Một số vấn đề cập nhật về lịch sử Việt Nam

Nhập môn

Có người cập nhật về các vấn đề thời sự của lịch sử thì các bạn có nói ra, số khác do điều kiện còn hạn chế nên chưa biết được hết nên tên chuyên đề gọi là "cập nhật". Mục đích của môn học là gì?

Ta xem ở chương đầu tiên là những quan điểm mới, những cách tiếp cận mới và những vấn đề mới, phương pháp nghiên cứu của lịch sử Việt Nam. Cái mới là chúng ta tìm hiểu những quan điểm mới, những cách tiếp cận mới với những vấn đề đang tranh luận; có những vấn đề chưa tranh luận xong, đang bỏ ngỏ

Gần đây, báo chí nói nhiều đến vấn đề xét lại lịch sử như nhóm viết sách giáo khoa, tên gọi chính quyền Sài Gòn và có những phản bác quyết liệt (theo ai, tại sao lại thành ra như vậy). Lâu nay lịch sử Việt có đặc điểm: mình theo lịch trình quan điểm rất sát, cho nên có câu chuyện: quan niệm lúc thế này thì ngả thế này, lúc thế kia thì ngả thế kia; có những vấn đề không thực sự thấu đáo. Ví dụ như tranh luận giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh chưa ngã ngũ. GS Đỗ Bang và NNC Nguyễn Đắc Xuân ở Huế; nhất là Ông Xuân nghiên cứu nhiều về triều Nguyễn và trên web ông đăng dòng trạng thái kể câu chuyện: một lần phái đoàn của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ra Huế hồi Tết năm nay, có mời ông Xuân ăn cùng. Khi Trung ưong Đảng quyết định quy hoạch Huế là thành phố trực thuộc Trung ương thì người ta bàn nhau nên đặt tên thành phố như thế nào, Nguyễn Đắc Xuân có ý tưởng đặt tên là thành phố Cố đô Huế. Khi Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Thông tin hỏi tiếp thì ông Xuân nói rất nhiều công lao của triều Nguyễn với đất nước như công lao thống nhất. Vì sao như thế ? Theo lý luận thì Tây Sơn có công lao lớn, nhà Nguyễn bán nước; theo quan điểm mới thì nhà Nguyễn vừa có đóng góp, vừa có lỗi. Triều Nguyễn từ chỗ bán nước được nâng lên thành có công lao với nước (theo ý của Nguyễn Dắc Xuân như thế); người ta tranh luận rất nhiều và không có kiểu nói lái.

Mỗi người có một nhận thức khác nhau, quan điểm khác nhau. Tại sao triều Nguyễn lúc thì bán nước, lúc thì có công với nước ? Tây Sơn có công gì mà trong sách của triều Nguyễn lại coi Tây Sơn là giặc ? (Tây Sơn được ghi nhận là cuộc nổi dậy, cuộc chống đối của ba anh em với chính quyền đương thời). Dạy sử cho học sinh, vậy chúng ta theo ai.

Câu chuyện thứ hai: trong các bản luận văn hay luận án đều có câu" "sử dụng quan điểm Mác-xít và Lenin trong luận văn của tôi", ý nói thể hiện trên lập trường của giai cấp vô sản. Một người tiếp nhận nhiều luồng tư tưởng khác nhau, họ sẽ xem xét theo những khía cạnh khác nhau, nhiều góc nhìn khác nhau; người chung thủy nhìn 1 hướng, người khác nhìn vấn đề theo đa hướng. Trước bối cảnh đổi mới, sử học hiện nay vẫn còn tranh luận rất nhiều, thay đổi nhận thức rất nhanh. Các nghiên cứu trên thế giới rất khác và đa dạng nên bên mình mới tham khảo. Điều kiện thay đổi nên nhận thức sẽ thoáng hơn; các nghiên cứu khác hơn rất nhiều.

Có các vấn đề: Đi dạy sử luôn mặc định Quang Trung tốt từ đầu đến cuối, thực ra chưa phải thế; dạy sử phải đa chiều do cách tiếp nhận, cách nhìn nhận vấn đề của mỗi nhà nghiên cứu. Có lẽ GV sẽ không nói hết, những hs biết hết - đó là nguyện tắc. Hoạt động nhận thức có tính cá thể, gắn với chủ thể nhận thức là con người. Chủ thể nhận thức như thế nào thì cách tiếp cận vấn đề lịch sử sẽ như thế ấy. Các bạn tiếp cận vấn đề theo những góc độ khác nhau, những cách tiếp cận khác nhau.

Chương 1. Quan điểm mới về phân kỳ lịch sử và cách tiếp cận trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam

1.1. Về phân kì lịch sử Việt Nam

Trong chương trình lịch sử đã học thì có thông sử, lịch sử Việt Nam, lịch sử thế giới; mình tiếp cận theo các thời gian nó diễn ra. Thông sử là mình tiếp cận theo tiến trình thời gian; trong thông sử chia thành các phần (theo thời gian).

Phân kỳ lịch sử là cách người ta chia ra thôi. Muốn chia được phải có tiêu chí, xác suất, độ tuổi.

* Phân kỳ lịch sử theo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội: Người ta có nhiều quan điểm khác nhau về phân kỳ lịch sử. Đầu tiên là phân kỳ theo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác; theo quan điểm của Mác có các hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao; có nguồn gốc (cái quyết định hình thái kinh tế xã hội - cái gì góp phần hình thành xã hội loài người) là gì ? Trong xã hội có các giai cấp đối kháng, thì động lực của sự phát triển xã hội loài người là sự tiến bộ của năng lực sản xuất (chủ nghĩa Mác coi đấu tranh giai cấp là động lực; riêng CNT coi sự phát triển của sức sản xuất, nâng cao năng suất lao động làm động lực)

Học thuyết Mác cho rằng lịch sử xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao. Khi xã hội có giai cấp dẫn đến mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dẫn đến đấu tranh giai cấp => là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài người từ hình thái kinh tế này đến hình thái kinh tế khác. Khi các nhà sử học của XHCN dựa vào các hình thái kinh tế xã hội này để phân chia lịch sử phát triển của thế giới thành các thời kỳ.

- Thời kỳ xã hội nguyên thủy, tương ứng với hình thái cộng sản nguyên thủy

- Thời kỳ cổ đại, hình thái kinh tế chiếm hữu nô lệ

- Thời trung đại, hình thái kinh tế xã hội phong kiến

- Thời cận đại, hình thức kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa

- Thời hiện đại, hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa

Việc phân kỳ lịch sử như thế này rất ổn, có tính khái quát hóa rất cao. Bất kỳ giai đoạn nào cũng đều tồn tại những mâu thuẫn; tương ứng với một hình thái kinh tế xã hội là xuất hiện một cặp mâu thuẫn và giải quyết các mâu thuẫn đó và đưa xã hội tiến sang một thời kỳ mới tiến bộ hơn. Tuy nhiên lịch sử loài người không dừng lại ở chỗ mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp, mà nó gồm nhiều thứ khác nhau. Hơn nữa, quá trình phát triển của các quốc gia trong khu vực không đồng loạt. Chính Ăng-ghen đã phát hiện ra những bất cập của sự phân kỳ lịch sử theo hình thái kinh tế kinh tế - xã hội. Khi ông nêu lên vấn đề "phương thức sản xuất châu Á" thì học thuyết này không đúng trong trường hợp này, không phải đúng theo một trật tự như thế. Học thuyết của Mác về các hình thái kinh tế - xã hội là dựa trên lịch sử châu Âu vì các nhà nghiên cứu khi đó mặc định "châu Âu là trung tâm"; nhưng khi nghiên cứu về xã hội Ấn Độ, Trung Quốc thì các quốc gia này phát triển dù theo trình tự nhưng không theo một trật tự như thế. Chính vì hạn chế của cách phân kỳ này nên nảy sinh các vấn đề (Việt Nam rõ hơn)

"Phương thức sản xuất châu Á" do lý luận Mác - Ăng-ghen nêu ra, về sau được làm rõ hơn. Đó là một trường hợp mà học thuyết Mác không bao phủ được, ít nhất ở khu vực Đông Á không theo đúng trật tự như Mác đề cập. Chính vì vậy khi áp dụng phân kỳ lịch sử nó khập khiễng ngay: ở châu Á không có chiếm hữu nô lệ (có những người làm giống nô lệ nhưng thực ra không phải thế); ở Việt Nam có tư bản chủ nghĩa không ? Nhiều vấn đề.

Ưu điểm và nhược điểm của phân kỳ lịch sử theo hình thái kinh tế xã hội:

+ Ưu điểm: Giải quyết được sự mâu thuẫn xung đột, đối kháng không đồng nhau về lợi ích.. Và thế giới là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập

+ Nhược điểm: không chú ý nhiều đến yếu tố năng suất lao động

* Phân kỳ lịch sử theo sự phát triển của các nền văn minh:

Nội dung của thông sử thế giới (trong chương trình giáo dục phổ thông) và lịch sử văn minh thế giới là giống nhau, chỉ khác nhau về cách tiếp cận, quan điểm khác nhau. Lịch sử văn minh thế giới là cách tiếp cận của các nước tư bản, không đề cao đấu tranh giai cấp; riêng sử học mác-xít tiếp cận lịch sử: mỗi sự thật lịch sử đều dẫn tới cái cuối cùng là mâu thuẫn giai cấp, đề cao sự phát triển và sự áp bức bóc lột. Sự áp bức bóc lột dẫn đến đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết mâu thuẫn giai cấp, đưa xã hội tiến qua thời kỳ quá độ ra xã hội khác. Trong lịch sử văn minh cũng có nói đến đấu tranh giai cấp, nhưng không xem đấu tranh giai cấp là động lực của xã hội mà họ xem sự phát triển của nền sản xuất là động lực phát triển xã hội, sự phát triển của trình độ văn minh tạo ra động lực thúc đẩy xã hội phát triển chứ không kích thích đấu tranh giai cấp (đấu tranh như một sự va chạm).

Các nhà sử học cũng tham khảo lẫn nhau; sử học tư sản không bài bản nhưng các tiếp nhận bình thường.

Cách phân kỳ trên chỉ là tương đối, nên có một sự chọn lọc để tạo ra ưu điểm nhất để dùng được.

1.2. Một số cách tiếp cận mới trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam

+ Phân kỳ lịch sử Việt Nam: Thời nguyên thủy, cổ - trung đại, cận đại, hiện đại. Nó có liên quan đến các hình thái kinh tế xã hội. Nhưng cách phân kỳ của Mác áp dụng vào Việt Nam nó bị vỡ ra hết. Việt Nam có "phương thức sản xuất châu Á", nhưng áp học thuyết của Mác vào thì không đúng: các sách Việt Nam thì ghi "Lịch sử Việt Nam từ nguyên thủy đến thế kỷ X",

Lịch sử Việt Nam cổ - trung đại", "Lịch sử Việt Nam cận đại", "Lịch sử Việt Nam hiện đại". Tương ứng với các thời kỳ đó thì người ta áp vào mốc thời gian:

+ Cổ đại: tính trong thời Văn Lang - Âu Lạc (TK VII - II TCN), Bắc thuộc là một vấn đề khác.

+ Trung đại: từ 939 - 1858 (chế độ phong kiến)

+ Cận đại: 1858 - 1945

+ Hiện đại: 1945 - 2000

Có cuộc tranh luận sử học diễn ra với câu hỏi: ông phân kỳ thời cận đại Việt Nam như thế nào ? (VN không có chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản, áp vậy là sai rồi). VN có tư sản và vô sản, nhưng nó không giống như quan điểm của Mác; tranh luận qua lại để thấy bất cập của chủ nghĩa Mác. Các nhà sử học đặt ra thời kỳ lịch sử Việt Nam trung dung hơn: Việt Nam từ nguyên thủy đến thế kỷ X cho đến năm 1945 - 2000. Bộ lịch sử Việt Nam ở Hà Nội (đại cương lịch sử Việt Nam) phân thành 3 tập.

Một số nhà nghiên cứu Việt vẫn tiếp cận lịch sử Việt Nam theo cách tiếp cận văn minh, như quyển Văn minh Đại Việt; văn minh Văn Lang - Âu Lạc, các thành tựu của văn minh Đại Việt có cách tiếp cận mở hơn.

Phân kỳ lịch sử không có gì để bàn, nhưng cần nêu lại cho rõ. Cách tiếp cận sử Việt theo học thuyết Mác có nhiều hạn chế, nhưng không cứng nhắc và áp thành những mốc thời gian cụ thể, không ghi thành thời kỳ gì đó nữa.

* Phương pháp trong nghiên cứu sử Việt có một đặc điểm thế này: áp cái chung cho cái riêng (địa phương). Vd dạy về cách mạng tháng Tám thì có: quá trình chuẩn bị lực lượng, giành chính quyền trong cách mạng; không có đoạn nào nói về chuẩn bị lực lượng cách mạng ở Trung Bộ và Nam Bộ, chủ yếu nói về Bắc Bộ - vì: cách mạng là Đảng lãnh đạo thống nhất chung cho cả nước, từ trung ương ra địa phương nhung thực ra không phải - ở mỗi địa phương, quá trình chuẩn bị lực lượng rất khác nhau, có nơi Đảng trực tiếp lãnh đạo; có nơi thì không => nên áp dụng công thức chung là chưa phù hợp; phải nghiên cứu trong từng trường hợp cụ thể. Ví dụ như phong trào Duy tân của cụ Phan Châu Trinh lan ra khắp ba miền của đất nước, ở Nam Bộ có phong trào Minh tân nhưng không phải; nghiên cứu kỹ lại: xét về bối cảnh thì Nam Kỳ đã có mầm mống duy tân từ cuối thế kỷ XIX, rõ nét nhất vào đầu thế kỷ XX ra phong trào có tính chất y như phong trào của Phan Châu Trinh => nên tìm hiểu phong trào Duy tân ở Nam Kỳ dựa vào bối cảnh, không nên hiểu phong trào ở Nam Kỳ do Phan Châu Trinh phát động.

Hiện nay trong nghiên cứu, để tránh "công thức hóa" dễ có hiểu nhầm thì họ chủ trương: khi nghiên cứu cái gì đó thì phải gắn nó với bối cảnh lịch sử, với không gian thời gian, với nơi chốn của vấn đề lịch sử đã xảy ra => gọi là "tiếp cận bối cảnh" trong nghiên cứu. Cái này có liên quan ở chỗ: hiện nay có xu hướng "hiện đại hóa" lịch sử nên cách tiếp cận bối cảnh giúp cụ thể hóa lịch sử. Tiếp cận lịch sử phải gắn liền với bối cảnh của nó, chứ không gán nó vào bối cảnh chung của cả nước, khu vực và dẫn đến cách hiểu chưa đúng bản chất của vấn đề.

Về góc nhìn và quan điểm trong nghiên cứu sử học, có khái niệm "tính Đảng" (chép cơ sở lý luận vào luận văn - tính Đảng hiểu theo nghĩa cụ thể của sử học mác-xít). Hiểu rộng nhất, tính Đảng nghĩa là "tính trường phái" và quan điểm của người nghiên cứu (tư bản cho buôn bán và giữ lại giá trị thặng dư; kinh tế học tư bản cho rằng "giảm chi phí đoan" là một biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất. Mình xem "tư bản" là bóc lột, vì mình nhìn trên lập trường của giai cấp vô sản; nhưng lập trường của tư sản thì điều đó là bình thường. Chúng ta thấy: khi xem xét vấn đề gì đó thì phải xác định: xem xét trên vị trí của ai, tiếp cận trên lập trường của ai ? Nếu khẳng định "tôi vô sản nên tôi khẳng định như vậy" là ngu hiếu; nhưng các bạn phải đứng ỏ góc nhìn khác để nhìn vấn đề (nhiều góc cạnh khác nhau) => tuy không nêu ra, chúng ta cũng phải khẳng định mình tiếp cận từ góc nhìn của mình là vậy, nhưng người khác tiếp cận từ góc độ khác như thế nào ? để phân biệt: góc nhìn của mình có những hạn chế gì để hiểu vấn đề một cách đầy đủ; đừng tự cô lập mình. Tại sao từ cùng một vấn đề, hai người lại cãi nhau ? Vì họ khác quan điểm (khác góc độ, góc nhìn). Vd khác: tôi viết ra luận điểm mà tôi nghĩ là đúng, nhưng người khác nghĩ là sai => nghiên cứu sử từ nhiều góc độ khác nhau.

