要,以扼王師。

Năm thứ hai mươi mốt (1284) tháng mười, quân đến Vĩnh Châu, An Nam sai Hưng Đạo Vương suất lĩnh hai vạn quân đóng ở những nơi hiểm yếu, để chống cự vương sư.

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

未幾,撒答兒䚟、李邦憲、孫祐等言:至可離隘,遇交兵拒敵,祐與之戰,擒其管軍奉御杜尾、杜祐,始知興道王果領兵迎敵。官軍過可離隘,至洞板隘,又遇其兵,與戰敗之,其首將秦岑中傷死。聞興道王在內傍隘,又進兵至變住村,諭其收兵開路,迎拜鎮南王,不從。至內傍隘,奉令旨令人招之,又不從。官軍遂分六道進攻,執其將大僚班段台。興道王逃去,追至萬劫,攻諸隘,皆破之。興道王尚有兵船千餘艘,距萬劫十里。遂遣兵士於沿江求船,及聚板木釘灰,置場創造,選各翼水軍,令烏馬兒拔都部領,數與戰,皆敗之。得其江岸遺棄文字二紙,乃日烜與鎮南王及行省平章書,復稱:「前詔別敕我軍不入爾境,今以占城旣臣復叛之故,因發大軍,經由本國,殘害百姓,是太子所行違誤,非本國違誤也。伏望勿外前詔,勒回大軍,本國當具貢物馳獻,復有異於前者。」行省復以書抵之,以為:「朝廷調兵討占城,屢移文與世子俾開路備糧,不意故違朝命,俾興道王輩提兵迎敵,射傷我軍,與安南生靈為禍者,爾國所行也。今大軍經爾國討占城,乃上命。世子可詳思爾國歸附已久,宜體皇帝涵洪慈憫之德,卽令退兵開道,安諭百姓,各務生理。我軍所過,秋毫無擾,世子宜出迎鎮南王,共議軍事。不然,大軍止於安南開府。」因令其使阮文翰達之。

Không lâu sau, bọn Tản Tháp Nhi Đải (Satartai-Satardai), Lý Bang Hiến, Tôn Hựu nói rằng đến ải Khả Li, gặp phải quân Giao chống cự, lại đánh nhau với chúng, bắt được Quản Quân Phụng Ngự Đỗ Vĩ và Đỗ Hựu, mới biết Hưng Đạo Vương quả đã lĩnh binh nghênh chiến, quan quân vượt qua ải Kha Li, đến ải Động Bản lại gặp quân địch, đánh bại chúng, thủ tướng chúng là Tần Sâm bị thương chết. Nghe nói Hưng Đạo Vương ở ải Nội Bàng, lại tiến binh đến thôn Biên Trụ, dụ chúng thu binh mở đường, nghênh bái Trấn Nam Vương, không nghe (1). Đến ải Nội Bàng, phụng mệnh chỉ sai người đi chiêu dụ hắn, lại không nghe. Quan quân bèn phân sáu đường tiến công, bắt được tướng chúng là Đoàn Thai. Hưng Đạo Vương bỏ chạy, đuổi theo đến Vạn Kiếp, tấn công các ải, đều phá chúng(2). Hưng Đạo Vương binh thuyền còn hơn nghìn chiếc, cách Vạn Kiếp mười lí. Bèn sai binh sĩ đi dọc theo sông tìm thuyền, tụ tập các ván gỗ đinh vôi, lập công trường đóng thuyền, tuyển các cánh thủy quân, lệnh cho Ô Mã Nhi Bạt Đô làm thống lĩnh (Omar Ba'atur), đánh nhau với chúng vài lần, đều đánh bại (3). Nhặt được hai tờ văn tự bị ném bỏ trên bờ sông mà Nhật Huyền định gửi cho Trấn Nam Vương và Bình Chương Chính Sự, trong thư nói: "Chiếu trước nói là "sắc riêng cho quân ta không phạm vào nước ngươi, thế mà nay lại lấy cớ Chiêm Thành thần phục rồi lại phản, đem đại quân sang nước tôi, tàn hại trăm họ, đó là việc làm sai trái của thái tử, lỗi không phải do nước tôi. Xin đừng làm trái với chiếu trước, thu hồi đại quân, nước tôi sẽ có công vật dâng tặng, cống vật sẽ khác lạ hơn cả trước kia." Hành Tỉnh viết thư cho chúng: "Triều đình điều binh chinh phạt Chiêm Thành, nhiều lần đưa thư cho thế tử, bảo mở đường, chuẩn bị lương thực, nào ngờ trái mệnh triều đình, để bọn Hưng Đạo Vương đem quân nghênh chiến, bắn quân ta bị thương, khiến cho sinh linh An Nam gặp họa, đó là do nước người làm vậy. Nay đại quân đi qua nước ngươi thảo phạt Chiêm Thành, đó là thánh chỉ. Thế tử hãy nghỉ cho kĩ, nước ngươi quy phục đã lâu, nên vì cái đức khoan hồng từ bi của hoàng đế mà ra lệnh rút quân mở đường, khuyên bảo trăm họ ai nấy cứ sinh sống làm ăn, quân ta đi qua sẽ không gây chút phiền nhiễu nào, thế tử hãy ra nghênh tiếp Trấn Nam Vương, cùng bàn việc quân. Nếu không, đại quân sẽ dừng ở An Nam mở phủ. Nhân đó lệnh cho sứ giả chúng là Nguyễn Văn Hàn đem thư đến cho chúng.

---------------------------------------------------------------------------------

(1) Lời bình: Như đã thấy ở trên, quân Nguyên chia thành hai đạo Đông-Tây tiến sâu hơn vào đất An Nam. Đoạn này Nguyên Sử viết rằng "Không lâu sau, bọn Tản Tháp Nhi Đải (Satartai-Satardai), Lý Bang Hiến, Tôn Hựu nói rằng...". Dựa trên sử liệu của An Nam Chí Lược thì thấy đây là lời thuật lại của các tướng chỉ huy đạo phía Đông tiến từ Khâu Cấp Lĩnh sau khi đã phá quân Trần ở ải Động Bản.

An Nam Chí Lược, quyển 4, Chinh Thảo Vận Hướng chép:

東兵破可利隘嬰兒關, 獲間諜杜偉等斬之。

Quân phía Đông phá ải Khả Lợi và cửa Anh Nhi, bắt được bọn gián điệp (Nguyên Sử thì chép Đỗ Vĩ và Đỗ Hựu là Quản Quân Phụng Ngự).

An Nam Chí Lược lại bỏ qua trận ở ải Động Bản, nơi mà tướng Tần Sâm tử chiến.

(2) Lời bình: Về việc quân Nguyên chia thành sáu cánh tấn công vào các ải, khiến quân Trần thất trận, phải lui về Vạn Kiếp, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có chép rõ hơn:

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Kỷ Nhà Trần, Nhân Tông Hoàng Đế chép:

二十六日,賊犯永州、内旁、鉄略、支棱等関。官軍與戰不利退屯萬刼津。

Ngày 26 (1-2-1285), giặc đánh vào các ải Vĩnh Châu, Nội Bàng, Thiết Lược, Chi Lăng, quan quân đánh bất lợi lui về đóng ở bến Vạn Kiếp.

An Nam Chí Lược, quyển 4, Chinh Thảo Vận Hướng cũng chép rằng:

二十七日庚午,大軍擊破,退守諒江州,又敗走,獲船數十船。西兵破支棱隘,即老鼠關。

Ngày thứ 27, ngày Canh Ngọ (2-2-1285), đại quân đến đánh phá, Hưng Đạo Vương rút giữ Châu Lượng Giang, lại thua chạy, quân Nguyên bắt được thuyền bè mấy mươi chiếc. Quân phía Tây phá ải Chi Lăng, tức Lão Thử Quan (cửa Lão Thử).

Hai chữ "đại quân" ở đây, có lẽ chỉ rằng cánh quân phía Đông do Satartai và Lý Bang Hiến chỉ huy sau khí phá xong quân Trần ở ải Động Bản, hợp nhất với đại quân phía sau do Thoát Hoan và Arig Khaya chỉ huy. Đạo quân này lại phân thành 6 cánh tấn công các ải dẫn vào Vạn Kiếp. Còn nhánh phía Tây do Bolqadar chỉ huy thì tiến công ải Chi Lăng. Trần Hưng Đạo chắc hẳn chỉ huy quân chủ lực đóng giữ ở ải Nội Bàng, các ải khác do các nhánh quân khác phòng thủ. Quân Nguyên tấn công ồ ạt, quân Trần chống không nổi thua rút về giữ Vạn Kiếp.

