* Giai đoạn 3 (thế kỷ XVI - XVIII)
Giai đoạn này mở đầu bởi các bất ổn do nội chiến, chia cắt đất nước. Thời kỳ này chứng kiến kinh tế hàng hoá phát triển với các hoạt động hàng hải sâu rộng với sự hình thành các đô thị; sự xâm nhập của các giáo sĩ phương Tây vào nước ta. Bên canh xu hướng mở rộng của các làng xã, sự kết hợp của làng xã trong quá trình đô thị hoá. Quá trình đô thị hoá ở các đô thị vùng ven kinh đô đã cuốn dần các làng ven đô vào trong tiến trình đô thị. Bộ mặt làng xã cổ truyền dần biến mất và các làng xã đó trở thành một phần của đô thị, mối quan hệ tương tác giữa đô thị và làng xã (trong thị có làng, trong làng có thị).
Nếu như trong thời vua Lê Thánh tông, cơ cấu quyền lực tập trung với quyền lực quá tập trung vào tay một người - cái khung sườn của chế độ phong kiến tập quyền cao độ thì "khung sườn" này lập tức bị vỡ vụng sau khi ông qua đời năm 1497. Thời kỳ Mạc Đăng Dung lên ngôi thì nước ta bước vào giai đoạn phân quyền với nhiều tập đoàn quyền lực chia nhau cai trị - thể hiện chỗ yếu nhất của phong kiến tập quyền là không thể duy trì một lãnh thổ thống nhất, gây ra hệ luỵ về mọi mặt, nhất là làng xã. Vương triều Mạc mặc dù có nhiều điểm tích cực, nhưng lòng dân lại theo nhà Lê rất nhiều và đến năm 1533 nhà Lê được khôi phục lại cùng ánh hào quang còn lưu lại từ thời vua Thánh tông trở đi. Năm 1592, quân Lê đánh bại được quân Mạc và làm chủ Thăng Long, mở đầu cho thời Lê Trung hưng. Sau khi Lê Trung hưng phục vị, có hai dòng họ đã góp nhiều công sức cho nhà Lê là họ Trịnh và Nguyễn: sau khi Nguyễn Kim qua đời, họ Trịnh xác lập được quyền lực tuyệt đối với vai trò là "công thần bậc nhất", chúa Trịnh dần lấn át vua Lê và đến năm 1599 thì Trịnh Tùng xưng vương => xuất hiện "lưỡng đầu chế" Lê - Trịnh. Kinh đô sẽ phát triển đến cạnh bờ sông Cái, sát phủ chúa Trịnh ngày nay. Khi cuộc chiến Nam - Bắc triều chưa kết thúc thì xuất hiện mâu thuẫn trong nội bộ hai dòng họ Trịnh và Nguyễn ở Nam triều: Nguyễn Hoàng xin trấn thủ Thuận Hoá và được vua Lê, Trịnh Kiểm chấp thuận. Vào Nam, Nguyễn Hoàng nghĩ đến viễn cảnh vùng đất mới. Năm 1600, Nguyễn Hoàng lợi dụng Lê - Trịnh lục đục quyền lực nên bỏ trốn vào Thuận Hoá, đến đời Nguyễn Phúc Nguyên thì ông công khai chống lại họ Trịnh - diễn ra chiến tranh Trịnh và Nguyễn, nhưng mức độ không tàn khốc như thời Nam - Bắc triều. Chiến tranh Trịnh - Nguyễn kết thúc gây hậu quả nặng nề: phá vỡ truyền thống vốn có; tích cực là nảy sinh những điều kiện mới, cơ hội mới để phát triển và hướng đến những tích cực trong làng xã Việt Nam. Tuy nhiên, sự khủng hoảng chính trị thế kỷ 16 - 18 tác động tiêu cực đến làng xã các địa phương: tình trạng ruộng công làng xã bị xâm chiếm, tư hữu hoá ruộng đất phát triển mạnh mẽ nhất và chế độ "quân điền" thời Lê sơ nhanh chóng bị phá sản do làng xã quản lý một phần ruộng đất quá nhỏ nên không thể chia đều cho các thành viên trong làng xã nhằm đảm bảo sinh kế cho người dân. Bên cạnh đó, hiện tượng vỡ đê thường xuyên làm mất mùa và thiên tai diễn ra liên miên; và làng xã dường như trở thành thế giới riêng của bọn cường hào ác bá. Tình trạng cường hào nhiễu loạn ở làng xã khiến đời sống dân làng ngày càng cực khổ, mâu thuẫn xảy ra dẫn tới hệ quả tất yếu là phong trào đấu tranh của nông dân vào thế kỷ XVIII - đỉnh cao là phong trào Tây Sơn. Nhìn từ góc độ khác, sự suy yếu của chính quyền trung ương đã giúp kinh tế thoát khỏi cái chật hẹp quản lý của nhà nước và vận hành theo hướng "tự thân" của nó; sự thừa nhận ruộng tư của nhà nước góp phần hình thành mầm mống kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển. Sở dĩ ruộng tư được nhà nước thừa nhận là vì không có chính sách thuế nào đánh vào ruộng tư. Cụ thể, năm 1722 chúa Trịnh ban hành một biểu thuế, trong đó ruộng tư lần đầu tiên bị đánh thuế - ruộng tư tồn tại phổ biến trong xã hội Việt thời sau thế kỷ XVII. Ngoài ra, xu hướng loạn lạc cũng góp phần thúc đẩy quá trình khai mở đất đai về phía nam, làm thay đổi căn bản bức tranh về sở hữu ruộng đất. Đầu thế kỷ XVII, Nguyễn Hoàng không còn lựa chọn nào khác là tiến về phương nam vì phía đông là biên, phía bắc là lãnh thổ Lê - Trịnh, phía tây là dãy Trường Sơn; chúa Nguyễn muốn xây dựng ở phương nam một thực lực mạnh để có thể đối chọi với chúa Trịnh. Mặc dù thần phục vua Lê, nhưng chúa Nguyễn thực sự làm chủ Đàng Trong và toàn quyền quyết định mọi việc; vùng Nam Bộ được khai mở đã trở thành vùng đất có tiềm năng nông nghiệp rất lớn, vựa lúa nông nghiệp của cả nước; trở thành nơi xuất khẩu lúa gạo sang cả Đông Nam Á; đến năm 1757 sau khi cả vùng Nam Bộ thuộc quyền quản lý của chúa Nguyễn, kể cả các đảo ngoài xa của Tổ quốc.
Thời nhà Mạc thống trị cho đến khi phải lưu vong về phía bắc Tổ quốc, các chính sách của vua Mạc không ảnh hưởng gì đến tình hình miền Bắc đất nước và thực tế vùng này về sau bị chi phối bởi vua Lê - chúa Trịnh. Vào trước thế kỷ XVI, các làng xã cổ truyền tập trung ở khu vực từ Thanh Hoá trở ra; đến khi quản lý Thăng Long vào năm 1592 thì chính quyền Lê - Trịnh lập tức tiến hành cải cách bộ máy quản lý làng xã. Từ thế kỷ XVII, nhà nước Lê - Trịnh siết chặt quyền kiểm soát viên xã trưởng với tư cách là người trung gian giữa nhà nước với nhân dân. Với việc đặt ra đơn vị hành chính tổng (trung gian giữa huyện với xã), chính quyền Lê - Trịnh tiến lên một bước quản lý chặt làng xã. Tổng bao gồm nhiều làng xã, thường sẽ chọn tên làng lớn nhất làm tên của tổng. Năm 1669, chính quyền Lê - Trịnh ra lại chỉ dụ bầu cử chức xã trưởng (noi gương Lê Thánh tông) yêu cầu chức danh xã trưởng phải có phẩm chất tốt để dạy nhân dân các điều nghĩa của Nho giáo. Một bước tiến mới của Lê - Trịnh với xã trưởng đó là chính quyền trung ương đặt ra chế độ khảo khoá với xã trưởng. Theo chế độ này, nếu xã trưởng vượt qua kỳ thi (sát hạch) này thì sẽ được nâng lên thành một quan chức của triều đình (khảo khoá có từ thời Lý: quy định trong 9 năm nếu quan lại nào làm tốt không mắt lỗi nhiều sẽ được nâng lên 1 bậc; thời Trần thì chỉ có An phủ sứ mới được khảo khoá mà thôi). Xã trưởng thời Lê - Trịnh gánh vác nhiều trách nhiệm (không khác so với Lê sơ), nhưng nhấn mạnh nhất là xã trưởng phải xử các vụ kiện cáo trong làng. Trong chính sử thời kỳ này, làng xã trở thành một vấn đề quan trọng. Khi chính quyền Lê - Trịnh rệu rã thì sản xuất ở làng xã đình đốn và nhiều vấn đề xã hội phát sinh từ chính làng xã này. Một khi chính quyền suy đồi thì họ không thể với tay đến làng xã, hơn nữa sự lộng quyền của xã trưởng góp phần đẩy nhanh sự suy yếu này của trung ương và đồng thời làm gia tăng hơn nữa quyền tự trị của làng xã. Đến đầu thế kỷ XVIII, chính quyền Lê - Trịnh một lần nữa muốn áp đặt quản lý vào làng xã qua chủ trương "phân cấp công điền lệnh" của chúa Trịnh Cương; dù quỹ đất công quá hạn hẹp nên chính sách "cấp đất công" của chúa Trịnh không thu được nhiều kết quả như mong đợi - quyền tự trị của làng xã thời gian này được đẩy lên cao nhất. Đỉnh điểm của nhà nước mất luôn quyền quản lý làng xã là chỉ dụ 1730 - nhà nước buộc phải giao quyền bầu cử xã trưởng về các làng, làng xã duy trì được cơ chế tự quản song hành với trung ương và không mâu thuẫn với hệ thống pháp luật của nhà nước. Công cuộc khai hoang bị chững lại, số lượng các làng bị hạn chế nhiều. Do ảnh hưởng của các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến, các làng xã có biến động về số lượng các làng và các biến động liên quan đến kinh tế làng xã, hiện tượng dân phiêu tán nhiều khiến hầu hết các làng bị trống vắng bóng cư dân ở; thậm chí một số cư dân ở lại thì họ tập trung lại hành nghề trộm cướp (Dầu nhà quê không bằng ngồi lê thành phố). Theo thống kê của chính sử vào năm 1730 có hơn 3.691 làng phiêu tán. Thời gian này chứng ta chứng kiến thêm một diện mạo làng quê Bắc Bộ là: một bức tranh ảm đạm, cường hào bắt đầu tác oai tác oái - nạn kiêm tính, xâm chiếm ruộng đất công (biến ruộng công thành ruộng tư). Cũng trong thời gian này, một số làng xã có hiện tượng ẩn lậu ruộng công: hằng năm nhà nước kiểm tra sổ đinh và sổ điền để quản lý và thu thuế, làng xã chủ động kê khai thiếu để giấu bớt ruộng công (ruộng tự cũng là ruộng công, để làng xã chia và quản lý); với các làng ven sông thì cách "ẩn lậu" đất là lợi dụng quy luật của dòng chảy để khai báo "ruộng bị sông xói lở"; số quan lại triều đình không đủ để kiểm tra việc ẩn lậu này, người trực tiếp đo đạc chỉ là các xã trưởng - làng xã dùng ruộng "ẩn lậu" để chia cho nông dân, phát canh thu tô, cho thuê ruộng và thậm chí là buôn bán ruộng đất để mua chức danh (mua chức danh nhằm được miễn sưu dịch, có vị trí cao trong làng khi hội họp và thực hiện các nghi lễ trong làng. Khi làng cần khoản tiền để sửa sang đường xá, chùa chiền thì làng phải bán bớt ruộng đất để trang trải mọi việc trong làng, tất nhiên là nhân dân đồng thuận và quan trên rất khó phát hiện. Hiện tượng "ẩn lậu" này có ở hầu hết các làng, đặc biệt là các làng xa trung tâm thì tình trạng này càng phổ biến - nhất là các làng ở vùng đất bồi thì họ dễ dàng "biến hoá" số liệu khai ruộng cho triều đình => tình trạng kiêm tính ruộng đất là vậy. Địa chủ nhân dịp dân phiêu tán đã nhanh chóng chiếm đoạt phần lớn ruộng đất khiến nhiều người mất trắng. Một tình trạng nữa là nhà nước duy trì một lực lượng quân sự thường xuyên để dẹp phản loạn, truy đuổi tàn quân Mạc; để bắt nhiều lính thì phải có đãi ngộ rất cao cho quân lính - những người đi lính được cấp lượng ruộng đất rất lớn, làng cũng phải chia ruộng cho quan lính còn gọi là ruộng binh. Ruộng binh ngày càng nhiều lấn hết ruộng công làng xã. Bên cạnh đó, bộ phận quan lại cũng phình to ra thì số ruộng thưởng cho quan lại càng nhiều (như hình thức ban thưởng) => một một làng xã vừa là một đơn vị xã hội chịu quản lý của nhà nước, chịu áp bức của bọn phong kiến địa phương - đấu tranh của nhân dân diễn ra. Đầu thế kỷ XIX, ruộng tư lớn hơn ruộng công rất nhiều. Cuối thế kỷ XVIII, làng xã Việt Nam có ba loại: làng có 100% ruộng công, làng có 50/50 (ruộng công, ruộng tư), làng có 100% ruộng tư (làng 50/50 phổ biển thời trung đại, làng 100% công điền ở cổ đại, làng 100% tư điền). Cuối thế kỷ XVIII, làng chuyển dần từ hình thức công xã nông thôn sang là một đơn vị hành chính cơ sở của nhà nước phong kiến, tuy nhiên nó có mức độ khác nhau do truyền thống công xã, tàn dư của công xã nông thôn còn tồn tại; ở phương Nam thì công cuộc khẩn hoang khiến đất đai càng mở rộng - nổi bật là sự kiện 1698 thành lập phủ Gia Định, đất đai mở rộng và dân số tăng vọt, tập trung chủ yếu từ Vũng Tàu đến giữa hai sông Tiền - Hậu.
* Giai đoạn 4: thời Nguyễn
Đầu thế kỷ XIX, ruộng tư lớn hơn ruộng công rất nhiều. Theo Nguyễn Quốc Kiệt trong sách Sĩ quan công chiêu, ruộng công chiếm tỉ lệ có 19% và ruộng tư chiếm 81%; sở hữu trung bình của người nông dân quá bé, đa số dưới 3 mẫu ruộng. Trong thế kỷ XVII - XVIII khi chế độ công điền của làng xã suy yếu đã đánh dấu sự hình thành một số làng mới (làng mới này của tiểu nông và có ruộng tư). Thời hoàng đế Gia Long cầm quyền và các vua kế tiếp, triều đình Huế rất quan tâm đến tổ chức làng xã. Chính quyền quan tâm đến khẩn hoang vì tư tưởng trọng nông, phần lớn các Hoàng đế muốn lấy thời kỳ Lê Thánh tông làm "khuôn vàng thước ngọc" cho chính sách của mình với mục đích làm cho quốc gia được thịnh trị, thậm chí hình mẫu về thể chế trung ương tập quyền thời Lê sơ cũng được các vua Nguyễn lấy làm khuôn mẫu để cố gắng khôi phục lại. Đầu thế kỷ XIX, tiềm năng của nước ta rất nhiều - nhưng nhiều nhất ở Nam Bộ và vùng ven biển Bắc Bộ. Ở vùng ven biển Bắc Bộ thì quá trình lấn biển rất mạnh mẽ do khai hoang lập làng diễn ra mạnh từ Thanh Hoá đến Quảng Ninh. Trong thời gian đầu độc lập (1802 - 1858), triều đình ban hành 46 quyết định khẩn hoang, chủ yếu là thời Minh Mạng. Nhà nước khai hoang trên khắp cả nước, nhưng chủ yếu là ở Nam Bộ. Có 25/46 quyết định của vua Gia Long và Minh Mạng đều gắn liền với khai hoang Nam Bộ. Người khẩn hoang Nam Bộ chủ yếu là dân thường, ngoài ra còn có binh lính; hình thức khai hoang là đồn điền (1790, Nguyễn Ánh triển khai sớm chính sách đồn điền nhằm tạo tiềm lực kinh tế ở Nam Bộ để đánh Tây Sơn. Đầu thời Nguyễn, việc lập đồn điền vẫn được duy trì với các mục đích: an ninh quốc phòng, kinh tế; Ở Trung Bộ thì đồn điền có ở Quảng Ngãi, Khánh Hoà; Ở Bắc Bộ là tập trung tại Quảng Yên. Đồn điền được đẩy mạnh ở Nam Kỳ bởi kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương 1850), dinh điền (là hình thức kết hợp giữa nguồn lực của nhân dân với hỗ trợ của nhà nước; dinh điền tập trung ở Bắc Bộ dưới thời Minh Mạng gắn liền với Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Tri Phương. Sau khi khai hoang ở Ninh Bình, Nguyễn Công Trứ quy định cứ 50 người lập thành 1 làng, người đứng ra mộ dân lập làng thì cho làm lý trưởng luôn; 30 người lập thành một ấp, người mộ dân thì được làm hội trưởng - đến 10/1828 thì huyện Tiền Hải và Kim Sơn được thành lập với số dân 2.350 người ở Tiền Hải (lý, ấp, trai, giáp), năm 1829 lập huyện Kim Sơn. Khu vực Ninh Bình này rất trù phú, có số lượng giáo dân rất lớn (nhà thờ Phát Diệm). Ngoài ra, Nguyễn Công Trứ còn lập doanh điền ở Giao Thuỷ (Nam Định) và Bắc Ninh. Trong quá trình khai hoang thì nảy sinh dân phiêu tán, dân nổi loạn ở khắp nơi. Ở Nam Bộ thì Nguyễn Tri Phương làm rất tốt dinh điền). Năm 1832 thì công cuộc dinh điền và đồn điền đạt nhiều kết quả tích cực, lúc này Minh Mạng chia thành 30 tỉnh và 1 phủ trực thuộc, 89 phủ, 230 huyện và châu, 1.742 tổng, 18.200 xã (tăng gần gấp 2 lần so với thời Lê sơ - thống kê của Dư địa chí). Làng xã thời Nguyễn có bộ phận cấp xã là lý trưởng (không gọi là xã trưởng), giúp việc là phó lý. Các vua nhà Nguyễn đều cố gắng cao nhất để hạn chế quyền lực của các lý trưởng, hạn chế sự lộng hành thiết chế làng xã của cường hào trong làng... nhưng kết quả rất hạn chế. Làng xã thời Nguyễn thực sự là bầu trời riêng của bọn cường hào, dân làng rất cực khổ do hoạ cường hào gây ra. Ngoài ra, một số làng mới mở do dinh điền của nhà nước bị bỏ hoang do nạn xiêu tán của người dân - đặc biệt là Gia Long Minh Mạng nổ ra hàng chục cuộc khởi nghĩa của nông dân. Lý do Minh Mạng có nhiều chỉ dụ khẩn hoang là do ông vua này nhận thấy nguyên nhân sâu xa dẫn đến nhân dân khởi nghĩa là do chính sách ruộng đất, nhiều chỉ dụ không đến được làng xã nên nhân dân khởi nghĩa là tất yếu (chính sách chỉ tác dụng với số ít làng thôi). Theo chính sử: thời Gia Long có 370 làng phiêu tán (cuối thời Gia Long thì tới 2 vạn dân Nghệ An phiêu tán; khu vực Hoài Đức (Hà Nội) có đến 46 xã phiêu tán)
Sau khi chiếm được Việt Nam vào năm 1884, thực dân Pháp rất quan tâm đến tổ chức làng xã người Việt bằng các nghiên cứu bài bản về làng xã. Khi nắm được cơ cấu làng xã của người Việt, Pháp có chính sách khá dung hoà với tổ chức làng xã của người Việt bằng cách tận dụng triệt để quan hệ phong kiến, cũng như xã thôn để kìm hãm sự phát triển của làng xã Việt. Pháp khong xoá bỏ mà duy trì tổ chức làng xã thông qua hội đồng kỳ mục (sau này muốn quản lý thêm thì chúng đổi thành hội đồng tộc biểu). Tổ chức làng Việt thời Pháp thuộc không thay đổi, vì Pháp không động đến tổ chức cơ cấu làng xã và giữ nguyên đến năm 1945
Chương 3: Thiết chế quản lý làng xã và kết cấu của làng Việt cổ truyền
3.1. Kết cấu xã hội của làng xã
Làng Việt đa nguyên và chặt: Xã hội làng xã được cấu trúc theo nhiều hệ thống khác nhau, chồng chéo, đan xen lẫn nhau
3.1.1. Ngôi thứ
-Chức sắc: Là những người khoa trường chức tước như người thi đỗ tiến sĩ, phó bảng, cử nhân, tú tài. Chức tước là những người văn từ cửu phẩm, võ từ suất đội trở lên. Có làng binh lính cũng dự vào hàng chức sắc, hoặc người làm kí, phán cho nhà nước cũng chiếu phẩm hàm mà dự một ngôi chức sắc
-Chức dịch: Là những cựu tân chánh phó tổng, chánh phó lí, hương trưởng, khán thủ, trương tuần và những người bỏ tiền của ra mua nhiêu, mua xã
-Thí sinh, khoá sinh: Những người đỗ nhất nhị trường hoặc người trúng khảo khoá trúng hạch, dân làng cũng trọng, hương sư, tổng sư... Đó là những người học chữ thánh hiền. Người đi học là người có ý chí và khá giả thì mới học con chữ ở thánh hiền được. Dù anh có đỗ đạt hay không đỗ, nhưng anh có chữ nghĩa trong người thì anh cũng hơn rất nhiều so với những người nông dân, nuôi trâu làm thước ngắm. Làng rất trọng chuyện học hành, truyền thống hiếu học có từ lâu đời vì nó xuất phát từ Nho giáo (có học, thi cử thì mới làm quan được), người làm quan thì cả họ được nhờ. Làng nào có nhiều thí sinh, khoá sinh đỗ đạt và dù làm quan hay không thì làng ấy rất vẻ vang. Các hạng dân trong xã hội thì người ta coi trọng sĩ - nông - công - thương => nho sĩ rất được coi trọng như vậy. Tuy nhiên trong quan niệm dân gian thì người ta có rất nhiều cái nhìn nghịch cảnh: thường là sĩ - nông - công - thương thì "thương" được xếp vào nghề mạt vì liên quan đến buôn bán: làm không ngay thẳng thì trái với đạo đức Nho giáo; người có học được trọng vọng trong xã hội, biết lễ nghĩa và giữ đạo làm người thì họ luôn ở bậc cao trong xã hội. Trong dân gian có câu "nhất lương nhì sĩ", lúc đói kém mới thấy vai trò của nhà nông; có câu "ai ơi chớ lấy học trò, dài lưng tốn vải - ăn no lại nằm". Hình ảnh học trò trong xã hội phong kiến rất thanh cao và thanh bạch, mọi việc trong nhà đều nhờ vào sự vun vén của vợ.
Ngoài Quốc tử giám còn có hệ thống trường tư ở các làng xã; làng xã nào có nhiều học trò đỗ đạt trong các kỳ thi mà ra làm quan thì ở làng có lệ khao những người đỗ đạt, trợ cấp thêm phí học theo hương ước làng. Khoán lệ và hương ước gần giống nhau. Hương ước ở làng xã huyện Từ Liêm (Hà Nội) thì mỗi năm người ta cấp 3 quan tiền cho học trò đi thi, học trò nghèo mà đi thi thì làng chu cấp hết kinh phí đi thi - khi cấp tiền thì làng hy vọng vào sự đỗ đạt và sự hiển vang trong tương lai học trò được làng xã đầu tư như vậy (nó ăn sâu, bén rễ trong tâm thức của làng xã). Một số làng xã có quy chế rất cao với những người đỗ đạt: làng Tức Mặc ở Nam Định thì những tú tài đỗ đạt trong các kỳ thi thì được làng dành cho một sào đất - trong sở hữu ruộng đất của nông dân thì một sào là quá nhiều (đây là mức thưởng có giá trị về vật chất, tinh thần). Khi nho sĩ qua đời, một số làng thực hiện hình thức "tống táng", rước bài vị của họ vào trong văn chỉ của làng (văn chỉ là bài tế của các nho sĩ Nho giáo, đề cao việc học trong làng xã). Những nho sĩ đỗ đạt bao giờ cũng được làng trọng vọng.