* Vấn đề "xét lại" lịch sử: lâu nay người ta gọi là "A" thì lúc này gọi là "A+" hoặc "A-". Các ví dụ:

+ Phan Thanh Giản và triều Nguyễn:

- Quan điểm 1: Phan Thanh Giản bán nước; triều Nguyễn bán nước

- Quan điểm 2: PTG không bán nước; triều Nguyễn thỏa hiệp nhưng cũng có nhiều đóng góp

=> nghĩa là người ta xem xét lại hết để giải vấn đề này ra (có hẳn ở phần sau)

+ Thực dân:

- Quan điểm 1: thực dân xâm lược, vơ vét

- Quan điểm 2: Đồng ý là có xâm lược, nhưng nó lại mang lại những giá trị tích cực

Thậm chí có quan điểm Sài Gòn được quy hoạch bài bản thành "hòn ngọc Viễn Đông" như thế này là nhờ Pháp; hay là nhờ Pháp xâm lược mà Việt Nam có điều kiện tiếp xúc với văn minh phương Tây mới tạo ra sự phát triển.

+ chính quyền Sài Gòn:

- Quan điểm 1: gọi là ngụy quyền

- Quan điểm 2: gọi là chính quyền Sài Gòn

=> ra các xung đột và va chạm trong thời gian gần đây. Khi nói triều Nguyễn không hẳn bán nước và có những tiến bộ thì lâu nay mình cho rằng Tây Sơn là nhất; TS lật đổ các chính quyền Nguyễn và Trịnh là tích cực, còn vua Nguyễn là sự thụt lùi của lịch sử.

Chương 2. Một số vấn đề cập nhật về lịch sử Việt Nam thời cổ trung đại

2.1. Thời kì cổ đại và Bắc thuộc

2.1.1. Một số nguồn sử liệu trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam cổ đại

Những nội dung lịch sử Việt Nam thời Bắc thuộc đều được ghi chép trong chính sử Trung Quốc, nhưng trong giai đoạn Việt Nam thời cổ đại thì chưa có nhà khoa học nào tìm được bộ tài liệu của người Việt viết về thời Văn Lang - Âu Lạc nên tư liệu chữ viết là không có; vì: (1) Việt Nam thời cổ đại chưa có chữ viết; (2) có, nhưng bị người khác tiêu hủy. Các nhà khoa học cố gắng tìm chữ viết của người Việt cổ, chẳng hạn bãi đá Sapa có khắc những kí hiệu đặc biệt, nhưng không chứng minh được đó là chữ viết của người Việt cổ.

Văn Lang Âu Lạc là "nhà nước sơ khai" (liên minh bộ lạc) thì tư liệu lấp lửng, không rõ ràng. Tư liệu thành văn là không có

- Truyền thuyết: là sử liệu đầu tiên. Truyền thuyết có nhiều như Con rồng cháu tiên, Thánh Dóng, Bánh chưng bánh giầy... Trong Đại Việt sử ký toàn thư vẫn chép các truyền thuyết này, nhưng người ta nhận thức rõ: đây là những câu chuyện liên quan đến lịch sử, bằng chứng xác thực thì chưa thẩm định được. Truyền thuyết là những sử liệu đầu tiên, được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tính chất: bị hiện đại hóa đi, có những yếu tố thần thánh; nhưng trong truyền thuyết vẫn có chứa đủ sự thật lịch sử.

- Khảo cổ học: giúp bóc tách được đâu là sự thật lịch sử, đâu là yếu tố truyền thuyết, cung cấp cho chúng ta nhiều bằng chứng lịch sử. Các ví dụ rất nhiều. Trong các bài dạy học LSVN cổ đại (rất khó hiểu) cho học sinh; phải hiểu nội dung chính và tính lịch sử của nội dung bài. Phương pháp dạy bài: mô tả hiên vật (và xét tương ứng với thời kỳ nào). những di vật nói lên điều gì, giúp cho chúng ta hình dung được lịch sử của thời kỳ đó như thế nào. Người ta liệt kê các nền văn hóa mà không vẽ thành bức tranh vì: những phát hiện mới của khảo cổ học chưa đủ để vẽ đúng bức tranh. Thời Văn Lang Âu Lạc thì rõ hơn nên người ta trình bày cụ thể (chủ yếu về văn hóa qua truyền thuyết và khảo cổ học, rồi suy luận ra).

=> Muốn nhận thức đúng lịch sử thì chúng ta phải dựa vào đâu ? Một sự kiện lịch sử xảy ra sẽ để lại dấu vết của nó với nhiều yếu tố có liên quan là sử liệu. Một nhà sử học muốn tìm hiểu một sự kiện lịch sử xảy ra thì phải sưu tầm sử liệu.

Thời kỳ cổ đại cần nhiều sử liệu nào, nhưng thời Bắc thuộc về sau không cần sử liệu; vì thời kỳ sau khi có nhà nước và chữ viết thì các chính quyền của nước ta có chung một cái là ý thức ghi chép lại lịch sử. Đương nhiên, lịch sử này là phản ánh góc nhìn, lợi ích của chính quyền nên không chính xác hoàn toàn. Pháp xâm lược thì khảo cổ học phương Tây xâm nhập vào, giúp chúng ta tìm được rất nhiều bằng chứng phản ánh lịch sử trong đó

- Dân tộc học: Khi các nhà dân tộc nghiên cứu trực tiếp văn hóa tộc người, kết nối với các dân tộc khác để tìm thông tin, thấy những tập tục cổ từ lâu đời, bối cảnh, môi trường và xã hội của thời cổ đại đó. Dân tộc học giúp hình dung được: những vấn đề có tính chất quan hệ xã hội (người Kinh cùng nguồn gốc với người Mường). Tính chính xác chưa có; nhưng phải suy luận để khái quát hóa vấn đề

2.1.2. Về các vương quốc cổ trên lãnh thổ Việt Nam và một số tiểu quốc khác

Vấn đề này trước đây là mới, giờ cũng không mới lắm. Các quốc gia chính: Văn Lang - Âu Lac, Champa, Phù Nam.

Cách đây trên 20 năm, lịch sử của ba vương quốc cổ này chính thức được giảng dạy cho học sinh trung học (các trường đại học đã dạy vấn đề này từ trước đó). Trước đây, người ta quan niệm: lịch sử Việt Nam là lịch sử của người Việt gắn liền với quốc gia Đại Việt. Về sau họ đổi quan niệm: lịch sử Việt Nam là lịch sử của tất cả các cộng đồng dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam; nên họ đem các quốc gia này vào dạy.

Khi chúng ta đem lịch sử Champa vào dạy thì phát sinh câu chuyện: trên lãnh thổ miền Trung trước đây đã từng tồn tại một quốc gia; sau đó, quốc gia này "bị" sát nhập vào lãnh thổ Đại Việt và hiện nay, cộng đồng người Chăm vẫn còn tồn tại với tư cách là một trong số 54 dân tộc Việt Nam. Trước đây mình không đưa vào dạy, vì vấn đề đó. Sau này quan niệm lại: vấn đề này đã xảy ra rất lâu và các vấn đề liên quan đến tinh thần dân tộc gắn với người Chăm không còn quan trọng nữa.

Phù Nam trước đây là vấn đề Thủy Chân Lạp; thậm chí đảng đối lập của Hun Sen gọi Nam Bộ trước đây thuộc Chân Lạp rồi kích động lòng thù hận dân tộc để gây sức ép với người Việt ở Campuchia; đồng thời tạo ra bất lợi trong quan hệ đối ngoại của hai nước. Đương nhiên chính quyền Campuchia không đặt nặng vấn đề đó, họ cơ bản đã phân định biên giới thành công với láng giềng Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu Campuchia cho rằng, vùng đất Nam Bộ trước kia là của họ. Còn Việt Nam chứng minh nguồn gốc xa xưa của Nam Bộ chính là đất Phù Nam, sau đó bị Chân Lạp đánh bại và sát nhập vào lãnh thổ của mình gọi là Thủy Chân Lạp; nhưng người Campuchia sử dụng không hiệu quả vùng đất mới này. Về sau do bang giao nên họ cắt dần và nhượng lại cho chúa Nguyễn => đây là lý do mình đưa Phù Nam vào giảng dạy. Người Campuchia nói Phù Nam là tổ tiên của người Chân Lạp, Phù Nam là quốc gia tiền thân của họ; Việt Nam nói rằng Phù Nam là quốc gia riêng và bị Chân Lạp xâm lược và sáp nhập vào lãnh thổ; chiếm đất mà không sử dụng nên Chân Lạp phụ thuộc vào chúa Nguyễn, phải nhượng đất để thỏa hiệp; dần dần biến Nam Bộ thuộc lãnh thổ của nước ta.

Nước Chân Lạp thì có nhiều quan điểm khác nhau. Xét trên bản đồ sớm nhất (TK 6) chỉ có nước Chân Lạp rộng lớn, không có lãnh thổ Phù Nam. Giáo trình đào tạo từ xa của DH Huế ghi: thực chất Phù Nam là Chân Lạp; các nhà khảo cổ người Pháp cho rằng khởi phát của Khmer chính là Phù Nam. Chân Lạp phát triển mạnh và có tầm ảnh hưởng lớn, Phù Nam là giai đoạn đầu của Khmer. Riêng Việt Nam cho rằng Phù Nam là một đế quốc rông lớn; người Khmer ở đông bắc Campuchia hiện nay là thuộc quốc của Phù Nam. Thế kỷ V, Phù Nam suy yếu và Khmer thôn tính hết Phù Nam - Phù Nam trở thành Thủy Chân Lạp. Hiện nay nhiều bản đồ được tìm thấy thì họ nói Phù Nam là Chân Lạp. Phù Nam là quốc gia có thật, là quốc gia độc lập. Hiện nay có quan niệm: một quốc gia này đi xâm lược nước khác không bao giờ tuyệt diệt hết cư dân ở quốc gia đó.

=> Một số nhà nghiên cứu Việt cho rằng, một số dân tộc thiểu số hiện nay trên đất Lâm Đồng và Gia Lai, Nam Cát Tiên. Một số nhà dân tộc xác định các tộc người Stiengs, Mạ bị người Việt khai khẩn Nam Bộ dồn về Tây Nguyên; họ cũng tìm được nhiều di chỉ khảo cổ trên đó => người Stiengs, Mạ là những nhánh của cư dân Phù Nam. Sử TQ ghi chép cụ thể vè Phù Nam.

Còn nội dung thì lịch sử Champa còn lưu trữ nhiều tài liệu rất tốt; tài liệu về Văn Lang - Âu Lạc và Phù Nam khá hiếm. Ngoài ba vương quốc cổ này, trên lãnh thổ Việt Nam xuất hiện nhiều tiểu quốc nhỏ như Thủy xá - Hỏa xá, Nam Cát Tiên ...

Việc mở rộng lãnh thổ là việc bình thường, là vấn đề có tính quy luật của các thời kỳ cổ - trung đại (sau này có công pháp quốc tế): Nếu anh không đủ lớn và không đủ mạnh, anh sẽ trở thành "miếng mồi" của kẻ khác mạnh hơn. Lich sử Việt Nam là cả quá trình: mình là "nạn nhân" của sự mở rộng lãnh thổ; đồng thời mình cũng là người tích cực trong việc mở rộng lãnh thổ. Bản đồ Việt Nam cổ đại có vẻ chưa chuẩn xác, nhưng nó là cái nhìn tổng quan về Việt Nam; một số quốc gia chịu trở thành lãnh thổ của Việt Nam là bình thường

2.1.3. Thời Bắc thuộc và tính chính thống của nhà Triệu

2.1.3.1. Thời Bắc thuộc

Lâu nay mình tiếp cận Bắc thuộc là một thời kỳ bị xâm lược; nhưng quan điểm này có hai mặt: thời kỳ bị xâm lược là một nỗi đau không ai mong muốn, nhưng nó là thực tế và chúng ta đứng trước nguy cơ bị xóa sổ quốc gia. Về sau do yếu tố địa lý, yếu tố văn hóa mà mình giành được độc lập. Chẳng nhẽ thời Bắc thuộc GV phổ thông dạy: chính sách đồng hóa, bóc lột (xâm lược thì phải xóa nhòa mọi thứ hết như ý thức dân tộc và văn hóa). Còn một chuyện nữa: mình cũng được lợi từ "xâm lược" đó - 1. Trung Quốc văn minh hơn mình rất nhiều thì bên cạnh các yếu tố tiêu cực, thì thời kỳ tạo cơ hội để người Việt tiếp xúc với nền văn minh lớn bên ngoài để thúc đẩy sự phát triển của người Việt. Sau khi giành độc lập, ta dùng nhiều cái của Trung Quốc (vì nó có ích) như bộ máy nhà nước, chữ viết. Dạy hs thì không đặt nặng vấn đề chữ Hán là của Trung Quốc. Trong quá trình bị đô hộ, mình có cơ hội tiếp nhận được rất nhiều giá trị văn minh => tạo ra sức mạnh giúp mình chống lại chính quyền đô hộ (xét lại lịch sử giữa TQ, phương Tây với Việt Nam). Việc xâm lược đã gieo rắc áp bức bóc lột

Trước đây họ nói Bắc thuộc là thời kỳ bị xâm lược, bóc lột, đồng hóa nhưng dân Việt thông minh: họ không tiếp thu hết mà chọn những cái có lợi cho mình. Họ tiếp nhận một cách tự nhiên (khác với sử sách của các nhà nghiên cứu; nên đọc nhiều tài liệu khách quan), tạo điều kiện để tiếp xúc với văn minh bên ngoài. Những người dân Trung Quốc di cư sang Việt Nam thì họ chưa ý thức được giá trị, thực hiện sứ mạng truyền bá văn hóa để đồng hóa đâu; đại đa số những người nghèo khổ Trung Quốc sang Việt Nam thì họ nhanh chóng hòa nhập vào cộng đồng người Việt (họ chưa nghĩ tới chuyện truyền bá văn hóa Trung Hoa vào Việt Nam, và cũng không dễ gì làm được điều này).

Chính sách của Trung Quốc bắt dân ta theo phong tục tập quán của người Hán. Áp đặt là việc của phong kiến TQ, nhưng dân Việt tiếp thu hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Người Hán sang ở lẫn với dân ta thì việc giữ phong tục tập quán của Hán hoàn toàn không dễ; họ đến đây thì họ phải ăn theo người Việt, trừ khi họ thành một cộng đồng và công việc của họ không gắn với môi trường tự nhiên => ngược lại, người Hán bị người Việt đồng hóa trở lại. Người TQ đem luật pháp qua áp dụng Việt Nam thì lúc đó, người Việt có ý thức gì về luật Trung Quốc không ? Xã hội Việt Nam thời đó phát triển rất thấp, luật tục đủ để sử dụng nên không cần đến luật pháp. Do trình độ của người Việt thấp nên luật pháp hay Nho giáo là một cái gì đó rất xa vời, "cao siêu" nên họ không có nhu cầu sử dụng. Đem môt điều quá xa lạ như thế thì làm sao áp vào được ? . Giành độc lập thì dân ta mới sử dụng, vì xã hội ta lúc đó phát triển đến đủ trình độ bức phá lên nên những cái đó mới dùng được => tiếp cận bối cảnh trong sử học.

2.1.3.2. Tính chính thống của nhà Triệu

* Xét đến các yếu tố:

+ Bối cảnh sát nhập

+ Thực tế lịch sử

+ Hành vi sát nhập

+ Sau khi sát nhập

Hiện nay có nhiều người ủng hộ quan điểm Triệu Đà là vua của Việt Nam vì các lý do:

- Việc sát nhập lãnh thổ là một chuyện rất phổ biến; việc sát nhập các quốc gia nhỏ để tạo thành quốc gia lớn hơn và đủ sức mạnh để tồn tại trước tình trạng tranh chấp lãnh thổ quyết liệt trong thời kỳ này. Vì lý luận đó nên trong thời cổ trung đại, điều đó là một thực tế lịch sử (các quốc gia trên thế giới, kể cả Việt Nam cũng đều có quá trình đó). Cùng một hành vi nên xảy ra trường hợp của Triệu Đà. Nói rộng ra thì cư dân của mình đều là Bách Việt ở nam Trường Giang (tồn tại nhiều tộc Việt), trong quá trình quân Tần mở rộng lãnh thổ về các tộc Việt ở phía nam, nước Nam Việt của Triệu Đà cũng là một "nạn nhân" trong quá trình đó.