Bolqadar sau đó có lẽ đã hợp quân với đại quân của Thoát Hoan, vì đến khi quân Nguyên chiếm Thăng Long thì mới thấy tên ông ta xuất hiện trở lại, vậy có lẽ Bolqadar đã cùng đại quân tấn công Vạn Kiếp.

(3) Lời Bình: Đoạn này chỉ quân Nguyên sau khi đã đánh bại quân Trần do Hưng Đạo Vương chỉ huy ở ải Nội Bàng đóng quân cách Vạn Kiếp không xa. Ông Hà Văn Tấn trong quyển "Cuộc Kháng Chiến Chống Xâm Lược Nguyên Mông Thế Kỷ Thứ XIII", chương VI, trang 198 (Bản năm 1968 do nhà xuất bản khoa học xã hội ấn hành) viết rằng: "Bọn xâm lược đã tiến vào ải Nội Bàng ngày 2 tháng 2 năm 1285 mà mãi mười ngày sau, chúng mới đánh Vạn Kiếp. Không thể nói quân Thoát Hoan tiến từ Nội Bàng đến Vạn Kiếp mất mười ngày, trong khi sự kháng cự của ta ở mạn trên không đáng kể." Ông Tấn sở dĩ suy diễn như vậy là vì thấy khoảng cách giữa Nội Bàng và Vạn Kiếp không xa, nên cho rằng quân Nguyên đã vấp phải sự chống cự ác liệt của quân Trần. Kỳ thực không phải như vậy, Nguyên Sử đã chỉ ra rõ ràng, quân Nguyên biết Hưng Đạo Vương đóng quân cách Vạn Kiếp 10 lí (10 lí đời Tống tương đương khoảng 5 cây số thời nay) thì cho quân tìm ván gỗ, lập công trường đóng thuyền. Việc quân Nguyên sửa soạn thuyền bè, lại tuyển chọn thủy quân trong đám quân Nguyên cho thấy công việc chuẩn bị mất khá nhiều thời gian. Nếu các sử liệu chép đúng thì trong vòng mười ngày đó, quân Nguyên đang chuẩn bị đánh lớn ở Vạn Kiếp.

---------------------------------------------------------------------------------

及官軍獲生口,乃稱日烜調其聖翊等軍,船千餘艘,助興道王拒戰。鎮南王遂與行省官親臨東岸,遣兵攻之,殺傷甚衆,奪船二十餘艘。興道王敗走,官軍縛筏為橋,渡富良江北岸。日烜沿江布兵船,立木柵,見官軍至岸,即發砲大呼求戰。至晚,又遣其阮奉御奉鎮南王及行省官書,請小却大軍。行省復移文責之,遂復進兵。日烜乃棄城遁去,仍令阮效銳奉書謝罪,并獻方物,且請班師。行省復移文招諭,遂調兵渡江,壁於安南城下。

Lúc quan quân bắt được tù binh, có kẻ nói rằng Nhật Huyền điều các quân Thánh Dực, thuyền hơn nghìn chiếc, đến giúp Hưng Đạo Vương cự chiến. Trấn Nam Vương cùng quan Hành tỉnh đích thân Đông Ngạn, sai quân tấn công chúng, giết được rất nhiều, bắt được hai mươi chiếc thuyền. Hưng Đạo Vương thua chạy (1). Quan quân buộc bè làm cầu, vượt sông Phú Lương sang bờ bắc, Nhật Huyền bày binh thuyền, dựng rào gỗ ven sông, thấy quan quân lên bờ lập tức bắn pháo hô lớn thách đánh (2). Đến chiều, lại sai quan Phụng ngự Nguyễn đến dâng thư cho Trấn Nam Vương và Hành Tỉnh Quan Thư, xin rút đại quân. Hành Tỉnh lại viết thư trách hắn, rồi lại tiến binh. Nhật Huyền bèn bỏ thành chạy đi, vẫn sai Nguyễn Hiệu Duệ phụng thư tạ tội, rồi hiến phương vật, xin ban sư. Hành tỉnh viết thư chiêu dụ, rồi điều quân vượt sông, đóng dưới thành An Nam.

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

(1) Lời bình: Đoạn này ghi lại việc quân Nguyên bắt đầu mở cuộc tiến công lớn vào Vạn Kiếp. Đoạn trước có câu "Ô Mã Nhi Bạt Đô làm thống lĩnh (Omar Ba'atur), đánh nhau với chúng vài lần, đều đánh bại." là để chỉ việc Ô Mã Nhi chỉ huy thủy quân tấn công vào vùng Vạn Kiếp. Câu này đáng lẽ nên đặt ở đoạn này.

Sử liệu chép về trận Vạn Kiếp, Bài Than không rõ ràng, Trước tiên xin trích dịch các sử liệu có liên quan:

Nguyên Sử, Thế Tổ Bản Kỷ, Quyển 13 có chép rõ hơn:

是月壬午,烏馬兒領兵與安南興道王遇,擊敗之,兵次富良江北。乙酉,安南世子陳日烜領戰船千余艘以拒。丙戌,與戰,大破之,日烜遁去,入其城。

Ngày Nhâm ngọ tháng này (14-2-1285), Ô Mã Nhi lĩnh binh gặp phải quân của An Nam Hưng Đạo Vương, đánh bại chúng, quân tiến đến bờ Bắc sông Phú Lương. Ất Dậu (17-2-1285), An Nam Thế Tử Trần Nhật Huyền lĩnh chiến thuyền hơn nghìn chiến đến chống cự quân ta. Bính tuất (18-2-1285), đánh nhau, đại phá chúng, Nhật Huyền bỏ chạy, tiến vào kinh thành (Thăng Long).

An Nam Chí Lược, quyễn 4, Chinh Thảo Vận Hướng thì chép:

至元乙酉正月九日壬午,世子自將十萬衆,大戰於排灘。元帥烏馬兒、招討納海、鎮撫孫林德,以所獲船破之。十三日丙戌,世子退守瀘江,又潰走。鎮南王度江, 宴其宫殿,獻俘受馘。

Năm Chí Nguyên Ất Dậu chính nguyệt tháng chín, Nhâm ngọ (14-2-1285), Thế tử tự chỉ huy mười vạn quân, đại chiến ở Bài Than. Nguyên Soái Ô Mã Nhi (Omar), Chiêu Thảo Nạp Hải (Naqai), Trấn Phủ Tôn Lâm Đức dùng các thuyền đã lấy được từ trước phá chúng. Ngày mười ba Bính tuất (18-2-1285), Thế Tử chạy về thủ Lư Giang, lại thua chạy. Trấn Nam Vương đặt tiệc tại cung điện (ở Thăng Long), người thì hiến tù binh, kẻ thì dâng thủ cấp đã chém.

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Kỷ Nhà Trần, Hoàng đế Trần Nhân Tông thì chép khác ngày rằng:

乙酉七年九月以後重興元年元至元二十二年,春,正月六日,元烏馬兒犯萬刼、普頼山、等處官軍奔潰。

Ất Dậu, [Thiệu Bảo] năm thứ 7 [1285], (từ tháng 9 về sau là Trùng Hưng năm thứ nhất, Nguyên Chí Nguyên năm thứ 22). Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 6 (11-2-1285), tướng Ô Mã Nhi đánh vào các xứ Vạn Kiếp và núi Phả Lại, quan quân tan vỡ bỏ chạy.

Kinh Thế Đại Điển Tự Lục, mục Chinh Thảo, An Nam thì chép:

...進至萬刼興道王又敗走,官軍至富良江,日烜親拒戰,敗棄城走天長府。

...(Quan quân) tiến đến Vạn Kiếp, Hưng Đạo Vương lại thua chạy, quan quân đến sông Phú Lương, Nhật Huyền thân chinh lại cự chiến, thua phải bỏ thành chạy về phủ Thiên Trường.