Những người có chữ nghĩa thì họp thành một tầng lớp, một bộ phận trong làng mà người ta gọi là quan viên làng xã. Quan viên làng xã sẽ tham dự lễ xuân tế và thu tế ở văn chỉ. Quan viên làng xã này có mặt bất di bất dịch trong hầu hết mọi hoạt động của làng xã, các cuộc họp của làng xã; thâm chí họ còn có mặt trong các buổi tế lễ của làng xã. Những văn tế của làng xã trong các kỳ tế đều do bộ phận quan viên này đảm nhận. Nếu ở trong làng có cỗ bàn gì từ khao lão (mừng thọ) thì quan viên được mời đến dự là vô cùng hãnh diện, nếu mời càng nhiều quan viên đến dự thì gia chủ càng hạnh phúc gấp bội. Nhóm quan viên này rất danh giá ở trong làng. Nhưng nguyên tắc đầu tiên của làng xã cổ truyền là: anh là quan nhất phẩm mà về làng không khao làng thì làng thì cũng không bao giờ coi là chức sắc cả; dù ra ngoài anh có quyền cao chức trọng bao nhiêu nhưng khi về làng thì anh vẫn chỉ là một thành viên nhỏ bé, người ta chỉ công nhận tư cách của anh nếu như anh khao được làng. "Khao làng" có ý nghĩa rất lớn mà nói nôm na là anh phải làm lễ "trình làng" để người ta công nhận anh - quyền lực làng xã là như vậy (phép vua thua lệ làng)
- Lão hạng: "Lão" nghĩa là người có tuổi tác; có làng thì 49, 50 tuổi gọi là "lão". Để được coi là "lão" thì cũng phải trình làng, cũng phải mời được quan viên của làng đi ăn uống, mời được cả làng ăn uống thì làng mới công nhận. Tệ ăn uống, đánh chén trở thành một gánh nặng đè lên cuộc sống của nông dân Bắc Bộ. Người ta vì cái vị thế, tiếng tăm, sĩ diện của cá nhân mà người ta không thể không theo (không theo thì không được làng công nhận nên cứ phải vay mượn để trình làng khiến con người rơi vào luẩn quẩn như thế). Từ 60 tuổi trở lên được gọi là bô lão, được miễn trừ mọi khoản liên quan đến sưu dịch; quyền lợi của các bộ lão là quyền lợi của những người mua nhiêu, mua xã này nên già hơn nữa, đứng đầu các làng thường là các cụ. Các cụ lại theo cầu tuổi; tuổi càng cao thì người ta phân thành cụ nhất - cụ hai - cụ ba... Bốn người cao tuổi nhất trong làng thì gọi là tứ trụ, tứ trụ ra đến các công việc của làng thì rất được trọng vọng. Tóm lại trong lão hạng, tư tưởng "sống lâu lên lão làng" để khẳng định quyền lợi và vị thế của họ thông qua tuổi tác. Chúng ta biết rõ truyền thống trọng lão, trọng sĩ; vai trò của các bô lão, già làng trong đời sống chính trị - xã hội đã được lịch sử ghi lại (thời Hùng Vương thì đứng đầu các công xã nông thôn thuộc các khu vực trọng yếu luôn là người có vai trò quyết định, có tiếng nói; khi thiết chế nhà nước càng hoàn thiện thì vai trò của trưởng làng, già làng rất quan trọng. Các chính thể đầu tiên trước khi xây dựng nhà nước trung ương thời Lý - Trần là những chính thể rất "thân dân"; hội nghị Diên Hồng cho thấy vua Trần rất tôn trọng quyền tự do của làng xã. Nhưng đến thời Nguyễn, vai trò của các già làng mất dần). Luật pháp của các triều đại đều có ưu tiên cho người cao tuổi: luật Hồng Đức có những điều khoản chiếu cố người già (người từ 70 trở lên, trừ những người phạm tội "thập ác" thì các tội còn lại đều được chuộc tội; người từ 80 trở lên phạm trọng tội thì vua sẽ đích thân xét xử để ra án phạt, các tội trộm vặt hoặc cố ý gây thương tích thì cho chuộc, thậm chí là tha bổng. Người từ 90 trở lên thì nếu phạm tội đáng phải xử tử thì người ta cũng không thực thị án này). Vấn đề lão hạng và tuổi tác chỉ liên quan đến nam giới, nữ giới không được tính (nữ giới sau 50 tuổi không được miễn trừ sưu dịch, không được miễn tội hay chuộc tội, vẫn phải trình làng mới được công nhận). Về vấn đề miễn giảm binh dịch, sưu dịch thì mỗi một làng có một tục lệ khác nhau, có quy định về mức độ đóng góp, mức độ giảm nhẹ, quy định về tuổi tác (được công nhận hay không công nhận)
- Dân đinh: những thanh niên nam giới chưa đến tuổi lão hạng thì gọi là dân đinh. Có nhiều tài ghi khác nhau: từ 2 (17, 18, 19) cho đến 49, 50 tuổi đều phải ghi tên vào sổ vì đó là quy định, mỗi làng có một tục lệ khác nhau. Khi có đứa trẻ sinh thì người dân chọn ngày lành tháng tốt để ghi tên vào sổ của làng vì không tính đến mọi nghĩa vụ sau này dân đinh phải làm (nhận ruộng của làng) nhưng anh có tên trong sổ làng nghĩa là anh đã có một suất để chia ruộng, chia ruộng để làm tư liệu sản xuất. Dân đinh cũng có quyền lợi (có ruộng đất) xen lẫn trách nhiệm (đóng các khoản thuế với nhà nước). Trong dân đinh cũng chia thành nhiều hạng: tráng hạng (những nam giới sung sức), quân hạng (những nam giới có thể phục vụ cho quân đội bất cứ lúc nào để vào quân đội thường trực của triều đình - chính sách "ngụ binh ư nông"), dân hạng (hạng dân thường), cố hạng (những người dân đinh không có sản nghiệp và phải làm thuê), cùng hạng (những người rất nghèo).
- Trẻ em (hạng ti ấu) là những bé trai từ lúc lọt lòng đến 13 - 15 tuổi. Ngay từ khi sinh ra, bố mẹ chuẩn bị sẵn một cơi trầu và một chút rượu đến gia đình ông trưởng họ (trưởng giáp) để ghi tên con mình vào đó. Cùng tuổi và cùng tháng sinh, nếu gia đình nào có con mà ghi tên trước nhất thì họ sẽ có thứ bậc cao hơn; thứ bậc sẽ được quy định qua cách trình làng (vọng hư ẩm); việc ghi tên cho con trước - sau rất quan trọng
=> Sự phân biệt ngôi thứ này được quy định rất tỉ mỉ trong hương ước, vì nó liên quan đến cách bố trí sắp xếp chỗ ngồi trong tế lễ, ăn uống, họp bàn. Làng xã gọi các tục lệ này là hương ẩm (ăn uống ở hương thôn, ăn uống ở làng xã). Việc ăn trong quan niệm của làng xã quan trọng - "một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp" (anh có ăn bao nhiêu đi chăng nữa thì không oai bằng ăn một miếng ở giữa làng. Ăn một miếng ở giữa làng là ăn vì cái oai, cái sĩ diện, trọng vọng của làng xã đối với cá nhân. Ngồi trong đình ăn là một sự tự hào (dân đinh, dân gốc, dân chính cư mới có quyền lợi như vậy)). Cách chia thức ăn trong một kỳ hương ẩm luôn theo một thứ tự, mỗi thứ tự sẽ có cách chia khẩu phần khác nhau tuỳ từng làng. Tiêu chuẩn phần biếu, cách xưng hô phụ thuộc vào thứ bậc, kết cấu xã hội cũng như trật tự trong làng. Kết cấu xã hội làng xã Bắc Bộ bị ràng buộc bởi các quan hệ khác nữa: người dân sẵn sàng kiếm tiền để có thứ bậc cao hơn trong kết cấu xã hội; bỏ tiền mua nhiêu và mua xã trong lúc làng đang bán danh để họ có vị trí, có chỗ ngồi xứng đáng được kinh trọng trong làng xã. Ở làng Cao Xá (Thái Bình) thời vua Thành Thái có tục là khi một con bò được xẻ thịt ra thì họ quy định: "phần thủ" sẽ chia làm hai, một nửa sẽ biếu cho các chức sắc và nho sĩ, nửa còn lại sẽ biếu cho các cụ già trên 70 và những người đỗ đạt có chức vị cao. Cổ của con bò chia làm hai, một nửa thì biếu cho các cụ trên 60, phần còn lại biếu cho các chức dịch như xã trưởng, khoá lý và khán thủ. Phần vai bên trái của con bò được biếu cho những người hành lễ; vai bên phải thì biếu cho chức dịch. Hai cái láng mỡ được chia cho những người phục vụ buổi lễ, còn 4 cái chân được chia cho bốn người (người giữ hòm sắc ở đình/chùa (hòm sắc là nơi giữ các bản sắc phong của vua cho những vị thần được thờ ở đình/chùa), người nhạc sinh, người mãi biện, người chủ tế). Số thịt và số xôi chia rất phức tạp, phần thịt thì chia thành các mâm cỗ: một mâm cho các vị tiên chỉ, một mâm cho các cụ già, hai mâm chia cho quan viên (chức sắc, chức dịch, nho sĩ), ba mâm cho những người đứng đầu các giáp, các mâm còn lại cho các dân đinh; chỉ có món nướng và món luộc và xôi. Trong Việc làng của Ngô Tất Tố, ông khán thủ chia đầu con vật làm tám phần. Họ kề cựa nhau từng tí một (vd: cùng một đối tượng mà có người nhiều người ít nên có xung đột - các tật xấu trong làng xã liên quan đến ăn uống là như vậy)
Ngoài chia theo thứ bậc, người dân còn được chia thành dân chính cư và dân ngụ cư. Dân chính cư là dân gốc, người gắn bó với làng trong quá trình tạo lập các làng của người Việt cổ. Dân ngụ cư là những người do đói kém, mất mùa và thiên tai nên họ bị mất đi nơi ở của mình và họ phải ra đi; trên chặng đường thì họ sẽ dừng tại một nơi nào đó để sinh sống. Thế nhưng dân làng không dễ gì cho dân ngụ cư vào làng mình để ở vì mỗi làng bao giờ cũng có các hàng rào tự nhiên để bảo vệ và những dân ngụ cư phải ở ngoài luỹ tre. Những kỳ mà làng có việc như đình đám thì dân ngụ cư không được tham dự, con cái của dân ngụ cư không được ghi tên vào sổ đinh của làng nên họ không có nghĩa vụ gì với làng hết. Để được công nhận là dân chính cư, người ngụ cư phải có 3 đời liên tiếp sống ở làng này; đến đời thứ ba thì anh phải có sản nghiệp (nhà ngói cây mít) và đủ số tiền nhằm trình làng để được công nhận là dân của làng; khi ốm mất thì anh được làng hỗ trợ việc ma chay tống táng và được chôn trên đất của làng; khi làng có việc thì dân ngụ cư được làng hỗ trợ về việc làng, cưới xin, tang ma còn nếu không thì dân ngụ cư sẽ bị người làng xua đuổi, họ nhìn dân ngụ cư với ánh mắt khinh miệt
3.1.2. Tổ chức xã hội trong làng xã
3.1.2.1. Tổ chức theo dòng họ
Dòng họ ở làng Việt Nam không phải là một tập tục, một hiện tượng tự thân nó xuất hiện trong đời sống cộng đồng người Việt trong quá trình tồn tại phát triển; mà cái quan trọng là tư tưởng về duy trì mối quan hệ dòng họ cũng như việc tồn tại mối quan hệ này, công nhận mối quan hệ này trong xã hội người Việt cổ truyền. Chúng ta chịu ảnh hưởng bởi mối quan hệ tông tộc của Trung Quốc sâu đậm, đặc biệt nhất là khu vực Bắc Bộ; ở Trung Bộ thì quan hệ dòng tộc cũng rất chặt chẽ thậm chí người ta nhận thấy quan hệ dòng họ ở Trung Bộ nặng nề và khăng khít hơn so với Bắc Bộ, mặc dù tông tộc TQ ảnh hưởng mạnh đến Bắc Bộ nhiều nhất với chiều sâu, bề dày thời gian, ảnh hưởng đậm hơn nhiều vì triều đình đóng ở Bắc Bộ và Nho giáo bao trùm lên Bắc Bộ nhiều nhất; quan hệ dòng tộc ở Trung Bộ có phần lấn át hơn Bắc Bộ. Sang Nam Bộ thì quan hệ dòng tộc mờ nhạt hơn rất nhiều. Theo Phan Đại Doãn, có thể coi cộng đồng làng Việt trước hết là tập hợp của những dòng họ. Một làng sẽ có nhiều họ khác nhau. Làng Ninh Hiệp (ngoại thành Hà Nội) có đến gần 100 họ; sẽ có những làng thông thường từ 10 - 15 họ, thậm chí có làng có 1 họ (Trần xá, Đoàn xá, Lê xá...) nhưng có trường hợp là trong làng cùng 1 họ nhưng không có chung nguồn gốc. Có làng có 1 - 2 họ đóng vai trò chủ đạo cùng nhiều họ khác và những người thuộc các họ chủ đạo này làm chức dịch trong làng. Khảo sát một loạt các làng xã Bắc Bộ của Khoa Sử - DH Tổng hợp Hà Nội gần đây cho ra: trong bộ máy ở làng làng xã Việt Nam thì làng có bao nhiêu họ thì từng đấy họ sẽ có người tham gia chính quyền cấp xã (phân chia quyền lợi của các dòng họ trong làng rất đồng đều). Tổ chức theo dòng họ rất hiệu quả nên khi Pháp nắm việc quản lý làng xã thì chúng vận dụng ngay tổ chức cổ truyền này, chỉ thay hội đồng kỳ mục thành hội đồng tộc biểu (tộc biểu chính là đại diện của các dòng họ), cho đại diện của các dòng họ tham gia bộ máy chính quyền quản lý làng xã => chứng tỏ thực dân Pháp tìm hiểu rất kỹ bản chất của tổ chức làng xã người Việt, hiểu được sức mạnh của các dòng họ trong làng, mối quan hệ giữa các dòng họ trong làng.
Mỗi dòng họ trong làng sẽ có nhà thờ họ. Trong nhà thờ họ sẽ có dựng bia đá để ghi lịch sử dòng họ của mình, có gia phả để ghi gốc gác của dòng họ mình. Đi kèm với dòng họ sẽ có phần ruộng đất gọi là ruộng họ do những người trong dòng họ đóng góp tiền để mua. Trong dòng họ mà có gia đình có người làm thái giám trong triều đình, gia đình không có người nối dõi thì phần gia sản của họ sẽ thuộc về dòng họ; nên sản nghiệp của dòng họ rất lớn: ngoài các nhà thờ thì họ có nhiều ruộng họ - biểu hiện cho sức mạnh vật chất của mỗi một họ. Nếu như họ ấy khá giả và nhiều người đỗ đạt thì ruộng họ càng lớn, họ sử dụng những hoa lợi từ ruộng họ để chia cho dòng họ vào các kỳ tế lễ, khuyến học khuyến tài của dòng họ, chăm lo hiếu hỉ của dòng họ mình. Ruộng họ có từ lâu, gắn với sự tồn tại của các nhà thờ họ trong làng. Mỗi một dòng họ trong làng đều có những lệ riêng gọi là tộc lệ; trong tộc lệ quy định các ngày giỗ làng hằng năm, mối quan hệ trên - dưới với cách ứng xử, xưng hô. Hằng năm, mỗi dòng họ đều có những ngày họp họ (được tiến hành vào cuối năm), ngày giỗ ông tổ dòng họ để những người đỗ đạt tri ân với tổ tiên, người xa quê hội họp trở về. Trong thời hiện đại ngày nay, quan hệ dòng họ ngày càng trở nên khăng khít (họp họ, các hoạt động giải trí (họ Phạm ở Hưng Yên), cuộc thi thể thao giữa các nhánh dòng họ ở rải rác các địa phương lân cận.
Một vài nhà nghiên cứu cho rằng tổ chức dòng họ ở Việt Nam không nặng nề như ở Trung Quốc, Nhật Bản; người dân Việt vẫn trọng gia đình cá thể và gia đình nhỏ, lấy một vài thế hệ làm cơ sở. Theo GS Phan Đại Doãn, người Việt coi trọng gia đình hạt nhân, coi trọng cá thể nhưng họ cũng chú ý đến toàn thể họ hàng và trọng tình láng giềng cho nên có câu "Bán anh em xa, mua láng giềng gần"; "một giọt máu đào hơn ao nước lã" nên người Việt linh hoạt trong mối quan hệ dòng tộc, họ hàng.
Ngay từ thời xa xưa, các làng được bố trí theo dòng họ. Trong một làng có nhiều dòng họ, một số dòng họ sống co cụm với nhau. Tổ chức giáp là tổ chức làng xã đầu tiên theo dòng họ; nhiều dòng họ có những diễn ca kể về lịch sử dòng họ mình thay vì gia phả, có dòng họ có những quy định ngặt nghèo về hôn nhân, giao tế; thậm chí có những dòng họ có mối tư thù đến nỗi con cái không thể cưới nhau được. Như vậy quan hệ dòng họ không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân giữa gia đình này với gia đình khác, mà còn ảnh hưởng đến cả một cộng đồng rất lớn; người nắm quyền quản lý làng xã phải là người nắm được, chi phối được, có tiếng nói và uy tín của mình đối với các tộc trưởng dòng họ trong một làng xã. Có những làng gắn với tên tuổi của một dòng họ (họ Vũ ở làng Mộ Trạch tôn ông Vũ Hồn làm ông tổ, họ Hồ ở Nghệ An)
Tổ chức xã hội thứ hai mang tính chất địa vực là xóm. Các làng xóm ở châu thổ Bắc Bộ và Trung Bộ thì chia thành nhiều xóm, mỗi xóm chia thành nhiều ngõ. "Xóm" là tên gọi của một đơn vị cư dân của người nông dân trên cùng một địa vực, xét về quy mô thì xóm nhỏ hơn làng (một làng có nhiều xóm). Người Việt thì bên cạnh chọn tính huyết tộc, mối quan hệ họ hàng thì họ trọng tình làng nghĩa xóm; họ trọng tình làng nghĩa xóm vì cuộc sống con người vốn phụ thuộc vào thiên nhiên nên cần có sự hợp tác lẫn nhau chống thiên tai, địch hoạ. Tên xóm được đặt theo vị trí tự nhiên của xóm (xóm Trên, xóm Dưới, xóm Thượng...), gần đình gọi là Xóm Đình, gần chùa gọi là Xóm Chùa; gọi theo đặc điểm của cư dân như Xóm Thổ Hoà (chuyên làm gốm)
Tổ chức xã hội rất phổ biến trong các làng Việt là giáp. Giáp là tổ chức xã hội trong làng mà nó là liên kết tập hợp của các nam giới trong làng. Đặc điểm của giáp là chỉ có nam giới tham gia, mang tính cha truyền con nối. Trong một giáp thì người ta sẽ phân biệt theo lớp tuổi (lão hạng, tráng hạng, ti ấu); khi con trai sinh được đầy tháng thì tổ chức lễ đến nhà ông cai giáp (trưởng giáp) và ông này sẽ đích thân ghi tên đứa bé vào sổ đinh của làng ở hàng giáp. Người đứng đầu hàng giáp thì mối nơi có cách gọi khác nhau, có nơi gọi là lệnh trưởng (Hà Nam, Ninh Bình, Thái Bình, Nam Định), giáp trưởng; một số nơi ở trung du thì gọi khác, như ông cai lệnh. Người đứng đầu hàng giáp này là không cố định vĩnh viễn, mà có luân phiên nhau (vì người đứng đầu hàng giáp có trách nhiệm rất nặng: họ được nhận phần ruộng của giáp trong năm đó. Sau khi nhận ruộng, họ phải lo biếu một phần lợn cho giáp trong các việc làng, phân công công việc cho từng thành viên trong giáp trong các việc làng, đảm bảo số lượng dân đinh, thực hiện các công việc theo quyết định của làng. Để huy động nhân lực vào các công việc của làng, các trưởng giáp sẽ cắt cử thành viên tham gia và nếu giáp không làm tròn trách nhiệm thì trưởng giáp phải chịu trách nhiệm đầu tiên). Giáp là một tổ chức rất bình đẳng, nhưng nó rất nghiêm ngặt đòi hỏi sự đồng lòng nhất trí của các thành viên trong giáp; mỗi giáp sẽ quán xuyến mọi việc từ cưới xin đến tang ma (tang ma thì quy định lo gia đình người mất như thế nào, dựng lều, ăn uống, khiên thi thể người chết đi chôn như thế nào...). Trong một làng có rất nhiều giáp, số giáp không cố định và nó tuỳ thuộc vào quy mô, số dân làng, số dòng họ trong làng. Thông thường giáp có thể kết cấu theo dòng họ, nhiều dòng họ sẽ có nhiều giáp; có bao nhiêu xóm thì sẽ có bấy nhiêu giáp. Nguyên tắc của giáp và làng là đều trọng tuổi tác. Nếu dân trong khu vực trọng sức khoẻ thì cư dân nông nghiệp coi trọng kinh nghiệm; nên giáp là tố chức nhỏ trên một hoạt động kinh tế cơ bản là nông nghiệp - có câu "kính lão đắc thọ"; "kính già, già để tuổi cho". Trong nghiên cứu làng Việt, giáp là một tổ chức mang tính hai mặt: nó được tổ chức theo chiều dọc (theo lớp tuổi), theo chiều ngang (gồm những người cùng làng sinh sống). Tổ chức giáp này góp phần duy trì tôn ti trật tự xã hội và trọng tuổi tác (tuổi cao rất được trọng vọng); tiến thân trong môi trường giáp và rộng hơn là cả làng
Ngoài giáp ra thì có các phường hội. Tổ chức phường hội ở làng xã khác với tổ chức phường hội ở đô thị. Phường hội ở đô thị là nơi sinh sống của những người làm về thủ công nghiệp và thương nghiệp, cùng buôn bán hoặc cùng sản xuất một mặt hàng nào đó. Làng xã là nơi ở của dân chính cư và mỗi người dân sẽ có những nghề phụ bên cạnh nghề chính. Ở nông thôn Việt, ta bắt gặp rất nhiều phường nghề (phường gốm, phường sành sứ, phường chài lưới...). Khác với phương hội đô thị, phường hội ở làng xã thì những người làm trong làng thì bản chất là những nông dân với hoạt động chính là cày cấy; những nghề kia là nghề phụ làm trong lúc nông nhàn để có nguồn thu trang trải cuộc sống cá nhân của mình. Ở phường hội làng xã thì không có quy chế gì để bảo vệ nhau mà cùng giúp nhau phát triển vì phường này mang tính thời vụ thôi. Trong làng có các tổ chức hội như:
+ Hội Tư văn: Hội này liên kết những người có chữ nghĩa. Thành phần tham gia là quan viên, xã trưởng, ông nhiêu, ông xã, ông khán thủ, trương tuần... Làng nào có nhiều người đỗ đạt thì chỉ chọn những chức sắc đã về hưu, nho sĩ. Địa điểm sinh hoạt chung là văn chỉ (văn chỉ là kiến trúc thờ cúng lộ thiên; xây trên mặt phẳng có ban thờ lộ thiên để tế trời đất, Khổng tử, thánh hiền, tiên hiền, những người đỗ đạt). Hội Tư văn thường tổ chức tế ở đấy (tức văn chỉ) trong các kỳ xuân tế, thu tế, tết nguyên tiêu... Hoạt động của Hội Tư văn với mục đích chủ yếu để đoàn kết tầng lớp chức vụ + nho sĩ để bảo vệ danh giá, uy tín của họ; đề cao trật tự Nho giáo. Ở một số làng khá giả trọng việc học thì ngoài chọn tế lễ ở văn chỉ ra, họ còn có văn từ (tức là kiến trúc để thờ cúng, khác với văn chỉ là nó có mái. Người vào tế ở văn từ chủ yếu là quan viên (nho sĩ) để thờ Khổng tử. Kiểu kiến trúc Văn chỉ phổ biến ở các làng Việt vì các làng rất nghèo, Văn từ thì đòi hỏi đầu tư vật chất nhiều hơn nên không phổ biến.
+ Hội chư bà: địa điểm họp sẽ là nhà chùa. Người đàn bà không được bước chân vào đình, nếu bước vào sẽ bị phạt vạ vì theo Nho thì phụ nữ có vị trí thấp kém. Ở thế cân bằng trong làng xã, phụ nữ trung tuổi sẽ được bước chân vào chùa và họ liên kết vào nhau thành Hội chư bà. Các phụ nữ trong hội này sẽ phụ trách các việc trong làng xã như bếp núc, trang trí... và họ trau chuốt cho chùa làng và "làm công quả".
+ Hội võ phả: liên kết những người theo nghề võ
+ Hội Tổ tôm, chọi gà, cờ tướng, cá cảnh, chim cảnh, chậu cảnh: tập hợp những người chung sở thích thành một hội.
Sự liên kết theo sở thích và nghề nghiệp này mang tính dân chủ, không có quy chế ràng buộc ngặt nghèo. Những người tham gia những hội này sẽ thể hiện những trách nhiệm tương trợ lẫn nhau trong nghề nghiệp cũng như trong cuộc sống.
Kết cấu xã hội trong làng xã mang tính chồng chéo với nhau, vừa liên kết theo lứa tuổi, địa vực cư trú; lệ thuộc vào sự liên kết theo quan hệ huyết tộc. Làng Việt là sự chồng chéo các mối quan hệ như vậy nên con người làng gắn kết với nhau bởi nhiều lý do. Ngoài ra trong làng cũng có sự kết hôn khác họ - ngoài họ thì không thể liên kết theo họ huyết thống (trực hệ) thì theo mối quan hệ hôn nhân, gần gũi với nhau bởi mối quan hệ hàng xóm láng giềng, gần gũi với nhau bởi quan hệ phường hội.
3.2. Thiết chế quản lý làng xã
3.2.1. Lý luận về thiết chế quản lý làng xã
Thiết chế quản lý làng xã là một vấn đề rất nan giải của các thiết chế nhà nước trung ương vì làng xã là một đơn vị tụ cư, nhưng cũng là một đơn vị kinh tế, đơn vị văn hoá. Khi nước có giặc xâm lược thì mỗi làng trở thành những "pháo đài xanh" nuôi dưỡng các đội quân yêu nước, là nơi cư trú khi quân triều đình rút để bảo toàn lực lượng nhằm tiếp tế quân, lương. Bất kỳ một chính thể nào khi tạo dựng được quyền lực thường cố gắng khống chế bộ phận làng xã. Thiết chế quản lý làng xã có tính hai mặt" một mặt là thể hiện tính tự trị, mặc khác thể hiện quan hệ giữa làng với nước dựa trên mô hình chính trị - xã hội, gắn kết chặt chẽ với sự tồn tại của vương triều; một chính thể nhà nước muốn quản lý tốt phải giải quyết được mối quan hệ giữa nước với làng. Trong lịch sử, Khúc Hạo lần đầu tiên nắm quyền khống chế, quản lý làng xã - thể hiện rõ trong cải cách "khoan dung, giản dị" với các làng xã, ngay trong sự "giản dị" đó ẩn chứa mục đích của ông là muốn nắm lấy việc quản lý cơ sở dân cư cơ bản là làng xã làm rường cột cho nhà nước; đó là ông trao cho làng xã một quyền tự chủ trong việc thu thuế, phân chia ruộng đất => đây là cải cách thành công vì nó tôn trọng các tập tục cổ truyền của làng xã, phù hợp với cơ cấu của làng xã lúc đó là các công xã nông thôn có mầm mống của phương thức sản xuất phong kiến mà còn tàn dư của các công xã nông thôn cổ truyền (đặc trưng lớn nhất của công xã nông thôn là có các ruộng đất công). Khúc Hạo muốn biến sở hữu công làng xã thành sở hữu công của nhà nước. Nhà nước dù muốn trực tiếp sở hữu ruộng công làng xã nhưng buộc phải giao cho làng xã phân chia ruộng đất cho các thành viên của mình; thực chất chính quyền Khúc Hạo chưa đủ mạnh để can thiệp sâu hơn vào sở hữu ruộng công làng xã mà chỉ làm: phân chia lại các đơn vị hành chính, thuế khoá nhẹ nhàng (làng xã trực tiếp thu thuế). Nhà nước Lý - Trần mạnh hơn rất nhiều nên chính quyền mô phỏng bộ máy quản lý thời Đường - Tống để quản lý; thời Trần thì các làng xã trở thành các xã, người quản lý xã là quan lại triều đình với phẩm hàm Tiểu toát và Đại toát (Đại toát tương đường ngũ phẩm trở lại; Tiểu toát tương đương lục phẩm trở đi). Trong thời phong kiến, bộ máy quản lý xã thôn luôn bị chi phối bởi yếu tố chính trị; dù vậy làng vẫn có sự dung hoà với nhà nước, giữ được quyền tự trị của chính mình.