Cư dân của mình hầu hết là Bách Việt sống ở nam sông Trường Giang. Trong quá trình nhà Tần mở rộng lãnh thổ, nhiều nước Việt ở nam Trường Giang bị quân Tần đánh bại, sát nhập hết vào lãnh thổ Trung Quốc và nước Nam Việt cũng rơi vào tình trạng bị sát nhập lãnh thổ. Tương tự như vậy lãnh thổ của Tây Âu và Lạc Việt là toàn khu vực từ trung tâm Bắc Bộ kéo dài đến Đông Bắc nước ta (Tây Âu ở Đông Bắc nước ta, Lạc Việt ở trung tâm của nước Văn Lang). Nhưng nếu nói hai cộng đồng người Việt này là một thì không phải, vì đây là hai tộc Việt khác nhau (về lãnh thổ) cộng đồng Tây Âu của Thục Phán, cộng đồng Lạc Việt của vua Hùng. Khi quân Tần xâm lược thì cả hai tộc người đều trở thành "nạn nhân" của cuộc xâm lược này, nên trong quá trình đối phó với quân xâm lược thì cả hai tộc Việt này đều phải thực hiện - nhưng Thục Phán giỏi hơn nên thúc đẩy cả hai cộng đồng này xích lại gần nhau. Trong quá trình lãnh đạo kháng chiến thì Thục Phán giỏi và uy tín hơn. Cuộc chiến tranh đang thực hiện thì vua Tần chết khiến nhà Tần ra lệnh rút quân thì Thục Phán nghiễm nhiên hợp nhất hai cộng đồng người Việt này lại rồi bỏ luôn Hùng Vương, sát nhập lãnh thổ và lên ngôi, lập ra nhà nước Âu Lạc => tính chất của việc sát nhập này giống như sự hợp nhất lãnh thổ, hợp nhất trong sự đồng thuận của người dân. Thục Phán cũng coi người Lạc Việt và Tây Âu đều như nhau, không phân biệt đối xử với cộng đồng Lạc Việt vừa mới sát nhập. Trong bối cảnh Văn Lang suy yếu và quân Tần xâm lược, việc sát nhập là tất yếu nhưng không mang tính xâm lược. Sau khi sát nhập, vua An Dương Vương thực hiện chính sách bình đẳng

Triệu Đà sát nhập trong hoàn cảnh là: xuất phát từ nhu cầu mở rộng lãnh thổ để phát triển (Thục Phán đạo đức nên sát nhập là hợp lý, Triệu Đà là sai). Cách của Thục Phán được hiểu là: Hùng Vương vô dụng và trong kháng Tần, Thục Phán có uy tín nên ông này lên ngôi vua và sát nhập lãnh thổ (trong một hoàn cảnh đặc biệt tạo ra đồng thuận cao). Khi nước Âu Lạc thành lập, Triệu Đà nhiều lần đem quân xâm lược nhưng thất bại. Trong một số triều đại Trung Quốc có chiêu: bất phân thắng bại thì làm hoà nhau (lúc đó chưa có luật pháp quốc tế phân định); để đảm bảo điều đó thì họ dùng ngoại giao hôn nhân - đưa con mình sang ở nước kia để làm con tin (Mỵ Châu - Triệu Trọng Thuỷ); thời Lý - Trần dùng hôn nhân buộc các tù trưởng quy thuận. Với các quốc gia lúc bây giờ, việc dùng thủ đoạn chính trị là bình thường. Triệu Trọng Thuỷ sau đó bí mật rút lui (chuyện bình thường). Quân Triệu đánh bại được Âu Lạc, Trọng Thuỷ cũng có tình nghĩa với vợ là Mỵ Châu công chúa (Âu Lạc) mặc dù vua Âu Lạc chém chết con gái ruột vì phản quốc (quốc gia là trên hết). Sau khi sát nhập vào lãnh thổ Nam Việt, Triệu đà quản lý lãnh thổ giống như một bộ phận của nước mình; trong cai trị thì Triệu Đà không có phân biệt gì hết, sự sát nhập này giúp người Việt tiếp cận với văn minh Trung Hoa. Trong khi người Hán hạn chế tiếp cận văn minh Việt và coi nước Việt là thuộc địa thì Triệu Đà sát nhập và xem như lãnh thổ của mình; mục đích mang lại sự phát triển cao hơn. Triệu Đà là người Việt (không phải người Hán); ông cai trị vì quyền lợi và lợi ích của dân mình thì không thành vấn đề. Trong lịch sử, khi nước Âu Lạc còn thì Triệu Đà cũng là "nạn nhân" của nhà Tần và cả nhà Hán

Quan điểm không thừa nhận Triệu Đà là vua Việt Nam là quan điểm thiểu số với các lý do:

+ Triệu Đà xâm lược là có thật

+ Triệu Đà là người Trung Quốc

=> quan điểm hiện nay xem Triệu Đà là người mở ra thời kỳ Bắc thuộc, không công nhận Triệu Đà là vua nước Việt

2.2. Thời kỳ xây dựng quốc gia phong kiến độc lập tự chủ (TK X-XIX)

2.2.1. Vấn đề tranh chấp, chuyển giao quyền lực giữa các triều đại phong kiến

Lâu nay lan truyền một quan niệm: nếu vương triều nào yếu hơn sẽ bị thay thế bởi một vương triều khác tốt hơn. Các vua nhà Lê làm để đức gì mà con cháu đời sau không ai dám lật đổ, các vua chúa khác coi vua Lê là chính thống: thời điểm Mạc lật đổ thì vua Lê không còn giá trị gì nữa; nhưng về sau ông ta phải mượn danh nghĩa của nhà Lê, Nguyễn Kim muốn "tách ra" cũng phải mượn danh nghĩa nhà Lê (để đức cho con cháu) => lòng dân còn ủng hộ nhà Lê do triều đại này có công lao lớn với nhân dân.

* Tại sao trước đây Trần Thủ Độ/Dương Vân Nga làm thế nhưng không ai phản ứng. Hồ Quý Ly làm cách như Trần Thủ Độ, nhưng bị phản ứng quyết liệt => xét yếu tố Nho giáo: Hồ Quý Ly theo Nho giáo vốn rất phổ biến nên ông bị phê bình gắt - vì xã hội Nho giáo ăn sâu vào trong đất nước, đóng góp... nên xét Trần Thủ Độ không ảnh hưởng nhiều, thời Hồ ảnh hưởng rất gắt. Thời Lê sơ, tư tưởng "trung quân ái quốc", phế truất vua là trái với đạo đức, xã hội Nho giáo. Hơn nữa, những đóng góp của triều Lê rất lớn. Nên khi phế truất vương triều chính thống thì lập tức vấp phải phản ứng gay gắt

* Về đối ngoại là các Hoàng đế Trung Quốc bắt vua Đại Việt thần phục thì mình hiểu nó là xấu. Thật ra là: các nước có vai trò bắt các nước nhỏ thần phục (TQ, VN cũng thế). Danh chính ngôn thuận về mặt quốc tế là: TQ công nhận nhà Lê (lòng dân ủng hộ là một chuyện, nhưng quan trọng hơn là TQ chưa sắc phong công nhận thì người dân cũng không công nhận là vua. Nếu TQ công nhận nhà Lê, vua Lê có nhiệm vụ phải cống nạp nhưng đổi lại TQ phải bảo hộ VN. Mặc dù rất suy yếu nhưng không thay được bởi hai điều: lòng dân, sự công nhận của Trung Quốc. Mạc Đăng Dung giành ngôi vua Lê (làm đúng: thay thế triều Lê suy yếu), nhưng không được hai điều kiện còn lại là lòng dân và sự công nhận của TQ

# Chuyển giao quyền lực phải có ba điều kiện:

+ triều đình đương thời thối nát cần thay thế

+ lòng dân

+ được Trung Quốc công nhận

Mạc Đăng Dung sau này cũng được TQ công nhận. Ngay khi nhà Lê tồn tại thì TQ vẫn công nhận nhà Lê; TQ cũng công nhận nhà Lạc nên Mạc tồn tại thời gian rất dài

Trong số những người giành ngôi thì ngoài Mạc Đăng Dung ra còn có Nguyễn Kim. Mạc loại nhà Lê thì Nguyễn Kim "phù Lê" để tranh thủ lòng dân và có ý muốn đánh họ Mạc/ "Phù Lê" nhằm phát động quần chúng đấu tranh giành quyền lực. Mặc dù nhà Lê được Nguyễn Kim dựng lên như một công cụ để quy tụ lòng dân. Mạc chuẩn bị chưa tốt và Nguyễn Kim đã hội tụ tốt, dựng lên vương triều Lê (Nam triều). Nhờ ngọn cờ nhà Lê mà Nguyễn Kim đã phát động cuộc chiến chống lại họ Mạc; TQ chưa công nhận họ Mạc nên khi nhà Lê được tái lập thì công nhận ngay - Nam triều là sự tiếp nối việc công nhận của TQ dành cho nhà Lê trước đây. Nguyễn Kim có sự công nhận từ nhân dân (lòng dân) nên là phe chính nghĩa. Chính điều này mà sau khi nhà Mạc bị đổ, các chúa Trịnh và Nguyễn giữ mức giới hạn quyền lực và không được vượt qua vua Lê; mặc dù có nhiều âm mưu của hai chúa muốn dẹp bỏ vua Lê vì bộ máy quá cồng kềnh, nhưng bất thành. Nếu dẹp nhà Lê thì chẳng những TQ kiếm chuyện mà còn bị một số phe phái "chụp" nhà Lê làm công cụ chính trị của mình

Băn khoăn nhất của người soán ngôi đó là lòng dân. Mình đủ sức mạnh và cơ hội để soán ngôi, nhưng vấn đề là giành được hay không, lòng dân có theo hay không. Trường hợp Lê Hoàn lên ngôi thì phải có lý do chính đáng mặc dù chính ông đã nắm hết quyền lực của triều đình rồi, đó là: sự đồng thuận từ bên trong, âm mưu xâm lược Đại Cồ Việt của nhà Tống. Tương tự, Lý Công Uẩn không tự mình lên ngôi mà phải nhờ sự đồng thuận của một số quan lại trong triều; các hoàng từ sở dĩ tranh ngôi không khốc liệt do sự ủng hộ của một bộ phận quan lại, dòng họ lớn; bị lôi kéo nên kẻ nào mạnh thì được. Trần Thủ Độ phải "đi đường vòng" dù triều Lý không còn giá trị nữa nhưng chuyển giao quyền lực êm thấm là cả một nghệ thuật (không kể những thủ đoạn của Trần Thủ Độ để giành quyền lực cho họ Trần); trong đối ngoại, việc chuyển giao quyền lực đó chính là cơ sở để Trung Hoa công nhận vua mới, vì TQ không công nhận thì tàn dư vương triều cũ lại cầu viện để lấy lại quyền lực. Đối nôi và đối ngoại phải có lý do chính đáng để TQ công nhận khi có chuyển giao quyền lực: vd trường hợp Hồ Quý Ly rất bài bản, ông lên ngôi là bắt buộc, nhưng chưa thanh trừng hết tàn dư nhà Trần thì ông bị sức ép của nhà Minh nên vương triều Hồ bị sụp đổ. Lực lượng Mạc Đăng Dung lên ngôi trong lúc còn tàn dư nhà Lê; Nguyễn Kim sau này dựng triều Lê lên làm bình phong nhằm phục vụ cho mục tiêu tranh giành quyền lực với họ Mạc. Từ kinh nghiệm của Nguyễn Kim, con cháu họ Nguyễn và Trịnh sau này không dám động đến vương triều Lê.

Về vấn đề Nguyễn Huệ ứng xử với nhà Lê khá phức tạp: Nguyễn Huệ rất muốn lấy Bắc Hà, nhưng ông rất ngại vì lòng dân Bắc Hà (ông dẹp vua Lê, chúa Trịnh dễ dàng; nhưng lòng dân Bắc Hà không theo). Trong con mắt sĩ phu Bắc Hà, Nguyễn Huệ là người không có đẳng cấp gì, không tin tưởng khả năng quân sự của ông - nên Nguyễn Huệ vài lần ra Bắc Hà với khẩu hiệu "phù Lê diệt Trịnh" nhưng ông không thật lòng làm điều đó. Khẩu hiệu trên giúp Nguyễn Nhạc thắng như chẻ tre ở miền Trung và Nam Trung Bộ, nơi chất chứa nhiều mâu thuẫn xã hội. Cũng với khẩu hiệu đó, quân Tây Sơn vào Nam Bộ thì rất ít người ủng hộ; vùng đất Nam Bộ thì Tây Sơn khó giữ được và cuối cùng mất về tay Nguyễn Ánh; dân Nam Bộ ủng hộ tuyệt đối Tây Sơn khi Nguyễn Ánh cầu viện Xiêm năm 1784; còn tranh chấp quyền lực thì thế lực nào cũng nghĩ ra nhiều chiêu trò nhằm giành quyền lực về tay mình, chuyện cầu viện để mất đất thì xảy ra nhiều trong lịch sử. Sau khi đánh thắng chúa Nguyễn, Tây Sơn cắt đôi lãnh thổ chúa Nguyễn và nghĩa quân cai quản khoảng từ Quảng Nam đến Bình Thuận. Chúa Trịnh thấy rằng đây là cơ hội tốt, quân chúa Nguyễn cũng nhiều lần đánh ra; khi quân chúa Nguyễn bị Tây Sơn đánh thì quân chúa Trịnh từ ngoài Bắc tiến vào (cơ hội tốt để đánh bại địch thủ Nguyễn). Chúa Nguyễn từ thế "lưỡng đầu thọ địch" (bị Tây Sơn và quân Trịnh chuẩn bị tiến binh vào) ban đầu thì sau đó Tây Sơn cũng rơi vào thế "lưỡng đầu thọ địch" giữa quân Trịnh và quân Nguyễn: chúa Trịnh từ Huế trở ra, Tây Sơn từ Quảng Nam đến Quy Nhơn, Nam Bộ thuộc chúa Nguyễn. Quân Trịnh vào Phú Xuân quá dễ nên khinh địch, Nguyễn Nhạc làm kế "trá hàng" cùng quân Trịnh đánh quân chúa Nguyễn, ông Nhạc xin nộp đất cho quân Trịnh nhưng Tây Sơn vẫn được quản lý. Xong quân chúa Nguyễn, quân Tây Sơn trở ra. Lúc này, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế và tranh chấp quyền lực với em trai là Nguyễn Huệ (ông sợ Nguyễn Huệ kiểm soát không nổi). Khi Nguyễn Huệ đánh thắng quân Xiêm ở Gia Định, anh cả vội cho người đến triệu em trai về Quy Nhơn vì sợ em trai lấn quyền mình (hẹp hòi). Quân Tây Sơn hạ thành Phú Xuân thì ở Nam Bộ quân chúa Nguyễn Ánh chiếm lại được Gia Định, nên Nguyễn Huệ phải căng mình đối đầu hai đối thủ là quân Trịnh ở Phú Xuân và quân Nguyễn ở Gia Định.

Xong Phú Xuân, Nguyễn Huệ có ý hướng lên Bắc Hà. Lên Bắc Hà thì dễ, nhưng quy tụ được lòng dân Bắc Hà rất khó; hạ chúa Trịnh là dễ nhưng vua Lê là một trở ngại với Nguyễn Huệ nên ông ra vào Bắc Hà nhiều lần, ông chính danh ở Bắc Hà với tư cách là một anh hùng dân tộc. Lần thứ nhất, Nguyễn Huệ ra khẩu hiệu rồi đem quân ra Bắc đánh tan quân Trịnh, cưới con gái của vua Lê làm vợ và thưởng cho đất Nghệ An. Xong mọi việc ở Bắc Hà, Nguyễn Huệ rút quân vào Nghệ An, có tướng Nguyễn Hữu Chỉnh đi theo. Trong bối cảnh cả chúa Trịnh và chúa Nguyễn cùng mệt mỏi, Nguyễn Hữu Chỉnh thấy Tây Sơn có cơ hội nên đi theo; đến Nghệ An thì Tây Sơn để Nguyễn Hữu Chỉnh ở đó rồi rút phần lớn lực lượng vào Phú Xuân. Nếu có lòng giúp vua Lê, Nguyễn Huệ phải đánh quỵ luôn quân Trịnh chứ ? Nhưng không, ông đánh cho tan quân Trịnh thôi chứ không đánh tiếp nữa. Còn việc để Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An thì có ý: ai có sức mạnh thì cứ giữ ở đó, và Nguyễn Huệ không tin dùng Nguyễn Hữu Chỉnh lắm. Khi quân Tây Sơn rút hết, tàn quân Trịnh trở ra quấy rầy nhà Lê nên Nguyễn Huệ không muốn giúp vua Lê vì ông muốn cho dân Bắc Hà tin rằng mình không có ý giành ngôi vua Lê (Nguyễn Huệ trao trả quyền lực lại cho vua Lê, rốt cục vua Lê cũng mất hết quyền). Vua Lê không bao giờ nghĩ tốt về Nguyễn Huệ (có lẽ vua Lê đoán ra ý định chiếm Bắc Hà của Tây Sơn rồi) và Nguyễn Huệ cũng như vậy - hai bên chưa nghĩ tốt về nhau. Huệ để Hữu Chỉnh ở lại Nghệ An để đo lòng của Chỉnh, làm cho vua Lê có thêm kẻ thù (Hữu Chỉnh, tàn quân Trịnh) đối phó. Khi quân Trịnh trở lại giành quyền lực, vua Lê cầu cứu Hữu Chỉnh (có lẽ vua không biết Hữu Chỉnh và Nguyễn Huệ có vấn đề với nhau), việc cầu viện Nguyễn Hữu Chỉnh khác nào đối đầu với Nguyễn Huệ - vì lý do vua Lê không tin tưởng Nguyễn Huệ; việc vua gả con cho Nguyễn Huệ chỉ là ngoại giao hôn nhân mà thôi. Việc quân Trịnh đánh nhà Lê là vua Lê quá vô tích sự rồi, Hữu Chỉnh dẹp được quân Trịnh rồi ông ta thay thế quân Trịnh giám sát vua Lê luôn, lộ rõ khát vọng của mình. Trước tình hình này, Nguyễn Huệ cử cháu rể là Vũ Văn Nhậm sang diệt Chỉnh chứng tỏ nhà Lê không còn giá trị, ít lâu sau đó ông cử quân ra diệt luôn Nhậm rồi sắp xếp mọi việc ở Bắc Hà. Năm 1788, vua Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh. Cuối cùng, Nguyễn Huệ đứng trước một thách thức, cũng là một cơ hội cho ông: vua Lê cầu viện nhà Thanh, phải đối mặt với kẻ thù lớn nhất - cơ hội là ông sẽ trở thành anh hùng dân tộc trong lòng nhân dân Bắc Hà, đó là cơ hội số một để Nguyễn Huệ chiếm Bắc Hà mà không lo nghĩ là lòng dân không theo. Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, dẹp nhà Lê và đánh bại quân Thanh xâm lược một cách danh chính ngôn thuận - không bị dân phản ứng mà dân còn xem như người hùng.