Nguyên Sử Thế Tổ Bản Kỷ thì ghi quân Ô Mã Nhi đụng độ quân Trần Hưng Đạo vào ngày 14-2, ắt hẳn đây là trận Vạn Kiếp. Kinh Thế Đại Điển tự lục cũng nói quân Nguyên đến Vạn Kiếp đánh lui quân Trần Hưng Đạo. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép quân Trần thua ở Vạn Kiếp sớm hơn ba ngày (11-2). Duy nhất chỉ có An Nam Chí Lược là chép trận Bài Than (Bình Than) diễn ra vào ngày 14-2. Các sử liệu khác đều không có ghi trận này..

Tuy nhiên, Đại Việt Sử Ký trước đó còn ghi "Hưng Vũ Vương Nghiễn, Minh Hiến Vương Uất, Hưng Nhượng Vương Tảng, Hưng Trí Vương Hiện đốc suất 20 vạn quân các xứ Bàng Hà, Na Sầm, Trà Hương, Yên Sinh, Long Nhãn đến hội ở Vạn Kiếp, theo quyền điều khiển của Hung Đạo Vương để chống quân Nguyên." Nếu quả thật tại Vạn Kiếp quân Trần có đến 20 vạn quân, quân Nguyên chắc gì lại dễ dàng đánh tan quân Trần ở Vạn Kiếp như thế. Cho nên chỗ này có thể nghi vấn Toàn Thư đã phóng đại số quân của chư vương khi hội họp với quân của Hưng Đạo Vương.

Đối với chi tiết này, ông Hà Văn Tấn đưa ra nhận định:

"Nhiều tài liệu chép rằng quân Trần đã tan vỡ nhưng đó là do đã đứng trên lập trường của kẻ thù, huênh hoang khoác lác (An Nam Chí Lược, Nguyên Sử) hoặc chỉ nhìn một cách hời hợt mặt ngoài (Toàn Thư). Quân Nguyên chiếm được Vạn Kiếp và các địa điểm trên sông Bình Than không phải là do chúng đã "đánh tan" được quân ta mà là do quân ta đã chủ động rút lui để bảo toàn lực lược." (Sách đã dẫn, trang 201).

Tuy nhiên đây là cách nói gỡ gạc, đặc biệt là chối bỏ ghi chép của Đại Việt Sử Ký Toàn Thư khẳng định quân Trần đã tan rã ở Vạn Kiếp.

Ông Tấn cho rằng vì Toàn Thư ghi quân Nguyên tấn công vào Nội Bàng vào ngày 11-2, khác với các sử liệu khác ghi vào ngày 14-2, thì cho nên Toàn Thư đã chép nhầm, rằng ngày 11-2 chỉ là ngày Ô Mã Nhi bắt đầu tấn công vào Vạn Kiếp và núi Phả Lại. Nhưng đây không phải là cách suy diễn duy nhất. Sự chênh lệch ngày tháng giữa các sử liệu vẫn rất hay thường diễn ra. Ông Tấn lại không xét đến những khả năng khác. Nếu Đại Việt Sử Ký chép sai ngày thì sao?

Cứ cho rằng Đại Việt Sử Ký Toàn Thư không nhầm lẫn ngày tháng, thì có thể diễn giải rằng khi thủy quân Nguyên tập kích Vạn Kiếp, quân Trần do Hưng Đạo Vương chỉ huy bị tan vỡ, vua Trần Nhân Tông mới đem thêm 10 vạn quân sĩ (trong đó có các đạo quân Thánh Dực) và binh thuyền đến chi viện cho Trần Quốc Tuấn. Quân thủy nhà Nguyên đụng độ với quân Trần ở Bình Than, đánh một trận kịch chiến, rồi quân Trần mới rút đi,vì đại quân của Thoát Hoan còn ở phía sau.. Như vậy hoàn cảnh của quân Trần ở đây khá nguy cấp chứ không có chuyện "chủ động rút quân" như ông Hà Văn Tấn nói. Mặt khác, An Nam Chí Lược cho rằng quân Nguyên đã đánh tan quân chi viện của vua Trần tại Bình Than là nhận định sai lầm. Vì vua Trần rõ ràng có trong tay 10 vạn binh sĩ cùng 1000 chiến thuyền, thì làm sao Ô Mã Nhi chỉ dùng các thuyền vừa bắt được từ trước cùng thuyền mà ông ta cho đóng trước khi tấn công Vạn Kiếp đánh bại được?

Trong quyển "Quân Thủy Trong Lịch Sử Chống Ngoại Xâm" do các ông Nguyễn Việt, Vũ Minh Giang và Nguyễn Mạnh Hùng (do nhà xuất bản quân đội nhân dân ấn hành năm 1983) có đoạn sau đây:

"Sau loạt trận chặn giặc ở biên giới, Trần Quốc Tuấn lui về giữ Vạn Kiếp, là vùng được coi như trọng điểm phòng thủ phía bắc của quân Trần. Theo thế trận truyền thống, Trần Hưng Đạo bố trí nhiều điểm chốt quân trên bộ, như Phả Lại, Vạn Kiếp, đồng thời có khoảng một nghìn thuyền đóng ở các bến cảng hỗ trợ.

Có một điểm mới trong lực lượng địch, đó là việc xuất hiện một số thuyền chiến trong cánh quân Thoát Hoan. Đây là thuyền quân Nguyên vừa chiếm được trong loạt trận biên giới, được bổ sung thêm những thuyền mà Thoát Hoan vừa cho quân dừng lại mười ngày để tìm kiếm và đóng thêm. Đơn vị quân thủy dã chiến này được trao cho Ô Mã Nhi122, Nạp Hải, Tôn Lâm Đức chỉ huy, sẵn sàng phối hợp đánh xuống Vạn Kiếp. Chính trong tình hình mới đó, quân thủy của ta ở Lục Đầu không thể bị động chỉ làm nhiệm vụ chờ quân rút lui mà trở thành một bộ phận phòng thủ mặt sông, vừa giữ thuyền, vừa chặn không cho quân thủy Nguyên vòng sau lưng đánh vào trận bộ của ta. Để đảm nhiệm tốt nhiệm vụ này, vua Trần đã chuẩn bị hơn một nghìn chiến thuyền từ Thăng Long sẵn sàng ứng cứu.

Ngày 11-2-1285, từ địa điểm tập kết của chúng cách Vạn Kiếp mười dặm, quân Nguyên đi cả đường thủy, đường bộ xuôi theo dòng sông Thương, tiến công vào loạt cứ điểm chốt giữ của ta trên bộ như Vạn Kiếp, núi Phả Lại. Quân ta chống giữ anh dũng trong suốt ba ngày. Sang ngày 14-2-1285, có lẽ thấy tình hình các điểm chốt trên bộ khó giữ được, Trần Quốc Tuấn cho quân rút xuống thuyền. Thuyền chiến của bọn Ô Mã Nhi tập trung lực lượng đánh phá kế hoạch rút lui của ta. Trước tình hình đó, vua Trần tung lực lượng dự bị ở Thăng Long, với mười vạn quân và hơn 1.000 thuyền chiến đến ngã ba Đại Than, nơi sông Đuống đổ ra Lục Đầu để trợ chiến cho quân thủy của Trần Hưng Đạo, đồng thời chặn đường không cho quân thủy Nguyên theo đường sông Đuống thọc vào Thăng Long.

Theo Nguyên sử, quyển 209, quân Nguyên bắt được một số quân Trần, họ đã nói rằng; “Nhật Huyên (tức Trần Thánh Tôn) điều đạo quân Thánh Dực, hơn một nghìn thuyền giúp Hưng Đạo Vương cự chiến”. An Nam chí lược cũng chép tương tự: “Ngày nhâm ngọ, mồng 9 tháng giêng (tức ngày 14-2-1285), thế tử (tức vua Trần) đem mười vạn quân, đại chiến ở Bài Than. Nguyên súy Ô Mã Nhi, chiêu thảo Nạp Hải, trấn thủ Tôn Lâm Đức đem những thuyền bắt được từ trước đánh tan được”.

Như vậy cả quân thủy của Trần Hưng Đạo lẫn quân thủy của vua Trần đều chạm trán với quân thủy Nguyên. Một trận thủy chiến lớn đã diễn ra trên khúc sông Lục Đầu. Dĩ nhiên, không phải dễ dàng mà đám quân thủy Nguyên dã chiến, với chừng vài trăm thuyền là cùng (số thuyền quân Nguyên cướp được trên biên giới được chép lại là vài chục chiếc – theo An Nam chí lược), lại đánh bại được quân Trần ở đó có tới hai nghìn thuyền, như Lê Trắc đã khoác lác. Chắc chắn là quân Trần đã chủ động tạm rút lui bảo toàn lực lượng về Thăng Long."