Thiết chế làng xã có cấu tạo khá đặc thù để thể hiện chức năng: cầu nối với các công đồng làng xã với nhà nước phong kiến, đại diện của cộng đồng nhân dân làng xã với nhà nước phong kiến, là một đơn vị thu thuế mà bất kỳ một nhà nước nào sẽ nắm lấy làng xã qua thiết chế làng xã. Có hai hình thức thiết chế quản lý làng xã Việt theo kết cấu: theo phẩm Tước (trao quyền điều hành làng xã cho những người được vua ban chức tước), trao cho những người lớn tuổi nhất trong làng theo nguyên tắc tuổi tác gọi là thiên Tước (tước Xỉ) là nguyên tắc lâu đời và chi phối lâu dài trong quản lý làng xã:
+ Theo nguyên tắc Tước (vương tước): hai nhân vật đứng ở vị trí cao nhất và danh giá nhất trong làng là Tiên chỉ và Thứ chỉ. Tiên chỉ là những người có quyền điểm chỉ đầu tiên (thời xưa người ta không biết viết nên thường điểm chỉ vào giấy tờ thay vì ký tên); điểm chỉ theo hình thức "lấy dấu vân tay" bằng ngón tay bôi mực, ấn vào giấy tờ. Theo nguyên tắc thì những người giữ hai vị trí trên là những người có chức vụ được vua ban cao nhất làng, tuổi cao nhất trong số những quan chức đã về hưu sinh sống ở làng. Tiếp đến là các bô lão và kỳ mục; Các bô lão và kì mục là các cụ già từ 60 tuổi trở lên, họ sẽ bàn bạc và ra các quyết định quan trọng về việc làng (lễ hội làng được tổ chức vào thời gian nào, địa điểm nào, công tác tế dựng như thế nào...), chủ tế, làm bao nhiêu mâm cỗ bàn, mời quan tỉnh/tổng/huyện về (mời người nào về cho đúng lễ ???), mời những ai ở các làng lân cận tham gia, ngân sách sửa đình/chùa... Kỳ mục thì ngoài các cụ trên 60 còn có các quan lại về hưu; những người này nếu muốn tham gia cai quản xã thôn thì đều phải trình làng (khao làng). Thành phần của kỳ mục thì ngoài bô lão, quan lại về hưu còn có những quân nhân mang hàm suất đội (tức tiểu đội trưởng). Tất cả mọi việc làng đều do các bô lão, kỳ mục này quyết định hết cả, Tiên chỉ và Thứ chỉ chỉ duyệt các quyết định đó thôi; nhưng có nhiều trường hợp các cụ quá già, đầu óc không minh mẫn và sợ trách nhiệm nên giao hết cho kỳ mục làm hết, cuối cùng các cụ làm cỗ bàn để coi như xong nhiệm vụ của mình. Thời Lê - Trịnh là cường hào lộng hành vì bộ phận Tiên chỉ - Thứ chỉ quá già chả làm gì được cả nên kỳ mục lộng hành là vì vậy. Sau các bô lão kỳ mục là Lý dịch đương thứ: Gồm Lý trưởng, phó lý, hương trưởng, khán thủ hay trương tuần, xã tuần. Trương tuần và xã tuần là bộ phận chuyên trách về mặt an ninh của làng. Cuối cùng là bộ phận Dịch mục: gồm những người coi việc giấy tờ trong làng, sổ sinh tử của làng, giúp việc cho Lý dịch đương thứ gồm: thầy từ, thầy thông giảng, thủ bộ hay thủ bản, lang cai... Thầy thông giảng là những người giải thích các chủ trương và chính sách, chỉ dụ của nhà nước; các quyết định của Hội đồng kỳ mục; thủ bộ hay thủ bản, lang cai là những người giữ văn bản, giấy tờ và sổ sách liên quan đến làng
+ Theo nguyên tắc Xỉ (thiên tước): cai quản theo nguyên tắc tuổi tác. Đầu tiên là Tiên chỉ và Thứ chỉ được chọn dựa trên tuổi tác. Bộ phận thứ hai sau Tiên chỉ - Thứ chỉ cùng quyết định việc làng là các Bô lão và Quan viên; bô lão là các cụ trên 60 và các quan viên là người có chức, người đỗ đạt, người từng tham gia chính quyền xã như chánh - phó lý. Số lượng của bộ phận này có thể giới hạn hoặc không tuỳ theo tục lệ của làng; có giới hạn theo số dân và uy tín của dòng họ trong làng. Tiếp theo là Lý dịch và Dịch mục: gồm lí trưởng và phó lí, khán thủ, trương tuần
Trong bộ máy này, hội đồng kỳ mục mang tính lập pháp đề ra chủ trương chính sách; lý dịch là hành pháp. Hội đồng kỳ mục này tồn tại đến trước 1945; từ 1921 - 1941 thì hội đồng kỳ mục này đổi tên thành "hội đồng tộc biểu", tức là chúng lấy đại diện các dòng họ trong làng tham gia để bàn bạc quyết định mọi việc trong làng. Sau khi triển khai, Pháp thấy hội đồng tộc biểu này không có thực tiễn gì cả và chủ yếu trong làng xã vẫn là hội đồng kỳ mục. Liên quan đến bộ máy làng xã sẽ là quan hệ giữa kỳ mục và lý dịch như thế nào, tệ cường hào như thế nào và quan hệ giữa nhà nước với làng xã ra sao ? Nhà nước giải quyết tốt quan hệ với làng xã để duy trì sự ổn định của xã hội, duy trì nguôn thu cho ngân sách nhà nước, vận dụng tiềm lực và tiềm năng của làng xã trong việc xây dựng và bảo vệ quốc gia.
3.2.2. Thiết chế quản lý làng xã trong lịch sử
Thời Văn Lang, quan hệ giữa nhà nước với làng xã khá lỏng lẻo trong phạm vi công xã nông thôn, duy trì được quyền tự do nhất định; yếu tố thuỷ lợi và ngoại xâm không phải là yếu tố thường trực của làng xã thời kỳ này nên công xã nông thôn thời Văn Lang vẫn bảo thủ và giữ được tính độc lập của mình. Từ sau thế kỉ X, họ Khúc mở đầu quá trình nhà nước tấn công vào sự độc lập của làng xã bằng định lại đơn vị hành chính, cắt đặt lại chức vụ của những người quản lý làng xã, đặt ra tiêu chuẩn để bầu chọn. Mặc dù tôn trọng quyền tự chủ của làng xã, nhưng nhân vật do làng bầu muốn được tự do hơn trong quản lý làng xã thì phải thông qua phê chuẩn của chính quyền ở cấp cao hơn. Nhà nước bằng nhiều cách khác nhau cố gắng can thiệp vào và đến thời Lê sơ, nhà nước can thiệp 100% vào đời sống của các xã thôn. Với chính sách "thân dân" rất đặc trưng thời Lý - Trần (theo tư tưởng Phật giáo) khác với triều Ngô - Tiền Lê đặc trưng đậm chất quân sự, nhà nước chủ trương nhân ái để cai trị dễ dàng. Thời Lê sơ thì khi Nho giáo được nâng lên thành hệ quy chiếu, chuẩn mực của nhà nước và xã hội nên người ta sẽ xác định rất kỹ bản thân người dân theo phẩm chất, khuôn phép Nho giáo; cũng trong thời Lê sơ, nhà nước bước đầu can thiệp dần vào quản lý làng xã thông qua quản lý ruộng công (dùng quân điền, lộc điền để đưa ruộng công làng xã trở thành ruộng công của nhà nước), cắt đặt quan lại quản lý làng xã. Mặc dù khẳng định quyền sở hữu tối cao về ruộng đất, nhưng nhà nước vẫn cho làng xã tự chia ruộng theo tục lệ; hoặc nhà nước cắt một số ruộng thưởng cho tướng lĩnh, quan lại có công (gọi là lộc điền) và chia cho 1 đời hay chia vĩnh viễn (theo phẩm chất, năng lực, cống hiến của quan lại với vua). Thời Thái tổ, ông chia lại các làng xã và lập sổ đinh để can thiệp vào số dân ở làng xã. Năm 1476, vua Lê cho phép các làng lập các khoán ước (còn gọi là hương ước, tộc ước, khoán lệ, điều lệ); về nguyên tắc thì hương ước quy định các chuẩn mực, phép tắc của dân làng; trên nguyên tắc chung thì nhà nước công nhận các quy tắc chung trên toàn quốc và yêu cầu các làng xã theo các hướng ước đó mà thi hành, nếu làng nào có tục lệ khác thì được lập ra các khoán ước, cấm lệ. Nhờ sự trợ giúp của nhứng người có học vấn, có tuổi tác, đức hạnh, làng xã lập hương ước trình lên quan trên xem xét (tuân theo quy định của nhà nước). Việc cho phép lập các hương ước thể hiện sự nhân nhượng có chủ đích của nhà nước với các làng xã, thể hiện sự dung hoà giữa luật quốc gia với các tập tục làng xã. Nhà nước một mặt công khai chấp nhận sự tồn tại của các tập tục làng xã, nhưng mặc khác đã pháp chế hoá trong khuôn khổ chung của nhà nước. Sự xuất hiện song hành giữa luật nhà nước với luật làng xã thể hiện sự bổ sung của luật làng vào luật nhà nước, vừa là công cụ để nhà nước khôn khéo trong việc duy trì trật tự kỉ cương làng xã, lồng ghép vào làng xã những tư tưởng của nhà nước. Thời Lê cũng có hình thức can thiệp vào làng xã rất khéo: sắc phong những vị thần của làng (thành hoàng làng) và các thần tích (lý lịch của các thần trong làng, do vua sai quan biên soạn); nhà vua căn cứ vào công đức, hành trạng của các thần mà phân thành Thượng đẳng thần, Hạ đẳng thần; công nhận sự tồn tại của vị thần bằng cách ban sắc phong. Các làng phải khai báo các vị thần được thờ phụng ở đền/chùa/đình cho triều đình, khai luôn lễ hội, ngày tổ chức hội... để triều đình ban sắc phong cho vị thành hoàng làng đó. Chính thần mói được thờ, còn Tà thần thì không được thờ. Hồ sơ về các vị thành hoàng làng sẽ do Bộ Lễ giữ, dịp sinh nhật của vua hay hoàng hậu thì các làng lập hồ sơ xin vua ban sắc phong. Với cách thức quản lý này, nhà nước không biến làng xã thành các đơn vị đối lập, không đánh mất đi quyền duy trì quản lý làng xã mà là cột chặt làng xã vào quyền quản lý của nhà nước.
Trong thời gian quản lý Đàng Ngoài rất ngắn ngủi, nhà Mạc không có nhiều biện pháp về tổ chức bộ máy ở làng xã và không có nhiều can thiệp đến quản lý đời sống của nhân dân làng xã. Trong chính sử ghi được một hoạt động của nhà Mạc ít nhiều ảnh hưởng đến làng xã là chính thức thừa nhận sự tồn tại của cấp tổng - là cấp trung gian giữa huyện với xã. Trung bình một tổng sẽ có một vài xã và tên tổng sẽ lấy tên xã có số dân đông nhất, có vai trò nổi trội nhất trong số các xã trong đó. Sự ra đời của tổng trong thời gian nhà Mạc trị vì là sự kiện nổi bật nhất trong mối quan hệ giữa nhà nước với làng xã.
Sau khi tập đoàn họ Lê quay trở lại Thăng Long khi vừa đánh đổ họ Mạc xong, vua Lê cố gắng trở về thời kỳ quản lý làng xã có từ thời Lê Thánh Tông. Các biện pháp và nội dung thực hiện thì không hề khác gì so với trước đó, thậm chí còn quyết liệt hơn rất nhiều. Thứ nhất, chính quyền Lê - Trịnh tập trung vào chức danh Xã trưởng: những trách nhiệm, quyền lợi cũng như việc bầu cử xã trưởng đã trở thành mỗi bận tâm của chính quyền trung ương. Năm 1658, chính quyền trung ương sai các châu huyện chọn đặt các Xã trưởng, Xã sử, Xã tư; tiêu chuẩn để bầu chọn là các nho sinh, các sinh đồ; chỉnh lý chức năng của Xã trưởng là chỉnh lý việc làm, khám hỏi, xét xử các vụ kiện tụng trong làng xã. Năm 1726, chính quyền đặt ra lệ: phép khảo công các Xã trưởng (xét thi đua); nếu Xã trưởng nào hoàn thành nhiệm vụ tốt (giữa xóm làng, nộp tô thuế đúng kỳ hạn, quản lý dân đinh tốt) thì nhà nước sẽ tính điểm; cứ ba năm một lần thì các xã định ra số lượng, tiêu chuẩn và tỉ lệ cụ thể để căn cứ vào đó xét công cho các Xã trưởng. Năm 1730, nhà nước từ bỏ quyền cắt đặt Xã trưởng và giao cho làng xã được bầu cử các Xã trưởng. Khi vua buông bỏ việc bầu chọn Xã trưởng sẽ dẫn đến mối quan hệ nhà nước với làng xã ngày càng rệu rã; sự lộng quyền của quan lại là một xu thế trong xã hội và tạo điều kiện cho các làng xã tăng cường quyền tự trị của mình - vai trò của Xã trưởng được mở rộng. Làng xã ở những năm của thế kỷ XVIII thì tính tự trị của làng xã trỗi dậy mạnh mẽ, làng duy trì cơ chế tự quản để không trở thành đối đầu với chính quyền trung ương. Thứ hai, để củng cố quyền lực của trung ương và tăng cường mạnh mẽ hơn quyền quản lý các làng xã, chính quyền Lê - Trịnh một lần nữa ban hành phép quân điền (được thực hiện trên cơ sở nhà nước quản lý rất sát sao ruộng công của làng xã) năm 1711, nhưng chính sách này không có một cơ sở, mất dần tính thực thi của nó do ruộng công không còn nhiều nữa và ruộng tư nổi trội lên thì đến năm 1722, chính quyền thừa nhận sự thất bại của phép quân điền. Cùng với sự suy yếu vai trò quyền lực của nhà nước với làng xã thì chính sách quân điền thực sự đã thất bại hoàn toàn và "phép vua thua lệ làng", lúc này bộ phận tự quản trong làng xã có vai trò ngày một lớn trong các xã thôn mà lĩnh vực nó chi phối nhiều nhất chính là phân phối mức ruộng đất (tình trạng "ẩn lậu" ruộng đất, cướp đoạt ruộng công ngày càng gia tăng. Ruộng tư ngày càng nhiều ở các địa phương và cường hào tư hữu ruộng đất bằng nhiều biện pháp khác nhau). Trong giai đoạn này, nông dân làng xã bị áp bức và đè nén do chính quyền trung ương ngày càng xa rời dân và điều này lý giải tại sao trong những năm đầu của thế kỷ XVIII thì các phong trào đấu tranh của nông dân diễn ra liên tiếp => sự lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ của chính quyền Lê - Trịnh trong việc khống chế và quản lý làng xã, sự trỗi dậy của cường hào địa chủ ở làng xã rất mạnh, đe doạ đến sự tồn vong của quốc gia
Ở Đàng Trong, tình hình có phần dễ chịu hơn do đặc điểm hình thành của làng xã ở đây khác với Đàng Ngoài. Bối cảnh ra dời và nhu cầu tồn tại của Đàng Trong khiến chính quyền chúa Nguyễn có những chính sách phù hợp khuyến khích kinh tế cá thể của tính cách tiểu nông được phát triển. Chính sách của chúa Nguyễn đẩy mạnh ruộng tư phát triển, đồng thời đẩy mạnh khai hoang lập ấp bằng cách trao cho làng xã rất nhiều quyền hành. Chính quyền chúa Nguyễn không tốn nhiều công sức quản lý làng xã như bên Đàng Ngoài nên làng xã được tự do phát triển, sự lệ thuộc cũng như mâu thuẫn với chính quyền trung ương rất ít. Làng xã Nam Bộ không đóng kín theo khuôn khổ làng truyền thống, nó có tính mở (mở trong quan hệ các làng xã, quan hệ làng xã với nhà nước, người dân ít bị trói buộc vào ruộng đất). Ở Đàng Trong thì ruộng công rất ít và mãi đến sau này chính quyền cho phép lưu dân khai hoang được quyền chiếm hữu ruộng đất đã khai hoang được và ruộng tư phát triển rất mạnh mẽ. Ở đây, quan hệ giữa nước - làng, xã dân - nhà nước là không chặt chẽ dẫn đến tính linh hoạt, dễ biến đổi; khi chính quyền suy yếu thì mâu thuẫn cũng phát sinh, làng xã trở thành căn cứ của các cuộc đấu tranh chống chính quyền
Trong thời Tây Sơn, sự phân quyền của ba anh em Tây Sơn đã làm quan hệ giữa chính quyền và làng xã không được liền mạch. Thời Quang Trung thì nhà nước có những chính sách quản lý nông dân và làng xã. Chính sách tập trung dân lưu tán và "Chiếu khuyến nông" đã làm cho diện mạo của làng xã ở Bắc Hà có sự biến chuyển nhất định. Chính quyền Tây Sơn chưa có chính sách gì nhiều để khẳng định quyền quản lý của nhà nước với các làng xã.
Vào đầu thời Nguyễn, Gia Long nhận ra vai trò rất lớn của làng xã trong sự tồn vong của quốc gia - "vì nước là tập hợp của các làng mà thành". Vừa lên ngôi, Gia Long thực hiện một chuyến vi hành ra các tỉnh miền Bắc; đi đến đâu ông cũng có cách nhìn nhận thấu đáo, đánh giá được tiềm năng và thế mạnh của từng địa phương. Với những địa phương có vị trí trọng yếu, Gia Long đều đầu tư thời gian và công sức của mình vào khu vực dó với hai lĩnh vực rất quan tâm là nông nghiệp và nông dân. Giống như thời Lê sơ, các vua đầu thời Nguyễn cũng tìm đủ mọi biện pháp để can thiệp sâu vào làng xã nhằm mục đích kiểm soát và chi phối làng xã. Khi biết xã hội Việt Nam không có những làn sóng thuận chiều thì ngay từ đầu vua Nguyễn thi hành biện pháp áp chế để ngăn ngừa các cuộc chống đối của nhân dân, các mâu thuẫn trong xã hội; chính vì vậy mâu thuẫn giữa làng xã với chính quyền không thể điều hoà và ngày càng gay gắt hơn; làng xã hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát của nhà nước. Ở giai đoạn đầu, Gia Long hướng đến xây dựng một quốc gia thống nhất và tập trung nên tăng cường quản lý chặt làng xã; nhưng vua luôn gặp rất nhiều khó khăn nên ông buộc phải duy trì những chính sách cũ. Ông duy trì được chức danh Xã trưởng, nhưng phẩm hàm của chức danh này bị giảm đáng kể (thời Trần thì chức danh Xã trưởng thuộc hàm ngũ - lục phẩm, tương đương với chức Tư nghiệp (hiệu trưởng), chức Thị lang mang trọng trách cao trong quản lý hành chính). Dấu án sâu sắc của Gia Long trong mối quân hệ giữa nhà nước với làng xã là ông tiến hành đo đạc ruộng đất rất quy mô trên khắp cả nước để lập sổ địa bạ. Cách làm địa bạ rất quy mô và vượt xa hơn bất cứ các triều đại nào ở giai đoạn trước, đặt cơ sở để các vị vua sau kế thừa và phát triển.
Vua kế tiếp là Minh mạng nỗ lực cải thiện mối quan hệ giữa nhà nước với làng xã bằng cách ban hành phép quân điền và cách quản lý xã thôn. Năm 1824, vua ra chỉ dụ yêu cầu các tổng, các xã, các thôn thống nhất đổi sang tên chữ Hán với lý do là tên Nôm mặt chữ không được nhãn (là một biện pháp để nhà nước có thể quản lý một cách thống nhất về mặt các đơn vị hành chính). Năm 1828, vua ra chỉ dụ mới: ở Bắc thành, cứ 50 người thì đặt một Lý trưởng, một phó lý; cứ 150 người trở lên đặt hai phó lý và dùng lực lượng dân đinh khống chế các phó lý nhằm giúp Minh Mạng vươn tay đến cấp cơ sở. Minh Mạng cũng tuyên bố không can thiệp vào việc bầu chọn các lý trưởng mà chỉ ban hành các điều kiện, tiêu chuẩn để bầu chọn lý trưởng. Lý trưởng thời Nguyễn vẫn giữ nguyên nhưng trách nhiệm nặng nề như các giai đoạn trước nhưng địa vị, quyền hạn bị thu hẹp rất nhiều. Việc lý trưởng bị thu hẹp quyền hành tạo cơ hội cho bọn cường hào thao túng xã thôn, chi phối lý trưởng này. Trách nhiệm của lý trưởng sẽ nặng nề hơn vì ông này phải trực tiếp giám sát và đo đạt ruộng đất, chịu trách nhiệm trước nhà nước về số lượng ruộng đất và số lượng dân đinh mà mình quản lý vì nó liên quan đến số lượng tô thuế phải nộp cho nhà nước: Nhà nước quản lý không phải theo số dân đinh mà theo số ruộng đất; có ba loại là nhất đẳng điền, nhị đẳng điền, tam đẳng điền; mỗi loại ruộng có một mức thuế khác nhau. Dân đinh sẽ được tính bằng thuế thân, tức là thuế về lao dịch và binh dịch; tô thuế liên quan đến quản lý trên cơ sở ruộng đất. Như vậy trách nhiệm của lý trưởng là đo đạc ruộng đất để làm sổ địa bạ theo mẫu của nhà nước (địa bạ có nhiều ở miền Trung và Bắc; miền Nam chủ yếu dùng địa bạ qua nghiên cứu của Nguyễn Đình Đầu). Từ thời Gia Long trở đi, việc đo đạc ruộng đất ở các làng xã đã trở thành một định lệ, người thi hành các nhiệm vụ đó chính là lý trưởng. Đến giữa thế kỷ 19, các làng xã tự đặt lý trưởng cho mình và bộ phận lý dịch trong xã thôn được chính các làng xã lựa chọn; tuy nhiên nếu không có phê chuẩn của nhà nước thì chức danh lý trưởng này coi như bất hợp pháp. Những công cuộc cải tổ của nhà Nguyễn ở các năm tiếp sau không thể diệt trừ được nạn cường hào của các làng xã và làm cho đội ngũ này có điều kiện phát triển nhanh hơn trước rất nhiều, quan hệ giữa làng xã với nhà nước ngày một căng thẳng hơn: có 405 cuộc khởi nghĩa thời Gia Long, Minh Mạng 234 cuộc; và nguyên nhân đến từ hai phía là các chủ trương của nhà Nguyễn, sự tác oai tác oái của bọn cường hào làng xã kết hợp với sự biến chất của lý trưởng.
Về vấn đề cường hào làng xã được bàn luận rất nhiều (sách của Phan Đại Doãn, Nguyễn Hồng Phong), nhưng ở thế kỷ 18 - 19 thì tính tự quản của làng xã được rõ ràng hơn bao giờ hết. Mặc dù nhà nước tăng cường chỉ đạo xuống đến tận các làng xã, nhưng sự can thiệp này không đậm nét và sâu sắc hơn so với các giai đoạn trước - đây là biện pháp thoả hiệp nửa vời, nhưng rất hiệu quả giữa nhà nước với làng xã trong thế chính quyền trung ương đang dần suy yếu. Khuynh hướng tự quản của làng xã thông qua bộ máy quản lý xã thôn là nhân tố góp phần duy trì tính bảo thủ, đóng kín của làng xã. Tính bảo thủ của làng xã trở thành một trở lực rất lớn của xã thôn Việt nam trên con đường chuyển mình phát triển mầm mống chủ nghĩa tư bản đã nảy sinh trong xã hội Việt Nam lúc đó. Sự khép kín, cục bộ địa phương, tính bảo thủ của làng xã là trở lực rất lớn trong việc thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển, quan hệ tiền tệ phát triển (hiện nay nó là trở lực rất lớn trong việc xây dựng nông thôn mới ở làng xã Việt). Tính chất của mối quan hệ nhà nước - làng xã là thực sự hoà đồng, nhân ái vào thời Lý - Trần; sự chi phối mạnh mẽ nhất của nhà nước đến làng xã có từ thời Lê sơ; sau thời Lê sơ là nhà nước bế tắc trong việc tìm ra cách thức quản lý làng xã và làm gia tăng các mâu thuẫn đối kháng giữa các giai tầng xã hội
Chương 4: Hoạt động kinh tế của làng xã
4.1. Nông nghiệp:
Khi nói đến các loại hình kinh tế làng xã thì chúng ta nói tới nhận định của GS Phan Đại Doãn: từ "đa nguyên" trong phân tầng kết cấu xã hội, tổ chức xã hội trong làng xã mà từ "đa nguyên" này còn nói đến cả về kinh tế nữa. Xã thôn Việt là tổng hoà của các loại hình kinh tế. Ngay trong lịch sử đã xuất hiện các loại hình kinh tế: trồng trọt, chăn nuôi, thủ công nghiệp... Đặc trưng nổi bật trong đời sống kinh tế làng xã là "không có sự tách biệt dứt khoát giữa trồng trọt, chăn nuôi, thương nghiệp như nhiều nước khác". Từ góc độ kinh tế, làng xã là nơi cư trú của những cư dân nông nghiệp nên không phải ngẫu nhiên nhiều nhà nghiên cứu nói "đều đưa một khái quát chung, đó là văn hiến Việt Nam được quy vào ba hằng số: nông dân, nông nghiệp, nông thôn". Lĩnh vực đầu tiên giành nhiều thời lượng nhất là nông nghiệp. Với đặc trưng chính của nước ta là nông nghiệp lúa nước, nó được hình thành và trở thành một nhân tố quyết định đến nhiều đặc trưng của lịch sử, văn hoá, tính cách của con người Việt nam vì nông nghiệp lúa nước giúp tạo mối quan hệ hữu cơ giữa con người với con người trong cộng đồng. Xuất phát từ nhu cầu cần hợp sức lại để trị thuỷ, vừa tưới tiêu để chống lũ và chống hạn để dẫn đến sự liên kết trong cư trú của con người, hình thành các xóm làng định cư. Đồng thời lúa nước cũng phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên nên từ lý do đó mà một trong những nguyên nhân sớm thúc đẩy kinh tế tiểu nông với cấu trúc gia đình nhỏ - vì khi nó phụ thuộc nhiều vào tự nhiên như vậy sẽ dẫn đến đời sống bấp bênh; đời sống bấp bênh như vậy thì không thể sống trong một cộng đồng đông được và việc tách thành các gia đình nhỏ, các nhóm nhỏ sẽ dễ tồn tại hơn, dễ kiểm sống hơn. Thế nhưng cấu trúc gia đình nhỏ cũng lại gắn kết với nhau trong một khối lớn hơn đó chính là làng và liên làng, từ đó làm con người chú trọng hơn vào tính tiểu nông, kinh tế hộ gia đình nhưng đồng thời lại gắn kết với nhau trong mối quan hệ hàng xóm - láng giềng, cùng cộng đồng - cộng cư cùng phát triển; đấy là nhân tố tạo nên một đặc điểm trong sự hình thành và phát triển của quốc gia xuất hiện sớm trong lịch sử Việt Nam. Nhà nước sơ khai ra đời khi sự phân hoá giàu nghèo chưa sâu sắc, nhưng nhờ yếu tố chống ngoại xâm và làm thuỷ lợi đã khiến con người phải liên kết với nhau; tạo điều kiện cần và đủ để dẫn đến sự hình thành của nhà nước sơ khai. Rõ ràng là trồng lúa nước quy định rất nhiều đến đặc điểm, đồng thời nó cũng là nhân tố tạo ra bước ngoặt trong lịch sử dân tộc. Một đặc điểm nữa khi nói về kinh tế nông nghiệp là nền kinh tế có tính chất mở rộng; không chỉ có tái sản xuất giản đơn mà còn sản xuất mở rộng về lượng. Theo nhận định của GS Phan Đại Doãn, sự mở rộng và tái sản xuất ở đây trên cơ sở lao động sống, chứ không phải lao động quá khứ; lao động sống ở đây chính là trên con người. Con người của chúng ta chính là lao động sống và được tái sản xuất; kinh tế TBCN có tái sản xuất mở rộng trên cơ sở máy móc (trên quá khứ). Đặc điểm kế tiếp là kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước gắn liền với đất đai, với sự màu mỡ cho đất cho nên xu hướng định cư của những xóm làng người Việt đầu tiên (kẻ, chạ, chiềng) của văn hoá Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Đông Sơn đều là những khu vực cao ráo, ven lưu vực các sông lớn. Sau này xu hướng thiên di của cộng đồng người Việt tiếp theo theo dòng sông về đồng bằng, duyên hải (từ vùng núi hạ thấp độ cao xuống đồng bằng, ven biển; kinh đô từ Phong Châu "rừng cọ đồi chè" chuyển xuống Cổ Loa, một nơi giữa trung du và đồng bằng - bản thân các đoạn thành Cổ Loa là sự chắp nối giữa các gò cao với nhau. Dần dần thì cư dân đã định cư ở đồng bằng châu thổ sông Hồng, với Hà Nội là trung tâm của đồng bằng châu thổ, trung tâm của nền sản xuất nông nghiệp rất sôi động. Như vậy, những đặc điểm trên của nông nghiệp Việt nam chi phối đến sự hình thành dân tộc, quốc gia; đặc điểm văn hoá, đặc điểm tính cách để tạo nên các truyền thống của người Việt.