2.2.2. Vấn đề mở rộng cương vực lãnh thổ đất nước trong lịch sử

Thứ nhất, đây là vấn đề có tính quy luật của các quốc gia trên thế giới. Các quốc gia trên thế giới đều có mở rộng lãnh thổ bằng cách sát nhập lãnh thổ. Trong lịch sử nếu không mở rộng lãnh thổ đủ lớn, đủ sức mạnh thì chúng ta trở thành lãnh thổ của nước khác từ lâu rồi.

Thứ hai, do nhu cầu tự thân phát triển nên các quốc gia sát nhập lãnh thổ. Con đường mở rộng lãnh thổ cũng rất đa dạng (ngoại giao hôn nhân, đe doạ, tìm chỗ dựa)

Thứ ba, việc mở rộng lãnh thổ xuất phát từ sức ép của cuộc tranh chấp quyền lực trong nội bộ. Sức ép thì cần có lãnh thổ đủ rộng và sức mạnh đủ lớn. Khi quốc gia đủ mạnh thì sức ép của nội bộ là tranh chấp quyền lực (mở cõi phương Nam là sức ép của tranh chấp quyền lực)

Thứ tư, mở rộng lãnh thổ do nhu cầu của người dân. Nam Bộ là dân đi trước rồi nhà nước theo sau - xuất phát từ nhu cầu của người dân.

Quá trình mở rộng lãnh thổ nước ta đa dạng. Nhiều người nói quá trình mở rộng lãnh thổ nước ta theo hướng Tây - Đông và Bắc - Nam; nhưng cũng có hướng từ Nam => Bắc; sát nhập Đông => Tây là đưa Tây Nguyên vào bản đồ nước ta. Quá trình mở rộng lãnh thổ của nước ta theo hướng chính là Bắc => Nam; Tây => Đông thì tiến xuống phía Đông là hướng ưu tiên, thuận lợi do phía đông là dân nông nghiệp, cuối các con sông. Về địa hình thì phía tây địa hình không thuận lợi. Ta tiến về phía nam, vì phía Bắc không thể mở rộng lãnh thổ được nữa và nước ta cũng bị sức ép từ trên đó xuống; các quốc gia phía nam thì sức mạnh thua mình.

Mở rộng lãnh thổ là môt hiện tượng phổ biến - dạy học trò là tinh thần chống ngoại xâm. Để tồn tại thì thế nước phải mạnh với "trong Đế, ngoài Vương" (thần phục là giả hiệu). Bắt mình thần phục vì nó chiếm nước mình không được, với các nước khác thì mình sát nhập lãnh thổ để tồn tại trước sức ép của Trung Quốc => đó là tiến trình lịch sử. Theo quy luật mạnh được - yếu thua và mở rộng lãnh thổ là điều phổ biến (giáo dục theo hướng đề kháng thì phải nói mình bị hà hiếp, nhiều khi mình quyết liệt, nói thẳng là thế này thế kia (cuộc xâm lược) thì nó phạm vào thực tế của mình); mình hiểu đặc điểm của mở rộng lãnh thổ là một nhu cầu tự thân và là vấn đề có tính phổ biến trong thời kỳ lịch sử đã diễn ra. Không phải theo lý lẽ là ta bị giết nên ta đi chiếm lại, nhưng phải hiểu việc chiếm này là một việc làm phổ biến.

Trong 4 lý do mở rộng lãnh thổ, ta muốn tồn tại trước sức ép của nước mạnh hơn thì ta phải đủ lực - một trong những cách để tạo ra sức mạnh đó là mở rộng lãnh thổ để sát nhập các cộng đồng dân tộc khác nhằm tạo thành một quốc gia đủ mạnh để tồn tại. Việc thừa nhận xâm lược, quá trình mở cõi thì quan điểm hiện nay rất thoán, mình nói thẳng vào cuộc xâm lược thì đôi khi nói phạm vào thực tế của mình, mình nói với các cộng đồng dân tộc khác là việc sát nhập lãnh thổ là cần thiết để tồn tại được trước sự xâm lăng của các nước lớn. Ở Việt Nam thì Champa là một phần lãnh thổ của nước Việt, Thuỷ Chân Lạp thành một phần lãnh thổ của nước Việt (Thuỷ Chân Lạp có thời Nguyễn là một trấn lớn, vua Nguyễn cử quan cai trị bên cạnh vua Chân Lạp, về sau Chân Lạp được Xiêm và sau là Pháp bảo hộ).

2.2.3. Vấn đề chia cắt và thống nhất đất nước (TK XVI- XIX)

Bản chất của cát cứ là tranh chấp quyền lực, cát cứ là một tình trạng của chia cắt.

* Chia cắt là:

- tồn tại tình trạng cát cứ về mặt lãnh thổ

- trong lãnh thổ bị chia cắt thì tồn tại một chính quyền có tính chất độc lập

- tình trạng chia cắt này có tính tạm thời (các bên chia cắt tạo thế cân bằng về quyền lực. Còn hợp tác lẫn nhau mà bên này giữ lấy quyền lực tạm thời, hôm sau đánh dẹp để thống nhất luôn thì không được gọi là chia cắt)

- kinh tế và văn hoá cũng bị chia cắt

- có/không được quốc tế thừa nhận

Có các lần chia cắt lãnh thổ sau:

a. Thời kỳ loạn 12 sứ quân: trong thời Bắc thuộc, chính quyền đô hộ muốn thực hiện việc cai trị thì phải chia ra; thời Văn Lang - Âu Lạc là tồn tại liên minh bộ lạc nên trong thời Bắc thuộc, chính quyền đô hộ sử dụng các tầng lớp quý tộc địa phương và cho tầng lớp quý tộc này tiếp tục quản lý, chứ họ không làm sao quản lý được bên dưới làng xã. Sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng thì chúng cử một bộ phận quan lại TQ đến cai trị, nhưng chúng vẫn dùng người địa phương để cai trị vì các địa phương có tính tự trị tương đối, họ có ý thức độc lập dân tộc rất cao. Ngô Quyền giành được độc lập trong thời gian ngắn, chưa đủ để tạo ra sự cố kết dân tộc, cộng đồng; thành ra sau khi ông mất thì lộn xộn xảy ra, chính quyền trung ương suy yếu đi và liên minh tan rã. Mỗi địa phương đều có tính độc lập riêng của nó, khi chính quyền trung ương đủ mạnh thì mới khống chế được và khi trung ương suy yếu thì địa phương sẽ không nghe lệnh trung ương => loạn 12 sứ quân bắt nguồn từ đặc điểm đó. Sau thời Bắc thuộc, tính cố kết rất thấp và các địa phương vẫn có sức mạnh của nó. Khi chính quyền trung ương yếu thì nó tan rã ra, ông nào có khả năng thì ông đó sẽ nhất thống thiên hạ. Tình trạng này kéo dài 20 năm; các thế lực địa phương này độc lập từ trước, khi chính quyền trung ương tan rã thì quay lại tình trạng cũ - chia cắt.

b. Thời kỳ Nam - Bắc triều và Trịnh - Nguyễn:

Nam - Bắc triều là gồm lực lượng của họ Mạc ở Bắc triều, riêng Nam triều thực chất là của nhà Lê nhưng sau lưng là họ Nguyễn và Trịnh; hai triều này hội tụ hết những điều kiện trên kia, mỗi cái là một cõi và cái này đan xen cái kia. Nam - Bắc triều chưa kết thúc thì xuất hiện cục diện Trịnh - Nguyễn (Đàng Trong - Đàng Ngoài); có thời kỳ vừa tồn tại Nam - Bắc triều, vừa tồn tại Đàng Trong - Đàng Ngoài

Kết thúc cục diện Nam - Bắc triều là công của chúa Trịnh, giờ chỉ còn lại Đàng Trong - Đàng Ngoài. Trong khi Đàng Trong - Đàng Ngoài chưa kết thúc thì xuất hiện phong trào Tây Sơn => xuất hiện cùng một lúc, không phải là chỉ một mà là Đàng Trong - Đàng Ngoài và Tây Sơn.

c. Thời Tây Sơn: Tây Sơn kết thúc cục diện Đàng Trong - Đàng Ngoài nhưng mở ra một cục diện mới: Nguyễn Nhạc - Nguyễn Huệ - Nguyễn Ánh; Nguyễn Lữ là theo phân công của Nguyễn Nhạc, nhưng chủ yếu là anh em Nhạc - Huệ phân chia rõ ràng về lãnh thổ (Nhạc khởi nghĩa bình thường, sau thắng lợi thì ông lên ngôi Hoàng đế; ông thấy Huệ có tài năng xuất chúng nên tìm cách kìm chế Nguyễn Huệ, Huệ tìm cách để tồn tại và tìm giang sơn riêng. Khi Nguyễn Huệ đánh quân Xiêm ở Tiền Giang thì Nguyễn Nhạc đem quân theo dõi rồi sắp xếp giao cho Lữ, gọi Nguyễn Huệ về (Nguyễn Huệ ra Phú Xuân, Thăng Long cũng trong tình trạng như thế; Nguyễn Huệ giết Vũ Văn Nhậm là rể của Nguyễn Nhạc cắm vào đấy). Khi đánh quân Thanh thì Nguyễn Huệ không còn giữ ý tứ gì nữa, lên ngôi luôn => lúc này nói rằng Huệ và Nhạc không phải là một nữa, mà là hai (hai anh em đánh nhau rồi, lấy Quảng Nam làm ranh giới chia đôi). Sau trận Rạch Gầm - Xoài Mút một thời gian thì Nguyễn Ánh chiếm lại được Gia Định, cát cứ đã xong trong khi anh em Tây Sơn chia nhau miền Trung và miền Bắc => thời Tây Sơn thì lãnh thổ chia ba. Sử nhà Nguyễn nói anh em Tây Sơn chia ba lãnh thổ đất nước thì không đúng, thực ra có lãnh thổ của Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Ánh (Nguyễn Lữ là được phân công thôi, nhưng lãnh thổ là của Nhạc - Huệ rồi). Nhạc bị kẹp giữa Huệ và Nguyễn Ánh, nhưng Huệ muốn nhập luôn lãnh thổ của Nhạc mà Huệ chưa có chủ trương đó; Nguyễn Huệ bỏ dở dang nhiều thứ. Lần chia cắt thời Tây Sơn cuối cùng là Nguyễn Ánh thống nhất lại.

Giữa Nguyễn Huệ với Nguyễn Ánh thì ai là người thống nhất đất nước ? Người ta tranh luận cũng rất lâu rồi, có ý kiến cho rằng thống nhất là một quá trình: Nguyễn Huệ đặt nền móng, Nguyễn Ánh kết thúc quá trình đó

* Tiêu chí thống nhất của một đất nước là:

+ Thống nhất là một quá trình: Trong một số lực lượng cát cứ, nếu lực lượng nào thắng lợi sẽ dẫn đến viếc thành lập một nhà nước thống nhất, quản lý toàn bộ đất nước bằng thống nhất

+ Thống nhất do một lực lượng mới xuất hiện: trong nước thì lực lượng này đánh dẹp và thống nhất lãnh thổ và lập ra chính quyền quản lý chung. Trong trường hợp này sẽ phát sinh sự can thiệp của nước ngoài thì mới đánh dẹp được ngoại xâm. Công cuộc này cũng xuất phát từ lực lượng mới là phong trào Tây Sơn

Phong trào Tây Sơn làm được: Đánh dẹp về cơ bản các thế lực cát cứ và tạm thời cát cứ. Sự việc này có tính chất tạm thời vì vẫn tồn tại lực lượng của Chúa Nguyễn - Nguyễn Ánh ở Gia Định. Trong quá trình này cũng xuất hiện 2 cuộc xâm lăng từ bên ngoài thì Nguyễn Huệ đã đánh bại được và bảo vệ được độc lập dân tộc

* Vấn đề cầu viện:

Các thế lực bên ngoài kéo vào Việt Nam đều bắt nguồn từ nội chiến nên nảy sinh nhu cầu đi "cầu viện". Vậy cầu viện đúng hay sai ? Khi các bên đánh nhau thì họ không từ một thủ đoạn nào để có thể đánh bại được nhau. Nguyễn Ánh cầu viện đánh quân Tây Sơn (cầu viện cả Xiêm, về sau là Thanh). Cầu viện là một sự đổi chác, mặc dù biết rất rõ sẽ mất độc lập và chủ quyền quốc gia; nhưng trước mặt bằng mọi giá phải thắng được đối phương, còn chuyện khác tính sau. Việc này thường xảy ra trong tranh chấp quyền lực. Ánh cầu viện Xiêm, nhưng thấy quân Xiêm vào Gia Định cướp bóc thì nhận thấy không khả thi, nên về sau khi vua Xiêm có nhã ý giúp thì Nguyễn Ánh khéo léo từ chối rồi ông ta tá túc ở Xiêm; sau đó ông ta bí mật bắt liên lạc để đưa quân đội về ngay trong đêm (sau đó Ánh viết thư cảm ơn vua Xiêm - một cách từ chối). Nguyễn Ánh được nhân dân Gia Định yêu mến vì chúa Nguyễn có công rất lớn trong việc khai phá Nam Bộ, nên họ ủng hộ Nguyễn Ánh rất nhiệt tình.

Ở miền Trung, chính quyền họ Nguyễn không quản lý tốt nên đời sống nhân dân cực khổ; chính vì thế khi nghĩa quân Tây Sơn khởi nghĩa thì họ lập tức nhận được sự ủng hộ của nhân dân. Nhưng khi quân Tây Sơn đánh vào Nam Bộ thì nhân dân Nam Bộ không hưởng ứng (vì nhân dân Nam Bộ thấy không có nhu cầu, chính sách của chúa Nguyễn ổn định). Tây Sơn chỉ được ủng hộ đúng một lần trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút; sau khi Nhạc giao Gia Định cho Nguyễn Lữ thì Lữ bất lực, Tây Sơn mất dần ảnh hưởng ở đây.

Cầu viện Pháp cũng trong tình thế nguy cấp. Nguyễn Ánh ký với Pháp hiệp ước 1787. Hành động cầu viện đứng trên góc độ dân tộc là không đúng, nhưng nếu đứng về hoàn cảnh lịch sử thì Ánh hành động như vậy là điều thường thấy. Lê Chiêu Thống cũng vậy vì thời điểm đó chưa có luật quốc tế phân định, nên cũng có những quy định nhất định. Lê Chiêu Thống là chính quyền được Trung Quốc thừa nhận (theo tập quán quốc tế) nên khi vua Lê nhờ thì nhà Thanh qua giúp đỡ, còn việc xâm lược là một khía cạnh khác vì việc này chưa từng xảy ra. TQ là minh chủ và các chư hầu phải thần phục; việc nó hống hách khi qua là chuyện bình thường vì qua nước khác là một việc làm không có ý nghĩa với bản thân họ. Sự cầu viện của Nguyễn Ánh và vua Lê tạo điều kiện cho các thế lực nước ngoài vào nước ta; Nguyễn Huệ trở thành anh hùng dẹp quân Xiêm và Thanh.