Ý kiến của các ông có vẻ ổn thỏa hơn cách giải thích gắng gượng của ông Hà Văn Tấn, và gần với cách hiểu của dịch giả. Cũng theo hai ông, quân Nguyên đã thủy lục cùng tiến công phá Vạn Kiếp, vậy cũng có thể cho rằng Thoát Hoan và Binh Chương Chính Sự Ariq Khaya cũng chỉ huy lục quân tập kích quân Trần, dù các sử liệu không trực tiếp nêu ra.

(2) Lời bình: chữ "pháo" (砲) là bộ thạch 石, bộ thạch chỉ đá, ở đây có nghĩa là quân Trần dùng máy bắn đá bắn sang quân Nguyên thách đánh. Chữ pháo nếu có bộ hỏa 火 thì mới chỉ hỏa khí (súng đại bác chẳng hạn).

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

明日,鎮南王入其國,宮室盡空,惟留屢降詔敕及中書牒文,盡行毀抹。外有文字,皆其南北邊將報官軍消息及拒敵事情。日烜僭稱大越國主憲天體道大明光孝皇帝陳威晃,禪位于皇太子,立太子妃為皇后,上顯慈順天皇太后表章,於上行使「昊天成命之寶」。

Ngày hôm sau, Trấn Nam Vương vào kinh thành, cung thất trống không, duy chỉ còn lại mấy tờ chiếu sắc và điệp văn của Trung thư, ngoài ra còn có một số công văn, đều do các biên tướng nam bắc báo cáo tin tức và tình hình chống địch. Trần Nhật Huyên tiếm xưng Đại Việt Quốc Chủ Thiên Thể Đạo Minh Quang Đại Minh Quang Hiếu Hoàng Đế Trần Uy Hoảng (tức Trần Thánh Tông), nhường ngôi cho Thái tử, lập vợ cả thái tử làm hoàng hậu, lên Thượng Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng Thái Hậu biểu chương, phía trên gọi là "Hạo Thiên Hành Mệnh Chi Bảo".

日烜即居太上皇之位,見立安南國王係日烜之子,行紹寶年號。所居宮室五門,額書大興之門,左、右掖門;正殿九間書天安御殿;正南門書朝天閣。又諸處張榜云:「凡國內郡縣,假有外寇至,當死戰。或力不敵,許於山澤逃竄,不得迎降。」其險隘拒守處,俱有庫屋以貯兵甲。其棄船登岸之軍猶衆,日烜引宗族官吏於天長、長安屯聚,興道王、范殿前領兵船復聚萬劫江口,阮盝駐西路永平。

Nhật Huyên lên làm Thái thượng hoàng rồi, kiến lập An Nam Quốc Vương là con của Nhật Huyền (tức Trần Nhân Tông). Cung thất mà vua Trần ở có năm cửa, ngạch trên cửa đề là "Đại Hưng Chi Môn", "Tả, Hữu Dịch Môn", chánh điện có chín gian gọi là Thiên An Ngự Điện, cửa chính ở phía Nam đề là "Triều Thiên Các". Lại dán các bảng yết thị ở mọi nơi rằng: "Phàm các quận huyện trong nước, giả như có giặc đến, thì phải liều chết đánh, nếu sức đánh không nổi, thì cho phép chạy trốn vào núi đầm, tuyệt không được đầu hàng." Chúng ở các nơi hiểm yếu đều có nhà kho chứa binh giáp, mà quân chúng bỏ thuyền lên bờ cũng rất đông, Nhật Huyên dẫn tông tộc quan lại đến Thiên Trường, Trường An đồn quân tụ hội, Hưng Đạo Vương, Phạm Điện Tiền lĩnh binh thuyền lại tập hợp ở cửa sông Vạn Kiếp, Nguyễn Lộc đóng quân ở đường phía Tây Vĩnh Bình.

行省整軍以備追襲,而唐兀 與唆都等兵至自占城與大軍會合。自入其境,大小七戰,取地二千餘里、王宮四所。初,敗其昭明王兵,擊其昭孝王、大僚護皆死,昭明王遠遁不敢復出。又於安演州、清化、長安獲亡宋陳尚書壻、交趾梁奉御及趙孟信、葉郎將等四百餘人。

Hành tỉnh chuẩn đốn quân binh chuẩn bị truy tập, mà quân bọn Đường Ngột và Toa Đô từ Chiêm Thành cùng đại quân hội họp. Từ lúc vào biên cảnh nước chúng, bảy lần đánh nhau lớn nhỏ, chiếm đất hơn hai nghìn lí, vương cung bốn nơi. Trước đó, đã đánh bại quân của Chiêu Minh Vương, đánh quân của Chiêu Hiếu Vương, đại liêu ban (1) đều chết, Chiêu Minh Vương chạy trốn không dám ra nữa. Lại ở châu An Diễn, Thanh Hóa, Trường An bắt được con rể của quan Thượng thư Trần nhà vong Tống, người Giao Chỉ như Lương Phụng Ngự, Triệu Mạnh Tín cùng Diệp Lang Tướng cả thảy bốn trăm người.

萬戶李邦憲、劉世英領軍開道自永平入安南,每三十里立一寨,六十里置一驛,每一寨一驛屯軍三百鎮守巡邏。復令世英立堡,專提督寨驛公事。

Vạn hộ Lý Bang Hựu, Lưu Thế Anh lĩnh quân mở đường từ Vĩnh Bình vào An Nam, cứ mỗi ba trăm dặm thì lập một trại, sáu mươi dặm thì đặt một trạm dịch (trạm ngựa), mỗi trại mỗi trạm có ba trăm quân trấn giữ tuần tra. Lại lệnh cho Thế Anh xây thành, chuyên đôn đốc việc trại trạm.

右丞寬徹引萬戶忙古 、孛羅哈荅兒由陸路,李左丞引烏馬兒拔都由水路,敗日烜兵船,禽其建德侯陳仲。日烜逃去,追至膠海口,不知所往。其宗族文義侯、父武道侯及子明智侯、壻彰懷侯并彰憲侯、亡宋官曾參政、蘇少保子蘇寶章、陳尚書子陳丁孫,相繼率衆來降。唐兀、劉珪皆言占城無糧,軍難久駐。鎮南王令唆都引元軍於長安等處就糧。日烜至安邦海口,棄其舟楫甲仗,走匿山林。官軍獲船一萬艘,擇善者乘之,餘皆焚棄,復於陸路追三晝夜。

Hữu thừa Khoan Triệt dẫn vạn hộ Mang Cổ Đải, Bột La Cáp Đáp Nhi theo đường bộ, Tả thừa Lý (Hằng) dẫn Ô Mã Nhi Bạt Đô theo đường thủy, đánh bại binh thuyền của Nhật Huyên, bắt được Kiến Đức Hầu là Trần Trọng. Nhật Huyên chạy mất, đuổi đến Giao Hải Khẩu thì không biết đã trốn về đâu. Tông tộc chúng Văn Nghĩa Hầu, cha là Phụ Đạo Hầu cùng con là Minh Trí Hầu, con rể là Chương Hoài Hầu cùng Chương Hiến Hầu, quan Tham chính họ Tằng nhà vong Tống cùng con Thượng thư họ Trần là Trần Đinh Tôn lần lượt đem dân đến hàng. Đường Ngột Đái, Lưu Khuê đều nói ở Chiêm Thành không có lương, quân khó lòng đóng lâu. Trấn Nam Vương lệnh cho Toa Đô dẫn quân Nguyên ở các xứ Thiên Trường kiếm lương. Nhật Huyên đến cửa biển An Bang, bỏ thuyền và giáp trượng, chạy trốn lên núi rừng. Quan quân lấy được một vạn chiến thuyền, chọn tốt để đi, còn lại thì đốt đi, lại đuổi theo đường bộ ba ngày ba đêm.