Trong hoạt động kinh tế nông nghiệp thì ta quan tâm đến sản xuất nông nghiệp. Các di tích khảo cổ là minh chứng rõ nét chứng minh sự ra đời của nền nông nghiệp sơ khai là văn hoá Hoà Bình. Trong văn hoá Hoà Bình thì cư dân chủ yếu làm nông nghiệp sơ khai. Sang thời sơ kỳ đồng thau của văn hoá Phùng Nguyên với công cụ bằng đồng, sắt đã tạo một bước nhảy vọt rất lớn trong lao động sản xuất. Cùng với sự phát triển của công cụ sản xuất, nông nghiệp ngày càng có nhiều bước tiến và nó gồm nhiều ngành nghề (trồng lúa, hoa màu), nhưng trồng lúa chiếm vai trò chủ đạo. Các giống lúa thu hoạch được từ các di chỉ khảo cổ học cho thấy người Việt biết trồng lúa nước từ rất sớm. Từ gò đồi cao, con người tiến xuống dần vùng đồng bằng; trong giai đoạn Phùng Nguyên đến Đông Sơn thì đồng bằng Bắc Bộ đã được khai phá về mặt căn bản, các xóm làng xuất hiện rải rác. Cũng từ thời Phùng Nguyên - Đông Sơn, nông nghiệp từ dùng cuốc chuyển sang dùng cày (trống đồng Cổ Loa tìm ra hơn 200 lưỡi cày) - phù hợp với hiệu suất lao động và chất đất. Các dấu tích của các xóm làng cổ trong các hố khai quật gồm xương thú cho phép suy ra người Việt lúc biết sử dụng sức kéo của trâu bò trong nông nghiệp, lưỡi cày bằng kim loại - đây là cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, tạo ra bước tiến lớn về mặt kỹ thuật với chủ nhân là người Việt cổ. Dần dần xuất hiện những kinh tế nhỏ trong nông nghiệp mà người ta gọi là "kinh tế tiểu nông". Kinh tế tiểu nông, hay sản xuất nhỏ đã tồn tại lâu dài trong nông thôn và làng xã Việt; sau này kinh tế tiểu nông tiếp tục phát triển trong khuôn khổ của chế độ phong kiến rất chậm chạp, không đồng đều. Kinh tế tiểu nông tồn tại dai dẳng và nó có những bước tiến phát triển, sự mở rộng nhưng nhìn chung kinh tế tiểu nông này vẫn trở thành một đặc trưng của sản xuất, nông dân trong làng xã. Khi nông nghiệp phát triển từ thế kỷ X trở đi đã tạo thành một bức tranh hoàn hảo, người dân quan sát chu kỳ vận động của thời tiết, các hành tinh để canh tác ruộng, ruộng ở miền Bắc chia thành 2 vụ: vụ mùa (lúa đang trồng với thời tiết thuận hoà), vụ chiêm (trồng những cây lúa có sức chịu hạn cao). Lúa Chiêm được du nhập từ nước Chiêm thành (trồng được ở những nơi không có điều kiện về mùa mưa). Vụ mùa thì tháng 4 đến tháng 9 (là tháng cuối cùng để thu hoạch); Vụ chiêm từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Có nhiều khoảnh ruộng trồng được 2 vụ, có những khoảnh ruộng trồng được một vụ. Theo nghiên cứu của Gourou, đất trồng lúa ở Bắc Bộ là hơn 1,1 triệu ha, trong đó ruộng vụ chiêm chiếm 20%, ruộng vụ mùa (chính vụ) chiếm hơn 30%, ruộng hai vụ xấp xỉ hơn 50%. Năng suất trung bình của nông dân Bắc Bộ (theo Gourou) là 1.400 kg thóc/ha, bình quân mỗi người làm được 338 kg thóc/năm. Để chi phí cho sản xuất nông nghiệp thì mỗi nông dân phải có chi phí rất lớn: nếu nông dân không có ruộng thì anh ta phải làm tá điền, điều kiện anh ta nộp địa tô thì tuỳ từng vùng (ở Bắc Ninh, người lĩnh canh phải trả 15 đồng, Thái Nguyên thì tá điền phải trả bình quân 100kg thóc/mẫu ở một vụ lúa). Với công sức bỏ ra như vậy mà muốn có cuộc sống đầy đủ, mỗi tá điền phải canh tác ít nhất 5 mẫu, một con trâu và vốn luân lưu vì nông dân thời phong kiến để canh tác thì anh phải thuê ruộng, có chi phí thuê trâu bò; nếu anh ta không có vốn luân lưu thì anh chỉ là người làm thuê mà thôi; làm nông phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết, nông dân vất vả sớm hôm; dường như sản xuất nông nghiệp tạo ra việc làm cho đủ mọi lứa tuổi.
Trong suốt thời phong kiến từ thời họ Khúc cầm quyền đến hết thời Lê sơ đếu khuyến khích phát triển nông nghiệp với nhiều hình thức khác nhau: chiếu khuyến nông, chính sách khai hoang lập đồn điền, tập hợp dân lưu tán về quê làm ăn, chính sách ngụ binh ư nông (đảm bảo quân đội thường trực, đảm bảo lực lượng sản xuất trong nông nghiệp), tổ chức lễ tế thần nông và thần đất, cày ruộng tịch điền (thời Tiền Lê); nhà vua đích thân cầu đảo mong mưa thuận gió hoà. Bản thân triều đình bắt các quan chức làng xã, lý trưởng phải báo cáo tình hình làng xã mất mùa, đói kém để xá thuế cho dân; đào kênh mương, đắp đê... để bảo trợ cho nông nghiệp. Trong quan điểm của các triều đại phong kiến, nghề nông là nghề gốc, nghề chính đáng và thu nhập ổn định hơn so với các nghề khác; buôn bán là nghề đáng khinh và bị chèn ép phát triển. Trong nông nghiệp, sự cải biên về phương tiện trồng trọt thì chẳng có bước tiến gì đáng kể; hơn nữa sự coi trọng kinh nghiệm và coi thường các sáng chế kỹ thuật nông nghiệp - xử lý rất linh hoạt, nhưng cải tiến về công nghệ thì không. Việc mất mùa và đói kém đều quy về một nguyên do là Ý trời, phụ thuộc vào tài trị vì và đức độ của vua - mất mùa thường do thiên tai, do những kẻ nịnh hót trong triều đình, quan niệm nhận thức là "âm khí trong cung vua quá nặng" (vua kiểm điểm bản thân mình để thể hiện thiện chí của người đứng đầu đất nước) - thể hiện cầu thị, sự quan tâm, nhân ái của vua với nông nghiệp. Từ lâu đời, người Việt có truyền thống "thâm canh, tăng vụ", khai thác triệt để nguồn lợi của đất, của nước để có hoa lợi nuôi sống bản thân. Nhưng chính vì người Việt không quan tâm đến cải biên kỹ thuật canh tác khiến năng suất lao động thấp; phụ thuộc vào thiên nhiên cho nên thu hoạch rất bấp bênh.
Bên cạnh đó, người Việt sớm biết đến các loại cây hoa màu khác nhau và có nghề trồng hoa màu. Cây hoa màu giúp bổ sung thêm nguồn thức ăn nuôi sống bản thân con người và cả gia súc. Trồng hoa màu chiếm từ 13 - 15% diện tích trồng trọt, là một giải pháp cứu cánh cho người nông dân giải thoát khỏi các nạn đói (thóc lúa ăn gần hết, mà vụ lúa mới chưa có. Để chống đói, chúng ta dùng thêm hoa màu). Ngay từ sớm, bà con nông dân trồng rất nhiều cây họ đậu, đỗ và các giống cây trồng khác (một phần có nguồn gốc từ bản địa, một phần có nguồn gốc từ nước ngoài qua con đường thương nhân, sứ thần (nhiều nghề thủ công, nhiều giống cây mới đã xuất hiện). Ở vùng đất ven sông, nông dân làng chọn cây ngô, khoai, dâu làm cây trồng chính. Nghề làm vườn xuất hiện từ thời văn hoá Hoà Bình; các giống cây trồng trong vườn hâu như địa phương nào cũng giống nhau; chỉ khác biệt ở khu vực Nam Trung Bộ trở vào nam; trở ra thì các loại cây đều giống nhau hết, kể cả cây gia vị.
Bên cạnh việc canh tác nông nghiệp ở những cánh đồng xa, bộ phận gắn bó hữu cơ với nguồn sinh sống của người Việt cổ là vườn, chuồng trại. Ở những vùng mà đất canh tác ít thì nông dân coi vị trí số một là ao vườn, thứ hai là ruộng cho nên có thành ngữ cổ truyền: "thứ nhất canh trì, thứ nhì canh viên, thứ ba canh điền" (ao - vườn - ruộng). Do mật độ dân cư rất cao, người Việt tận dụng những vùng đất có thể canh tác được để phục vụ cho việc ăn uống và nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của con người. Ao được tận dụng làm nơi trữ nước, thả cá và bèo vào (đồng bằng Bắc Bộ thì ao được làng xã tận dụng triệt để vào mùa mưa - do gần sông lớn). Họ biết thuần hoá các con vật thành vật nuôi từ rất sớm để phục vụ cho bữa ăn, nhu cầu về sức kéo nông nghiệp. Nhu cầu ăn thịt bị đẩy xuống hàng thứ yếu do thói quen ăn thịt chỉ tập trung vào các dịp lễ hội. Theo GS Trần Quốc Vượng, cơ cấu bữa ăn theo tháp dinh dưỡng chỉ có: lúa gạo (phần đáy tam giác), tiếp đến là rau, cá và cuối cùng là thịt (thịt thường dùng trong các dịp tế lễ). Trải qua thời gian, nông dân tích luỹ được nhiều kinh nghiệm sản xuất: nhìn qua hiện tượng tự nhiên (gió, mưa) đoán ra vụ lúa, điều chỉnh trong sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, cư dân bằng quan sát đã có cách tính con nước, dự đoán mùa màng, thâm canh tăng vụ, diệt sâu bọ, kỹ thuật làm đất. Khi chưa có thuốc trừ sâu, người Việt đã biết dùng các con vật (khắc chế) sâu bệnh gọi là "dĩ chủ diệt trùng" (dùng côn trùng có ích diệt các côn trùng có hại). Từ xưa người Việt có cách làm đất "đao canh hoả trủng", "đao canh thuỷ nậu" tức là phát cây hết, đưa nước vào làm ấm đất và trồng cây. Kỹ thuật làm đất, canh tác và chăn nuôi được đút rút qua hàng loạt câu tục ngữ dân gian: "muốn ăn lúa tháng năm thì trông trăng rằm tháng tám...". "Chuồn gà hướng đông thì cái lông chẳng còn". Thời tiết một ngày mà đoán ra thời tiết cả năm "đầu năm sương muối thì cuối năm gió bấc"; có những con vật thì nhìn độ cao thì đoán ra thời tiết nắng hay mưa, dự đoán cây trồng, dự đoán mùa màng "đom đóm bay ra thì trồng cà cho đỗ; được mùa lúa thì úa mùa cau - được mùa cau thì đau mùa lúa - được mùa nhãn thì hạ nước lên". Từ thời Đông Sơn, kỹ thuật trồng lúa nước được tích luỹ nhiều kinh nghiệm. Cùng với giao lưu văn hoá Hán thời Bắc thuộc, kỹ thuật nông và thủ công của người Việt có bước tiến mạnh khi tiếp thu kinh nghiệm của Hán: người Việt học người Hán cách dùng phân bón trồng cây làm tăng độ màu mỡ cho đất. Người Việt từ xưa đã có hai phương thức canh tác: canh tác ruộng khô và canh tác ruộng cạn, canh tác lúa nước và canh tác lúa nương. Hai loại ruộng trên đòi hỏi phải có nhiều giống lúa khác nhau để cho nó phù hợp. Theo ghi chép của Vân đài loại ngữ, người Việt thuần dưỡng và lai tạo ra nhiều giống lúa khác nhau, kể cả giống lúa nếp và lúa tẻ; có hàng chục giống lúa nếp và gần 100 giống lúa tẻ. Có những loại có thể cấy trong 60 ngày, có loại đến 80 ngày mới thu hoạch; có loại phù hợp với chân ruộng sâu hoặc ruộng bùn; có loại lấy giống từ Chiêm thành phù hợp với chân ruộng cao không cần nhiều nước. Giống lúa nếp rất phổ biến (Bánh chưng bánh giày) và cư dân Việt cổ ăn lúa nếp nhiều hơn lúa tẻ, đó là đặc trưng của văn hoá ẩm thực Đông Nam Á. Để phù hợp hơn với điều kiện sinh hoạt, lúa tẻ dần chiếm vị trí chủ đạo trong cơ cấu bữa ăn củ người Việt cổ. Cư dân Việt du nhập cây mía từ Ấn Độ, cách làm đường mía và đường phèn được du nhập vào thời Tống; cây thuốc lá được du nhập từ Lào vào nước ta hồi năm 1660; cây ngô được một sứ thần của nước ta du nhập vào hồi thế kỷ XVIII.
Về kỹ thuật tưới nước và làm thuỷ lợi của người Việt: thời Cổ Loa đã tìm thấy dấu tích của những đoạn đê ngắn dùng được 1 khoảnh ruộng thôi. Bắt đầu từ thời Lý - Trần, công cuộc đắp đê được triều đình làm thường xuyên và thường niên dưới sự giám sát của viên quan Hà đê sứ. Vào thời Trần, đắp đê được tiến hành rất quy mô từ đầu nguồn đến cửa bể. Thời Lê sơ xuất hiện một dạng đê mới của các làng Việt cổ truyền ở ven biển đó là đê ngăn nước mặn (đê Hồng Đức) làm gia tăng diện tích trồng trọt và đẩy mạnh khẩn hoang ven cửa sông, ven biển. Thời Nguyễn có thêm bước tiến mới về đê điều là đào thêm kênh và sông, quan tâm nông nghiệp và đê điều (xem thêm Đại Nam thực lục); xã hội hoá việc đào kênh sông cũng được vua Nguyễn rất khuyến khích (cho nhà giàu chiêu mộ dân khai hoang, khơi sông; khơi cửa sông để tránh tình trạng phù sa bồi lấp). Những năm nhà nước khó khăn về kinh phí thì hào phú đều cùng triều đình tiếp tục công cuộc khai hoang này. Việc cấp báo lên để triều đình có trợ cấp cho dân nghèo như miễn thuế với những năm mất mùa, đói kém; tuy nhiên hiệu quả của các chính sách nông nghiệp với làng xã thì không ảnh hưởng được bao nhiêu cả vì sự yếu kém của bộ máy chức quyền cấp xã, sự lũng đoạn của cường hào địa phương nên dân làng không tiếp cận được các chính sách tích cực của nhà nước, cũng như nhận được gói cứu trợ của triều đình. Rõ ràng là, khoảng cách ngày càng lớn giữa dân làng với nhà nước do trung ương bất lực, năng lực còn hạn chế của các quan chức trung gian thừa hành lệnh của chính quyền trung ương đến địa phương. Nạn cường hào từ thời Lê - Trịnh phát triển rất mạnh vào thời Nguyễn. Khi nghiên cứu thì triều đình Nguyễn không bảo thủ như nhiều nhà sử học trước đó đã nêu, có nhiệt tình công tâm và sát sao, tuy nhiên năng lực của đội thừa hành lại là câu chuyện khác làm hạn chế rất nhiều những nỗ lực, chủ trương tích cực của nhà nước với làng xã. Bên cạnh đó, việc chế tạo máy chạy bằng sức nước hoặc hơi nước là một cải tiến lớn về thuỷ lợi. Việc đóng các guồng nước năm 1794 để tưới ruộng ở Quảng Ngãi (bờ xe nước); kỹ thuật "bờ xe nước" thời Tây Sơn ở Trung Bộ, giả thuyết là người Chăm đóng guồng nước này.
4.2. Quan hệ sở hữu ruộng đất làng xã
Theo GS Từ Chi, mỗi làng Việt có ba thông số cơ bản: chế độ ruộng tư và sự tồn tại của công điền công thổ, sự phân hoá giai cấp và phân tầng xã hội, một xã hội tiểu nông. Thông số thứ nhất rõ ràng đề cập về vấn đề ruộng đất với 3 bộ phận: ruộng tư, công điền, công thổ; ở thống số thứ hai là phân hoá xã hội cũng dựa vào chế độ ruộng đất; ở thông số thứ ba thì tiểu nông là sản xuất nhỏ, sản xuất nhỏ trên ruộng đất của nông dân. Suy cho cùng, vấn đề ruộng đất chi phối mọi mặt trong đời sống nông dân làng xã. Có nhiều hình thức sở hữu ruộng đất khác nhau cùng tồn tại trong xã thôn: chế độ ruộng công làng xã tồn tại đến tận thế kỷ 20 ở làng xã bắc bộ.
4.2.1. Chế độ ruộng công làng xã là chế độ đồng sở hữu ruộng đất. Ruộng đất danh nghĩa là của nhà nước nhưng đồng thời là của cộng đồng làng xã; phân thành nhiều loại như ruộng đình, ruộng chùa, ruộng học điền, ruộng đinh điền, tha ma bộ địa, ruộng họ... Nói đến ruộng công là nói đến quyền chiếm hữu của tập thể, một trong hai chủ sở hữu: hoặc là làng xã, hoặc là nhà nước. Với làng xã thì đều là ruộng công, sở hữu là trực tiếp. Một đặc điểm của làng xã là nó chứa cả ruộng công của nhà nước và cả ruộng công của làng xã. Ruộng công nhà nước có nhiều tên gọi: công điền, quan điền, quốc khố điền với chủ sở hữu lớn nhất là nhà vua. Từ thời Lý thì ruộng công nhà nước có các dạng: tịch điền, sơn lăng, đồn điền, quốc khố.
Ruộng tịch điền là ruộng nghi lễ (thời Tiền Lê ở Đọi Sơn, thời Lý ở hành cung Lý Nhân - Hà Nam, thời Trần thì vua cũng cày ruộng tịch điền).
Ruộng sơn lăng nằm quanh lăng mộ của các triều đại phong kiến; thời Lý có ruộng ở Đình Bảng (Bắc Ninh); ở thời Trần ở ba nơi là Hưng Hà, Tức Mặc và Đông Triều; thời Lê và Nguyễn thì nằm quanh Thanh Hoá. Diện tích ruộng sơn lăng lớn hơn một làng xã nói chung, lớn hơn so với sở hữu của một cá nhân nói chung; so với cả nước thì diện tích ruộng sơn lăng chiếm một vị trí không đáng kể, phần hoa lợi của sơn lăng chỉ dùng vào việc tế lễ và chăm lo các tá điền chăm sóc sơn lăng, chứ không nộp cho nhà nước. Ruộng tịch điền và sơn lăng mang tính chất nghi lễ và không có giá trị về kinh tế.
Phần ruộng công có giá trị kinh tế nhất là loại ruộng quốc khố và ruộng đồn điền; ruộng đồn điền được khai hoang bởi các tù binh và quân đội; ruộng quốc khố do các "công nhân nông nghiệp" (tức nông dân làm việc cho nhà nước) và các tội phạm, nó nằm ven kinh thành.
Một bộ phận mà gọi là "ruộng công" hay "ruộng quan" của nhà nước là một bộ phận quan trọng của ruộng đất nhà nước, diện tích khá lớn vào thời Trần và thời Lê để vua ban thưởng cho quan lại cao cấp, công thần hoặc con vua; có hai dạng là cấp vĩnh viễn (con cháu được kế thừa và người được cấp có nhiều quyền: mua bán, cho tặng) và cấp một đời theo chức vụ (được sử dụng và không sở hữu). Cách phong cấp ruộng đất này có ảnh hưởng đến sở hữu ruộng nói chung của nhà nước, ảnh hưởng đến nguồn thu; nhưng vua cũng duy trì cách phong cấp này để ràng buộc trách nhiệm với công việc họ đang thực thi, củng như ràng buộc sự trung thành của họ với triều đình; vô hình chung chế độ ban cấp ruộng vĩnh viễn đã tạo điều kiện cho sự hình thành tư hữu ruộng đất.
Với bộ phận Ruộng công làng xã thuộc quản lý của nhà nước (còn gọi là "ruộng phân cấp" hay "ruộng khẩu phần") tồn tại dai dẳng, ruộng công khẩu phần thuộc một bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu tập thể của công xã nông thôn ngay từ thời nguyên thuỷ. Trước đây toàn bộ đầm lầy, rừng rú, ao hồ thuộc sở hữu chung của toàn bộ cư dân nên người ta gọi là "công điền" hay "công thổ"; đơn vị sản xuất chủ yếu trong các công xã này là các "gia đình hạt nhân" (gia đình có 3 - 4 thế hệ hoặc hơn). Người Việt có "tứ đại đồng đường" hay "tam đại đồng đường" đó vẫn gọi là dạng thức của gia đình hạt nhân. Ruộng đất trong công xã nông thôn có thể được chia 1 lần, hoặc được chia theo mốc thời gian đã định trước (3 năm/lần, 6 năm/lần, chia vĩnh viễn) tuỳ thuộc vào tập tục của làng xã. Sau khi nhà Lê sơ và Nguyễn can thiệp mạnh vào làng xã, chính quyền ban hành chính sách "quân điền" theo tiêu chuẩn và cấp bậc chức vụ phong kiến; theo chế độ này thì những quan lại tứ - ngũ phẩm, cô nhi, quả phụ được nhận ruộng "quân điền" theo tỉ lệ nhiều - ít khác nhau tuỳ theo quỹ đất của làng xã; 1711 - 1722 chúa Trịnh áp dụng lại chính sách này nhưng không duy trì được bao lâu; thời Nguyễn cũng áp dụng lại chính sách này.
Nhìn chung, ruộng công làng xã là một bộ phận rất mong manh, diện tích của nó bị giảm sút theo thời gian vì sự bồi lở của con sông, nhà nước lấy một phần để ban thưởng cho quan lại có công (hình thức mà vua chia cho quan lại là sự can thiệp sâu của nhà nước vào làng xã - nhìn nó như "ruộng phụ cấp" trả cho quan lại, quân lính. Đối với chính sách quân điền của nhà nước, làng xã có những thái độ khác nhau: với làng có quỹ đất dồi dào, hoạt động được dân chúng đồng thuận, nguyên tắc bình đẳng dân chủ trong làng xã được duy trì thì dân làng cảm thấy được thoả mãn; với làng có quỹ đất ít mà dân số đông thì đã trở thành đề tài muôn thuở. Gourou khi nghiên cứu cách thức chia ruộng "quân điền" ở vùng ven thì ông nói: "có hai vấn đề cần làm rõ trong mỗi kỳ chia ruộng là: đối tượng được chia, thời hạn chia và định mức được chia"; thì phần lớn các làng đều chia cho dân đinh và ít chia cho người già, số ruộng đất chia cho người già chiếm tỉ lệ rất ít. Một số làng chia hết ruộng cho con trai, kể cả người chết chưa hết tang (thường để tang từ 24 - 27 tháng), có sự ưu đãi với binh lính và tuần đinh (người giữ trật tự làng xã).
Trong làng còn có một số loại ruộng khác như: ruộng biếu, ruộng phụ cấp là hai loại ruộng được cấp ưu đãi với những người có đủ tiêu chuẩn của triều đình - việc trích ruộng như thế này thể hiện trọng chức tước và trọng tuổi tác. Ruộng biếu phù hợp với các làng ven biển, ven sông có quỹ đất dồi dào vào cuối Lê - đầu Nguyễn. Ruộng phụ cấp rất nhiều, chỉ phụ cấp cho lý trưởng, thư ký gọi là "bút chỉ điền", phụ cấp cho chánh - phó tổng, tiên chỉ - thứ chỉ gọi chung là "hương chỉ điền", phụ cấp thêm cho cô nhi - quả phụ tuỳ theo tập tục làng xã - mang tính chất động viên, khuyến khích.
Làng xã thì ngoài ruộng phân cấp còn có bộ phận giành riêng cho việc điều chỉnh một số khẩu phần đặc biệt là hiện thân của sự bất bình đẳng, cũng là cách làng xã thể hiện quyền lực của mình với đất đai (nó có ưu đãi thành viên theo cách riêng, có kết hợp tiêu chuẩn cấp bậc với tiêu chuẩn truyền thống: có người đỗ đạt thì làng sẽ chia vĩnh viễn phần ruộng cho người đó - gọi là "ruộng biếu" với những người trọng vọng như vậy). Thậm chí các tổ chức trong làng cũng có các bộ phận ruộng công như ruộng hàng giáp, ruộng hàng thôn; có nhiều dạng ruộng thuộc hàng ruộng công tuỳ thuộc vào phân phối, điều chỉnh của làng xã, nó thể hiện quyền lực của làng (lý trưởng, phó lý) rất lớn bởi vì có những vấn đề liên quan đến chất lượng đất đai để chia (nhất đẳng, nhị đẳng, tam đẳng) theo thứ bậc, sự ưu đãi và truyền thống của làng xã. Lý trưởng sẽ chia ruộng đất theo sự nhất trí của hội đồng kỳ mục.