=> cầu viện là một hành động không đúng, tạo điều kiện cho bên ngoài vào xâm lược khiến đời sống nhân dân càng khốn khổ, nguy cơ mất độc lập dân tộc cũng rất lớn.

* Dựa vào các tiêu chí:

+ Tây Sơn chỉ giải quyết có tính chất tạm thời; khi chưa dẹp hết những cát cứ thì lại xuất hiện thế lực cát cứ khác, khi lập được chính quyền mới thì họ cũng chưa tạo ra sự tiến bộ hơn. Chính tính chất tiểu nông của Tây Sơn đã tạo ra sự cát cứ mới thúc đẩy tình trạng chia ba.

+ Tây Sơn có dẹp các thế lực cát cứ, nhưng về cơ bản thì chưa bao giờ thống nhất về mặt nhà nước; Tây Sơn lập được hai chính quyền trong khi Nguyễn Ánh tạo dựng chính quyền ở Đàng Trong. Việc tồn tại của lực lượng chính trị phụ thuộc vào sự ủng hộ của người dân - Nguyễn Ánh là người như thế. Phong trào Tây Sơn có nhiều hạn chế: khi dẹp được triều Lê - Trịnh và làm suy yếu được chúa Nguyễn trong một thời gian thì ngay bản thân phong trào Tây Sơn cũng bị chia cắt đất nước khác. Nói Tây Sơn có công gì thì chưa đúng, nhưng nói Tây Sơn có công dẹp hết vua Lê - chúa Trịnh và trong này là chúa Nguyễn.

Giữ độc lập: Giặc vào một phần là do Tây Sơn vì có Tây Sơn mới xuất hiện các lực lượng đối lập, lực lượng đối lập cầu viên ngoại bang nên Tây Sơn: (1) nếu thắng lợi thì được ca tụng; (2) thua sẽ bị lên án. Tây Sơn đánh dẹp các thế lực cát cứ Đàng Trong - Đàng Ngoài thì lập ra một thế lực cát cứ khác. Nếu không có Nguyễn Ánh thì biết đâu Tây Sơn lại trở về thời bị chia cắt Đàng Trong - Đàng Ngoài ?

Dưới thời Nguyễn, Việt Nam được xếp vào loại cương quốc ở châu Á (đến Pháp thuộc lại khác). Ai đó lỡ sai gì là mình phủ định hết, bất chấp việc họ có ít nhiều công lao hay không và đó là quan điểm không phù hợp. Cho nên mình kết luận:

- Tây Sơn dẹp được cát cứ (thực tế là vậy). Có ý kiến cho rằng: Đàng Trong - Đàng Ngoài không làm gì được nhau, đẩy đất nước vào chia cắt lâu dài. Nếu không có Tây Sơn thì không có cơ hội mở ra cho Nguyễn Ánh sau này thống nhất đất nước; chuyện chia cắt đó làm nước ta mở rộng lãnh thổ xuống phía nam. Cái gì chưa xảy ra thì không bàn, không có "giá như", "giả sử như" - giá như Nguyễn Huệ không vắng số thì đất nước này cũng biết được đâu... Một mình Huệ chưa làm được gì. Sau khi Nguyễn Huệ qua đời thì vương triều Tây Sơn "nát như tương" (tranh chấp nhau quyết liệt), nếu vương triều Quang Trung còn mạnh thì Nguyễn Ánh không bao giờ làm gì được. Đọc tài liệu thì khi Quang Trung qua đời, không ai nói ai nghe, Quang Toản bất tài và không đủ năng lực (còn Nguyễn Huệ thì còn kiểm soát được), không ai nói được Quang Toản và Toản cũng không nói được ai; Nguyễn Huệ đâu có sống mãi mãi đâu mà cứ nói "giá như".

Cho nên mới khẳng định:

+ Phong trào Tây Sơn đánh bại hai thế lực cát cứ hùng binh lâu dài là sự thật. Nhưng tổ chức của Tây Sơn đã tạo ra một trạng thái cát cứ mới ngay trong nội bộ luôn, thế lực của chúa Nguyễn vẫn còn tồn tại ở Gia Định là một thực tế. Nếu phong trào Tây Sơn không chia rẽ, Nguyễn Ánh chỉ ở Gia Định thôi thì Tây Sơn sẽ được đánh giá rất cao. Anh em Tây Sơn cũng tạo ra mầm mống chia cắt mới, ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo nếu Tây Sơn vẫn còn tồn tại ? Ngay trong nội bộ Tây Sơn đã có hạn chế rồi, nó tạo cơ hội tốt hơn cho Nguyễn Ánh ở Gia Định => nếu nói Tây Sơn dẹp hết các thế lực cát cứ thì không phải, vì còn Nguyễn Ánh ở Gia Định mà. Chỉnh bản thân nội bộ Tây Sơn cũng tạo ra một trạng thái cát cứ mới, Tây Sơn chưa bao giờ thống nhất được lãnh thổ.

+ Về mặt nhà nước và chính quyền, phong trào Tây Sơn rõ ràng đã thiết lập hai chính quyền độc lập với nhau và không có thống nhất bao giờ cả. Có chỗ ghi là Nguyễn Huệ đánh Nguyễn Ánh, nhưng ông bất ngờ qua đời mà nếu không thì Nguyễn Huệ đã thống nhất được rồi. Vào Gia Định không dễ, vì nhân dân Gia Định trung thành với chúa Nguyễn rất rõ ràng; nếu Nguyễn Ánh không được nhân dân Gia Định che giấu và bảo vệ thì ông ta đã bị Tây Sơn tiêu diệt từ lâu rồi. Cho nên thống nhất đất nước là xét cả một quá trình (sách của GS Nguyễn Phan Quang có đề cao tinh thần dân tộc chống ngoại xâm, ai dây dưa đến ngoại xâm thì chúng ta đều hạ thấp. Tây Sơn có công trong việc thống nhất đất nước). Hiện nay thì nó thoải mái hơn nên giải phóng dân tộc là cả một quá trình: bước thứ nhất là dẹp đi các thế lực cát cứ - nguồn gốc để chia cắt đất nước, bước thứ hai là thiết lập chính quyền trên lãnh thổ thống nhất đó. Tây Sơn làm được bước 1 (bước quyết định nhất), Nguyễn Ánh kết thúc Tây Sơn và lập chính quyền thống nhất.

Ai có công thống nhất đất nước: thì Tây Sơn cũng góp một chút vì thế lực Trịnh và Nguyễn thì không làm gì được. Phong trào Tây Sơn nổi lên làm chúa Trịnh và chúa Nguyễn bị ảnh hưởng, tạo cơ hội để chúa Trịnh không lật đổ được kẻ thù là Tây Sơn, nhưng sau đó Nguyễn Ánh đã đánh bại được Tây Sơn để tạo ra thế thống nhất đất nước. Thống nhất là cả quá trình, Nguyễn Ánh làm vậy là khó dở làm vậy.

=> Trong nhận thức lịch sử, chỉ cần nhận thức đúng và đủ, hạn chế những đánh giá mang tính chủ quan. Trong dạy học sinh, chức năng giáo dục phải có bình xét (hiểu như thế nào, theo tình hình để có cách nói phù hợp)

d. Thời kỳ 1946 - 1975:

Ngay khi chúng ta giành được chính quyền thì có chia cắt bởi vĩ tuyến 16; bắc vĩ tuyến là Trung Hoa Dân quốc, nam vĩ tuyến là quân Anh. Bắc vĩ tuyến 16 thì chính phủ ta đã có giải pháp dung hoà để giữ được quyền kiểm soát đất nước, nam vĩ tuyến là quân Anh. Sau khi mình xử lý được giành chính quyền, ra Tuyên ngôn độc lập thì ở phía nam vĩ tuyến, quân Pháp quay trở lại xâm lược Nam Bộ và cuối cùng cả Nam Bộ rơi vào tay Pháp. Trong quá trình ta xử lý vấn đề Tưởng Giới Thạch thì Pháp xúc tiến liên lạc với Bảo Đại thành lập một chính quyền tay sai là "Nam Kỳ tự trị", đưa Bảo Đại lên nắm chính quyền tay sai này. Giải pháp lập chính quyền tay sai do Pháp lập ra như một "bức bình phong", mở rộng ra là chính phủ Quốc gia Việt Nam đã thể hiện âm mưu của chúng ngay từ đó. Thực tế, dù chưa chính thức nhưng chính quyền Bảo Đại tồn tại một thời gian khá dài sau khi ông ta rời bỏ Chính phủ Hồ Chí Minh, theo Pháp để xúc tiến thành lập một chính quyền trong Nam Kỳ. Song song với chính quyền Pháp và Bảo Đại, chính quyền cách mạng vẫn tồn tại. Kháng chiến chống Pháp chủ yếu ở chiến trường chính Bắc Bộ, Trung - Nam Bộ không theo kiểu giống ngoài bắc và chỉ là chiến trường phụ hỗ trợ vì nơi này có chính quyền tay sai được Pháp hỗ trợ. Đó là lý do vì sao hội nghị Geneve chọn vĩ tuyến 17 là nơi định quân - phản ánh một thực tế là bên nào làm chủ được đất nước thì vùng đó sẽ là nơi rút lui của bên còn lại. Việc chia cắt như vậy là có từ năm 1946, việc chia cắt này diễn ra sau khi Thế chiến 2 kết thúc không lâu

Trong hiệp định Geneve, nếu có hai bên tham gia thì rất đơn giản; đằng này thì nhiều bên tham gia. Hiệp định không đơn thuần giải quyết tình hình nước Việt hiện tại, mà còn có những lực lượng của Pháp hiện diện ở đây nên thừa nhận chính quyền Bảo Đại. Bản hiệp định không nếu rõ việc đó, nhưng động thái của Mỹ trong và sau hội nghị nhằm đi trước một bước để tạo ra một chính quyền tay sai mới, lực lượng mới như một sự việc đã rồi trong năm 1954 ở nam vĩ tuyến 17 sau khi Pháp rút quân để tạo cơ sở cho Mỹ từng bước can thiệp vào - có một lực lượng khác với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở Nam Bộ trong hậu hiệp định. Hiệp định thừa nhận thực tế có các lực lượng khác nhau, có Hiệp thương tuyển cử. Sau Geneve, Việt Nam bị chia thành hai miền, sau đó Mỹ nhảy vào và gây chiến tranh Việt Nam. Chiến tranh kết thúc lâu, nhưng có nhiều vấn đề được nêu ra và đúng sai không rõ ràng (hoà hợp dân tộc). Chúng ta đã đánh bại quân Mỹ và đã làm xong.

2.2.4. Những đánh giá mới về trách nhiệm của Triều đình và một số nhân vật lịch sử thời nhà Nguyễn

2.2.4.1. Đánh giá mới về triều Nguyễn

Triều Nguyễn hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc mất nước, điều này không thể chối cãi được. Ngay từ khi Nguyễn Ánh tranh chấp quyền lực với Tây Sơn, ông ta đã gây ra một món nợ với phương Tây - đó là đi cầu viện và ký một hiệp ước với Pháp. Mặc dù hiệp ước này không được triều đình Pháp phê chuẩn do vướng bận cách mạng Pháp, nhưng một số giáo sĩ và sĩ quan Pháp mà đứng đầu là Bá-đa-lộc đã vận động rất quyết liệt với Nguyễn Ánh để nhằm giúp tiền bạc, vũ khí ủng hộ Ánh; vì những cơ sở này mà về sau Pháp áp đặt những điều kiện để Pháp kiếm cơ gây sự về sau này. Mặc dù triều đình cố gắng quản lý đất nước, nhưng nước ta ngày càng lạc hậu. Trước làn sóng truyền giáo và thương mại ồ ạt của phương Tây, vua Nguyễn thi hành chính sách "cấm đạo" và "đóng cửa", đánh mất cơ hội thứ nhất đưa nước ta hoà nhập với thế giới phương Tây. Trường hợp Nhật và Xiêm làm rất thành công, nhà Nguyễn không làm được điều đó và tầm nhìn rất hạn hẹp, việc đóng cửa khiến nước ta vuột mất cơ hội tiếp cận với văn minh phương Tây giúp đất nước phát triển, có thực lực để không bị xâm lược. Chính đầu óc tư duy hạn hẹp làm đóng luôn cánh cổng giao lưu với phương Tây để đưa nước ta trở thành quốc gia cường thịnh. Chính sách đó vừa mất cơ hội vươn lên, vừa tạo ra một đe doạ từ phương Tây; hiệp ước ký với Pháp tạo một cơ hội cho Pháp đòi hỏi nhiều hơn. Khi quân Pháp xâm lược, triều đình chống trả yếu ớt và "thí" mất Nam Bộ - chủ trường cắt đất cầu hoà để bảo vệ quyền lợi của mình nên đất đai cứ mất dần. Mất Nam Bộ thì Nguyễn Trường Tộ cùng với loạt các nhân sĩ khác ra các đề nghị cải cách, những đề nghị cải cách này được đề ra trước cả Xiêm và Nhật nhưng triều đình Huế khước từ mọi cải cách => mất thêm cơ hội thứ hai (chủ động, có người chỉ ra cũng khước từ). Triều đình Huế cũng tự thân vuột mất cơ hội: khi Pháp đánh chiếm Gia Định thì quân Pháp mắc bận ở chiến trường Trung Quốc và Syria thì quân triều đình không đuổi nó đi mà vẩn xây đồn Chí Hoà; tư duy chiến lược sai lầm đó làm quân ta liên tiếp bị thất bại trước quân Pháp. Khi phong trào kháng chiến của nhân dân nổ ra khắp cả nước thì triều đình lẽ ra phải tập hợp lực lượng nhân dân đánh giặc đến cùng, nhưng vua vẫn nuôi hy vọng sợ mất đi quyền lợi của mình mà ký hiệp ước với Pháp dẫn đến mất nước. Lẽ ra nhà Nguyễn có ký tiếp tục các hiệp ước thì các hiệp ước không thể ký một cách nhục nhã như thế. Không có tinh thần chống giặc thì thôi, vua Nguyễn lại bắt tay với Pháp cùng chống lại nhân dân ta.

a. Vấn đề "cấm đạo":

làn sóng truyền giáo của các giáo sĩ phương Tây vào các nước phương Đông là một hiện tượng lịch sử. Các quốc gia phương Đông thời cận đại đều đứng trước nguy cơ làn sóng giáo sĩ phương Tây vào ồ ạt để truyền đạo. Nhiều nước phương Đông chịu ảnh hưởng Nho giáo, trong đó có Việt Nam đều có "cấm đạo" quyết liệt. Tại sao cấm ? Có nhiều quan điểm cho rằng giáo sĩ làm vậy là nhòm ngó nước phương Đông nhằm phục vụ cho việc xâm lược; nhưng thực tế thì như thế này: giáo sĩ truyền giáo để phát triển sự nghiệp của họ, đương nhiên các giáo sĩ và thương nhân có quan hệ với nhau (thương nhân đi buôn thì giáo sĩ đi theo - gắn liền với sự nghiệp truyền giáo của họ). Giáo sĩ truyền bá tôn giáo cùng các giá trị phương Tây là dân chủ tự do; tôn giáo này truyền vào phương Đông. Các quốc gia phương Đông trước khi Công giáo nhập vào thì xã hội của nó tồn tại nhiều mâu thuẫn nên khi Công giáo vào thì được nhiều người đón nhận; khi người dân theo ngày càng nhiều sẽ dẫn đến xung đột văn hoá đe doạ đến chế độ chính trị của chính quyền phong kiến đương thời. Nho giáo từ ông vua tiến xuống người dân theo một trật tự nhất định, đúng tôn ti trật tự không thay đổi và xã hội được thiết lập rất chặt chẽ theo một chiều: vua là thiên tử - bề tôi - cha, mối quan hệ này ràng buộc nhau: ý vua là tuyệt đối, toàn bộ những trật tự của Nho giáo đã tạo ra trật tự xã hội phong kiến, tạo ra quyền lực tuyệt đối của ông vua. Đạo Thiên chúa truyền vào thì: nó mang theo các giá trị về dân chủ phương Tây có tính công bằng (Nho giáo là cha mẹ đặt đâu con theo đó, Thiên chúa là tự do yêu thương) - làm lung lay vị thế của ông vua. Thiên chúa không thờ cúng ông bà (Chúa là số một - Vua chẳng là cái gì cả). Nếu Công giáo phát triển sẽ tạo ra hiệu ứng xã hội rất lớn, chính quyền phương Đông nặng Nho giáo đã phản ứng quyết liệt với tôn giáo mới này như một sự "phản vệ" về mặt văn hoá. Thiên chúa giáo được truyền phổ biến vào nước ta, ông Bá-đa-lộc và Nguyễn Ánh tranh luận rất quyết liệt về việc này, nhưng Bá-đa-lộc cũng có nhân nhượng nhiều với Nguyễn Ánh về thái độ, suy nghĩ và lo lắng cúa chúa Nguyễn Ánh; vì họ là người cầm quyền nên vua áp dụng cấm đạo như vậy. Nên nếu nghĩ rằng cấm đạo liên quan đến xâm lược cũng không đúng - xâm lược mới là phát sinh ra thêm. Bây giờ truyền giáo bị cấm, giáo dân bị đầy ải đủ kiểu nên giáo sĩ lo lắng về chính sách cấm đạo đó. Ngoài ra, các thuyền buôn chở các giáo sĩ đến (có quan hệ chặt chẽ) nên cấm đạo là phải kiểm soát chặt chẽ các thuyền buôn; kiểm soát gắt gao dẫn đến hạn chế luôn vì triều Nguyễn không có nhu cầu buôn bán mà các thương nhân này đến chỉ làm ăn có các giáo sĩ đến phiền hà nên lập tức hạn chế buôn bán luôn.