獲生口稱上皇、世子止有船四艘,興道王及其子三艘,太師八十艘,走清化府。唆都亦報:日烜、太師走清化。烏馬兒拔都以軍一千三百人、戰船六十艘,助唆都襲擊其太師等兵。復令唐兀 沿海追日烜,亦不知所往。

Tù binh bắt được nói rằng Thượng hoàng cùng Thế tử chỉ có bốn chiến thuyền, Hưng Đạo Vương cùng con ba chiếc, Thái sư tám mươi chiếc, chảy vào phủ Thanh Hóa. Toa Đô cũng báo: Nhật Huyên, Thái sư chạy vào Thanh Hóa. Ô Mã Nhi Bạt Đô lấy quân một nghìn tám trăm người, chiến thuyền sáu mươi chiếc, giúp Toa Đô tập kích các quân của Thái sư. Lại sai Đường Ngột Đải men theo ven biển đuổi theo Nhật Huyên, cũng không biết đã đi đâu.

日烜弟昭國王陳益稷率其本宗與其妻子官吏來降。乃遣明里、昔班等送彰憲侯、文義侯及其弟明誠侯、昭國王子義國侯入朝。文義侯得北上,彰憲侯、義國侯皆為興道王所殺,彰憲侯死,義國侯脫身還軍中。

官軍聚諸將議:「交人拒敵官軍,雖數敗散,然增兵轉多;官軍困乏,死傷亦衆,蒙古軍馬亦不能施其技。」遂棄其京城,渡江北岸,決議退兵屯思明州。鎮南王然之,乃領軍還。是日,劉世英與興道王、興寧王兵二萬餘人力戰。

Quan quân tập họp các tướng bàn rằng: "Người Giao chống cự quan quân, tuy mấy lần thua tan, nhưng quân tăng càng đông, quan quân khốn đốn, quân mã Mông Cổ cũng không thể thi thố tài nghệ". Rồi bỏ kinh thành vượt sông đến bờ Bắc, thống nhất việc lui binh về đóng ở Châu Tư Minh. Trấn Nam Vương ưng cho, vậy nên đem quân về. Tháng đó, Lưu Thế Anh cùng quân của Hưng Đạo Vương, Hưng Ninh Vương hơn hai vạn người hết sức đánh.

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Bổ sung: Nguyên Văn Loại, quyển 41, Kinh Thế Đại Điển Tự Lục, mục Chinh Phạt, phần An Nam có chép rõ hơn như sau:

四月,交兵大起,其興道王功萬戶劉世英于阿魯堡,忠誠王功萬戶馬榮與江口,皆殺退。既而水陸功大營城圍數匝,雖多死增兵轉從,官軍朝暮鏖戰困乏,器械皆盡,逐棄其京城渡江屯駐,尋班師。

Tháng tư, quân Giao dấy quân lớn, Hưng Đạo Vương tấn công Vạn Hộ Lưu Thế Anh ở đồn A Lỗ, Trung Thành Vương đánh Thiên Hộ Mã Vinh ở Giang Khẩu, đều đánh chúng lui. Không lâu sau, thủy bộ địch đến công đại doanh, vây thành mấy vòng, tuy chết nhiều nhưng quân tăng thêm mỗi lúc một đông, quan quân sớm tối kịch chiến mệt mỏi, khí giới đều đã dùng hết, nên bỏ kinh thành chúng vượt sông đồn trú, bãi quân.

------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Bổ sung: Nguyên Sử Ký Sự Bản Mạt, quyển 5: Chiêm Thành An Nam Dụng Binh lược chép tương tự:

脫歡聚諸將義,交人拒敵官軍,雖數敗散,然增兵轉盛,官軍疾疼,死傷也衆,占城不可逹。乃謀引軍還。

Thoát Hoan họp các tướng bàn rằng: "Người Giao kháng cứ quan quân, tuy mấy lần thua tan, nhưng binh tăng thành ra đông, quan quân người bệnh tật, kẻ bị thương chết cũng nhiều, mà Chiêm Thành thì không thể tới. Nên định mang quân quay về.

------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Bổ sung: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép:

十日, 有自賊處逃赴御營奏報云:“上相光啓、懷文侯國瓚及陳聰阮可臘與弟阮傳率諸路民兵敗賊 于京城、章陽等處。賊軍大潰。太子脱驩平章阿剌等奔過瀘江。

Ngày mồng 10, có người từ chỗ giặc trốn về đến ngự doanh tâu báo: “Thượng tướng Quang Khải, Hoài Văn Hầu Quốc Toản và Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp, em là Nguyễn Truyền đem dân binh các lộ đánh bại quân giặc ở các xứ Kinh Thành, Chương Dương. Quân giặc tan vỡ lớn. Bọn thái tử Thoát Hoan, Bình chương A Lạt rút chạy qua sông Lô.”

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

又官軍至如月江,日烜遣懷文侯來戰,行至冊江,繫浮橋渡江,左丞唐兀等軍未及渡而林內伏發,官軍多溺死,力戰始得出境。唐兀 等馳驛上奏。七月,樞密院請調兵以今年十月會潭州,聽鎮南王及阿里海牙擇帥緫之。

Rồi quan quên đến sông Như Nguyệt, Nhật Huyền sai Hoài Văn Hầu đến đánh, đi đến sông Sách, buộc cầu phao sang sông, các quân tả thừa Đường Ngột Đải chưa đến kịp thì quân mai phục trong rừng đổ ra, quan quân nhiều người bị chết đuối, hết sức đánh mới thoát khỏi. Đường Ngột Đải chạy ngựa trạm dâng tấu. Tháng bảy, Khu Mật Viện xin điều binh hội hợp ở Đàm Châu tháng mười năm nay, đều nghe theo sự thống suất của Trấn Nam Vương và A Lí Hải Nha.

二十三年正月,詔省臣共議,遂大舉南伐。二月,詔諭安南官吏百姓,數日烜罪惡,言其戕害叔父陳遺愛及弗納達魯花赤不顏鐵木兒等事。以陳益稷等自拔來歸,封益稷為安南國王,賜符印,秀為輔義公,以奉陳祀。申命鎮南王脫懽、左丞相阿里海牙平定其國,以兵納益稷。五月,發忙古臺麾下士卒合鄂州行省軍同征之。官兵入其境,日烜復棄城遁。

Năm thứ hai mươi ba (1286), chính nguyệt, xuống chiếu lệnh các tỉnh thần cùng thương nghị, rồi cử đại quân nam phạt. Tháng hai, chiếu dụ quan lại bách tính An Nam, kể tội ác của Nhật Huyền, nói đến việc chú mình Trần Di Ái và không dâng nộp Đạt Lỗ Hoa Xích Bấc Nhan Thiết Mộc Nhi. Vì bọn Trần Ích Tắc tự thân suất chúng đến quy hàng, nên phong Ích Tắc làm An Nam Quốc Vương, ban phù ấn, phong Tú Viễn làm Phụ Nghĩa Công, để phụng việc tế tự họ Trần. Lại lệnh cho Trấn Nam Vương Thoát Hoan cùng Tả Thừa Tướng A Lý Hải Nha bình định nước An Nam, lấy binh hộ tống Ích Tắc về nước. Tháng năm, khiến thủ hạ sĩ tốt chỉ huy bởi Mang Cổ Đái hội họp với quân của Hành tỉnh ở Đàm Châu cùng đi đánh An Nam. Quan quân vào trong nước ấy, Nhật Huyền lại bỏ thành chạy.

六月,湖南宣慰司上言:「連歲征日本及用兵占城,百姓罷於轉輸,賦役煩重,士卒觸瘴癘多死傷者,群生愁嘆,四民廢業,貧者棄子以偷生,富者鬻產而應役,倒懸之苦日甚一日。今復有事交趾,動百萬之衆,虛千金之費,非所以恤士民也。且舉動之間,利害非一,又兼交趾已嘗遣使納表稱藩,若從其請以甦民力,計之上也。無已,則宜寬百姓之賦,積糧餉,繕甲兵,俟來歲天時稍利,然後大舉,亦未為晚。」湖廣行省臣線哥是其議,遣使入奏,且言:「本省鎮戍凡七十餘所,連歲征戰,士卒精銳者罷於外,所存者皆老弱,每一城邑,多不過二百人。竊恐姦人得以窺伺虛實。往年平章阿里海牙出征,輸糧三萬石,民且告病,今復倍其數。官無儲畜,和糴於民間,百姓將不勝其困。宜如宣慰司所言,乞緩師南伐。」樞密院以聞,帝即日下詔止軍,縱士卒還各營。益稷從師還鄂。