Ruộng đồn điền là một cơ sở kinh tế; trước đây nó thuộc về sở hữu cũa nhà nước, khi đồn điền giải thể thì phần ruộng đồn điền thuộc về làng xã và nhà nước quản lý một cách gián tiếp. Ruộng đồn điền có diện tích khá lớn. Ruộng đồn điền xuất hiện chủ yếu vào thời Lê - Trịnh với hai chức năng: chức năng kinh tế, chức năng quốc phòng. Sau này, các đồn điền chuyển hoá thành các làng xã
Ruộng công làng xã gồm hai bộ phận: ruộng đất thuộc sở hữu của nhà nước với làng xã quản lý trực tiếp, ruộng của làng xã (ruộng công bản). Các loại ruộng này diễn ra đồng thời với tư hữu hoá ruộng đất, công hữu hoá ruộng đất tại các vùng nông thôn. Quá trình công hữu hoá này diễn ra dưới hình thức: gia đình không có kế tự thì họ giao hết ruộng đất cho làng. Quá trình công hữu hoá diễn ra mạnh vào thế kỷ XVIII - XIX, ruộng công thì làng xã chi dùng rất nhiều việc: chia cho người già, người đỗ đạt thành danh (bút chỉ điền), "ruộng phụ cấp" cho lý dịch và phó lý trong làng xã. Có những làng thì ruộng công bản không chia cho ai cả mà cho "phát canh thu tô", cấy rẽ và cho thuê; phần hoa lợi sẽ chuyển thành tiền chi dùng vào các việc của làng => là một hiện tượng, một xu hướng là "tự công hữu hoá ruộng đất trở lại". Đi cùng với xu hướng tư hữu hoá ruộng đất là "công hữu hoá ruộng đất trở lại" vào thế kỷ XVIII - XIX.
4.2.2. Ruộng tư
Ở nông thôn có ít nhất ruộng đất của ba dạng địa chủ:
- Địa chủ quý tộc: là những người có thành phần xuất thân là những người có quan hệ huyết tộc, quan hệ hôn nhân với dòng họ đang thống trị. Đó là những người từ khi sinh ra đã có đặc quyền, được thừa kế địa vị có sẵn của cha, ông mình nên gia sản chỉ có nhân lên thôi (làm giàu bằng quyền lực, các mối quan hệ) nên địa chủ quý tộc cũng sở hữu một lượng ruộng đất rất lớn
- Địa chủ quan liêu: xuất hiện nhiều từ cuối thế kỷ XIV trở đi và đến thế kỷ XV đã trở thành một bộ phận rất đông đảo. Để duy trì và nuôi dưỡng bộ phận này, triều Lê sơ ban hành chế độ "lộc điền" để ban thưởng cho các tướng lĩnh có công với vương triều (thời vua Thái Tổ) là 150 người; sau này cùng với sự lớn mạnh của bộ máy chính quyền thì số lượng ngày càng gia tăng. Đặc biệt là tầng lớp địa chủ quan lại này đều xuất thân từ con đường học hành, khoa cử (thời Lê sơ tổ chức rất nhiều kỳ thi chọn nhân tài ra làm quan cho triều đình, hoặc xuống làm ở các địa phương). Tuỳ theo phẩm hàm và cấp bậc thì họ sẽ được hưởng một phần ruộng do triều đình lấy từ ruộng công làng xã ban cấp cho (gọi là "lộc điền"). Ruộng lộc điền có hai dạng: ban cấp vĩnh viễn, ban cấp một đời. Ban cấp một đời thì người nhận chỉ được sử dụng 1 đời, ban cấp vĩnh viễn thì được mua bán và tặng biếu cho ai đó; đa số các quan lại tìm đủ mọi cách để duy trì bổng lộc của triều đình nên xu hướng "chiếm công vi tư" ngày càng phổ biến. Những người giàu có nhờ sản nghiệp và chức vụ thì gọi là địa chủ quan liêu (địa chủ quan liêu là những người làm trong bộ máy hành chính của nhà nước)
- Địa chủ bình dân: họ xuất thân là những người nông dân có tư duy nhanh nhạy hơn những người khác, sản nghiệp tích luỹ được 3 đời nên họ có trong tay một số lượng tiền của nhất định do họ mua ruộng đất của những nông dân nghèo lúc mất mùa. Địa chủ bình dân có sản nghiệp cũng khá lớn nhưng họ không có vị thế chính trị nào. Theo Gourou, địa chủ lớn sở hữu trên 50 mẫu ruộng thì rất ít, đa phần chỉ sở hữu 3 - 5 mẫu ruộng vì dân đông nhưng đất hiếm. Ở Bắc Bộ và Trung Bộ chỉ là sở hữu nhỏ; sở hữu trên 10 mẫu và trên 50 mẫu chiếm rất ít. Những địa chủ bình dân có xu hướng muốn vươn lên một địa vị chính trị nhưng rất khó, vì muốn có được vị thế xã hội thì phải qua thi cử. Sang thế kỷ XVIII thì tệ mua quan bán chức phát triển mạnh, vì làm quan là con đường nhanh nhất dẫn đến giàu có => truyền thống trọng bằng cấp nảy sinh từ thời gian này
Ngoài ra còn có sở hữu ruộng tư của nông dân tự canh. Nông dân tự canh là những người tiểu nông sản xuất nhỏ trong các hộ gia đình (có mảnh vườn, ruộng khẩu phần, ruộng hương hoả). Ruộng hương hoả rất thiên liêng với nông dân tự canh, vì nó mang biểu tượng cha truyền con nối và biểu tượng công sức của vị cụ - ông - cha; chỉ khi không còn lựa chọn nào khác thì nông dân mới buộc phải bán ruộng hương hoả. Người ta có giữ ruộng hương hoả để truyền cho con cháu, giữ ruộng hương hoả nhằm gia tăng số ruộng ấy lên để tránh việc phải bán ruộng. Bán ruộng hương hoả là một điều đau xót và ảnh hưởng đến tinh thần rất lớn (theo văn học hiện thực phê phán). Bộ phận ruộng đất của những người nông dân sản xuất nhỏ thì rất mong manh (có lúc ít hơn, có lúc nhiều hơn một chút), xu hướng mất ruộng vào những năm đói kém là điều rất tự nhiên. Sở hữu nhỏ của nông dân tự canh thường không đáng kể, mong manh và có xu hướng sát nhập vào trở thành sở hữu lớn hơn.
Ruộng nhà chùa là ruộng tư (theo các nhà nghiên cứu xác định). Những ngôi chùa xuất hiện đầu tiên vào thời Bắc thuộc tập trung ở Luy Lâu, sau này chùa chiền được mở rộng vào thời Lý - Trần. Sản nghiệp của chùa cùng với phong trào xây chùa, cúng ruộng đất ngày càng nhiều. Mỗi chùa có sở hữu rất lớn vì kinh tế của chùa là tự cung tự cấp, tất cả sư tăng đều phải lao động hết. Để duy trì cuộc sống tự cấp như vậy, nhà chùa cần một số lượng ruộng đất rất lớn. Đặc biệt thời Lý thì bên cạnh hai dòng Thiền thì xuất hiện phái Thảo Đường. Thiền phái Thảo Đường là những người đi tu rất hồn hậu, những bà phi của triều đình rất sùng Phật - họ tin vào giáo lý nhà Phật, tin vào luật nhân quả và cúng kiếng nhiều ruộng đất cho nhà chùa (riêng Thái hậu Linh Nhân xây tới 150 chùa). Thời Trần thì vua Thái tông bắt đầu sùng Phật, vua Nhân tông sáng lập dòng thiền Trúc Lâm đậm màu sắc dân tộc. Về sau, các chùa sở hữu rất nhiều ruộng đất như chùa Quỳnh Lâm có hơn 1.000 mẫu ruộng với các "tam bảo điền", "tam bảo nô" (là những người làm ruộng trong nhà chùa). Thời kỳ này, nhiều người dân trốn tránh binh dịch đều trốn vào nhà chùa và xuất gia làm sư - chùa là chủ sở hữu lớn về ruộng đất và nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Khi Hồ Quý Ly nắm thực quyền, ông ra lệnh sát hạch lại các tăng đồ (ai thuộc kinh sách thì cho ở lại, không thuộc thì đào thải bớt). Lúc này, tiềm lực của nhà chùa là sự đối chọi rất lớn, tất cả các sở hữu tư mà lớn mạnh như thế này thì đe doạ đến sở hữu công của nhà nước. Thời Trần, nhà nước chưa đánh thuế ruộng tư nên nguồn thu vàng bị hạn hẹp khi ruộng tư lại lớn lên => thời Trần, vương quyền và thần quyền tuy hoà quyện nhưng cũng có độc lập nhất định. Trong lịch sử nước ta, chưa có sự xung đột về mặt tôn giáo; các vương triều dùng tôn giáo như một "sức mạnh mềm" để cố kết dân tộc để đoàn kết trong thời gian cam go của lịch sử. Phật giáo luôn đồng hành với lịch sử dân tộc nên các vương triều dù quyết liệt nhưng vẩn có cái dung hoà, ưu ái nhất định với Phật giáo nên họ không đụng đến ruộng đất của nhà chùa.
Ngay từ thời Hùng Vương đã phát hiện một số đoạn đê ngắn, thời Tiền Lê có vua cày ruộng tịch điền cho thấy cấu trúc nhà nước dù sơ sài nhưng nhà nước vẫn cố kết được các dân tộc bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ của đất nước, tổ chức sản xuất để tạo nền tảng kinh tế vững vàng nhằm triển khai công tác an ninh quốc phòng hiệu quả hơn. Sang thời Lý - Trần thì vua rất thân dân, các hành cung của vua đặt gần các vùng nông nghiệp phát triển nhất; nhiều vua ở lâu tại các hành cung để lo việc nhà nông, khuyến khích nghề nông phát triển. Ngoài ra, các vua Lý - Trần xúc tiến việc đắp đê từ đầu nguồn, "ngụ binh ư nông" là một chính sách mang tầm vĩ mô. Những đoạn đê dọc sông Hồng, nhất là đoạn đê quanh kinh thành (đê "quai vạc") thể hiện đây là biện pháp thông minh và đoạn đê này cũng khẳng định được tác dụng của nó. Những người khởi động ra việc làm này là các cơ quan của nhà nước như Hà đê sứ, Khuyến nông sứ (tương đương Bộ Phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay); những năm lụt lớn thì vua còn huy động cả học sinh Quốc tử giám tham gia giúp dân cứu đê, việc đắp đê là việc của toàn dân - đây là tầm nhìn rộng mở của vương triều. Các triều đại Lê và Nguyễn thì quan tâm đến phát triển nông nghiệp bằng nhiều biện pháp khác nhau: triều Lê lấy Nho giáo làm tư tưởng chính thống và coi nông nghiệp là gốc, coi thường các hoạt động buôn bán (vì buôn bán là lừa lọc, lừa đảo, lợi nhuận phát sinh từ sự gian dối nên đi ngược với đạo đức của người quân tử, không phù hợp với chuẩn mực Nho giáo của triều đình Lê. Sau khi đánh bại triều Tây Sơn, Gia Long thực hiện chuyến vi hành ra Bắc nhằm nắm bắt tình hình để ông có những chấn chỉnh, quy tắc đặt ra với từng địa phương để quản lý, thúc đẩy phát triển nông nghiệp. Đầu thời Nguyễn, các vua ra nhiều chính sách phát triển (đọc thêm quyển Châu bản triều Nguyễn) như các chỉ dụ của vua, các công việc của các cơ quan giám sát nông nghiệp; nhưng cá nhân nào có công khai phá nông nghiệp thì triều đình sẽ khen thưởng; triều đình nắm giá cả các mặt hàng nông nghiệp (điều chỉnh giá cả hợp lý), tình hình mất mùa, phá hoại mùa màng. Mọi tình hình về nông nghiệp đều được tâu báo cụ thể, vua có những chỉ dụ sát với tình hình để kích thích phát triển nông nghiệp (giao cho địa phương toàn quyền giám sát nông nghiệp, hoặc nhà nước cử cơ quan giám sát hoạt động làm nông của địa phương). Tuy nhiên, hiệu quả không sao do bộ máy địa phương quá rệu rã và nạn cường hào khiến những chính sách tích cực của nhà nước không đến được với làng xã; tiếng kêu của người dân không đến được triều đình nên khởi nghĩa liên tiếp diễn ra - chứng tỏ tính tự trị của làng xã quá cao, sự lũng đoạn của cường hào đến cực đỉnh và sự bất lực của triều đình với làng xã (phép vua thua lệ làng) trong chính sách quân điền (chính sách này thất bại vì ruộng công quá ít mà ruộng tư quá nhiều).
4.2.3. Thủ công nghiệp
Theo Gs Phan Đại Doãn, "trong mỗi một người nông dân làng xã, luôn tổng hoà giữa một anh nông dân và có cả thợ thủ công, cả tiểu thương, tất cả đều hoà quyện trong một cá nhân là nông dân". Nông nghiệp nước ta là theo thời vụ, theo mùa nên nông dân tận dụng thời gian nhàn rỗi của nông nghiệp để làm thêm nghề khác để kiếm sống: nghề làm cối, nghề mộc, nghề dệt... Thời phong kiến, các cơ sở của những nghề này không cố định: có thể làm trong làng, hoặc là đem đồ nghề qua các làng khác làm việc. Đến những nơi nào có nhu cầu thì họ sẽ dừng và ở lại nhiều ngày để làm thuê cho một gia đình; sau khi hoàn thành sản phẩm thì họ lại tiếp tục đi nơi khác sinh sống và làm việc - thời gian anh ta ở thì gia chủ sẽ nuôi công (trả công) để anh có thể mang về cho gia đình. Thủ công nghiệp làng xã là một bộ phận không thể thiếu trong cộng đồng làng xã; số lượng nghề thủ công của làng không cố định - "trông ruộng dề đề không bằng có nghề cho vay". Theo Gourou thì trong thời gian nông nhàn (nông dân nhàn rỗi tới 125 ngày/năm) thì nông dân làm nhiều nghề; có những làng có các nghề thủ công nổi tiếng như: làng mộc Tứ Xã (Phú Thọ) và Yên Thái (Hà Tĩnh); làng chạm khắc gỗ Nông Gia (Hưng Yên), Nam Định và Hải Dương. Ở một số làng thì những người lành nghề lập thành các tốp thợ (cùng là đồng hương) đi làm ở nhiều nơi, đến lúc làm ruộng thì họ lại quay trở về. Xu hướng lập làng nghề muộn hơn khi sản xuất hàng hoá phát triển, những sản phẩm thủ công không chỉ dùng trong gia đình mà còn dùng để lưu thông trên thị trường để kích thích thị trường nơi xa; nó thực sự hấp dẫn và có giá trị, lúc này mới xuất hiện các làng nghề thủ công chuyên nghiệp. Bản chất của các làng nghề và làng buôn đều là làng thủ công nghiệp.
Tổ chức các làng nghề thủ công rất giống làng nông nghiệp. Kể cả xuất hiện các làng buôn, giá trị thặng dư mà người làm nghề thủ công kiếm được thì họ đem về đầu tư cho ruộng đất. Khi nghiên cứu về làng buôn, Gs Nguyễn Quang Ngọc chỉ ra thực tế là ở các làng buôn: khi có các thương lái trong hệ thống thương mại nội địa (họ trở thành thương nhân do làng có quá ít ruộng nên họ phải tìm nghề khác để tồn tại). Buôn bán thì có buôn bán đường dài, buôn bán hệ thống chợ liên làng, liên vùng tuỳ theo mặt hàng, sản phẩm mà họ mua (sản phẩm quyết định cự li buôn bán). Các làng thủ công được hình thành quanh các trung tâm buôn bán lớn để tạo thành hệ thống, hay điểm phụ trợ cung ứng mặt hàng cho các đô thị buôn bán. Các làng thủ công chuyên nghiệp xuất hiện sớm hơn các làng buôn, vào thế kỷ XVI. Số lượng các làng nghề thủ công chuyên nghiệp rải đều ở các địa phương. Nghề thủ công phổ biến nhất là dệt vải - chỉ tính riêng khu đồng bằng châu thổ sông Hồng thì có hơn 54.000 thợ dệt vải. Một nghề thủ công rất phổ biến đến những năm 80 của thế kỷ XX là nghề hàng xáo (chế biến thức ăn) - nghề hàng xáo là mua gạo thóc xay ra rồi đem ra chợ bán; trong nghề này là "lấy cơm làm lãi" thì lấy vỏ trấu để đun nấu, vụn cám để chăn nuôi, gạo để bán ra thị trường với mức giá chênh lệch. Nghề đan lát có tầm 41.000 người và rất phát triển. Nghề mộc có 31.200 người (theo Gourou). Ngoài ra có nghề nuôi cá giống, nghề nấu rượu, nghề đan nón... Theo thống kê, nghề dệt là nghề phổ biến và mang lại lợi nhuận cao nhất (1 ngày công của thợ thủ công = 4 kg thóc), nghề mộc hưởng mức lương cao hơn nhưng phải đi làm xa. Chúng ta có rất nhiều làng gốm cổ truyền như làng gốm Bát Tràng, gồm Thổ Hà, gốm Phù Lãng (Bắc Giang), gốm Hương Canh (Vĩnh Phúc), làng gốm ven kinh đô Thăng Long xưa. Theo tính toán của các nhà nghiên cứu, cứ 3 huyện là có một làng đúc đồng. Ở làng rèn sắt Vân Chàng (Nam Định) thì họ gia công các linh kiện sắt cho xe máy; làng rèn sắt Đa Hội (Bắc Ninh) làm sắt thủ công cung cấp cho các công trình
Sự hình thành các làng nghề thủ công là một biểu hiện rõ nét của sự phân công lao động trong làng xã; nó rất hạn chế, chậm chạp và không triệt để nên trước khi Pháp xâm lược thì kinh tế nông thôn là tự cung tự cấp, thủ công nghiệp chỉ là "cứu cánh" cho nông dân, chứ họ không có chuyên tâm vào làm thủ công nghiệp đâu. Trong tiểu thủ công nghiệp, chưa bao giờ có hiện tượng cạnh tranh: chưa phân hoá sâu sắc, tính cạnh tranh mờ nhạt, mô hình thủ công làng xã chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình, không ai giàu lên nhờ ứng dụng công nghệ - không cạnh tranh thì không phát triển, đó là điều tất yếu. Năng suất của thủ công nghiệp trước 1945 rất thấp, tích luỹ vốn mở rộng sản xuất không có, ứng dụng thành tựu khoa học lại càng là điều xa lạ, quy mô trao đổi chỉ trong phạm vi làng xã. Tâm lý của nông dân làng xã không có tác dụng thúc đẩy thủ công nghiệp phát triển vì nông dân gắn bó với quê hương, với đồng ruộng, có tình cảm láng giềng trong dòng họ, việc qua nơi khác sinh sống cũng là một điều trăn trở của nông dân => cuộc sống vật chất bị đẩy xuống hàng thứ hai sau cuộc sống tinh thần, giàu - nghèo gắn với số mệnh (không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời; Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa). Người ta có tâm lý là trọng nghề nông (Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ); có tâm lý trọng mồ mả tổ tiên, coi trọng việc họ, việc làng (sống vì mồ vì mả không ai sống bằng cả bát cơm) - gắn bó với quê hương, không muốn bức phá tìm đến nơi khác; còn "tha hương cầu thực" là bất đắc dĩ chọn nơi khác sinh sống thôi. Làng xã với tư cách là đơn vị xã hội có tác dụng bảo lưu duy trì, phát triển sản xuất thủ công nghiệp; mặc khác nó cũng kìm hãm sự tiến bộ của kinh tế có thể đem về lợi nhuận rất cao.
4.2.4. Thương nghiệp
Lĩnh vực kinh tế thứ ba chiếm một tỉ trọng rất nhỏ đó là thương nghiệp. Biểu hiện rõ nét của thương nghiệp ở làng xã là các chợ làng. Bài nghiên cứu của Nguyễn Đức Nghinh và Trần Thị Hoà (1981), “Chợ làng trước Cách mạng tháng Tám (thử nghiệm nghiên cứu trên địa bàn huyện)”, Tạp chí Dân tộc học, số 2, tr.16-21 là nghiên cứu mẫu mực nhất và có tỉ lệ trích dẫn rất cao; trong bài nghiên cứu này thì chỉ tính khu vực Nam Định và Thái Bình trước tháng 8/1945 cứ trong khoảng xấp xỉ 7km2 (khoảng từ 3 đến 6 làng) có 1 chợ - nếu làng nhỏ thì 6 làng, nếu làng lớn thì 3 làng thì có một chợ. Xét từ góc độ dân số học, cũng theo Nguyễn Đức Nghinh, thì khoảng 5.120 người ở Bình Lục (Hà Nam) có 1 chợ và 3.300 người ở Quỳnh Côi (Thái Bình) có 1 chợ. Như vậy chúng ta thấy mật độ chợ khá dày, làng nào cũng có chợ cả, trước đây cứ 2 - 3 làng chung một chợ. Đó là biểu hiện của nền kinh tế hàng hoá khá mở rộng. Chợ làng thì không phải ngày nào cũng họp, chợ họp theo phiên. Phiên chợ rất độc đáo, thậm chí có chợ hôm (hoặc chợ sớm) họp chợ hàng ngày hoặc vài ngày một lần. Chợ tổng, chợ huyện lớn hơn các loại chợ hôm, họp thưa ngày, người đông hơn và có thêm một số hàng đặc sản.
Thể lệ họp chợ có từ thời Lê Thánh tông. Các ngôi chợ phát triển thời Trần vì những ngôi đình làng có kết cấu đơn giản làm chỗ nghỉ ngơi cho những người qua lại. Dần dần, người dân đặt thêm tượng Phật vào đình; ít lâu sau người dân đặt thêm các mặt hàng để buôn bán - đây là một dạng thức chợ được hình thành vào thời Trần. Thường những "trạm" này được đặt ở những nơi có cây to râm mát, nơi đông người qua lại. Những chão hàng buôn bán cũng được đặt tại nơi đó. Chợ thông thường được đặt tại ngã ba nên rất tiện đường đi lại, "trên bên dưới thuyền" ở dưới tập trung nhiều thuyền bè qua lại, người và xe cũng qua lại tấp nập. Thương nghiệp chợ làng truyền thống bao gồm những người buôn bán chuyên nghiệp; những người buôn bán chuyên nghiệp này có lều, quán ổn định và bán nhiều mặt hàng xén (hàng xén là bán đồ ăn thập cẩm - trừ đồ ăn uống không bán), hàng vải, hàng thịt, hàng cá; các mặt hàng lương thực - thực phẩm và chế biến; trong làng sẽ có những người buôn bán chuyên nghiệp như vậy, nhưng số lượng không nhiều; sẽ có thêm những người nông dân được gọi là những người "chạy chợ" và những người "chạy chợ" này làm việc khi họ rảnh rỗi để họ buôn đầu này, bán đầu kia. Trong chợ cũng có những nông dân mang lúa và hàng thủ công mà mình làm ra để trao đổi (họ bán chính những sản phẩm họ làm ra). Chợ phiên miền núi là một hình thức chợ đặc trưng của Bắc Bộ như chợ phiên Mèo Vạc, chợ phiên Bảo Lạc (Cao Bằng)... Chợ phiên biểu hiện ra các mặt hàng buôn bán, tính cách, cư dân và đó chính là những nét đặc trưng của văn hoá nơi đó. Ở đồng bằng Bắc Bộ có nhiều chợ chuyên bán cùng một mặt hàng ví dụ chợ Đại Bái (tức chợ Bưởi) chuyên bán các sản phẩm bằng đồng, chợ Thổ Hà chuyên bán đồ gốm, chợ Bát Tràng chuyên bán đồ gốm và sành, chợ Gia Lâm chuyên bán đồ sắt... Nhìn chung sự phát triển của hệ thống chợ làng đã tạo ra vùng liên lạc theo chu kỳ, theo tháng: có những chợ phiên họp rất khéo, không phiên nào trùng với phiên nào để tạo thành vòng tròn khép kín trong vòng một tháng ở một vùng (có chợ họp đầu tháng, có chợ họp cuối tháng, có chợ họp ngày chẵn, có chợ họp ngày lẻ) nên nếu nhà nào có việc thì họ sẽ ghé chợ mua nguyên liệu và họ sẽ tính khoảng cách từ nhà đến chợ, nhớ thời gian diễn ra các phiên của chợ phiên gần nơi ở của mình (họ ở gần chợ nào thì sẽ đi chợ đó). Ở các địa phương thì thông thường những người dân làng sẽ nhớ lịch họp chợ phiên vì người dân bận nhiều việc, kể cả lịch giỗ làng, lịch cưới xin, ma chay sẽ khép kín trong một năm. Nhà nào cũng choáng ngợp các việc trong nhà, việc làng nên phải nhớ các lịch (các sự kiện quan trọng của làng trong năm); ví dụ làng ở Vĩnh Bảo (Hải Phòng) có câu mô tả kiểu lưu thông hàng hoá như sau:
“Một Râu, hai Mét, ba Ngà,
Tư Cầu, năm Táng, sáu Ngà lại Râu.
Bảy Ngà, tám Mét, chín Cầu.
Mồng mười, chợ Táng, một Râu lại về”.
(nghĩa là mùng một ra chợ Râu, mùng hai ra chợ Mét...)
Hiện tượng "liên làng" có ở rất nhiều nơi như Thái Bình, Hải Phòng, Nam Định, Ninh Bình.... Trong vùng "liên làng" đều có sắc thái văn hoá rất phong phú. Có hệ thống chợ "liên làng" mà hàng hoá được lưu thông dễ dàng trong một vòng khép kín, có trao đổi liên vùng như vậy. Mạng lưới chợ nông thôn theo nghiên cứu thì đó là sản phẩm của quá trình mở rộng kinh tế hàng hoá nhỏ đã tồn tại lâu dài. Chợ làng là nơi mà những người tiểu nông bán những sản phẩm chưa dùng đến, mua những sản phẩm mà họ thiếu và đó là hình thức "vật đổi vật" (bán vật này, mua vật kia), vai trò của tiền tệ rất ít và mạng lưới chợ là sự bế tắc của nền kinh tế tiểu nông, đồng thời nó là biện pháp để giải quyết cái bế tắc đó - nó vừa có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của sản xuất hàng hoá trong kinh tế tiểu nông, nhưng đồng thời nó cũng góp phần bổ sung và duy trì kinh tế tiểu nông - vì buôn bán và sản xuất ở làng rất nhỏ, quy mô chỉ bó hẹp trong chợ liên làng; giá trị hàng hoá cũng rất ít (bán đồ thừa, mua đồ thiếu) nên sản phẩm ở đây chưa thực sự là hàng hoá có chất lượng cao, mang tính rộng mở. Chợ làng không làm giảm kinh tế tiểu nông mà nó củng cố nền kinh tế với cấu trúc đa nguyên của làng xã.