Hạn chế buôn bán, cấm đạo thì hàng hoá quá nhiều và mang nhiều lợi ích chọ họ: cấm buôn bán với phương Đông tác động trở ngược với chủ nghĩa tư bản phương Tây nên các giáo sĩ - thương nhân này đi tìm sự can thiệp của chính quyền bằng cách xin chính quyền phương Tây cấp cho họ bức quốc thư (họ đến và trình quốc thư như những sứ giả mang lệnh của quốc gia đến các nước phương Đông yêu cầu thông thương buôn bán, truyền giáo). Thế thì sự việc lớn hơn rồi: trước đây trước cho vô thì vô và không thích thì đuổi; nhưng thương nhân mang quốc thư, quà cáp để tiếp kiến và xin phép mở thông thương thì các nước phương Đông bắt đầu dò xét, lo sợ việc này. Đương nhiên, mục tiêu của các nước phương Tây thì họ phải được thông thương, được tự do buôn bán mà các ông vua phương Đông này không có nhu cầu (lúc cần mới mua, không có đến mức quá độ như vậy). Càng về sau, triều đình càng tìm cách hạn chế nên các thương nhân tìm sự hỗ trợ về mặt quân sự. Đạt đến mức quân sự, vai trò của các giáo sĩ rất cần thiết cho các hoạt động này - các giáo sĩ cũng mong muốn được truyền giáo thoải mái, tạo ra mối quan hệ vững chắc giữa nhà truyền giáo với thương nhân với sự xâm lược của các nước phương Tây. Các thương nhân càng tỏ ra cứng rắn và muốn chính quyền phải can thiệp thì các chính quyền phương Đông càng lo sợ đóng chặt cửa, cấm đạo gắt gao - đương niên nếu các nước phương Tây suy yếu thì nó phải chấp nhận, còn đằng này là thế thượng phong nên phương Tây dùng vũ lự: nhu câu đằng sau thương mại là mở rộng lãnh thổ, các nước phương Tây xâm lược - sau quá trình phát triển thì phương Tây đẩy mạnh hoạt động xâm lược thuộc địa để tạo ra cơ hội, điều kiện thuận lợi nhất phục vụ cho sự phát triển của nó. Sự đe doạ quân sự càng lớn thì các nước phương Đông càng đóng chặt cửa (nước yếu thì không thể đóng cửa được, nước mạnh thì đóng được; chứ không nước nào chủ trương mở cửa ngay từ đầu).

Trong bối cảnh chung của các nước như vậy, chính sách đóng cửa và cấm đạo của triều Nguyễn nằm trong xu thế chung đó và trong bối cảnh đó, triều Nguyễn cũng vậy thôi. Cấm đạo và đóng cửa là một phản ứng rất bình thường lúc bấy giờ. Việt Nam cũng có hàng hoá, Nam Kỳ cũng có nhiều hàng hoá để các thương nhân cập bến mua bán rất nhiều: họ phải gom rất vất vả để có nhiều hàng hoá đem về, Việt Nam cũng có sản xuất và hàng hoá dư thừa chưa mức tạo ra một nền sản xuất lớn hàng hoá để trao đổi với phương Tây, hàng hoá Việt cũng không nhiều đến mức chúng ta có nhu cầu tìm nơi tiêu thụ nó cho nên nhận thức về kinh tế thị trường thời đó chúng ta chưa có. Thương nhân phương Tây buôn bán xong thì họ có nhu cầu thu gom và họ phải ở rất lâu mới thu gom một lượng hàng hoá nhất định sau đó rời đi. Nhu cầu buôn bán với phương Tây của chúng ta rất ít, mà kinh tế chủ yếu của Việt Nam là nông nghiệp; cấm đạo và đóng cửa một phần vì lo ngại, phần nữa là không có nhu cầu buôn bán với phương Tây

Vua Gia Long không truyền ngôi cho cháu mà truyền ngôi cho con thứ là chuyện bình thường. Gia Long trước đây cũng lo lắng về các quan lại người phương Tây mặc dù đối đãi với họ rất đàng hoàng; ông lo sợ vì phương Tây có nhiều ưu thế. Ông không chọn con của hoàng tử Cảnh vì: hoàng tử Cảnh sang Pháp, theo đạo và con của hoàng tử cũng vậy; đó là điều Gia Long không muốn (người theo đạo Chúa thì Gia Long chắc chắn không cho); lúc này xu hướng cấm đạo đã rất rõ ràng, động chạm đến các giáo sĩ và chính quyền Pháp là tất yếu, nên việc chọn hoàng tử Đảm là hiển nhiên, chứ không phải đưa Minh Mạng lên là phủi hết món nợ với Pháp đâu.

b. Vấn đề "hiệp ước" và thái độ của triều đình với cuộc xâm lược của Pháp:

Thực ra bản hiệp ước Versailles không ảnh hưởng gì đâu, không có hiệp ước này Pháp cũng muốn đánh chiếm Việt Nam thôi. Hiệp ước chỉ là cái cớ, có hay không thì thực dân cũng muốn xâm lược mà thôi. Nhìn thực tế, các nước phương Tây đâu có ký hiệp ước nào mà nó vẫn đi xâm lược bình thường. Chuyện thực dân đi xâm lược là sớm hay muộn, không có hiệp ước nó vẫn xâm lược

Toàn bộ quá trình từ khi Pháp xâm lược đên 1884 gắn liền với vua Tự Đức. Khi Pháp xâm lược, trong triều đình chia thành hai nhóm là chủ hoà và chủ chiến. Khi Pháp tấn công vào một chỗ nào đó mới thì chắc chắn vua sẽ ngả theo phe chủ chiến, đánh thua thì nhà vua ngả theo phe chủ hoà. Khi Pháp đánh Đà Nẵng và Gia Định, triều đình cũng kháng chiến rất quyết liệt, phát động toàn dân chống Pháp nhưng rồi khi Gia Định thất thủ, triều đình buộc phải ký hiệp ước vì đằng nào cũng thua rồi, chẳng qua Pháp xoa dịu để mình dễ dàng ký hiệp ước mà thôi. Thực dân chiếm mất Nam Kỳ, lôi mình ra đàm phán. Mình thua người ta mà đàm phán cái gì ? Nó ở thế thắng nên nó có quyền áp đặt; vua cử Phan Thanh Giản vào nam để đàm phán. Ông Giản đàm phán xin Pháp trả lại đất Vĩnh Long, còn lại là nhượng hết cho Pháp (nhưng Pháp có hẹn sẽ cho chuộc lại đất). Phan Thanh Giản hơi cả tin, tin tưởng sẽ chuộc lại được. Ba tỉnh miền Tây là lúc này triều đình rất bạc nhược nên thái độ của Phan Thanh Giản là buông xuôi. Pháp đánh ra Bắc Kỳ hai lần, triều đình đánh quyết liệt, nhưng thua buộc phải nhượng đất: đánh ra Bắc Kỳ lần thứ nhất, triều đình thua nặng rồi rồi vội thương luọng với Pháp dẫn đến mất luôn ba tỉnh miền Tây. Ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ đã chiếm rồi, nhưng chưa giao cho Pháp; sau vụ Bắc Kỳ lần thứ nhất thì đáng lẽ triều đình quyết tâm thì đã thắng rất lớn. Nhưng nếu đánh đến cùng chưa chắc đã thắng được quân Pháp. Quân triều đình và nhân dân kiểm soát được tình hình, nhưng thực tế thì không phải vậy, đánh bật được Pháp ra khỏi Bắc Kỳ lại là một chuyện khác.

Phe chủ hoà cho rằng Pháp mạnh lắm, đánh không nổi đâu và đánh kiểu gì cũng thua - mà đúng thế thật. Phe chủ chiến chủ trương đánh giặc đến cùng, người lãnh đạo phải quyết tâm. Vua lúc ngả về phe này, lúc ngả về phe kia, tuỳ theo tình hình thực tế. Không phải vua muốn làm gì cũng được, ông cũng phải theo sự ủng hộ của các đại thần: khi ba tỉnh miền Đông bị mất vào tay Pháp, Nguyễn Trường Tộ tham gia vào nhóm thông ngôn của Pháp và ông này nhận thấy nguy cơ mất nước đến gần nên ông ra nhiều nước, sau năm 1862 ông này ra hàng loạt các điều trần gửi vua với mong muốn dùng những điều mình biết được để ra giúp nước, canh tân đất nước (trước ông này cũng có những cải cách rồi). Cuối cùng, triều đình không thực hiện được là một thực tế. Lỗi tại ai ? Vua nhận được các điều trần này, nhưng không thực hiện, các quan lại ghét Nguyễn Trường Tộ lắm vì khi đưa lên thì bọn họ lại bắt đầu bàn bạc, vua kêu quan lại làm mà quan lại không làm được. Nguyễn Trường Tộ không có gì, đưa điều trần lên rồi vua bắt các quan lại thực hiện; nhưng những ông quan này đâu có được đào tạo ra để làm việc đó, ông quan đâu có điều kiện ra ngoài tìm hiểu như Nguyễn Trường Tộ được, nên những điều trần của Nguyễn đưa lên bị các quan lại xem như một phiền hà. Vua sai họ làm, họ làm không được và vua cảm thấy bất lực; ban đầu vua rất cầu thị, giao việc gì cho Nguyễn thì Nguyễn làm rất tốt, giao cho quan lại thì họ làm không được vì họ đầu có được đào tạo ra để làm việc đó. Nguyễn Trường Tộ sốt ruột ra nhiều điều trần nữa, cuối cùng vua phát biểu: những biện pháp của Trẫm đủ để cai trị quốc gia rồi - cái khước từ của vua đó là sự bất lực, không làm được. Tất cả các điều trần nhà vua đều đọc và đồng tình chứng tỏ vua rất cầu thị, nhưng làm được hay không là một chuyện khác. Triều đình khước từ có nghĩa là triều đình không đủ năng lực để làm việc đó.

Không phải phủi hết mọi trách nhiệm của triều đình Huế, nhưng cái sau đây đáng trách: Không cùng nhân dân, tập hợp nhân dân chống giặc. Trách như vậy là trách một bộ phận thôi, nhà Nguyễn vẫn có những nhóm; có những lúc nhóm chủ chiến chủ trương đánh giặc đến cùng. Không phải vua nào của nhà Nguyễn cũng theo giặc đâu, có vua cũng chống Pháp đến cùng. Đã không cùng nhân dân đánh giặc, không có bản lĩnh mà vua Nguyễn quay lại thoả hiệp với giặc nhằm bảo vệ lợi ích dòng họ: ai cộng tác với Pháp thì không nói (cái này trách nhất). Trách oan là: cấm đạo và ức thương là cái bắt buộc (hành động phản vệ tự nhiên), không thực hiện các đề nghị cải cách. Mất nước là tất yếu, vì ai làm vua cũng thế thôi. Về các đề nghị của các ông Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch thì như thế này: thực tế của nhà Nguyễn không thể làm được điều đó. Bình thường mà người dân dám đề nghị vua cải cách là lính triều đình xuống bắt đem xử luôn, thậm chí một tín đồ mà dám chỉ cho vua cách cai trị đất nước thì là "khi quân" và xử tử luôn. Trong hoàn cảnh nguy cơ mất nước gần kề, vua rất cầu thị và khen Nguyễn Trường Tộ, giao xuống mấy ông quan làm thì họ làm không được.

Về chủ hoà - chủ chiến thì tuỳ thực tế chiến trường và vua phải chịu trách nhiệm về chuyện này. Đánh Pháp mà thua một cái thì mất hết tất cả. Vậy thì làm sao nhỉ ? (suy nghĩ của vua) Khi Pháp xâm lược, các khanh bây giờ nói đến không thể không đánh được, đánh một cái là tan. Thế là phe chủ hoà nói: hoàng thượng thấy chưa, không thể đánh nổi đâu, phải hoà hoãn thôi. Vua nghe cũng có lý (thực tế mà), các khanh xem bây giờ thế nào ? - Đàm phán ! Theo kiểu như vậy đó. Đàm phán nhượng được một tí chủ quyền cái rồi đánh tiếp. Phe chủ chiến lại bảo: nó không muốn dừng lại đâu, đàm phán là mất nữa, phải đánh tiếp thôi. Vua bảo: vậy thì phải đánh. Đánh thôi ! Cứ dùng dằng như vậy vì lợi ích dòng họ, những quyết định như vậy xuất phát từ lợi ích. Ông võ tướng Tôn Thất Thuyết có suy nghĩ khác, chủ trương đánh Pháp đến cùng nhưng không thành - mới trách là triều đình Huế không đánh giặc nổi. Khi dân sẵn sàng cùng với triều đình đánh giặc thì triều đình không sẵn sàng, không tích cực; thậm chí có lúc đẩy nhân dân về phía đối lập với mình.

Vụ triều đình ra lệnh bãi binh trong Nam thì: lệnh bãi binh đó bị ràng buộc bởi hiệp ước 1862. Trong thực tế ông Trương Định chống Pháp; triều đình dù ra lệnh bãi binh nhưng không thực sự triệt hạ Trương Định - nếu thực sự bãi binh thật thì triều đình đem quân diệt luôn Trương Định từ lâu rồi. Nếu ký hiệp ước là một sai lầm thì việc hy vọng xin chuộc lại đất mà không hợp nhất đánh Pháp đó cũng là một sai lầm - những sai lầm đó xuất phát từ vấn đề lợi ích của một bộ phận vua quan lúc bấy giờ, xuất phát từ thực lực của ta lúc bấy giờ - nếu quân ta mạnh hơn Pháp thì mình sẽ tính sổ với nó liền.

Đánh giá lại nhà Nguyễn: trong thời kỳ chống ngoại xâm thì để mất nước thì mình đánh giá hơi khắc khe; bây giờ nếu đặt vào bối cảnh thì vấn đề sẽ giải quyết một cách hài hoà, cảm thông và thực tế hơn.