Tháng sáu, Tuyên Úy Ti Hồ Nam dâng sớ rằng: "Liền năm chinh phạt Nhật Bổn và dụng binh Chiêm Thành, trăm họ đã mỏi mệt vì chuyển vận, thuế khóa lao dịch nặng nề, quân sĩ gặp phải chướng lệ chết rất nhiều, dân chúng kêu than, tứ dân bỏ nghiệp, kẻ nghèo phải bỏ con để kiếm sống, người giàu phải bán sản nghiệp để ứng dịch, nỗi khổ treo ngược ngày một tăng thêm. Nay lại có việc phạt Giao Chỉ, điều động đến trăm vạn người, hao phí đến nghìn vàng, đó chẳng phải là việc thương xót quân dân. Vả lại trong khi cử động, lợi hại không phải một. Hơn nữa Giao Chỉ thường sai sứ dâng biểu xin làm phiên thuộc, nếu theo lời thỉnh cầu này để hồi phục sức dân thì là kế hay nhất. Không được nữa thì nên nới lỏng thuế cho trăm họ, tích trữ lương hướng, sửa sang giáp binh, đợi năm sau thiên thời lợi hơn chút rồi hãy cất quân cũng chưa muộn." Hồ Quảng Hành Tỉnh Thần Tuyến Kha cho đồng ý với lời nghị ấy, sai sứ vào tấu rằng: "Bổn tỉnh trấn thủ gồm hơn bảy mươi sở, liền năm chinh chiến, quân sĩ tinh nhuệ đều mệt nhọc ở ngoài, kẻ ở lại đều già yếu, mỗi thành ấp nhiều không quá hai trăm người. thiết nghĩ sợ rằng kẻ gian dò biết được thực hư. Năm ngoái Bình Chương A Lí Hải Nha xuất chinh, thu lương ba vạn thạch, dân đã than khổ, nay lại thu gấp bội số ấy, quan không có tích trữ, còn mua lại thóc trong dân gian, trăm họ sẽ chịu khổ khôn xiết. Nên như lời Tuyên Úy Ti nói, xin hoãn quân nam phạt"

------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Bổ sung: Nguyển Sử quyển 168 - trích từ phần tiểu sử về Lưu Tuyên-bài tấu của ông

二十三年,入為禮部尚書,遂遷吏部。時將伐交趾,宣上言曰:「連年日本之役,百姓愁戚,官府擾攘,今春停罷,江浙軍民歡聲如雷。安南小邦,臣事有年,歲貢未嘗愆期。邊帥生事興兵,彼因避竄海島,使大舉無功,將士傷殘。今又下令再征,聞者莫不恐懼。自古興兵,必須天時,中原平土,猶避盛夏,交廣炎瘴之地,毒氣害人,甚於兵刃。今以七月,會諸道兵于靜江,比至安南病死必衆,緩急遇敵何以應之。又交趾無糧,水路難通,無車馬牛畜 載,不免陸運。一夫擔米五斗,往還自食外,官得其半;若十萬石,用四十萬人,止可供一二月。軍糧搬載,船料軍須,通用五六十萬衆。廣西、湖南調度頻數,民多離散,戶令供役,亦不能辦。況湖廣密邇,溪洞寇盜常多。萬一姦人伺隙,大岳一出,乘虛生變,雖有留後,人馬疲弱衰老,卒難應變。何不與彼中軍官深知事體者,論量萬全方略,不然將復蹈前轍矣。」

Năm thứ hai mươi ba (1286), vào triều làm Lễ Bộ Thượng Thư, rồi chuyển sang làm Lại Bộ. Lúc sắp đánh Giao Chỉ, Tuyên dâng sớ tâu rằng: "Liền năm chinh phạt Nhật Bổn, trăm họ oán sầu, quan phủ nhiễu nhương. Xuân năm nay bãi binh, quân dân Giang Chiết reo mừng như sấm. An Nam nước nhỏ, thần phục đã nhiều năm, tuế cống chưa hề sai hạn. Vì tướng ở biên giới sinh sự hưng binh, kẻ kia phải chạy ra hải đảo, khiến cất đại quân mà không được công tích gì, tướng sĩ thương tổn, nay lại hạ lệnh đi đánh nữa, ai nghe thấy đều không khỏi sợ hãi. Từ xưa hưng binh, tất phải theo thiên thời, trung nguyên là đất bằng phẳng mà còn phải tránh giữa mùa hạ, Giao Quảng là đất viêm chướng, khí độc hại người còn hơn cả binh đao. Nay định tháng bảy họp các đạo quân ở Tĩnh Giang, quân ấy đến An Nam tất nhiều người bệnh chết, lúc gặp giặc cần gấp lấy gì ứng phó đây. Ở Giao Chỉ lại không có lương, đường thủy khó đi, không có xe ngựa trâu bỏ để vận chuyển thì không tránh được phải vận chuyển bằng đường bộ. Mỗi phu gánh được năm đấu gạo, đi về ăn hết một nửa, quan quân chỉ được một nửa. Nếu mang theo mười vạn, dùng bốn mươi vạn người cũng chỉ cung cấp được lương thực trong vòng một hai tháng. Chuyên chở quân lương, đóng thuyền, phục dịch trong quân thường dùng đến năm sáu chục vạn người. Quảng Tây, Hồ Nam điều động nhiều lần, dân li tán nhiều, lệnh cho cung dịch cũng không sao làm được. Huống chi Hồ-Quảng rất gần khe động, trộm cướp thường nhiều, vạn nhất kẻ gian dò được, chờ khi đại quân đi khỏi, thừa lúc trống vắng mà sinh biến, tuy có quân mã lưu lại phía sau nhưng lại là người già yếu, khó mà ứng biến. Sao không cùng người biết rõ sự thể trong quan quân bên kia bàn bạc phương lược vẹn toàn, nếu không sẽ lại giẫm phải vết xe cũ."

------------------------------------------------------------------------------------------------------------

二十四年正月,發新附軍千人從阿八赤討安南。又詔發江淮、江西、湖廣三省蒙古、漢、券軍七萬人,船五百艘,雲南兵六千人,海外四州黎兵萬五千,海道 運糧萬戶張文虎、費拱辰、陶大明運糧十七萬石,分道以進。置征交趾行尚書省,奧魯赤平章政事,烏馬兒、樊楫參知政事緫之,並受鎮南王節制。五月,命右丞程鵬飛還荊湖行省治兵。六月,樞密院復奏,令烏馬兒與樊參政率軍士水陸並進。九月,以瓊州路安撫使陳仲達、南寧軍民緫管謝有奎、延欄軍民緫管符庇成出兵船助 征交趾,並令從征。日烜遣其中大夫阮文通等入貢。

Năm thứ hai mươi bốn (1287), chính nguyệt, phát quân Tân Phụ bảy nghìn người, theo A-Bát-Xích đánh An Nam. Lại chiếu phát quân Mông Cổ, Hán, Khoán bảy vạn người ở ba tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Nghiểm, thuyền năm trăm chiếc, quân Vân Nam sáu nghìn người, Lê binh bốn châu ngoài biển một vạn năm nghìn người, Hải Đạo Vận Lương Vạn Hộ Trương Văn Hổ, Phí Củng Thìn, Đào Đại Minh chở mười bảy vạn thạch lương, phân đường để tiến. Đặt Chinh Giao Chỉ Hành Thượng Thư Tỉnh, đều do Bình Chương Chính Sự Áo Lỗ Xích, Tham Tri Chính Sự Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp trông coi, đều chịu sự tiết chế của Trấn Nam Vương. Tháng sáu, Khu Mật Viện lại tấu, lệnh Ô Mã Nhi cùng Tham Chính Phiền lĩnh suất quân sĩ thủy lục cùng tiến. Tháng chín, sai Quỳnh Châu Lộ An Phủ Sứ Trần Trọng Đạt, Nam Ninh Quân Dân Tổng Quản Tạ Hữu Khuê, Duyên Lan Quân Dân Tổng Quản Phù Tí Thành xuất binh thuyền giúp đánh Giao Chỉ, đều lệnh theo chinh phạt. Nhật Huyền sai bọn Trung Đại Phu Nguyễn Văn Thông vào cống.