Từ thế kỷ XVIII đến XX, đại đa số các làng ở đồng bằng Bắc Bộ đều lấy buôn bán làm nghề chính do hoạt động thương nghiệp rất phổ biến và mạnh mẽ, chính là hệ thống làng buôn. Gs Nguyễn Quang Ngọc trong luận án tiến sĩ về làng buôn thì ông chỉ ra rằng làng buôn đã xuất hiện vào cuối thế kỷ XVIII ở hầu hết các địa phương; hoạt động chủ yếu của các làng buôn là trao đổi hàng hoá chứ không đơn thuần là sản xuất hàng hoá. Mặc dù họ sinh sống bằng trao đổi hàng hoá và có thu nhập, nhưng họ không phải là cư dân thành thị. Làng buôn thì mặc dù cư dân sống bằng nghề trao đổi hàng hoá nhưng không phải là cư dân thành thị; dân không sống trực tiếp ở làng xã nhưng họ vẫn có đủ quyền lợi và nghĩa vụ với làng xã quê hương mình. Tuy nhiên, điều kiện và hoàn cảnh sống đã hình thành tâm lý, tập quán và thế ứng xử của nông dân làng xã. Trong nghiên cứu về làng buôn, Gs Nguyễn Quang Ngọc chỉ ra làng Đan Loan (Hải Dương) chuyên buôn vải, làng Đa Ngưu (Hưng Yên) chuyên buôn trâu, làng Báo Đáp ở Nam Định thì làng Phù Lưu (xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh) là làng buôn tiêu biểu nhất. Tên Phù Lưu cho thấy sự sung túc của dân làng ở đây, vốn dĩ là một làng cổ ở vào vị trí thuận lợi trên con đường giao thông thủy bộ nối liền với các trung tâm kinh tế và chính trị của đất nước như Thăng Long, Thuận Thành (trung tâm Phật giáo Luy Lâu nổi tiếng) và là một phạm vi rất rộng. Do đó, nó sớm trở thành một nơi giao lưu buôn bán. Chợ Phù Lưu ra đời sớm và đến cuối thế kỷ XV đã trở thành một chợ lớn ở trong vùng. Mặt hàng chính mà người Phù Lưu buôn bán là the lụa (gọi khác là đuỗi, lụa, lĩnh, tơ, sồi, gấm, vóc, đoạn); họ mua bán trao đổi không những ngay tại chợ làng Phù Lưu mà còn tỏa rộng ra khắp nơi. Chợ có tới gần ba chục quầy hàng cố định. Chợ Phù Lưu đã tác động sâu sắc vào nhiều mặt đời sống của làng Phù Lưu; biến làng này thành làng buôn với kết cấu độc đáo là làng với chợ là một (thông thường chợ là một phần của làng; làng cùng với mặt hàng đã làm thay đổi kết cấu của làng này). Vào các ngày phiên chợ, làng Phù Lưu có dáng dấp như một thị trấn sầm uất. Tuy thế, Phù Lưu chưa bao giờ là một trung tâm buôn bán tự do tách biệt như là một thành thị. Vào thời gian nghề buôn phát triển cao, trong làng vẫn duy trì thành phần kinh tế nông nghiệp ở mức độ đáng kể; tuy nghề nhuộm the lụa và buôn bán có lúc bị sút kém nhưng vẫn không mất hẳn. Cấu trúc làng vẫn không vượt ra khỏi cấu trúc truyền thống của làng nông thôn. Bộ máy hành chính, tự trị của làng về cơ bản cũng không khác các làng Việt truyền thống khác.
Trong cấu trúc làng buôn vẫn có đủ sĩ - nông - công - thương, nhưng thương nhân chưa bao giờ là một tầng lớp độc lập và vươn lên nắm lấy vai trò chủ đạo chi phối làng xã. Nghề buôn không được xã hội đề cao. Phù Lưu, Đa Ngưu, Báo Đáp là các làng thương nghiệp nhưng vẫn dựa trên mô hình làng nông nghiệp với những kết cấu kinh tế-xã hội truyền thống. ở các làng này, kinh tế thương nghiệp dù có phát triển đến mức nào đi nữa thì nó cũng không thể phá vỡ được cái khuôn cũ để biến thành trung tâm buôn bán tự do kiểu thành thị phương Tây. Khi nghiên cứu đầy đủ về làng buôn, Gs Nguyễn Quang Ngọc kết luận: Làng buôn là sản phẩm của quá trình mở rộng kinh tế hàng hoá và của nghề buôn trong điều kiện đặc biệt ở nông thôn Việt Nam cuối thời trung đại. Đây là hiện tượng kinh tế tương đối độc đáo trong lịch sử kinh tế thế giới, nhất là so với các nước Tây Âu thời tiền tư bản chủ nghĩa. Vào thế kỷ XVII - XVIII khi mà làng buôn có dạng khác hoàn toàn với làng nông nghiệp, những cư dân trong làng sẽ buôn bán và họ buôn bán xa - gần nhưng không làm nghề nông. Mặc dù vậy, cơ cấu quản lý của làng buôn giống như một làng nông nghiệp, các thành phần trong làng vẫn giống như một làng nông nghiệp tuy nhiên bộ phận thương nghiệp chiếm một vị trí rất bé; giá trị thăng dư thì nông dân đầu tư vào ruộng đất chứ không mở rộng công việc buôn bán nên các làng buôn không bao giờ trở thành một thành thị, nó không có biểu hiện gì là đang trong quá trình đô thị hoá cả vì buôn bán của làng buôn là theo một vòng luẩn quẩn khép kín, giá trị thặng dư thì họ không đầu tư vào các mặt hàng thiết yếu, quay trở về ruộng đất (một vòng khép kín: tiền - hàng). Tâm lý chung của người Việt là trọng nông - đúng như nhận định của Gs Nguyễn Quang Ngọc: Làng buôn là sản phẩm của quá trình mở rộng kinh tế hàng hoá và của nghề buôn trong điều kiện đặc biệt ở nông thôn Việt Nam cuối thời trung đại.
Xét một cách tổng quát thì chúng ta thấy rằng: tư tưởng kinh tế truyền thống của những người nông dân Việt Nam là trọng ruộng đất, trọng nông nghiệp. Tục ngữ có câu: Tất đất tất vàng, Có thực mới vực được đạo; lúa gạo là tài sản quý giá nhất của con người. Trong hoàn cảnh nào người ta cũng tìm cách quay về với ruộng đất, quay về với nông nghiệp; lấy nông nghiệp làm nghề gốc (dĩ nông vi quý). Tư tưởng thứ hai là họ rất coi thường thương nghiệp; nhiều lúc người ta đứng trên quan điểm đạo đức một cách thái quá mà xét nét đạo đức của những người làm nghề buôn bán mặc dù trên thực tế người buôn bán chẳng có lừa lọc điều gì - họ cho rằng buôn bán như là sự bóc lột, không có tình nghĩa. Bản thân nông dân luôn bị trói buộc bởi "trọng nông ức thương" nên họ ít khi dám mạnh dạn bức phá, ít khi ra khỏi luỹ tre làng để tìm một cái gì đó mới hơn. Tư tưởng thứ ba là "quý nghĩa, khinh lợi": do ảnh hưởng của Nho giáo nên tư tưởng này trở thành nguyên tắc quy định cách ứng xử trong xã hội; "khinh lợi" là coi thường lợi ích vật chất, quân tử thà có nhà tốt còn hơn đi bon chen giành lợi ích vật chất, bán rẻ nhân cách của mình. "An bần lạc đạo, quý nghĩa khinh lợi" dẫn tới quan điểm là xa rời kinh doanh hàng hoá, coi thường lao động chân tay. Tư tưởng thứ tư trong làng xã truyền thống là "bình quân chủ nghĩa": trong hoạt động kinh doanh nông thôn, nhất là chia ruộng đất thì người nông dân không chấp nhận những cái gì vượt trội. Tâm lý cào bằng (ai cũng giống ai) và một số cho rằng những người giàu có là không minh bạch, bất chính và đáng khinh bỉ; nên nảy sinh tâm lý đố kỵ vì thế những người giàu phải lén lút - tục ngữ "lụt thì lụt cả làng"; tư tưởng này ăn sâu và cố hữu nên mang tính bảo thủ, lạc hậu. Tư tưởng thứ 5 là đề cao sự tằn tiện: tục ngữ có câu "Buôn tàu bán bè không bằng ăn dè hà tiện", lúc nào cũng đề cao sự tằn tiện, để dành và tích luỹ của cải; lúc có cũng phải chịu kham khổ một chút (sống giản dị, đề phòng nhưng trường hợp xấu nhất) đề phòng các trường hợp xấu nhất xảy ra như đói kém, mất mùa, thời tiết => như vậy kinh tế làng xã có sự đa nguyên giữa các lĩnh vực, luôn có tổng hoà trong mỗi người nông dân và rất linh hoạt giữa các lĩnh vực kinh tế để các làng tự điều chỉnh
Theo các nhà nghiên cứu, một số làng xã Việt Nam chuyển từ trạng thái công xã nông thôn sang làng xã phong kiến từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV. Thời Trần chính là giai đoạn mà làng xã Việt Nam có những chuyển biến lớn lao (tích tụ các yếu tố cần và đủ để cấu thành làng xã phong kiến). Thời Lê sơ, làng xã phát triển rất mạnh và mở rộng sang nhiều địa phương khác nhau, ở các khu vực và vùng ven biển do công cuộc khai phá lập làng, chính sách thúc đẩy phát triển nông nghiệp phát triển cũng như sự hỗ trợ hiệu quả của các triều đình từ thời Lý đến thời Lê sơ. Trong thời kỳ này, bên cạnh lực lượng chủ yếu khai hoang lập làng là cộng đồng người Việt thì còn có cộng đồng người Chăm (là các tù binh chiến tranh; bố trí nơi ở, cho khai phá và lập làng mới) - cuộc khảo sát cho thấy cộng đồng người Chăm sinh sống ở Quảng Ninh có mắt sâu và đẹp; khu Quảng Ninh cũng chính là thái ấp của An Sinh vương Trần Liễu thời Trần. Ngoài Đông Triều (Quảng Ninh) thì có nhiều làng xã khác được lập sau khi cư dân đến khai hoang => chúng ta thấy việc các vua Trần cho các hoàng thân quốc thích và tướng lĩnh có công được khai phá lập các điền trang giúp làng xã phát triển mạnh; ví dụ như điền trang An Lạc ở Hà Nam, điền trang A Sào ở Thái Bình (điền trang gốc Chăm), điền trang Thái Vi của vua Trần Nhân tông ở Vũ Lâm (Ninh Bình) mà thời kháng Mông - Nguyên nơi này trở thành căn cứ địa liên hoàn với căn cứ địa Thiên Trường (căn cứ địa Vũ Lâm, hành cung Vũ Lâm); tại Thái Vi, vua giao cho các điền nô và các quân nhân cày cấy trên điền trang đó (thần tích kể về 7 quân nhân người họ Phạm ở điền trang giúp vua khai khẩn như thế nào). Sau này các khu điền trang này trở thành các làng xã khi nhà Trần suy vong khi chính sách hạn nô và hạn điền của Hồ Quý Ly được thực thi. Ngoài ra có điền trang của tướng Trần Khát Chân ở quận Hoàng Mai (Hà Nội); nên các làng Mai về sau thờ ông Trần Khát Chân này (người dân về sau gọi "chân" là "cẳng"). Ở Diễn Châu có điền trang của hoàng thân Trần Quốc Khang; ông này tận dụng sức dân để lập điền trang rất nguy nga nên có lời gièm rằng ông sẽ chống đối triều đình Thăng Long; ông lập chùa và nói sẽ kính thuận triều đình chứ không có ý gì khác. Điền trang Trà Tu (Ninh Bình), Độc Lập (Nam Định) của Trần Quang Khải (có nhiều dấu tích, thần tích nói về công lao của gia đình Trần Quang Khải với khai hoang lập làng, dạy dân trồng trọt và dệt vải để khắc hoạ diện mạo của Thiên Trường - kinh đô thứ hai của nhà Trần). Thế kỷ XIII có sự liên kết giữa người Tống với người Việt (một bộ phận ở kinh đô, một phần khác đến Thiên Trường để gia nhập quân đội Đại Việt cùng chống quân Nguyên nên sau thắng lợi thì người Tống ở lại khai hoang (thần tích của Triệu Trung (nước Tống) chỉ huy đạo quân Tống sát cánh với Đại Việt chống quân Nguyên). Ngoài ra có điền trang Quắc Hương của Trần Thủ Độ (Nam định) - đạo diễn của cuộc chuyển giao quyền lực từ nhà Lý đến nhà Trần; thái ấp của công chúa Ngọc Đạo ở Nam Định ....
=> Nhìn vào đó thì thấy các thái ấp không hình thành một cách ngẫu nhiên mà theo chỉ dụ năm 1266 cho phép vương hầu lập điền trang đã tạo điều kiện cho phần lớn dân nghèo đi khẩn hoang. Tuy nhiên, nhà Trần cũng có chiến lược rõ ràng: nhìn vào sự phân bố của các điền trang toả ra hai đường nước quan trọng kết nối với Thăng Long, từ Thăng Long kết nối với vùng biển Đông Bắc và vùng biển phía nam đất nước là những vùng biển quan trọng để án ngữ, bảo vệ sự an nguy của quốc gia. Các đường nước này ngoài việc củng cố tiềm lực kinh tế mà còn là cơ sở nuôi quân, căn cứ kháng chiến chống giặc, hỗ trợ cho quân chủ lực nhà Trần đánh giặc, bổ sung lương thực và quân đội và là nơi rút lui an toàn của quân Trần khi bị giặc tấn công.
Để quản lý làng xã, ngay từ năm 1242 vua Trần cho phân chia lại đơn vị hành chính cấp xã thành hai loại: đại xã, tiểu xã. Đứng đầu đại xã là Đại tư xã, đứng đầu tiểu xã là Tiểu tư xã; đồng thời vua cho đặt các chức quan: chức quan đứng đầu Đại xã phải là quan ngũ phẩm trở lên, còn Tiểu xã là quan lục phẩm trở xuống. Trong thang phụ cấp quan lại thời Trần có 9 bậc, quan chức quản lý làng xã có trong thang phụ cấp này chứng tỏ vua Trần muốn thể chế hoá làng xã, đưa họ vào vòng kiềm toả của nhà nước; muốn làng xã chịu sự chi phối trực tiếp của trung ương. Như vậy việc nhà nước lập chức xã quan, trao cho đội ngũ này những chức vụ cao là một hình thức ràng buộc trực tiếp, với tay trực tiếp của triều đình đến các làng xã địa phương. Quy mô làng xã này sẽ tương đương với giai đoạn trước; đến thời Hồ Quý Ly đổi lại. Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu, đến cuối thời Trần thì đơn vị hành chính cấp cơ sở là xã (làng xã) đã rất phổ biến - tức là cấp xã là cấp rất phổ biến trong quá trình chuyển từ công xã nông thôn sang làng xã phong kiến.
Sang thời kỳ nhà Minh đô hộ nước đầu thế kỷ XV, vua Minh cố gắng áp đặt xã thôn Trung Quốc vào làng xã Việt Nam (trước đó là chúng sát nhập lãnh thổ nước ta vào Trung Quốc năm 1407), muốn với tay đến tận các làng xã Việt. Chúng cho cải tổ lại bộ máy hành chính ở làng xã như các lý, ấp để áp đặt vào nông thôn Việt Nam: mỗi lý có 110 hộ và đứng đầu là lý trưởng (đơn vị "lý" tương đương với cấp xã), dưới lý là các giáp (mỗi giáp có 10 hộ). Tổ chức "Lý" và "Giáp" này không phải được áp đặt ngay từ thời quân Minh xâm lược mà phải đến năm 1419 quân Minh mới áp đặt được việc chia làng xã Việt thành các đơn vị hành chính cấp cơ sở là lý và giáp.
Sau khi đánh đuổi được quân Minh, Lê Lơi lên ngôi lập ra triều Hậu Lê (Lê sơ). Trong thời Lê sơ, đơn vị hành chính cấp cơ sở vào thời Lê Lợi không có gì nổi bật. Vua Lê Lợi sau khi lên ngôi đã chia lại ruộng đất và phân cấp đơn vị hành chính cấp cơ sở: ở xã thì ông đặt các xã quan. Một điểm đặc biệt là: Các triều đại Việt Nam đều chú ý đến làng xã của mình, đặc biệt từ thế kỷ 17 trở đi - xã là nơi cấp cơ sở, nơi chính quyền không với tay đến được; nơi xa kinh đô nhưng thực tế làng xã luôn được chú trọng - thể hiện tầm nhìn chiến lược và khả năng chính trị của chính quyền. Các vị vua đều thiết lập quyền lực và ảnh hưởng của mình vào khu vực hành chính cấp cơ sở. Với làng xã, Lê Thái Tổ tiến hành kiểm kê dân đinh, đo đạc ruộng đất và đặt chức xã quan cho các làng xã (xã nhỏ có 10 - 49 dân đinh, xã vừa có 50 - 99 dân đinh, xã lớn có 100 dân đinh trở lên). Xã lớn thì đặt 3 xã quan, xã vừa 2 xã quan. Theo tài liệu ghi nhận, Đại Việt thời Lê sơ có 9.728 xã, 294 thôn; các xã quan quản lý làng này chịu sự chỉ đạo trực tiếp của triều đình. Thôn có sự phân chia: có thôn trực thuộc làng, thôn trực thuộc xã; có xã có rất nhiều thôn, có xã tồn tại với tư cách là một đơn vị hành chính độc lập và là một bộ máy tự quản.
Thời Lê Thánh tông, ông tiến hành một cuộc cải cách hành chính lớn. Tại cấp xã, vua cố gắng đạt đến sự kiểm soát toàn diện và triệt để vì mục đích của nhà vua là muốn tạo thế vững chắc cho chính quyền trung ương trong việc tăng cương mở rộng quỹ đất đai, quản lý dân cư và hạn chế thấp nhất việc tự trị của các xã thôn, truyền bá các giáo lý Nho giáo cho xã thôn. Quyết tâm quản lý làng xã của Lê Thánh Tông được hiện rõ ở chỉ thị năm 1462 đặt chức xã trưởng (thay thế xã quan) quản lý các xã thôn. nếu nói về người đứng đầu làng xã mỗi thời kỳ đều có một danh xưng khác nhau: thời Lý - Trần thì người đứng đầu là xã quan hoặc xã trưởng; nhưng đến thời Lê Thánh tông thì đổi là xã trưởng (thời Minh Mạng đổi thành lý trưởng). Thời vua Thánh tông ban hành nhiều chỉ dụ liên quan đến xã thôn: chỉ dụ năm 1462 đổi xã quan thành xã trưởng; chỉ dụ năm 1465 kêu gọi các xã trưởng mang sổ hộ tịch về kinh đô để kiểm tra và đối chiếu. Sự khống chế của vua Thánh tông với làng xã còn được thể hiện ở chỉ thị: mặc dù quan lại vào các châu có nhiệm vụ như một xã trưởng, theo đề nghị của dân các xã thì chức xã trưởng phải do dân bầu ra. Xã trưởng đó làm việc được hay không sẽ phụ thuộc vào sự cất nhắc của quan lại cấp huyện và cấp châu. Để can thiệp vào chuyện dân chủ của làng xã, vua đưa ra nhiều chế tài: hai xã trưởng không được có quan hệ họ hàng với nhau, trách nhiệm rà soát những việc đó thuộc về quan phủ và quan huyện. Trong văn bản giáo hoá dân chúng theo Nho giáo (Hồng Đức thiện chính thư), vua cũng đề cập đến sự ràng buộc thông qua xét duyệt các xã trưởng: nếu xã trưởng nào lập bè phái hay thoái hoá Nho giáo thì xã trưởng đó phải chịu hình phạt của nhà nước và người bầu xã trưởng đó lên cũng bị phạt trước tiên. Khi chính quyền trung ương đã đủ mạnh, chỉ dụ năm 1466 chia lại xã thành đại xã, xã vừa và tiểu xã, xã còn nhỏ hơn nữa - xã lớn nhất có đến 5 xã trưởng và xã nhỏ nhất có 1 xã trưởng. Đồng thời ông cũng quy định tiêu chuẩn bầu xã trưởng: trước đây dân chọn xã trưởng ra sao là quyền của họ, nhưng Lê Thánh tông đặt ra các tiêu chí để chọn xã trưởng: xã trưởng phải tầm tuổi trung niên và có kinh nghiệm, đối nhân xử thế, giải quyết được các vấn đề trong xã hội; có học vấn, biết chuẩn mực đạo đức Nho giáo và có nề nếp (không nhất thiết phải đỗ đạt). Chỉ dụ năm 1487 ra một tiêu chuẩn là: chỉ có người có tuổi, có đạo đức tốt biết sách Nho giáo, có uy tín mới làm xã trưởng - truyền thống trọng tuổi tác được vua Lê đề cao.
Trong thời Lê sơ thì công cuộc mở mang làng xã phát triển mạnh: nhà vua chủ trương lập đồn điền ở cửa sông, ven biển vào năm 1481. Đồn điền không phải là hiện tượng mới, nhưng nếu thành một chủ trương của nhà nước thì đó là vấn đề nổi bật nhất lịch sử Việt Nam. Trong chỉ dụ năm 1481, nước ta có 44 sở đồn điền, các vùng ven biển trở thành đồn điền với diện tích canh tác rất lớn. Những đồn điền được phân bố rải rác từ kinh đô đến tận Quảng Nam, nhưng đông nhất là ở Bắc Bộ với 30 sở đồn điền. Chính sử có kể tên một số sở đồn điền như: Dịch Vong, Quán La, Chi Ngại, La Sơn; Thanh Hoá có 5 sở đồn điền; Nghệ An 4 sở, Thuận Hoá 2 sở, Quảng Nam 2 sở. Các sở đồn điền này thì tuỳ theo quy mô của nó mà chia thành 3 hạng: thượng, trung, hạ; ở mỗi sở đồn điền đều có chức chánh và phó, tên đồn điền được chuyển thành tên các làng xã và huyện. Lực lượng tham gia đồn điền chủ yếu là tù binh và tội phạm - biên chế vào nam ban đầu là quân sự, về sau chuyển sang dân sự. Người làm trong đồn điền thì gọi là đồn điền binh hay biền binh. Buổi khai phá, các ruộng đất tại đồn điền được chia cho dân nghèo; họ cày và nộp tô cho nhà nước. Đồn điền dần trở thành ruộng công nên gọi là quan đồn điền, quan điền. Ở một số nơi còn bảo lưu tên đồn điền như Tĩnh Ninh (Thanh Hoá), Quản La (ở Hà tây cũ)... Sở đồn điền ở Bắc Bộ thì thông thường nó đọng lại theo tên của các xã - phạm vi đồn điền thời Lê sơ tương đối nhỏ (phạm vi một xã); từ Thanh Hoá trở vào thì quy mô đồn điền lớn hơn vì phạm vi của đồn điền tương đương với một huyện và hình thành chủ yếu do khai khẩn.
Biện pháp về sở hữu ruộng đất thời Lê sơ rất phức tạp - thông cáo cho phép người dân được khai hoang và sử dụng đất khai hoang được. Bên cạnh chủ trương lập đồn điền, vua Lê khởi xướng công cuộc đắp đe ngăn mặn ở vùng đất ven biển, nên các làng xã ven biển từ Quảng Ninh đến Nam Định được hình thành, như: lễ hội thập thủ thiên ưng ở đảo Hà Nam (Quảng Ninh) tưởng niệm những người khẩn hoang lập làng ở đây, vị tiên hiền lập làng. Ở thời điểm chỉ dụ đắp đê ngăn mặn năm 1471 thì dân ở Quảng Ninh mở đất được 4.000 mẫu và nhiều làng xã ở Quảng Ninh; làng Ứng Thuỵ ven biển ở tổng Yên Ninh (Nam Định) được hình thành sau chỉ dụ 1471 - tư liệu địa phương tỉnh Nam Định cho biết: họ Bùi ở Yên Mô, họ Nguyễn ở Vụ Bản uy động nhân dân tìm đến vùng đất này khai hoang lập làng gồm 3 xã
=> nhờ đó mà kinh tế phát triển khiến dân số tăng lên. Áp lực dân số khiến công cuộc lập làng càng đẩy mạnh hơn. Xuất phát nhu cầu cần mở mang diện tích canh tác, ổn định cuộc sống cư dân. Dân số tăng mạnh cũng dẫn với việc tách làng ra để quản lý dân đinh và thuế khoá. Về sau, nhu cầu đất đai hình thành chính sách quân điền của triều đình giúp củng cố truyền thống làng xã, dung hoà giữa quyền lợi của nhà nước với làng xã, dung hoà quyền lực nhà nước với tính tự trị của làng xã. Do vậy chính sách này dựa trên ruộng công và nó sát với lòng dân vì với chính sách này, những người tàn tật cũng có đất - theo truyền thống làng xã thì dân đinh được có, thì về sau người tàn tật, bà goá, người già cả, mồ côi đều được chia ruộng đất cả. Sở dĩ chia được đất do quỹ đất nhiều từ khai hoang, áp lực dân số, đắp đê ngăn mặn, lập đồn điền (những biện pháp này là đan xen lẫn nhau) => với quân điền thì số ruộng công của nhà nước thuộc về sở hữu lớn của vua, hình thành quan hệ địa chủ - tá điền (công xã nông thôn bị phong kiến hoá sâu sắc). Làng xã thay đổi về chất và đang bị phong kiến hoá.