Phan Thanh Giản là tiến sĩ Nho học đầu tiên của đất Nam Bộ. Vua Tự Đức có mẹ là người Gò Công - Từ Dụ thái hậu, vợ Trương Định là con cô/cậu với vua Tự Đức và lương thảo của Trương Định được bố vợ giúp nhiều lắm nên Trương Định mới chống lệnh vua là như thế nên Phan phải gặp Trương Định mấy lần để thuyết phục thì bất thành (cãi lời vua là vua cho bắt xử tử ngay, nhưng vua không làm thế). Phan thuộc nhóm chủ hoà nên cho rằng mình không thể thắng nổi quân Pháp vì Pháp mạnh - đó là thực tế. Chống Pháp là tự sát nên Phan dùng hoà hoãn để tìm một lợi ích tốt nhất có thể: thương lượng (vua đã trách ông sau khi không chuộc được đất, nhưng vua thương ông - dẫn đến sai lầm thứ hai là mất luôn ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ nên Phan dùng cái chết để tỏ nỗi lòng của mình, những sai lầm của mình (các Nho sĩ ngày xưa được giáo dục ra làm quan để cống hiến, không hoàn thành nhiệm vụ thì tự xử). Sử của cách mạng cho rằng Phan bán nước (hơi quá), có người nói Phan bán nước thì được cái gì ? Không được cái gì cả, đó là sai lầm của Phan về nhận thức, những việc ông làm đã gây hậu quả rất lớn nên lấy cái chết để tỏ rõ tấm lòng của mình, chết để chuộc lỗi. Hai con trai ông kháng Pháp, sau hai người này hàng Pháp nên cũng có cãi nhau ì xèo. Về sau, ông Võ Văn Kiệt chủ trương xét lại công tâm cho các nhân vật lịch sử

Trương Vĩnh Ký thì ông này có nhiều đóng góp cho văn hoá dân tộc. Không chống được giặc thì ông "làm gì thì làm, người đời sau xét như thế nào thì tuỳ". Ông cũng cộng tác với Pháp, nhưng ông cũng có nhiều đóng góp với văn hoá dân tộc. Hiện nay tên Trương Vĩnh Ký được đặt cho tên đường, tên trường (ở khu Gò Dầu, Tân Phú)

Chương 3: Một số vấn đề cập nhật về lịch sử Việt Nam thời cận đại

3.1. Một số vấn đề về biện pháp cứu nước trong phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX

Về hoàn cảnh quốc tế, Nhật Bản ban đầu cũng yếu thế nên phải mở cửa cho nước ngoài và buôn bán; Việt Nam cũng là một quốc gia mạnh nhất trong khu vực, nhưng trước sức mạnh của phương tây nên buộc phải đóng cửa - Nhật thì trước sức mạnh của phương tây nên phải mở cửa để tiếp thu văn minh phương Tây, mở rộng kinh tế hàng hoá nên Nhật đã dần có tiềm lực kinh tế rất mạnh, giai cấp tư sản Nhật ngày càng giàu có trở thành tư sản quý tộc Nhật. Tư sản quý tộc Nhật mạnh về kinh tế và dần có thế lực chính trị nên họ tập hợp lực lượng mạnh lật đổ được Mạc phủ. Sau khi lên nắm chính quyền, quý tộc tư sản (còn gọi là quý tộc tư sản hoá) tiến hành một cuộc cuộc cải cách đứng đầu là Minh Trị. Toàn bộ nội dung cải cách đều học từ phương Tây. Lực lượng thực hiện chính là giai cấp tư sản và nó xuất phát từ nhu cầu của họ; Minh Trị chỉ là biểu tượng tinh thần, nhưng thực chất ông là ông vua yêu nước, mạnh mẽ và quyết đoán. Nhật Bản cải cách thành công là nó xuất phát từ nhu cầu đất nước và xã hội, lực lượng tiến hành cải cách lại là lực lượng cầm quyền (cách thực hiện từ trên xuống). Xiêm thì chủ động mở cửa, xuất phát từ nhu cầu xã hội nhưng do chưa có được sự đồng thuận chặt chẽ từ trên xuống nên không đạt được nhiều thành tựu rực rỡ như Nhật Bản.

Triều đình Huế bất lực trước sức mạnh của phương Tây, quay lại ôm chân Pháp nhằm giữ lấy quyền lợi của dòng họ. Lực lượng lãnh đạo không có những ông vua anh minh quyết đoán thì đất nước sẽ gặp nguy biến. Trước vận mệnh đất nước, tầng lớp trăn trở nhất là các Nho sĩ trí thức. Phong trào cách mạng Trung Quốc đã ảnh hưởng và thức tỉnh các trí thức Việt Nam: Phan Bội Châu ngưỡng mộ Nhật, nhờ Nhật đánh Pháp; Phan Châu Trinh thì ngưỡng mộ phương thức làm kinh tế của người Âu châu, ông cự tuyệt chế độ phong kiến và tiếp thu dân chủ tư sản để cải cách đất nước theo con đường của phương Tây. Tuy đứng cùng một hoàn cảnh, nhưng hai ông có một cách thức, hướng đi khác nhau => muốn làm cách mạng phải có ngọn cờ. Phan Bội Châu đã tìm và phong ông Cường Để làm hội chủ và nhận nhiệm vụ đưa các thành niên sang Nhật du học. Phan Châu Trinh đòi dân chủ, đòi công khai hợp pháp; dựa vào Pháp để xây dựng một xã hội tiến bộ theo hướng dân chủ tư sản

Con đường cứu nước của hai ông có nhiều hạn chế: Phan Bội Châu "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau"; Phan Châu Trinh "chẳng khác nào xin Pháp rủ lòng thương" => Làm gì cũng phải có thực lực, muốn có thực lực phải có yếu tố con người.

Cụ Phan Bội Châu vận động người thiếu niên Nguyễn Sinh Cung theo phong trào Đông Du, nhưng Nguyễn nhận thấy rằng con đường cứu nước này không đúng đắn nên Nguyễn từ chối (không tự ý trả lời) câu hỏi của bậc cha chú mình. Sau này khi cậu bé Cung đã lớn, cụ Phan lại đến nhà cụ Sắc ngỏ ý đưa anh trai và cậu Cung sang Nhật học; Anh trai (ông Khiêm) nói đây là việc lớn, bây giờ cha tôi không có ở nhà, khi nào cha tôi về tôi sẽ hỏi ý kiến cha. Cụ Sắc sau khi nghe ông Khiêm trình bày thì đồng tình với hành động của con trai cả.

3.2. Vai trò của tầng lớp trí thức đối với phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam từ 1919 - 1930

Đây là một vấn đề rất phức tạp. Những trí thức có học, có lương tâm thường hay trăn trở, thường suy nghĩ về vận nước và thời cuộc. Lẽ ra, chính quyền dân tộc phải không tiếc xương máu để giành lại độc lập; không ai nói rằng triều đình có công lao lớn trong việc đánh giặc, không ai phủ nhận điều đó. Bây giờ chống Pháp là phản động, hi sinh vì Tổ quốc khi ở địa vị cao, chỉ cần một hoặc hai hành động là nó tác động vào xã hội rất ghê gớm, tù chung thân. Trong văn kiện Đại hội lần thứ IV và V của Đảng thì Đảng nhắc nhiều đến vấn đề tham nhũng của một bộ phận không nhỏ các cán bộ Đảng viên; vụ Vũ nhôm.

Khi đất nước bị Pháp xâm lược và thống trị, những người không có lương tâm mới tìm đến việc "theo Pháp", còn bất kể ai có lương tâm mà khi tình hình đất nước như vậy nên họ không khỏi cảm thấy đau đớn, không khỏi cảm thấy bực mình thì đó mới là người yêu nước. Họ tự đặt mình trước thực tế, quyết định hành động ra sao trước việc đó, phản ứng gì trước việc đó để họ hướng đến cái tích cực hoặc tiêu cực; quyết định dựa trên thực tế và phản ứng của nhân dân. Có người phản ứng theo kiểu tiêu cực, có người phản ứng theo kiểu tích cực và cách nhìn nhận vấn đề của mỗi người là khác nhau nên đó là chuyện bình thường. Khi bắt đầu những việc đó, họ thường cho rằng không phải là việc của mình rồi mình cũng chẳng mặn mà gì việc của mình nên để tồn tại thì ít nhiều họ cũng bị lôi kéo để làm việc nước, số khác thì im lặng; khi muốn diệt ai đó thì họ thường dao động tư tưởng, suy nghĩ và cân nhắc. Hèn nhát, chạy làm sao mà khỏi và ứng biến như thế nào với tình hình (Khxh thì hiểu là một chuyện, áp dụng là một chuyện khác; nhiều lúc hiểu rồi nhưng không biết áp dụng ra sao). Ngày xưa hai chí sĩ họ Phan phải là người cực kỳ dũng cảm, bức xúc rõ nhất về vấn đề hiện tại của đất nước nên hai ông mới ra tay cứu quốc chứ không phải suốt ngày dùi mài kinh sử. Lẽ ra, học xong ra phục vụ cho chính quyền mặc kệ Pháp làm gì; nhưng mình thể hiện khát vong giúp vua cứu nước, cứu dân; về quê ở ẩn, về quê làm cách mạng. Trí thức phải có cách ứng xử của trí thức, tuỳ hoàn cảnh, chủ trương và lực lượng hiện có; một số thì buông xuôi, một số có chủ nghĩa đối kháng, khi đất nước cần đến thì phải có vũ dũng để đi lên. Bản thân là người tốt, người có lòng nhân, có tấm lòng chăm lo những người dưới mình; ăn cắp của người giàu không phải là xấu, nếu mà tận dụng điều này để lôi kéo họ (tức người giàu) vào cứu nước cũng khá tốt, nhưng ý tưởng này khá tồi vì người giàu không dễ gì cho ăn cắp của được. Mấy ông này giỏi, có học hàm, có uy tín địa vị, phát huy được sở học của mình, riêng về mặt tư tưởng thì không đơn giản. Vừa có uy tín là một, nhưng áp vào thực tế là một vấn đề khác và không rập khuôn (Bác Hồ đã giải quyết tốt vấn đề này); Phan Châu Trinh có uy tín lớn chứ không phải là không có, nhưng như thế cũng chưa phải là đúng. Phan Bội Châu cũng rất giỏi và đến khi ra giúp nước thì ông không hề nà gì cả.

Như vậy, cái việc tuyển người đi du học thì trước khi Phan Bội Châu phát động phong trào thì ông có họp trước một lần với các đồng chí yêu nước vào năm 1908 (một năm trước khi phong trào Đông Du tan rã), vì đi du học không phải là trò chơi kéo đầy nhiều người tham gia vào. Phan Bội Châu ra bắc gặp nhóm Nguyễn Thần Hiến là một trong những người yêu nước rất có tiếng tăm, đi vào Nam Kỳ thì Phan Bội Châu tỏ ra mến mộ người dân Nam Kỳ. Dân Bắc Kỳ thì tỏ ra khá ngưỡng mộ Hoàng đế (vua mất nhưng ngôi vẫn còn), dân Nam Kỳ cũng ngưỡng mộ vua Nguyễn chứ. Tại vì như vậy cho nên điều này giải thích vì sao Gia Long thoát chết nhiều lần khi ông ta bôn tẩu ở Nam Kỳ. Khi Nguyễn Ánh lấy lại được Gia Định (năm 1788), rước quân Xiêm về (1784). Nhưng khi Nguyễn Ánh từ Xiêm trở lại Nam Bộ, ông ta lập tức quy tụ được lực lượng từ trong gian khó, lập chương trình giáo dục toàn diện. Khi Nguyễn Ánh lên ngôi vua, theo quy luật của các triều đại phong kiến thì ông ta bắt đầu tiêu diệt những người "vào sinh ra tử" với mình, tất cả các thể chế nào cũng thế. Cái chuyện dân Nam Kỳ ủng hộ nhà Nguyễn là vì chính quyền nhà Nguyễn đã ổn định cuộc sống mới cho nhân dân từ việc mở mang, khai phá vùng đất Nam Bộ này để giúp người dân ổn định cuộc sống (sống có đức thì có của ăn, sau này được hưởng phước). Trong một số sách vở khi nói Tây Sơn khởi binh để chống chúa Nguyễn thì nói: Nguyễn Ánh được sự ủng hộ của các đại điền chủ ở Nam Bộ mà giành lại được chính quyền thì vô tình là "lật sử" - nếu xét các đại điền chủ là kẻ thù của nông dân, thì các đại điền chủ trong thời kỳ Tây Sơn nổi lên như thế thì có vai trò gì ? Tây Sơn có khẩu hiệu được phát động "lấy của người giàu chia cho người nghèo" thì hưởng ứng khẩu hiệu này một cách kiên quyết nhất là khu vực Nam Trung Bộ, vì ở Nam Trung Bộ có bức xúc xã hội gay gắt quá; nhưng trong Nam Bộ thì không có chuyện đó - dân Nam Bộ không bị gượng ép, nên bạn nhận thấy ảnh hưởng của Tây Sơn ở Nam Bộ rất mờ nhạt, dân Nam Bộ thờ ơ với việc đó (hận thù với việc đó), nên phạm vi của Tây Sơn ở Nam Bộ chỉ mang tính tượng trưng (Tây Sơn coi chúa Nguyễn như kẻ thù); Tây Sơn truy đuổi Nguyễn Ánh thì dân Nam Kỳ phần nhiều là không giúp, ở Nam Bộ đâu đâu cũng có dấu tích của Nguyễn Ánh; rõ nhất ở Tiền Giang (thành lập chung, dân hoà hợp). Khi Nguyễn Ánh đưa quân Xiêm về giày xéo Nam Bộ (Ánh sau khi thua trận thì sang ở ẩn tại Xiêm) thì một bộ phận địa chủ trong Nam Bộ ở thế mắc kẹt trong các thế lực Tây Sơn - Nguyễn, thua trận là bỏ chạy theo Nguyễn Ánh. Khi Phan Bội Châu vào Nam Kỳ, ông nhanh chóng nhận ra đặc điểm này của dân Nam Kỳ và khi nghe nói đến vua Nguyễn thì dân Nam Kỳ rất quý.

Trong phong trào Đông Du, mục tiêu của Đông Du là rất rõ ràng: yêu nước, học giỏi không phân biệt giai tầng trong xã hội. Du học là mục tiêu rất rõ ràng, học để về nước làm cách mạng. Về Nghệ An thì Phan Bội Châu chọn những người mà mình biết rõ nhất rồi đào tạo cho họ. Những du học sinh ra nước ngoài đều xuất phát từ miền Trung đến Bắc, phần đông là con em nhà nghèo hoặc có điều kiện; qua bên đó họ được tạo điều kiện, hỗ trợ (bảo trợ tiền để nuôi đi học). Cuối năm 1905, hoạt động du học phát triển mạnh mẽ thì Phan Bội Châu vào Nam thì hội nghĩa ở Nam Kỳ đang phát triển mạnh và hội đủ nhiều trí thức tham gia, để vận động tài chính ở Nam Kỳ để ủng hộ cho phong trào Đông Du. Trong Nam Kỳ có ông Trần Chánh Chiếu có uy tín rất lớn với trí thức Nam Kỳ nên ông có nhiều lợi thế; bằng cách nào đó ông Phan Bội Châu tiếp xúc được nhiều trí thức mới, trong đó có ông Trần Chánh Chiếu và bằng cách đó ông xin gửi con Trần Chánh Chiếu sang Hongkong. Ở trong Nam Kỳ thì ngay từ năm 1901 thì ông Lương Khắc Ninh, Trần Chánh Chiếu đã phát động một phong trào cải cách để học tính giàu có của tư bản phương Tây; mấy ông này xuất thân từ những địa phương có học, có tài chính mạnh và phát động phong trào Minh Tân. Phong trào Minh Tân này là một hiện tượng đặc biệt - trước đây người ta cho rằng phong trào Minh Tân này do Phan Châu Trinh ở miền Trung đưa vào phát động, nhưng thực ra phong trào Minh Tân do trí thức Nam Kỳ phát động sớm nhất - năm 1901. Trong Nam đã có những kêu gọi minh tân rất mạnh mẽ, nhất là tờ Nông Cổ Mín Đàm của Lương Khắc Ninh (về sau là Trần Chánh Chiếu) làm chủ bút thì có mục "bàn luận về việc buôn" phê bình rất mạnh mẽ tư duy làm nghề buôn của người Việt, chỉ ra phương cách mà người Nhật và người Trung Hoa làm cách nào để giàu có và giữ được nghề (tháng 4/1901 vẫn còn giữ được hướng như vậy); ông Ninh và ông Chiếu đọc những bài viết trong tờ báo đó, rồi gom tiền bạc đi kinh doanh theo kiểu của phương Tây nên có sẵn tư tưởng như vậy. Khi nghe Phan Bội Châu phát động phong trào Đông Du, Trần Chánh Chiếu trở về Nam Kỳ và vận động bà con ở Nam Kỳ gom tiền bạc mở khách sạn, nhà hàng, công ty buôn bán. Các ông khởi xướng phong trào Minh Tân trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt về mặt kinh tế; các ông cũng xác định một cuộc vận động toàn diện, mở công ty kinh doanh đủ thứ kiểu, lớn nhất là công ty Nam Kỳ Minh tân công nghệ và Minh Tân khách sạn; ở trên Sài Gòn có Chiêu Nam Lầu của Nguyễn An Khương. Ban đầu thì mở ra kinh doanh để kêu gọi mọi người góp vốn, kinh doanh theo kiểu phương Tây (lập công ty, khách sạn), công ty thu mua các sản phẩm trên khắp đất Nam Kỳ rầm rộ nên gọi là phong trào Minh Tân. Công ty gom tiền làm cổ phần kinh doanh để có đầu ra sản phẩm và dùng tiền bạc để tập hợp những người có uy tín cho hưởng ứng phong trào. Dân Nam Kỳ tiếp xúc với phương Tây từ rất sớm nên họ mua hàng ào ạt đưa ra nước ngoài sinh hoạt, khi nghe có ông Cường Để ở Nhật (ông này đang gom tiền của con em Nam Kỳ đi du học) thì nhiều gia đình ở Nam Kỳ góp nhiều tiền cho con đi du học Nhật Bản và trong nước phát động phong trào Đông Du. Năm 1906 trong khi phong trào Đông Du đang diễn ra và có diễn ra một đợt tài trợ, ở ở Bắc Kỳ thì Nguyễn Thượng Hiền cũng phát động một phong trào tương tự và ít nhiều cũng gửi tiền bạc ủng hộ cho phong trào Đông Du. Phan Bội Châu tập hợp 185 người tham gia du học, trong đó 100 người thuộc Nam Kỳ; còn tiền bạc ủng hộ phong trào Đông Du là do công ty của Trần Chánh Chiếu hỗ trợ. Mấy ông đi du học sang Nhật hiểu rất rõ là học để làm chính trị, riêng Nam Kỳ (Nam Kỳ Minh Tân công nghệ) vận động con em đi du học là để học tập công nghệ của tư bản Nhật, sau đó về làm việc cho các tổ chức của Minh Tân phong trào. Tiền bạc vận động ngày càng nhiều, khi ông Cường Để khởi xướng thì những người khắp Nam Kỳ ào ào gửi tiền cho ông - nhiều người không nghĩ rằng kinh tế lại là một phong trào lớn như vậy. Tiền bạc gửi ào ạt và Pháp phát hiện và Phan Bội Châu trở về từ Nhật, Cường Để đã tập hợp như vậy và trong những ngày đầu thì phong trào Minh Tân phát triển mạnh, nhiều công ty cùng hoạt động theo cơ chế: tự ý thức để phát động kinh doanh làm giàu, đưa con em đi du học ở Nhật để mở mang cái mới. Tuy nhiên, nó cũng có ảnh hưởng từ xung quanh chứ không phải là bị tiêm nhiễm; sau phong trào này thì những công ty đó cũng ảnh hưởng một phần chính trị (mang màu sắc chính trị) và trong Nam Kỳ cũng thế, dẫn tới hình thành tiểu tư sản thuộc địa có những ảnh hưởng và thế lực nhất định; có những cái như thế để tạo thành một chuỗi sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Nam Kỳ và nó có ảnh hưởng ngược ra phía Bắc. Năm 1909, phong trào Đông Du bị tan rã và Phan Bội Châu bị trục xuất; vừa rồi GS Chương Thâu có xuất bản tư liệu về Phan Bội Châu thì hiện nay có tái bản để tìm đọc. Mấy ông mà du học ở Nam Kỳ thì khi Pháp gây sức ép bắt phải hồi hương thì một số có điều kiện thì có thể xin ở lại Nhật; còn mấy ông ở Bắc và Trung Kỳ thì do nhà nghèo nên một số hồi hương, một số ở lại bên đó để sinh sống và tiếp tục công việc của mình. Nhiều người gào khóc, đòi tiền tài trợ phong trào, lúc này một số người tham gia phong trào với mục tiêu chính trị thì họ chấp nhận việc làm đó, còn trong Nam thì nhà giàu rất nhiều thì chỉ việc du học thôi. Ở Trung Quốc, khi cuộc cách mạng Tân Hợi sắp nổ ra thì Phan Bội Châu nhìn thấy rõ tương lai của Việt Nam nên thành lập Việt Nam Quang phục hội. Sau khi cách mạng Tân Hợi nổ ra, Phan Bội Châu ở Quảng Châu đã nghiên cứu kỹ học thuyết "Tam dân" của Tôn Trung Sơn, khi nghe tính "mở" thì các cụ hình dung ra một cuộc trải nghiệm tuyệt vời