十一月,鎮南王次思明,留兵二千五百人命萬戶賀祉統之,以守輜重。程鵬飛、孛羅合荅兒以漢、券兵萬人由西道永平,奧魯赤以萬人從鎮南王由東道女兒關 以進。阿八赤以萬人為前鋒,烏馬兒、樊楫以兵由海道,經玉山、雙門、安邦口,遇交趾船四百餘艘,擊之,斬首四千餘級,生擒百餘人,奪其舟百艘,遂趨交趾。 程鵬飛、孛羅合荅兒經老鼠、陷沙、茨竹三關,凡十七戰,皆捷。

Tháng mười một, Trấn Nam Vương đến Châu Tư Minh, lưu binh hai nghìn năm trăm người lệnh vạn hộ Hạ Chỉ chỉ huy chúng, để phòng vệ các xe chở quân nhu. Trình Bằng Phi, Bột La Hợp Đáp Nhi lấy một vạn quân Hán, Khoán từ đường phía Tây Vĩnh Bình, Áo Lỗ Xích chỉ huy một vạn người theo Trấn Nam Vương từ đường phía Đông cửa Nữ Nhi cùng tiến. A Bát Xích lấy vạn người làm tiên phong. Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy binh từ hải đảo đi qua Ngọc Sơn, Song Môn, cửa An Bang, gặp thuyền Giao Chỉ hơn bốn trăm chiếc, đánh chúng, chém đầu hơn bốn nghìn, bắt hơn trăm tù binh, chiếm được thuyền chúng trăm chiếc, rồi tiến vào Giao Chỉ. Trình Bằng Phi, Bột La Hợp Đáp Nhi qua ba cửa Lão Thử, Hãm Sa, Tì Trúc, đụng độ cả thảy mười bảy trận, đều thắng.

十二月,鎮南王次茅羅港,交趾興道王遁,因攻浮山寨,破之。又命程鵬飛、阿里以兵二萬人守萬劫,且修普賴山及至靈山木柵。命烏馬兒將水兵,阿八赤將陸兵,徑趨交趾城。鎮南王以諸軍渡富良江,次城下,敗其守兵。日烜與其子棄城走敢喃堡,諸軍攻下之。

Tháng mười một, Trấn Nam Vương đến cảng Mao La, Giao Chỉ Hưng Đạo Vương bỏ chạy, nhân đó công phá được trại Phù San. Lại mệnh Trình Bằng Phi, A Lí lấy hai vạn quân phòng thủ Vạn Kiếp, lại sửa chữa rào gỗ trên núi Vạn Kiếp và núi Chí Linh. Sai Ô Mã Nhi chỉ huy thủy binh, A Bát Xích chỉ huy lục quân tiến về thành Giao Chỉ. Trấn Nam Vương cho các quân qua sông Phú Lương, đến dưới thành, đánh bại quân thủ thành. Nhật Huyền cùng con bỏ thành chạy ra thành Nam Bảo, chư quân đánh hạ thành ấy.

二十五年正月,日烜及其子復走入海。鎮南王以諸軍追之,次天長海口,不知其所之,引兵還交趾城。命烏馬兒將水兵由大滂口迓張文虎等糧船,奧魯赤、阿八赤等分道入山求糧。聞交趾集兵箇沉、箇黎、磨山、魏寨,發兵皆破之,斬萬餘級。

Năm thứ hai mươi lăm (1288), chính nguyệt, Nhật Huyền cùng con lại chạy ra biển. Trấn Nam Vương cùng chư quân đuổi theo, đến cửa biển Thiên Trường thì không biết ở đâu cả, dẫn binh quay về thành Giao Chỉ. Sai Ô Mã Nhi chỉ huy thủy quân từ của Đại Bàng đón thuyền lương của bọn Trương Văn Hổ. Bọn Áo Lỗ Xích, A Bát Xích thì chia đường vào núi tìm lương. Nghe thấy Giao Chỉ tập trung binh ở các trại Cá Trầm, Cá Lê, Ma San, Ngụy Trại, phát quân đánh chúng, chém hơn vạn tên.

二月,鎮南王引兵還萬劫。阿八赤將前鋒,奪關繫橋,破三江口,攻下堡三十二,斬數萬餘級,得船二百艘、米十一萬三千餘石。烏馬兒由大滂口趨塔山,遇 賊船千餘,擊破之;至安邦口,不見張文虎船,復還萬劫,得米四萬餘石。普賴、至靈山木柵成,命諸軍居之。諸將因言:「交趾無城池可守、倉庾可食,張文虎等 糧船不至,且天時已熱,恐糧盡師老,無以支久,為朝廷羞,宜全師而還。」鎮南王從之。命烏馬兒、樊楫將水兵先還,程鵬飛、塔出將兵護送之。三月,鎮南王以 諸軍還。

Tháng hai, Trấn Nam Vương dẫn binh quay về Vạn Kiếp, A Bát Xích làm tiên phong, chiếm được cầu phao ở cửa quan, phá cửa Tam Giang, đánh hạ ba mươi hai thành lũy, chém vài vạn tên, bắt được hai trăm thuyền, được một vạn ba nghìn thạch gạo. Ô Mã Nhi từ cửa Đại Bàng tiến đến Tháp Sơn, gặp thuyền giặc hơn nghìn chiếc, đánh phá chúng. Đến cửa An Bang, không thấy thuyền Trương Văn Hổ, lại quay về Vạn Kiếp (1)(2), được hơn bốn vạn thạch gạo. Xây thành gỗ trên núi Phả Lại và Chí Linh, sai chư quân đóng ở đó. Chư tướng do vậy nói: "Giao Chỉ chẳng có thành trì nào có thể giữ được, không có kho lương tiếp tế lương thực, vả lại thời tiết đã nóng, sợ rằng hết lương binh mỏi, không thể ở lâu, làm xấu mặt triều đình, nên cho toàn quân quay về." Trấn Nam Vương nghe theo, sai Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy thủy binh về trước, Trình Bằng Phi cùng Tháp Xuất lấy bộ binh hộ tống chúng. Tháng ba, Trấn Nam Vương cho chư quân về.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------

Lời bình: Thuyền lương của Trương Văn Hổ đã bị tướng nhà Trần là Trần Khánh Dư đánh bại từ tháng 12. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có ghi lại việc này, thuyền lương của Đào Đại Minh và Phí Củng Thìn thì bị gió bão làm trôi giạt lênh đênh ngoài khơi, nên quân Nguyên về sau rơi vào cảnh thiếu thốn lương thực, không thể tác chiến được nữa. Việc này Nguyên Sử Lai A Bát Xích Truyện chép rõ hơn, dưới đây trích dịch cả hai nguồn:

(2) Nguyên Sử quyển 129 - trích từ phần tiểu sử của tướng Lai A Bát Xích

張文虎糧船以去年十二月次屯山,遇交趾船三十艘,文虎擊之,所殺略相當。至綠水洋,賊船益多,度不能敵,又船重不可行,乃沉米於海,趨瓊州。費拱辰糧船以 十一月次惠州,風不得進,漂至瓊州,與張文虎合。徐慶糧船漂至占城,亦至瓊州。凡亡士卒二百二十人、船十一艘、糧萬四千三百石有奇。

Thuyền lương Trương Văn Hồ từ tháng mười hai năm ngoái đến Đồn Sơn, gặp thuyền Giao Chỉ ba mươi chiếc, Văn Hổ đánh chúng, hai bên giết được tương đương. Đến Lục Thủy Dương, thuyền giặc thêm nhiều, nhắm không thể chống lại, thuyền lại nặng không thể đi, nên gạo đều chìm xuống biển, đến Quỳnh Châu. Thuyền lương Phí Củng Thìn từ tháng mười một đến Huệ Châu, gặp gió ngược không thể tiến, trôi dạt đến Quỳnh Châu, hội hợp với Trương Văn Hổ. Thuyền lương của Từ Khánh thì trôi dạt đến Chiêm Thành, cũng đến Quỳnh Châu, sĩ tốt chết cả thảy hai trăm hai mươi người, thuyền còn mười một chiếc, lương còn hơn một vạn bốn nghìn tám trăm thạch.