Xã trưởng trung thành với nhà vua, thừa hành đắc lực mọi nhiệm vụ với các công việc: thu thuế, lập số hộ, quản lý dân đinh, quản lý số lượng diện tích ruộng đất, cung ứng số lượng binh lính cho triều đình, đảm bảo phu phen cho nhà nước. Hằng năm xã trưởng phải thu số thóc thuế của người dân trong làng để nộp vào kho của nhà nước, không làm đủ sẽ bị phạt theo luật hoặc bị đi đày. Suất thuế nộp triều đình được chia thành 10 phần, xã trưởng phải truy thu 3 phần để nộp cho nhà nước. Xã trưởng cũng có thể trình báo lên quan phủ hoặc quan huyện xin giảm thuế cho dân. Những năm đói kém thì vua ra lệnh miễn thuế, họ căn cứ vào mức thuế khoá và tình hình để điều chỉnh cho phù hợp. Nếu xã dân thiếu thuế hoặc trốn thuế do tai ương hoặc bệnh tật, xã trưởng phải tường trình miễn giảm hoặc thu thuế vào kỳ sau. Xã trưởng tăng thuế bất thường thì nếu phát hiện, nhà nước buộc họ phải bồi hoàn cho dân. Trong việc thực hiện nghĩa vụ cấp lính cho nhà nước, xã trưởng chọn được đinh tráng mạnh khoẻ - nếu đinh tráng đào ngũ thì xã trưởng phải lùng bắt trở lại, hoặc kiếm người khac thế chỗ; chọn người yếu hay quá kém thì xã trưởng bị tội đồ; nếu từ 2 - 5 người đào ngũ thì xã trưởng phải bị tội lưu (đi đày: lưu cận châu, lưu viễn châu); nếu từ 6 - 9 người đào ngũ thì xã trưởng bị tội giảo (chém đầu). Xã trưởng cứ 3 năm thi Hương (thi ở địa phương) một lần (năm Tý Ngọ Mẹo Dậu), năm Thìn Tuất Sửu Mùi thì thi Hội. Người thi Hương phải được xã trưởng bảo lãnh với tư cách cá nhân, đạo đức tốt, nhà có nề nếp; xã trưởng phải có danh sách thí sinh đi thi, có cam kết về số lượng học trò đi thi: xã lớn 20 người, xã vừa 15 người, xã nhỏ 10 người đi thi. Ngoài ra, xã trưởng cũng có trách nhiệm là giữ gìn an ninh trật tự cùng với thiên xã sử và xã tư (xã phó). Xung quanh làng trồng tre làm hàng rào ngăn cách tự nhiên; khi cướp tấn công thì huy động lực lượng tuần đinh hoặc tuần binh chống trả lại, cấp báo cho dân làng cùng hỗ trợ. Nếu xã trưởng thiếu trách nhiệm sẽ bị xử; còn nếu mà cướp mạnh quá thì không truy cứu trách nhiệm. Việc chống cướp liên quan đến khai báo nhân khẩu: xã trưởng bao che cho người lạ trú ngụ quá 3 tháng thì bị tội đồ và xã trưởng không phát hiện dân tự "hoạn" để làm quan vào cũng bị xử tội đồ (lúc đầu vua chọn hoạn quan làm xã trưởng, về sau có nhiều hoạn quan hầu vua. Để tránh hậu hoạ cho hậu cung, triều đình buộc phải "thiến" đi. Một trường hợp khác là tự "thiến" để làm quan vì làng nào tiến cử một hoạn quan cho vua thì làng đó hưởng nhiều bổng lộc do hoạn quan này hầu cận vua, nhiều quyền lực; xã trưởng nào không phát hiện được dân tự "thiến" thì bị xử tội đồ. Khi trong làng xã có người đau yếu thì ông phải dựng lều trông nom họ, nếu có người chết phải báo quan trên. Xã trưởng còn phải giữ gìn thuần phong mỹ tục ở làng: cãi nhau, kiện tụng, tranh chấp đất đai, tranh giành quyền thừa kế... thì xã trưởng phải xử công tâm để dân ít kiện cáo. Triều đình có quy định: nếu dân có kiện tụng thì kiện đầu tiên ở xã; xã không giải quyết sẽ chuyển lên cấp cao hơn; dân kiện vượt cấp cũng bị xử tội. Nếu xã trưởng thiên vị và tham nhũng trong kiện cáo, ông ta bị đánh roi và tội đồ, bị cách chức, phải bồi hoàn cho người bị đơn.
Chương 1: Nhập môn làng xã Việt Nam trong lịch sử
1. Khái quát làng xã Việt Nam trong lịch sử
Làng không chỉ là một đơn vị hành chính, mà nó còn là một đơn vị cư trú, một đơn vị kinh tế, một đơn vị văn hóa. Cùng với quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và hình thành giai cấp, nhà nước thì làng Việt lúc này đã xuất hiện. Làng Việt có lịch sử hình thành rất lâu đời, gắn với quá trình lập nước đầu tiên, gắn với quá trình ra đời của nhà nước Văn Lang - Âu Lạc trong lịch sử. Rõ ràng là, lịch sử của làng Việt cũng dài như lịch sử của đất nước.
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, ngay từ thời kỳ mở đầu cho đến bây giờ; làng lúc nào cũng đóng vai trò quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống đất nước. Thứ nhất, trong nhân tố đầu tiên cấu thành nhà nước thì gồm nhiều yếu tố, trong đó có các vấn đề liên quan đến kinh tế, liên quan đến xã hội. Nhưng ở các nước phương Đông mà trong đó có Việt Nam, vấn đề trị thủy và ngoại xấm đã đặt ra các yếu tố cơ bản, thậm chí còn nổi trội hơn so với vấn đề phân hóa giàu nghèo. Các làng xã Việt Nam đóng vai trò quyết định trong quá trình trị thủy, thủy lợi, khai hoang để phát triển sản xuất; tất cả những công tác đó đã đặt nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của các quốc gia cổ đại đầu tiên cho đến các thể chế chính trị sau này. Trong tiến trình phát triển của đất nước, làng xã còn là nơi giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc: lòng yêu nước, ý chí tự cường, đấu tranh bất khuất. Tất cả các nét đẹp đó tạo nên một bản sắc văn hóa, sức mạnh cộng đồng để giúp đồng bào ta chiến thắng được công cuộc đồng hóa của giặc phương Bắc và các thế lực xâm lược khác trong các thế kỷ XIX - XX.
Việc nghiên cứu làng Việt có một ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam nói chung. Nó không chỉ ở giai đoạn hiện đại mà cả ở trong tiến trình lịch sử, làng Việt luôn luôn là thực thể gắn bó với các giai đoạn phát triển của lịch sử dân tộc. Một thực tế diễn ra là các triều đại phong kiến của nước ta muốn giữ được sự ổn định của xã hội, có được sự phát triển của đất nước trên các lĩnh vực và muốn chiến thắng được giặc ngoại xâm thì đều phải dựa vào làng xã. Triều đình nào, thể chế nào làm tốt vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân thì triều đại đó đạt được nhiều thành tựu mỹ mãn. Nhưng trong lịch sử, không phải lúc nào các triều đình cũng có làm được mỹ mãn như thế, phải trải qua những bước thăng trầm. Chính vì thế khi nghiên cứu về làng Việt, nó giúp chúng ta phác họa lại quá trình phát sinh, phát triển cũng như những đóng góp cụ thể; vai trò, vị trí của các làng Việt trong tiến trình đó. Và đối với các học giả nước ngoài thì người ta đều nhất trí với nhận định: làng Việt chỉ là chìa khóa để giải mã được những ẩn số của các điều bí mật của Việt Nam, sự tích thần kỳ của Việt Nam. Làng Việt có quá trình phát triển lâu dài như vậy, nên những vấn đề liên quan đến làng, bản thân làng và đó cũng là thực thể phong phú và phức tạp. Tuy có những quy luật chung, nhưng làng Việt chưa bao giờ tách khỏi môi trường nhiệt đới gió mùa; và nó gắn chặt chẽ với cư dân Việt, gắn bó với lại truyền thống đấu tranh của dân tộc ta.
Như vậy có thể thấy làng việt tồn tại trong vận mạng chung của đất nước, kết hợp chặt chẽ giữa nước với làng. Sau này vào thế kỷ 19, Nguyễn Ánh sau khi lên ngôi vua có nói một câu rất hay: "nước là do tập hợp của các làng mà thành" - tức ông sớm nhận ra được vai trò quan trọng của làng ứng với sự tồn vong của đất nước, vai trò của làng xã với sự ổn định của xã hội.
2. Lịch sử nghiên cứu về làng xã Việt Nam
Do tầm quan trọng của vấn đề làng xã, ngay từ sớm đề tài làng xã đã thu hút nhiều sự quan tâm của các học giả. Hằng năm nước ta vẫn tổ chức các hội nghị, hội thảo ở cả hai miền; chủ quản là DHKHXHNV Hà Nội cũng đã có nhiều nghiên cứu về làng xã. Làng xã ở đây chính là lịch sử của các địa phương, các vùng miền. Các học gia quốc tế cũng quan tâm rất nhiều về làng xã, quan trọng nhất là họ quan tâm đến sự biến đổi của làng xã. Sau Đổi mới, nhiều yếu tố cổ truyền bị biến đổi do tác động của yếu tố kinh tế thị trường; nhưng có những yếu tố nào của làng xã cũng được bảo lưu, một số yếu tố biển đổi theo chiều hướng nào.
Từ thế kỷ 17 đã xuất hiện các công trình nghiên cứu đầu tiên về làng Việt. Những vấn đề đầu tiên liên quan đến nông dân Việt được phác họa sơ lược trong một số tài liệu của các thương nhân, giáo sĩ phương Tây. Trong các kho tư liệu của các Công ty Đông Ấn Anh và Pháp thì lưu trử khá nhiều, trong đó có những tư liệu nói về làng Việt thế kỷ 17 - 18 như cuốn "Mô tả vương quốc Đàng Ngoài" của Samuel Baron, "Lịch sử Đàng Ngoài" của Richard, "Vương quốc Đàng Ngoài - hành trình và truyền giáo" của A. de Rhodes... Những quyển sách này rất mỏng, xuất bản đầu tiên năm 2006 và nhiều lần tái bản; nội dung trong sách rất thú vị: người Việt trong mắt người nước ngoài thế nào, trang phục văn hóa của ông bà như thế nào, có những gì tương đồng với ngày nay.
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, xuất hiện một số tác phẩm chuyên khảo như "Làng xã Annam ở Bắc Kỳ" của Paul Ori (Pháp), xuất bản năm 1894 ở Paris - ông ta mô tả kỹ lưỡng, có hình chụp nữa; lý giải nguồn gốc của từ "xã", tổ chức của xã như thế nào, phân hạng nhân dân trong xã ra sao, cưới hỏi, tang ma ra sao...Cuốn "Thành bang Annam" của Bui-phô (1909) có mô tả về nông thôn Annam. Nhưng nghiên cứu này không phải là chuyên khảo khoa học, mà để phục vụ cho sự đô hộ của thực dân; chứng minh nông thôn Việt Nam được xây theo kiểu mẫu của nông thôn Trung Quốc ở trình độ mông muội, cần có sự "khai hóa" của Pháp. Những học gia này chịu ảnh hưởng thuyết "châu Âu làm trung tâm" thì trong mắt họ VN chưa văn minh, lạc hậu. Một cái của họ khiến ta ấn tượng là trong công trình của họ, họ thấy lịch sử nước ta trong quá trình khi mà hình thành đến bây giờ thì đều là chịu nhiều ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa. Trong con mắt của họ, mô hình nông thôn Việt Nam rất giống mô hình nông thôn Trung Quốc ở một số tên gọi, đơn vị hành chính như xã, phun đều có gốc từ Trung Quốc. Nông thôn việt Nam là bản sao của Trung Quốc, không khác biệt gì cả - đây là quan điểm sai lầm.
Sau Thế chiến 1, việc nghiên cứu làng Việt được mở rộng hơn trước. Bên cạnh các học giả người Pháp là một số học giả người Việt. Họ du học ở nước ngoài và bản thân rất khá giả; họ sang tiếp nhận phương pháp nghiên cứu của phương tây nên những trí thức Tây học này có một góc nhìn mới về lịch sử Việt nói chung và làng xã nói riêng. Người nổi tiếng nhất là học giả Nguyễn Văn Huyên và ông giỏi dân tộc; nhưng trong nghiên cứu của mình, ông nghiên cứu nhiều nhất là làng xã; nổi bật là cuốn "Nghiên cứu về làng Annam" của ông xuất bản năm 1939. Một học giả nữa rất nổi tiếng là Phan Kế Bính với nhiều đầu sách viết về phong tục và phép nước; tên tuổi của ông đóng đinh trong sách "Việt Nam phong tục". Một cuốn sách nữa của học giả Gourou (Pháp) là "Nông dân đồng bằng Bắc Kỳ" (xuất bản lần đầu năm 1936) rất nổi tiếng trong nước và nhiều nước phương Tây khác. Để viết được sách này thì Gourou dành 4 năm khảo sát các làng xã Bắc Bộ; ông nghiên cứu toàn diện, phác họa rõ nét khung cảnh làng xã Việt đầu thế kỷ 20, sưu tầm các tài liệu của TQ và dùng phương pháp tính toán, định tính để ra các con số ước lượng về số dân, thu nhập, chi tiêu trong sản xuất. Ngoài ra cũng có "Việc làng" của Ngô Tất Tố, các bài báo của Hoàng Đạo đăng trên báo Phong Hóa. Sách "Sở hữu ruộng đất làng xã ở Bắc Kỳ" của Vũ Văn Nghiêm; nghiên cứu về nghề thủ công của Hà Đông của Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu.
Sau cách mạng tháng Tám 1945, ở vùng chiếm đóng của Pháp có một số tác phẩm tiêu biểu như luận án tiến sĩ luật học của Vũ Quốc Thúc (làm thành sách "Kinh tế làng xã ở miền Bắc Việt Nam" xuất bản năm 1951); cuốn "Làng xóm Việt Nam" của Toan Ánh 1968 - quyển khảo cứu của ông là chuẩn xác, nhưng cách viết có phần lộn xộn. Với sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác - Lenin, nhiều chuyên khảo mới về làng xã mà tiêu biểu nhất là cuốn "Về vấn đề dân cày" của Qua Ninh và Vân Đình (làm cách mạng dựa vào nông dân - đó là giai cấp vô sản duy nhất để tập hợp lực lượng vào một tố chức cách mạng duy nhất). Sau năm 1954, Viện sử học Việt Nam được thành lập; đầu tiên là cuốn "Xã thôn Việt Nam" của Nguyễn Hồng Phong. Về sau có quyển "Nông thôn Việt Nam trong lịch sử" của tập thể tác giả thuộc Viện sử học (1977 - 1978) nghiên cứu toàn diện làng xã Việt Nam. Cuốn "Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ" của Trần Từ (1984) rất hay, ấn tượng.
Sau Đổi mới xuất hiện nhiều bài xã luận của tác giả N.V.L trên báo Nhân dân mà người đọc không đoán ra được tên tác giả, nó thổi một làn gió mới cho xã hội Việt Nam bị đè nén, giới khoa học dần đưa ra ánh sáng những điều mà trước đây bị "cấm kị", đánh giá lại sự thật lịch sử - nhất là vấn đề làng xã, xây dựng nông thôn mới được quan tâm rất nhiều để khắc phục những khó khăn trước mắt, những sai lầm về đường lối ("khoán chui" bắt nguồn từ làng xã). Nhiều hội thảo về làng xã đã diễn ra ở dh Tổng hợp Tphcm rất quy mô với trí tuệ của nhiều người, tranh luận với các chuyên gia nước ngoài để nghiên cứu về phong trào hợp tác hóa nông nghiệp; chương trình khoa học cấp nhà nước về phát triển toàn diện kinh tế xã hội. Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất năm 1998 đã có riêng một tiểu ban làm về làng xã Việt. Nhiều nhà xuất bản đã xuất bản nhiều sách chuyên khảo về làng xã, quản lý làng xã, văn hóa dân gian, tâm lý người dân. Đồng thời xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về làng xã đăng trên các tạp chí khoa học uy tín. Số lượng nghiên cứu sinh làm luận án về làng xã nhiều
Ở Nam Bộ, người có nhiều công trình nghiên cứu về mảng làng xã là GS Ngô Văn Lệ, nguyên trưởng khoa lịch sử của DH Tổng hợp Tphcm. Nhiều học viên chọn đề tài làng xã để nghiên cứu toàn diện như đề tài về Thăng Long, vùng Kinh Bắc, vùng "xứ Đông" thời trung đại, vùng Lục Đầu giang, quê hương của các cảng thị... vùng đất có không gian văn hóa đặc thù về Hà Nội, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Huế, Quảng Nam
Những năm 80 - 90 có các công trình nghiên cứu về ruộng đất của các GS Phan Huy Lê, GS Vũ Minh Giang, Nguyên Đức Nghinh, Vũ Huy Phúc. Ở miền Nam có học giả Nguyễn Đình Đầu khai thác kho tư liệu lưu trữ để làm thành bộ Địa bạ triều Nguyễn
Nhiều học giả ở nước ngoài nghiên cứu về Việt Nam, thậm chí lập ra trung tâm nghiên cứu về Việt Nam ở Bắc Mĩ, Hà Lan, Nga. Một số học giả nước ngoài nghiên cứu về làng xã Việt Nam như Lương Văn Hy, Jon Leeman (Hà Lan), Yi Sun Yu (luật, mối quan hệ giữa làng và nước). Đã có một công trình nghiên cứu về làng xã Việt Nam (1996 - 1999) in thành sách "Làng ở vùng châu thổ sông Hồng: vấn đề còn bỏ ngỏ". Chương trình nghiên cứu "Nông thôn Việt và làng xã trong vùng châu thổ sông Hồng" do Việt Nam hợp tác với Nhật Bản cùng nghiên cứu, qua trường hợp một làng ở huyện Vụ Bản, Nam Định
3. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
a. Nguồn tư liệu:
- Hầu như không có một quyển chính sử nào nói về làng xã; nhưng một số ít thông tin về làng xã (cơ cấu tổ chức, luật pháp) được đề cập trong các sách như Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục; Kiến văn tiểu lục và Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn; các bộ sử của Quốc sứ quán triều Nguyễn; các bộ sử của tư nhân soạn như Kinh Bắc dư địa chí, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí => được gọi là thư tịch cổ. Thư tịch cổ: là các tài liệu do chính nhà nước hoặc tư nhân tự biên soạn
- Các tác giả địa phương: người có chữ nghĩa, gắn bó với quê hương (thường là thầy đồ, thầy giáo về hưu). Ông là người ghi chép tài liệu của dòng họ, chấp bút cho các bài văn tế, gia phả của dòng họ. Ông cũng là người yêu quê hương, ghi chép ở khắp quê hương mình để truyền lại cho các thế hệ sau. Ở địa phương nào càng có truyền thống khoa cử thì ghi chép càng nhiều; vùng sâu vùng xa ghi chép rất hiếm. Có quy luật là cách có phạm vi gần Hà Nội thì số công trình nghiên cứu rất nhiều, vì Hà Nội là trung tâm và là kinh đô của quốc gia suốt 9 thế kỷ, nơi mở kỳ thi chôn Thái học sinh ra làm quan, số khác thì tỏa về làng xã - như vậy ở địa phương có nhiều học gia địa phương là vì thế.
- Ghi chép của thương nhân và giáo sĩ phương Tây: sách của Samuel Baron, Pavonier, Daniel; rất tổng hợp và ngắn gọn
- Tư liệu điều tra thực địa, gồm:
* Thần tích: vị thần (có lai lịch) của làng được vua ban sắc phong
* Thần phả: lai lịch của vị thần trong làng
* Sắc phong: văn bản của triều đình trao cho thần trong làng, thể hiện quyền lực của triều đình vươn đến làng xã
* Văn bia: dòng chữ được khắc trên bia. Trong quá khứ, văn bia cung cấp nhiều thông tin, đặt ở chùa, đình và đền. Bia dựng năm nào, thờ ai; ai có công đóng góp (vd nhờ văn bia nên phục dựng lại cảng thị Phố Hiến). Vào đền thấy người ta treo biển có khắc chữ Hán Nôm trên đó
* Đại tự: biển ghi các chữ Hán Nôm treo trong đền. "Đại tự" là dòng chữ to, thường người ta sẽ treo ngang
* Câu đối: chữ ghi ở biển "đại tự". Câu đối treo dọc ở hai bên ban thờ rất đối xứng. Ở đại tự và câu đối thì Nội dung là ca ngợi công đức của người được thờ, biết được tước vị của người được thờ => cho ta biết nhân vật ấy có đỗ đạt không, tước vị quan ở triều đình.
* Địa bạ: nghĩa đen là "sổ đất" là loại tư liệu thực địa rất quan trọng, là số ghi chép về ruộng đất. Trong địa bạ này có họ tên của những người nhận và sở hữu đất => làng có bao nhiêu dòng họ sinh sống, lượng chức sắc chiếm bao nhiêu ruộng đất, mỗi người sở hữu trung bình bao nhiêu ruộng đất để quy ra làng này giàu hay nghèo. Khi thiếu ruộng đất, nông dân làm thêm nghề phụ. Địa bạ phác họa thực trạng của làng xã qua các loại ruộng: ruộng loại 1 (chất lượng đất tốt, thu hoạch cao), ruộng loại 2, ruộng loại 3; cộng thêm các loại công cụ lao động cho từng loại ruộng. Làng nào có ruộng loại 3 thì dân không bao giờ bị đói. Chia loại ruộng giúp xử lý các vấn đề về đất đai, mùa màng, thủy lợi, phân bón, cách chăm sóc => ảnh hưởng đến tâm lý của người dân. Ở miền Nam có địa bạ với các nghiên cứu của Nguyễn Đình Đầu; ở Trung và Bắc toàn là các địa bạ Hán Nôm; nhưng địa bạ ở Bắc Bộ không phản ánh đúng tình trạng ruộng đất vì có tình trạng "ẩn lậu" số ruộng". Ở Huế thì địa bạ rất nhiều với tỉ lệ ruộng công cao ở quanh kinh đô Huế (xem thêm nghiên cứu của Thái Quang Trung). PGS TS Phan Phương Thảo chuyên nghiên cứu địa bạ ở Bình Định, chính sách quân điền của vua Nguyễn ở Bình Định. Địa bạ ở Hà Đông, Thái Bình cho những con số rất hay
* Hương ước: những tục lệ của làng xã được những người dân trong làng đồng thuận để duy trì lệ làng, phép nước; duy trì các nguyên tắc cai trị bên trong làng xã. Hương ước từ miền Trung đổ ra Bắc thì có; miền Nam thì hương ước chỉ xuất hiện trong những năm gần đây gọi là "hương ước trong phong trào xây dựng nông thôn mới", các hương ước cổ truyền thì trong Nam cũng có.
* Gia phả: lịch sử của dòng họ. Qua gia phả cho biết thông tin về các nhánh, các ngành, các chi, lai lịch xuất xử của dòng họ, thăng trầm của dòng họ (họ Mạc sau khi thất thế đã đổi thành 65 họ khác nhau) vì mỗi nông thôn đều có một số dòng họ lớn nhỏ khác nhau.
* Chúc thư: là di chúc mà trong đó dòng họ, quy mô sở hữu tài sản của dòng họ, nhà cửa, đất đai và tài chính. Chúc thư giúp xác định quan hệ tiền tệ thời đó như thế nào, người viết chúc thư để lại cho con cháu bao nhiêu ruộng đất
* Văn tế: là dạng thư tịch nói về sự nghiệp, công lao của người được thờ cúng ở đấy; bổ sung thêm các thông tin, nhận thức về nhân vật được thờ
* Ghi chép của các gia đình, dòng họ và cá nhân: thường không ai ghi chép về các việc làm của gia đình, chỉ những người nào tâm huyết lắm mới viết mà thôi.
=> các loại thư tịch này xuất hiện trong bản thân các làng xã hoặc trong Viện Khoa học xã hội, Cục Lưu trữ, Viện Viễn Đông Bác cổ. Trong số các nguồn thư tịch về làng xã thì cái nào cũng quan trọng. Muốn sử dụng được các nguồn tư liệu này phải biết Hán Nôm, dập văn bia để đọc.
Trong quá trình tìm các văn bản thì thấy một số văn bản có nội dung bị sai lệch so với văn bản gốc nên phải biết đối chiếu, so sánh các nguồn tư liệu khác xem coi chênh lệch bao nhiêu phần trăm. Trong số các di tích thì có nhiều di tích gắn liền với cộng đồng làng xã, hoặc được sản sinh trong quá trình người tạo lập và hoạt động trong làng xã ấy, liên quan đến văn hóa và tín ngưỡng nói chung; làng Công giáo cũng có nhà thờ. Trong làng Việt truyền thống bao giờ cũng có nhà thờ tổ, từ đường, nhà thờ của các chi phái và các dòng tộc, các nhánh ...; có kiến trúc nhà tổ, kiến trúc dân dụng, các công trình trong sinh hoạt của gia đình hay công cụ lao động của nông dân; đời sống sinh hoạt của cư dân đó và không vùng nào giống vùng nào. Vd như công cụ lao động của mối vùng khác đều do các chất đất, con mắt thẩm mỹ trong mắt của cư dân ở đó => cho thấy rằng trên cùng một không gian làng xã thì không làng nào giống làng nào, hai làng cạnh nhau nói phương ngữ khác nhau. Những đặc trưng về vật dụng, cách thức sinh hoạt, các công trình kiến trúc vật chất, công cụ sinh hoạt và công cụ sản xuất giúp khôi phục bộ mặt làng xã trong quá khứ. Có điều thú vị là công cụ lao động bằng tay của nông dân rất ít thay đổi trong lịch sử bất chấp điện khí hóa, công nghiệp hóa.
- Tư liệu truyền miệng: là nguồn tư liệu đặc trưng của làng xã, được sản sinh trong quá trình lao động và sinh hoạt của làng xã nên nó phản ánh trung thực. Nhưng đặc điểm chung của loại tư liệu này là nó mang tính ước lệ, thiếu độ chính xác nên người nghiên cứu phải so sánh đối chiếu, thậm chí là giám định tư liệu để có thông tin vừa đa dạng, vừa có ích để phản ánh, khôi phục lại quá trình, hoạt động của làng xã
Tài liệu làng xã cũng giống như tài liệu lịch sử nói chung, nhung nó cũng có sự khác biệt: khi nghiên cứu lịch sử đương đại phải chú ý các văn bản của tổ chức chính quyền địa phương, riêng làng xã sẽ có quan tâm đến.
b. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài các phương pháp lịch sử và phương pháp logic; nghiên cứu làng xã có các phương pháp sau:
- Phương pháp hồi cố: dùng các tư liệu do sự nhớ lại, hồi tưởng lại hoặc đã chứng kiến, tham dự vào sự kiện mà chúng ta đang quan tâm nghiên cứu. Chúng ta sử dụng phương pháp này khi đi thực địa, bám sát địa bàn mà chúng ta nghiên cứu. Phương pháp này được dùng song song với phỏng vấn, điều tra sâu. Tích cực của phương pháp này là phản ánh người thật việc thật, nhưng cũng phải sàng lọc vì tư liệu hồi cố do một cá nhân kể, cá nhân này chịu sự chi phối của tư tưởng, tâm lý, nhận thức bản thân trong giai đoạn đó, về sự kiện đó. Khi nghiên cứu nên chọn lọc và đối chiếu, tránh bị nhiễu hoặc sa lầy thông tin.
- Phương pháp Liên ngành là phương pháp sử dụng đồng thời, hiệu quả và bình đẳng từ hai phương pháp chuyên ngành trở lên để nghiên cứu về sự vật hay hiện tượng: Dân tộc học, Kinh tế học, Xã hội học, Văn hoá học, Địa lí học... Tùy từng vấn đề mà có sự kết hợp giữa các phương pháp với nhau. Thực chất của liên ngành là xem đối tượng nghiên cứu như một khu vực; làng xã là một khu vực - trong làng xã có không gian văn hóa xã hội của một cộng đồng cư dân
- Phương pháp Khu vực học: lấy một không gian xã hội – văn hoá bao gồm các lĩnh vực hoạt động của con người và quan hệ tương tác giữa con người và điều kiện tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu.
=> phương pháp liên ngành và khu vưc học thường dùng chung với nhau, vì người ta coi cộng đồng làng xã là một không gian văn hóa. Nó chứng kiến dấu vết sinh hoạt của cộng đồng cư dân trong làng xã đó. Làng xã là đối tượng nghiên cứu thì nguoi2 ta xem nó trong mối tương tác với môi trường tự nhiên, sự tương tác của các yếu tố tác động đến sự hình thành và phát triển của các cộng đồng đó, các khu vực đó trong tiến trình lịch sử
- Phương pháp hệ thống cấu trúc: phương pháp này nhìn nhận làng xã như một hệ thống tổng thể, mà mỗi một yếu tố cấu thành nên làng xã thì phải có một cách tiếp cận khác nhau. Tùy từng vấn đề cụ thể mà có cách tiếp cận chuyên biệt, phương pháp nghiên cứu chuyên biệt; tổng hòa những cái đó là một hệ thống để mình nhìn nhận vấn đề một cách logic, tương tác cùng với sự chi phối của các quy luật khách quan; các yếu tố như bối cảnh lịch sử, tác động của chủ trương chính sách trong thời kỳ mà đề tài đó nghiên cứu.
Chương 2: Nguồn gốc và quá trình hình thành, phát triển của làng xã
2.1. Khái niệm về làng
Không ít những học giả đưa ra các khái niệm về "làng", tuy nhiên mỗi người có cách nhìn và cách đặt vấn đề khác nhau.
+ Cuốn "Làng xã của người Annam ở Bắc kỳ" của Ory (cuối thế kỷ 19) thì ông không đưa ra một định nghĩa về làng mà ông ta tiếp cận luôn - gọi làng là xã và ông ta tìm hiểu về xã đó. Theo ông, xã là nơi mà những người dân tổ chức cúng tế các vị thần đất, là nơi thần đất cai quản trực tiếp cuộc sống của người dân ở xã ấy. Cũng theo ông, từ "xã" theo tiếng Hán nghĩa là "thần đất", chỉ nơi quần tụ các cá nhân làm nghi lễ thờ cúng thần đất.
+ Sách của ông Gourou không định nghĩa về xã như Ory, mà định nghĩa làng là "một cụm cư trú của cộng đồng cư dân ẩn mình sau một rặng tre xanh thẳm, nơi mà các truyền thống và các phong tục của cư dân là lâu đời và truyền từ đời này sang đời khác - theo Gourou, làng là một cái gì đó co cụm sau lũy tre xanh (lũy tre là vành đại bảo vệ làng, phạm vi để khoanh khu vực cư trú của cư dân của đơn vị làng này với làng khác). Gourou cũng nói thêm là những người nông dân sau lũy tre đó duy trì những phong tục tập quán từ đời này sang đời khác, chỉ tính cách của nông dân rất mộc mạc và ngay thẳng, nhưng cũng có phần cực kỳ bảo thủ (sự cố hữu của nông dân với việc xây dựng nông thôn mới). Một cái nữa đó là công đồng cư dân có sự hợp tác về kinh tế, các mối quan hệ xã hội => có lẽ Gourou muốn ám chỉ đến mối quan hệ dòng họ, sự liên kết theo huyết thống và đó chính là bản chất của xã thôn Việt Nam.
+ Cuốn "giáo trình về một số vấn đề làng xã trước cách mạng tháng Tám" của Nguyễn Cảnh Minh và Nguyễn Duy Bính thì sách này giải thích nguồn gốc của từ xã là từ chữ Hán "si". Từ xã thì có nhiều từ đi chung với nhau như làng xã, xã thôn, làng xóm.
+ GS Phan Huy Lê trong sách Tìm về cội nguồn có định nghĩa: "làng" là dạng thức của công xã nông thôn của Á Đông gắn liền với "phương thức sản xuất châu Á". Đặc điểm nổi bật của làng xã thể hiện tính "công xã nông thôn Á Đông" là sự tồn tại dai dẳng của sở hữu công về ruộng đất; ruộng đất chính là tài sản chung của làng xã, được chia cho các thành viên trong làng xã theo một hạng mức nhất định, theo mốc thời gian tùy thuộc vào phong tục tập quán của làng đó. Quản lý làng xã mang tính tự trị cao, vì các thành viên trong làng tự bầu ra già làng. Cấu trúc quan hệ xã hội đặc thù tạo nên mối quan hệ cộng đồng dân chủ của làng xã.
+ GS Phan Đại Doãn thì có nhận định: Làng Việt là một thực thể rất nhiều tính chất rất đa dạng; nó lưu giữ yếu tố của ba loại hình công xã (công xã thị tộc, công xã gia tộc, công xã nông thôn) chồng xếp lên nhau. Trong làng Việt, tính công xã thị tộc còn mờ nhạt, nhưng tính công xã gia tộc, công xã nông thôn còn mạnh và nó lồng ghép với nhau. Gs cũng nói tính "công xã nông thôn" bị chi phối mạnh bởi phương thức canh tác tiểu nông (gia đình sản xuất nhỏ - là một đơn vị kinh tế và tư hữu nhỏ bao trùm xuyên suốt) mặc dù vẫn có sở hữu chung về ruộng đất
+ PGS Bùi Xuân Đính cũng định nghĩa về "làng": Làng là đơn vị tụ cư truyền thống của người nông dân Việt, có địa vực riêng, cơ cấu tổ chức, cơ sở hạ tầng, các tục lệ thờ cúng riêng, tâm lí tính cách riêng và cả thổ ngữ riêng, hoàn chỉnh và tương đối ổn định trong quá trình lịch sử. Cũng giống như Gourou, Bùi Xuân Đính khẳng định làng là một khu vực riêng biệt sau lũy tre (ngăn cách khu vực cư trú với khu canh tác, ngăn chặn xâm nhập từ bên ngoài, phân biệt dân chính cư và dân nhập cư. Để vào được làng phải qua cổng làng). Vd như tục hái rau dền trên cao ở một làng thuộc Bắc Giang, làng "hổ báo", làng "có con gái không kết hôn"; câu Trai Cầu Vồng Yên Thế - Gái Nội Duệ Cầu Lim” (nói về tinh thần thượng võ, thẳng thắn của con trai) => hiểu tâm lý, tính cách của từng vùng. Có làng "nói ngọng" hai chữ l và n; thổ ngữ, cách gọi có nét riêng của từng địa phương.
Trong nghiên cứu giữa làng xã Việt nam với làng xã phương Tây, tài liệu này nhận định quan hệ dòng họ và giữa các thành viên trong làng xã phương Tây lỏng lẻo, so sánh gia đình phương Tây như "củ khoai tây" không có gắn kết với nhau; làng xã Việt Nam ngay từ trước khi lập nước đã có gắn kết với nhau. Công việc chống giặc và chống thiên tai là công việc của tập thể, không phải riêng một cá nhân nào. Bên cạnh đó, tính thời vụ trong nông nghiệp đòi hỏi nông dân phải phân công và hợp tác cùng nhau làm ruộng; tình dòng họ trong làng xã ngày càng gắn kết, quan hệ huyết thống càng bền chặt và phát triển nó lên.
Trong một làng sẽ có một gia đình sống ở một khu vực địa lý nhất định và họ có huyết thống với nhau nên họ sẽ dùng mang chung một họ. Các họ gắn bó với nhau không chỉ bằng quan hệ huyết thống hay quan hệ dòng họ, mà còn có quan hệ láng giềng (quan hệ địa vực) gắn bó với nhau trong cuộc sống và sản xuất nên liên kết rất bền chặt. Khi nói làng Việt cổ truyền thì nói về xuất xứ của làng là miền Bắc; cùng với quá trình mở cõi phương Nam từ TK 11 thì các nhóm cư dân di chuyển dần vào Nma thì họ xây các làng của mình mang ảnh hưởng của làng miền Bắc (ở lưu vực sông Hồng và sông Thái Bình) và có thay đổi để thích nghi với địa hình và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở Nam Bộ.
Mỗi làng ở miền Bắc gồm một số gia đình quây quần trong 1 khu vực địa lý nhất định. Bên cạnh quan hệ địa lý láng giềng thì còn có quan hệ huyết thống để bảo tồn kết cấu làng. Các làng ở Nam Bộ là các thôn ấp ở vùng đồng bằng trải dọc bên bờ kênh rạch; ruộng liền với khu vực sinh sống nên các nhà cách nhau khá xa, cũng vì thế mà quan hệ ít gắn bó hơn các làng Việt ở Bắc Bộ. Làng Nam Bộ không giống kiểu lãnh địa phong kiến Tây Âu trung đại; vì sản xuất của người Việt ở Nam Bộ là sản xuất tự do, do thiên nhiên ưu đãi nên khi khi khai phá Nam Bộ thì đất được khai phá mặc nhiên bị biến thành ruộng tư, kinh tế phát triển theo hướng thị trường. Làng Việt cổ truyền thì nền kinh tế không hoàn toàn đóng kín: Theo Gs Trần Quốc Vượng thì "tính mở" của làng Việt ở Nam Bộ thể hiện rõ nhất ở các bến sông, hoạt động buôn bán giữa các làng tấp nập - tính phong kiến của làng Việt ở Nam Bộ rất thấp.
2.2. Các loại hình làng ở Việt Nam
- Có một số thuật ngữ chỉ "làng" trong các thư tịch cổ như Dư địa chí của Nguyễn Trãi; sách này đề cập đến nhiều đơn vị hành chính cấp cơ sở vào thế kỷ XV. Đầu thời Nguyễn thì một quyển sách của khuyết danh đề cập rất nhiều danh từ "xã". Trong hơn 6.000 đơn vị làng thì có 5.568 xã, người ta khảo sát vào thế kỷ XI thì thôn chỉ một làng nhỏ thực hiện chức năng là một đơn vị hành chính cấp cơ sở (cũng có những tập tục riêng, bản sắc riêng trong làng xã). Theo thống kê trong sách Tên làng xã Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, có tổng cộng 799 thôn trong tổng số 6.000 đơn vị hành chính cấp cơ sở được thống kê.
- Phường: là một đơn vị hành chính cấp cơ sở, gắn với nghề nghiệp mà người ta quy tụ lại. Có dạng "phường thủy cơ" ở các đầm, phá; phường này chủ yếu là tập hợp các thuyền bè trên sông để buôn bán. Có phường chuyên về nghề ca hát gọi là "giáo phường". Đặc biệt nhất có phường "tứ chiến" chuyên tập trung các khu ổ chuột của người vô gia cư, xuất xứ và ngành nghề phức tạp - khi nói: "Trai tứ chiến gái giang hồ" là nói về phường loại này. Theo sách trên, có 180 phường tính đến nửa đầu thế kỷ XIX, cùng với thôn tập trung chủ yếu ở Hà Nội.
- Trang: chỉ các làng ngày xưa gọi là các "điền trang" thời Trần của các quý tộc, sau này chuyển thành các làng.
- Trại: chỉ những ngôi nhà dựng tạm để che mưa nắng do yêu cầu lao động. Ở trại, khu vực cư trú và khu vực canh tác thường rất xa nhau; nhất là ở vùng đất mới khẩn hoang để tiết kiệm thì người dân dựng lều để nghỉ ngơi và canh tác, trông hoa màu. Khi dân đông lên thì họ buộc phải tách ra lập làng mới, trại dần dần biến thành làng
- Sở: là tên gọi chỉ đơn vị cư trú tương đương với làng. Tên cổ xưa của các sở là đồn điền, được hình thành do phong trào khẩn hoang lập đồn điền thời Lê sơ (Lê Thánh tông). Năm 1481 có ít nhất 4 sở đồn điền để mở mang diện tích đất canh tác.
- Châu: là những làng được lập ở ven sông. Ngoài ra còn có "vạn" nghĩa là các làng chài tập trung nhiều nghề. Khác với phường thủy cơ thì dân sống trên mặt nước, "vạn" thì cư dân kết hợp giữa hoạt động dưới nước và trên mặt nước.
- Giáp: để chỉ một đơn vị cư trú tương đương với làng; dùng để chỉ tập hợp những nam giới có cùng địa vực cư trú có mối quan hệ huyết thống rất chặt chẽ. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức lễ hội hay quản lý làng xã. Từ "Giáp" xuất hiện trong cải cách Khúc Hạo
- Sóc: ở các nơi thuộc trung du miền núi thường có các súc (hay sóc), các động của người miền núi.
- Nậu tích: nơi ở của những người làm muối (diêm dân)
- Đội: nơi ở của những người phục vụ trong quân đội, do tộc họ lập ra trong thời thuộc Minh
- Ấp: ở khoảng 150 người. Ấp xuất hiện rất sớm vào thời Lý như thái ấp, thang mộc ấp. Về sau, ấp được định là một đơn vị cơ sở dựa trên vị trí mà cư dân cư ngụ. Ở Nam Bộ, ấp là chỉ các làng
Làng và xã có khác nhau: làng là đơn vị cư trú cấp cơ sở của những nông dân; xã là đơn vị hành chính cấp nhà nước của làng. Quá trình chuyển từ làng lên xã đánh dấu sự hình thành nhà nước phong kiến.
Có nhiều làng có nguồn gốc từ các công xã nông thôn, các trang trại của quý tộc có chức vụ cao, từ quá trình khẩn hoang, chuyển từ các đơn vị hành chính của chính quyền đô hộ cũ.
Tên gọi của làng xã rất phong phú: tên Nôm (tên tục), tên Hán Việt (các làng Nam Bộ chỉ có 1 tên). Sau này xuất hiện những tên mới có ý nghĩa đẹp . Trước đây các làng có tên nôm na lắm, thường là từ Kẻ (Kẻ Chợ), tên địa điểm dọc các con đường lên biên giới như Kép, Chũ. Thậm chí có làng dùng một tên Nôm rất cổ; trên đường từ Hà Nội lên Sơn Tây bắt gặp những làng có tên là một cụm từ. Nhà nước khi sắp xếp tổ chức thì muốn tên các làng đẹp hơn thì dùng cách biến âm tên cũ nên tên Hán Việt xuất hiện. Có một số làng đặt tên làng theo tên dòng họ chính như Dương xá, Trần xá... để tri ân người mở đất lập làng. Ngoài ra tên làng xã còn được đặt tùy thuộc vào vị trí địa lý (ven sông, trải dài dọc sông), nghề nghiệp chính. Từ thế kỷ 17 - 19 xuất hiện làng buôn (làm ruộng, làm buôn có lãi) không đủ các điều kiện để chuyển thành các đô thị
2.3. Sự phát triển của làng xã Việt Nam trong lịch sử
Trong tiến trình lịch sử phát triển của làng xã có các giai đoạn phát triển sau:
* Giai đoạn 1: Làng phát triển từ các công xã nông thôn
a. Thời dựng nước:
Trong công xã nông thôn thời cổ đại, làng xã đã có mặt. Nguồn gốc hình thành làng xã rất dài, vì công xã nông thôn là dạng thức chuyển giao giữa nguyên thủy với hình thành nhà nước. Cuối thời nguyên thủy, công xã nông thôn mới xuất hiện - nhưng tiền đề hình thành các công xã nông thôn chính là các nền văn hóa của hậu kỳ Đá mới (khoảng 1 vạn năm về trước). Gọi là "thời Đá mới" vì thời này có nền nông nghiệp sơ khai, chăn nuôi (con người chủ động chọn ra thực phẩm). "Cách mạng Đá mới" đặt tiền đề cho sự hình thành các xóm làng. Từ hậu kỳ Đá mới đến sơ kỳ Đồng thau được đánh dấu bằng các nền văn hóa của thời Tiền Đông Sơn: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun.
Bắt đầu thời sơ kỳ Đồng thau thì những dấu tích cư trú của con người dần được phác lộ. Tầng văn hóa rất sâu chứng tỏ người Phùng Nguyên đã cư trú rất lâu dài trên địa bàn xóm làng - đó chính là dạng thức của công xã nông thôn; hình thái sinh sống của họ lúc này không phải công xã thị tộc mà là công xã nông thôn. Công xã nông thôn này có một đơn vị kinh tế là ruộng đất, quản lý đã rõ ràng rồi. Vào thời Văn Lang - Âu Lạc, các công xã nông thôn trở thành các làng cổ và phạm vi phân bố tương đương với phạm vi lãnh thổ của nhà nước đầu tiên (từ Thanh Hóa trở ra). Mật độ cư trú đậm nhất là ở vùng trung du (Vĩnh Phúc, tây Hà Nội, một phần Yên Bái, Bắc Ninh...), tập trung đậm nhất ở khu vực đền Hùng (Phú Thọ). Có những nơi còn tàn tích cũ bảo lưu được văn hóa truyền thống tốt đẹp - tục "ăn đất" ở Phú Thọ, Vĩnh Phúc; lễ hội "linh tinh tình phộc" của tín ngưỡng phồn thực, hát xẩm. Trong công xã nông thôn, việc quản lý rơi vào tay Bồ chính là người lớn tuổi, có uy tín và có nhiều kinh nghiệm. Từ "Bồ chính" có gốc từ chữ "Po'trinh" trong tiếng Việt cổ. Các công xã nông thôn đã liên kết với nhau trong lao động sản xuất; nhà nước đầu tiên được hợp thành từ sự liên kết giữa các công xã nông thôn, trong đó bộ lạc Văn Lang hùng mạnh nhất.
b. Thời Bắc thuộc
Công xã nông thôn vào Thời Bắc thuộc (179 TCN - 938) dưới sự tác động của ách thống trị phương Bắc vẫn giữ được quyền tự trị của mình. Trước khởi nghĩa Hai Bà Trưng, tính tự trị của các công xã nông thôn rất cao. Sau thất bại của Hai Bà Trưng, Mã Viện siết lại ách thống trị bằng cách thay thế các Lạc tướng người Việt bằng các huyện lệnh người Hán. Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, các triều đại phong kiến phương Bắc dùng đủ mọi cách để bóc lột và thâm độc hơn là "đồng hóa" cư dân Việt; nhưng với một cấu trúc nhà nước xa xưa và cấu trúc công xã nông thôn vẫn rất bền vững.
Công xã nông thôn trong thời kỳ này là một phạm trù rất riêng, đến nỗi chính các bộ chính sử TQ cũng phải thừa nhận là chúng không thể với tay được xuống tận các công xã nông thôn. Đồng thời, các làng xã cũng trở thành các "pháo đài xanh" để từ đó các khởi nghĩa nổ ra liên tục từ trong những ngôi làng đó phát ra; làng xã Việt cũng bảo lưu rất nhiều truyền thống văn hóa dân tộc. Các đế quốc Hán => Đường phát triển mạnh kinh tế và mở "con đường tơ lụa" ra bên ngoài buôn bán nguyên vật liệu với nhiều thương nhân - nhất là thương nhân Ấn Độ và chính kinh tế của phương Bắc phát triển mạnh chi phối đến các nước phụ thuộc TQ. Đến trước thế kỷ IX, chính quyền nhà Đường đã có những cố gắng nhất định để thay đổi bộ máy thống trị ở trị sở An Nam Đô hộ phủ và chính quyền ở các địa phương: nhà Đường đặt ra các "hương" (tiểu hương 70 - 150 hộ, đại hương 160 - 540 hộ), chia đến tận các xã (tiểu xã, đại xã). Mặc dù chia như vậy, nhưng đứng đầu cấp xã vẫn là người Việt. Có câu "triều đình trọng tước, làng nước trọng sĩ" tức là "sĩ" là giáp, chỉ người khỏe mạnh; người cao niên được trọng vọng trong làng xã. => trên thực tế chúng ta tự cai quản được làng xã của mình, chịu lao dịch của chính quyền đô hộ nhưng làng bảo tồn được tiếng nói, phong tục tập quán của nhân dân. Làng xã là sức sống giúp nhân dân chiến thắng mọi thủ đoạn của giặc và giành được độc lập.
Một đặc điểm nữa trong thời kỳ này: bên cạnh các công xã nông thôn của người Việt, còn xuất hiện thêm các đơn vị cư trú mới như ấp, trại do chính quyền đô hộ lập nên. Sau khi đàn áp khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Mã Viện thực hiện chính sách thậm độc là cho dân người Hán di cư sang đất Việt (gọi là "Mã lưu dân") và họ tạo thành các cộng đồng Hán. Những di dân người Hán này chỉ làm kinh tế thôi, không phục vụ cho mục đích của Mã Viện; họ từ biên giới kéo sang khẩn hoang và lập ra các trại, ấp; những người Hán này sống xen kẽ với người Việt. Ở Việt Nam còn có các ngôi mộ Hán là chứng tích của di dân Hán lưu trú ở đất Việt (nhiều nhất ở Hải Dương, Thanh Hóa)
* Giai đoạn 2: thời Lý đến thời Lê sơ, là giai đoạn phát triển đỉnh cao của làng xã
Trước thời Lý, các triều vua Đinh - Tiền Lê thực hiện độc tài quân sự, chưa kịp làm gì để quản lý làng xã. Bắt đầu từ thời Lý, các vua đều chú trọng vào nông nghiệp nên tại một số nơi quản lý còn lỏng lẻo, vua Lý lập các hành cung thuộc khu vực sông Hồng và sông Thái Bình. Hành cung có nhiều chức năng: (1) là trạm kết nối quyền lực từ trung ương đến địa phương; (2) làm nơi trọng điểm phát triển nông nghiệp; (3) thể hiện xu hướng của triều đình là mở rộng đất canh tác. Về sau, các hoạt động của nhà Lý cùng với chính sách "thân dân" tạo nên sức mạnh của quốc gia Đại Việt trong lĩnh vực nông nghiệp. Đồng thời, sự phát triển của cơ cấu tổ chức quản lý làng xã đã được triều đình thực thi. Bên cạnh các "hương" chưa được giải thể và quy mô của hương lan tới vài xã; nhưng "hương" sẽ hỗ trợ nhiều cho xã sau này. Trong triều đình nhà Lý, các quan lại đều chưa có bổng lộc - riêng quan Đô hộ phủ sĩ sư là có bổng lộc rất cao để làm việc thanh liêm hơn và đảm báo trật tự xã hội. Các đơn vị hành chính ở địa phương chưa được xác định rõ ràng. Hương và giáp thì quy mô lớn hơn cấp xã. Những người đứng đầu xã thôn chưa phải là người của chính quyền trung ương, mà là do dân bầu lên (thể hiện tính tự trị của làng xã). Ngoài ra, thời Lý xuất hiện một số làng xã được hình thành qua quá trình khẩn hoang; một số làng là thực ấp của các quan lại triều đình được vua ban thưởng. Ngoài ra còn có vùng đất của ông Lê Lương do triều đình cử đến đây khai hoang, lập làng ấp. Lê Phụng Hiểu có nhiều ruộng đất tư (là các xóm làng) từ sự tích "thác đao điền" kể về ông này có công giúp vua dẹp "loạn tam vương" (1028).
Vào thời Trần đánh dấu sự phát triển cao của làng xã với lãnh thổ Đại Việt kéo dài đến tận Hà Tĩnh; cuộc hôn nhân năm 1307 giúp Đại Việt mở rộng đến Thừa Thiên Huế - mặc dù không có quyền lực thật sự ở vùng đất mới, nhưng người Việt đã đặt chân đến tận Huế ngày nay. Khi tổ chức kỳ thi Thái học sinh, triều đình quy định phải có Kinh Trạng nguyên (kinh đô), Trại trạng nguyên (từ Thanh Hóa trở vào). Vùng Nghệ - Tĩnh là nơi đi đày của các tội phạm nghiêm trọng. Bằng chủ trương ban cấp điền trang, thái ấp nên ông Trần Quốc Khang có một điền trang lớn ở phía nam Nghệ An => không nhằm mục đích kinh tế mà nhằm mục đích quân sự nữa (điền trang này là pháo đài, chốt chặn trọng yếu trong kháng chiến trong quân Mông - Nguyên). Những điền trang này còn như "chốt nước" bảo vệ kinh đô ở hai mặt Bắc và Nam. Do chủ trương điền trang của nhà Trần, vào thời cuối vua Trần; tể tướng Hồ Quý Ly dùng "hạn điền" và "hạn nô" đánh mạnh vào điền trang thái ấp. Về cơ cấu quản lý xã thôn thời Trần, nhà nước chia thành lộ - phủ nhưng quy mô của hai đơn vị này không rõ ràng. Ở địa phương, người đứng đầu cấp xã là xã quan. Xã quan là người của triều đình và có bổng lộc nghĩa vụ trách nhiệm, làm cấu nối giữa triều đình với xã thôn. Như vậy, vua Trần cũng chi phối mạnh đến tận xã thôn. Dù làng xã vẫn tự trị cao, nhưng tính nhân dân được triều Trần phát huy trong việc đoàn kết chống quân Mông - Nguyên (khéo dung hòa, huy động sức mạnh toàn dân - nắm được "chìa khóa", hội nghị Diên Hồng). Về hình thức bóc lột của vua Trần với xã thôn, người dân phải nộp 5 quan thóc cho vua (rất cao) mà không phản kháng vì triều đình tổ chức đắp đê phòng lụt bảo vệ nông nghiệp, đảm bảo đủ nguồn nước tưới; đặt chức Hà đê sứ. Thậm chí khi lũ đến, triều đình huy động cả học sinh của Quốc tử giám tham gia vào việc đắp đê chống lụt => thủy lợi là việc của toàn dân, triều đình huy động toàn dân đắp đê cho thấy sự đồng lòng nhất trí vì quyền lợi chung của cả nước. Bằng chính sách ưu ái cho vương hầu quý tộc, triều đình đã tại một bệ đỡ rất chắc chắn và trung thành; vương hầu sở hữu nhiều điền trang là hàng chục làng xã => biểu hiện sức mạnh của nhà Trần, giúp khôi phục nhanh kinh tế bất chấp bị chiến tranh tàn phá. Sự phát triển của nông nghiệp tạo đà cho các lĩnh vực khác cũng phát triển. Mặt khác, một số vương hầu tại đất mới đã mang theo nhiều gia nô khai khẩn, sau này họ trở thành "thành hoàng" bảo trợ cho làng. Lập điền trang phát triển mạnh sau kháng chiến Mông - Nguyên, một số tướng nhà Trần khởi xướng việc khai hoang lập làng nhanh và mạnh sau thế kỷ 13 trở đi.