-------------------------------------------------------------------------------------------------------

鎮南王次內傍關,賊兵大集,王擊破之。命萬戶張均以精銳三千人殿,力戰出關。諜知日烜及世子、興道王等,分兵三十餘萬,守女兒關及丘急嶺,連亙百餘里,以 遏歸師。鎮南王遂由單己縣趨盝州,間道以出,次思明州。命愛魯引兵還雲南,奧魯赤以諸軍北還。日烜尋遣使來謝,進金人代己罪。十一月,以劉庭直、李思衍、 萬奴等使安南,持詔諭日烜來朝。

Trấn Nam Vương đến cửa Nội Bàng, quân binh tập trung đông, vương đánh phá chúng. Sai Vạn Hộ Trương Quân lấy quân tinh nhuệ năm nghìn người bảo vệ hậu quân, lực chiến ra khỏi cửa quan. Dò biết Nhật Hoàn cùng thế tử và bọn Hưng Đạo Vương phân binh ba mươi vạn giữ cửa Nữ Nhi và đèo Khâu Cấp, liên thông dài suốt hơn trăm lí, nên ngăn cấm không được lui quân. Trấn Nam Vương bèn từ huyện Kỷ Đan đến Lộc Châu, theo đường nhỏ mà ra, về đến Châu Tư Minh. Mệnh cho Ái Lỗ dẫn quân quay về Vân Nam, Ái Lỗ Xích cho chư quân quay về phương Bắc. Nhật Huyền sai người đến tạ, đưa người vàng để tạ lỗi của mình. Tháng mười một, sai bọn Lưu Đình Trực, Lí Tử Diễn, Vạn Nô đi sứ An Nam, cầm chiếu dụ Nhật Huyền đến chầu.

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Nguyên Sử quyển 129 - trích từ phần tiểu sử của tướng Lai A Bát Xích (cùng theo Thoát Hoan)

賊據高險,射毒矢,將士裹瘡以戰,諸軍護皇子出賊境,阿八赤中毒矢三,首項股皆腫,遂卒。

Giặc chiếm núi cao, bắn tên độc, tướng sĩ phải buộc vết thương mà đánh, chư quân hộ vệ hoàng tử ra khỏi đất địch, A Bát Xích trúng tên độc ba chỗ, đầu cỗ đều sưng vù, rồi chết.

----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

二十六年二月,中書省臣奏旣罷征交趾,宜拘收行省符印。四月,日烜遣其中大夫陳克用等來貢方物。

二十七年,日烜卒,子日燇遣使來貢。

二十八年十一月,鎮守永州兩淮萬戶府上千戶蔡榮上書,言軍事大要,以朝廷賞罰不明,士不用命,將帥不和,坐失事機,其弊有不可勝言者。書上,不報。

二十九年九月,遣吏部尚書梁曾、禮部郞中陳孚持詔再諭日燇來朝。詔曰:「省表具悉。去歲禮部尚書張立道言,曾到安南,識彼事體,請往開諭使之來朝。因遣立道往彼。今汝國罪愆旣已自陳,朕復何言。若曰孤在制,及畏死道路不敢來朝,且有生之類寧有長久安全者乎。天下亦復有不死之地乎。朕所未喩,汝當具聞。徒以虛文歲幣,巧飾見欺,於義安在。」

三十年,梁曾等使還,日燇遣陪臣陶子奇等來貢。廷臣以日燇終不入朝,又議征之。遂拘留子奇於江陵,命劉國傑與諸侯王亦(里吉)〔吉里〕䚟等同征安南,敕至鄂州與陳益稷議。八月,平章不忽木等奏立湖廣安南行省,給二印,市蜑船百斛者千艘,用軍五萬六千五百七十人、糧三十五萬石、馬料二萬石、鹽二十一萬斤,預給軍官俸津、遣軍人水手人鈔二錠,器仗凡七十餘萬事。國傑設幕官十一人,水陸分道並進。又以江西行樞密院副使徹里蠻為右丞,從征安南,陳巖、趙修己、雲從龍、張文虎、岑雄等亦令共事。益稷隨軍至長沙,會寢兵而止。

三十一年五月,成宗卽位,命罷征。遣陶子奇歸國。日燇遣使上表慰國哀,幷獻方物。六月,遣禮部侍郞李衎、兵部郞中蕭泰登持詔往撫綏之,其略曰:「先皇帝新棄天下,朕嗣守大統,踐祚之始,大肆赦宥,無間遠近。惟爾安南,亦從寬宥,已敕有司罷兵,遣陪臣陶子奇歸國。自今以往,所以畏天事(天)〔大〕者,其審思之。」

大德五年二月,太傅完澤等奏安南來使鄧汝霖竊畫宮苑圖本,私買輿地圖及禁書等物,又抄寫陳言征收交趾文書,及私記北邊軍情及山陵等事宜,遣使持詔責以大義。三月,遣禮部尚書馬合馬、禮部侍郞喬宗亮持詔諭日燇,大意以「汝霖等所為不法,所宜窮治,朕以天下為度,敕有司放還。自今使价必須選擇;有所陳請,必盡情悃。向以虛文見紿,曾何益於事哉,勿憚改圖以貽後悔」。中書省復移牒取萬戶張榮實等二人,與去使偕還。

武宗卽位,下詔諭之,屢遣使來貢。至大四年八月,世子陳日㷃遣使奉表來朝。

仁宗皇慶二年正月,交趾軍約三萬餘衆,馬軍二千餘騎,犯鎮安州雲洞,殺掠居民,焚燒倉廩廬舍,又陷祿洞、知洞等處,虜生口孳畜及居民貲產而還,復分兵三道犯歸順州,屯兵未退。廷議俾湖廣行省發兵討之。四月,復得報:交趾世子親領兵焚養利州官舍民居,殺掠二千餘人,且聲言,「昔右江歸順州五次劫我大源路,掠我生口五千餘人;知養利州事趙珏禽我思浪州商人,取金一碾,侵田一千餘頃,故來讎殺」。

六月,中書省俾兵部員外郞阿里溫沙,樞密院俾千戶劉元亨,同赴湖廣行省詢察之。元亨等親詣上、中、下由村,相視地所,詢之居民農五,又遣下思明知州黃嵩壽往詰之,謂是阮盝世子太史之奴,然亦未知是否。於是牒諭安南國,其略曰:「昔漢置九郡,唐立五管,安南實聲敎所及之地。況獻圖奉貢,上下之分素明;厚往薄來,懷撫之惠亦至。聖朝果何負於貴國,今胡自作不靖,禍焉斯啟。雖由村之地所係至微,而國家輿圖所關甚大。兼之所殺所虜,皆朝廷係籍編戶,省院未敢奏聞。然未審不軌之謀誰實主之?」安南回牒云:「邊鄙鼠竊狗偷輩,自作不靖,本國安得而知?」且以貨賂偕至。元亨復牒責安南飾辭不實,却其貨賂,且曰:「南金、象齒,貴國以為寶,而使者以不貪為寶。來物就付回使,請審察事情,明以告我。」而道里遼遠,情辭虛誕,終莫得其要領。元亨等推原其由:因交人向嘗侵永平邊境,今復倣效成風。兼聞阮盝世子乃交趾跋扈之人。為今之計,莫若遣使諭安南,歸我土田,返我人民,仍令當國之人正其疆界,究其主謀,開釁之人戮於境上,申飭邊吏毋令侵越。却於永平置寨募兵,設官統領,給田土牛具,令自耕食,編立部伍,明立賞罰,令其緩急首尾相應,如此則邊境安靜,永保無虞。事聞,有旨,俟安南使至,卽以諭之。

自延祐初元以及至治之末,疆埸寧謐,貢獻不絕。泰定元年,世子陳日爌遣陪臣莫節夫等來貢。

益稷久居於鄂,遙授湖廣行省平章政事;當成宗朝,賜田二百頃;武宗朝,進銀靑榮祿大夫,加金紫光祿大夫,復加儀同三司。文宗天曆二年夏,益稷卒,壽七十有六,詔賜錢五千緡。至順元年,諡忠懿王。

三年夏四月,世子陳日㷆遣其臣鄧世延等二十四人來貢方物。

Các sách dùng để kê cứu:

Sử Liệu Trung Quốc:

(Minh) Tống Liêm, Nguyên Sử, Bản điểm giao, Trung Hoa Thư Cục, 1976 (元史, 中華書局点校本, 1976年)

(Nguyên) Diêu Toại, Mục Am Tập, Vũ Anh Điện Trân Tụ Bản (khắc đời Thanh) (姚燧, 牧庵集, 景上海涵芬樓藏武英殿聚珍版本)

http://ctext.org/library.pl?if=gb&res=77586

(Nguyên) Tô Thiên Tước, Từ Khê Văn Cảo, bản Quát Viên Tùng Thư (thời Dân Quốc)(苏天爵, 滋溪文稿, 適園叢書本)

http://ctext.org/wiki.pl?if=en&res=672665&remap=gb