Về trường hợp Nguyễn Sinh Sắc thì phải tìm hiểu để biết thế ứng xử của người thời đó với thời cuộc quan trọng của đất nước. Cũng là người được ăn học tử tế; cả cuộc đời thì trí thức học để ra làm quan chỉ để vơ vét của dân làng lúc đó, chỉ có buôn bán thì quan thu thuế mới nhiều; một số trí thức khác thì cùng vua giúp dân, giúp nước; tuy nhiên cũng có người này người nọ, cũng có buôn bán chức danh, nhưng cũng chưa hẳn là thế. Về Bác Hồ thì lãnh đạo cách mạng cũng nghĩ đến tổ tiên; có người bảo là vì địa vị nên Người bôn ba cứu nước tìm ra được chủ nghĩa cộng sản. Có cuốn sách Trong cõi của GS Trần Quốc Vượng có nhiều câu chuyện về cụ Sắc cùng với thái độ ứng xử của trí thức: hoặc nhượng bộ, hoặc đấu tranh đến cùng. Thuở sinh thời, cụ Sắc là nhà Nho yêu nước; sống trong thời nhiễu nhương của đất nước nên có nhiều sắc màu: thù ghét, yêu thương; cãi lại triều đình là xử tử luôn, cấm cửa nhà Nho yêu nước; miền Bắc luôn trăn trở về vận nước (làm việc gì không), nào là các thói hư tật xấu. Ông bố của cụ Sắc là Nguyễn Sinh Nhậm có bà vợ rất giàu có, con cái đủ lớn và đầy đủ; đến thời ông Sắc có con dấu của gia đình. Con dấu đó do mẹ kế cụ Sắc giữ; con trai (tức cụ Sắc) vừa ra đời ít lâu thì mẹ mất và phải ở với anh họ. Ở trong hoàn cảnh như vậy, nhưng cụ Sắc rất giỏi. Khi ông Sắc lớn lên thì ông Hoàng Xuân Đường xin về nuôi, cho ăn học tiếp (nhiều sách ghi là ông Đường xin cậu Sắc về làm con nuôi, nhiều khi phải đổi họ), để dạy ai đó thì phải nuôi ai đó, nuôi dạy một người có học thức không phải là chuyện bình thường. Khi cụ Sắc đi thi, thi rớt lần thứ nhất ở lại học tiếp, về sau vào học Quốc tử giám. Được ở gần những người có học vị là các ông tú, dựa nhau cùng dùi mài kinh sử; dĩ nhiên cũng có sự đoàn kết vì dân Nghệ An xuất thân từ vùng đất nghèo khó thì người ta sẽ học thành tài. Ra thi lần thứ nhất không đậu, ở lại học ở Quốc tử giám; sau đó ông Sắc về quê lấy vợ là con gái cả của cụ Đường, lúc đó bà mới 13 tuổi (con gái 13 - 16 tuổi đã lập gia đình, ở Hà tĩnh trở ra khổ lắm, người dân phải làm đủ thứ việc, làm việc cho quan, mở nơi dạy học; ngày xưa học hành cũng có giới hạn nhất định). Ông Sắc mở lớp ở nhà mình cho con em người dân đến học, của cải thì cho được bao nhiêu thì cho và đương nhiên cho phòng học cũng phải đẹp và thoáng mát, có gạo cho gạo, có cá cho cá, quyên tiền bạc cho học trò và thầy dạy không cần học phí nhiều. Khi tiền bạc trở thành một thứ chủ yếu thì tất cả mọi thứ sẽ khác. Sau khi vợ mất, ông Sắc một mình nuôi các con nhưng không lo được nhiều, dạy kèm không đủ sống. Ngày xưa các ông quan, nhất là các thầy đồ thường kèm từ 1 - 2 em nên trẻ con thường ngưỡng mộ thầy đồ lắm, nổi tiếng và thoải mái là các thầy đồ xứ Nghệ, thầy đồ xứ Quảng (nhất là thầy Phạm Ngọc Thọ vốn rất khâm phục sở học của ông Sắc). Nguyễn Sinh Cung ở trong đó cùng với cha và gia đình; năm 1906 thì ông Sắc được triều đình bổ cho một chức quan là Thừa biện Bộ Lễ có trách nhiệm thảo lại các hoà ước ký với Pháp; nhận thêm một nhiệm vụ nữa để ra Thanh Hoá. Sau đó, ông Sắc trở về Huế tiếp tục nhiệm vụ. Mẹ mất, lúc đó Nguyễn Sinh Cung mới 8 tuổi (các tiểu sử ghi lúc đó Nguyễn Sinh Cung mới 9 - 10 tuổi; nhưng nhiều tư liệu khác nói năm 1892 là năm sinh của Nguyễn Sinh Cung - Hồ Chí Minh, Người làm cách mạng nên phải ẩn giấu đi nhiều thông tin của cá nhân mình; Nguyễn Sinh Cung nhiều lần khai với Pháp là sinh năm 1892). Vợ mất trong hoàn cảnh mà ông Sắc lúc đó đang ở Huế nên không về được, lúc này cậu bé Cung phải đứng ra làm chủ tang mẹ và cậu cũng chưa được dạy dỗ tử tế. Ông Sắc ở ngoài đang còn việc rất nhiều, nên khi nghe tin vợ mất ở Nghệ An thì ông lật đật về, về tới quê thì vợ đã mất và bắt đầu lo hậu sự (có lẽ nghị lực từ hoàn cảnh, số phận khiến ông Sắc vươn lên). Cụ Sắc ra Huế dự thi, năm 1901 đỗ Phó bảng và ra làm tri huyện cho chính quyền bảo hộ Pháp (đạt được chức danh Phó bảng là người khảng khái, con nhà gia giáo có học, sống có lý tưởng phục vụ cộng đồng. Đó là nền giáo dục trọng vọng).

Mặc dù vậy nhưng ông rất thương cảm cho những người dân nghèo, bất bình trước nỗi khổ của dân do xã hội có tình trạng như vậy. Cụ Sắc về quê, bán ít tài sản để ma chay lo hậu sự của vợ thì cũng đồng ý; nhưng cụ Sắc bán đất vì lương bổng của học hàm Phó bảng không đủ sống (người nào đỗ đạt thường được làng cấp cho mảnh đất để sinh sống). Do nhu cầu cần nhiều người phục vụ cho công việc nên triều đình Huế vốn có chủ trương lấy thêm những bài vở của những người làm tốt, nhưng chưa đạt; nhất là những người vùng sâu vùng xa. Phan Thanh Giản ở Nam Bộ thi nhiều lần không đỗ, cuối cùng ông được bố vợ là vua Tự Đức xét đặc cách cho đỗ để chứng tỏ vua có sự quan tâm đến học hành ở vùng xa (ai có khoa cử thì được làm thầy đồ), Phan Thanh Giản là tiến sĩ Nho học đầu tiên của Nam Bộ. Ai mà đỗ thì được ở gian nhà giữa, chỗ Nghênh Lương Đình để vinh danh những người đỗ đạt. Ai đỗ tiến sĩ thì ở nhà giữa, đỗ Phó bảng thì nhà ở bên cạnh vì tiến sĩ đỗ ở bảng phụ và nhà ở sát bên hông nhà giữa. Cụ Sắc về quê sau khi đỗ Phó bảng thì phải khao cả làng, ai có học hàm và chức vụ cao thì ngồi mâm phía trên. do nhu cầu cần thêm nhiều người phục vụ cho công việc nên triều đình tuyển thêm những người làm tốt, nhưng bài chưa đạt chuẩn để bổ vào một vị trí trong triều đình, những người đó xem như là đậu vớt thêm; những người vùng sâu vùng xa như ông Phan Thanh Giản thi rớt nhiều lần, như bố vợ là vua Tự Đức đặc cách mới cho đỗ tiến sĩ. Tự Đức quan tâm đến người cùng quê với mình, như vùng Gia Định là cho đỗ thôi; Phan Thanh Giản được đặc cách cho đỗ, và là tiến sĩ Nho học đầu tiên của Nam Bộ. Ai mà đỗ cao thì khi khắc tên trên bảng vàng thường để ở giữa, để rất vinh dự ở chỗ Nghênh Lương Đình. Ai đỗ tiến sĩ ở chính giữa, ai đỗ Phó bảng thì ở nhà bên cạnh; Tiến sĩ ở bảng chính, Phó bảng ở bảng phụ. Đỗ đạt thì về quê bái ước tổ tiên; vì thời xưa ai đỗ đạt mà về quê là vinh dự của làng. Cụ Sắc ở trên làng Kim Liên, còn người nhà của cụ Sắc ở làng Hoàng Trù. Cụ Sắc đỗ đạt về làng, cả làng góp tiền của và lấy đất công của làng chia cho cụ Sắc. Cụ đi bộ về quê, nhưng ở nhờ để chăm sóc các con còn nhỏ; cụ Sắc sau đó được cụ Phan Bội Châu cho ở nhở và cho dạy học, ít lâu sau thì cụ Sắc cho Nguyễn Sinh Cung vào học tại tiểu học Pháp - Việt Đông Ba. Tư liệu chính xác đã xác nhận cụ Sắc viết thư xin ra làm quan. Không có tư liệu nào xác nhận tại sao cụ Sắc làm vậy, nhưng có thể là: lúc đó cụ chủ trương Tây học để học cao hơn, nâng trình độ lên bậc cao hơn. Cấp tiểu học thì ai có điều kiện mới cho học, nhưng nếu muốn xét lên bậc trung học thì phải là con của quan lại mới cho học. Có lẽ để khuyến khích cho các con theo đường Tây học, cụ Sắc xin ra làm quan để có cơ hội tìm địa vị mới cho con. Muốn cho con học được trung học thì cha phải có chức vụ (quan lại). Ít lâu sau, Nguyễn Sinh Cung được đưa đi học ở Quốc học Huế còn cha mình chỉ là người tập sự, chưa được bổ nhiệm làm quan chính thức. Nhưng bằng quan hệ thì cụ Sắc đưa được con trai thứ vào học ở Quốc học Huế. Trong tài liệu tìm thấy được ở kho lưu trữ của Pháp thì Nguyễn Sinh Cung được nhận vào trường Quốc học Huế; bằng chứng là ở trường DHSP Huế có cái bia lưu dấu Nguyễn Sinh Cung còn học tại đây. Năm 1908 thì Nguyễn Sinh Cung mới được chấp nhận vào Quốc học Huế mà lúc đó Nguyễn Sinh Cung chưa đủ tuổi thành niên để học cấp bậc này (Nguyễn Sinh Cung sinh năm 1892) xem như là hành vi nông nổi của tuổi trẻ. Khi trường kiểm tra tên tuổi của Nguyễn Sinh Cung ở Quốc học Huế, cậu Cung nói rằng cậu là con quan (do Pháp nghi ngờ tuổi của cậu Cung không đủ tuổi thành niên) nên Pháp gửi văn bản cho triều đình để nhắc nhở cụ Sắc để con lạng quạng là không được.

Năm 1909, cụ Sắc được triều đình bổ làm quan tri huyện Bình Khê (Bình Định). Ông Sắc lại ra làm quan, nhưng khổ ở chỗ: khi ông ra làm quan thì không thể đủ điều kiện để Nguyễn Sinh Cung học ở Quốc học Huế nữa nên đưa cậu Cung đi theo, cậu Khiêm lúc đó ở quá xa nơi cha làm quan. Ở Bình Khê, ông chơi thân với thầy giáo Phạm Ngọc Thọ hiện đang dạy học ở trường Pháp - Việt Quy Nhơn. Nguyễn Sinh Cung ở lại Quy Nhơn học, tự nguyện hạ thấp trình độ xuống cho phù hợp. Cậu Cung ở nhà thầy Phạm Ngọc Thọ để học thêm tiếng Pháp và một số môn học khác; ông Sắc đi làm và có gửi tiền về cho cậu Cung đi học. Có những lúc đi ra ngoài khuây khoả, Nguyễn Sinh Cung cảm thấy buồn cho tình cảnh đất nước lúc bấy giờ. Đầu năm 1910, có gia đình ở Quy Nhơn có thế lực kiện khiến cụ Sắc bị cách chức và vua triệu hồi về kinh nhận chức quan mới. Trên đường về Huế, cụ Sắc nhắn gửi bạn mình bảo ban cậu Cung cho chu đáo; đến năm 18 tuổi cậu Cung tự động tìm việc tại Quy Nhơn, không tìm được việc thì ra nơi khác kiếm sống, tìm người để giúp đỡ mình (Phan Châu Trinh vận động duy tân, ở Nam Kỳ là vận động Minh tân). Về Phan Thiết, Nguyễn Tất Thành dạy thể dục ở trường Dục Thanh; hồi đó trường lớp cũng mở tự phát lắm. Nguyễn Tất Thành dạy thể dục, khảo sát thực địa; năm 5 - 10 tuổi Nguyễn Sinh Cung học chữ Nho và biết nhiều kiến thức về lịch sử, văn học. Nguyễn Sinh Cung học rất chăm, có những suy nghĩ mới qua việc học các môn học, giải mã các bí ẩn của đất nước. Nguyễn Tất Thành dạy học không có theo "tầm chương trích cú" của giáo dục Nho học lỗi thời nên Nguyễn Tất Thành cho học sinh học thực địa, không kiểm tra nhiều. Ít lâu sau, Nguyễn Tất Thành trau dồi thêm tiếng Pháp rồi dần dần vào Sài Gòn. Nguyễn Tất Thành đi làm chẳng qua là thiết lập các mối quan hệ, chốn giao lưu giữa các nơi và Nguyễn có người yêu (đọc Búp sen xanh của Sơn Tùng). Nguyễn Tất Thành có người yêu, khi ở Sài Gòn thì Người nói: yêu thì có, nhưng độc lập dân tộc vẫn là trên hết. Nguyễn Tất Thành vào nam, người thanh niên ấy đã thấy những người lao động nghèo và Nguyễn Tất Thành cũng phải đi làm thuê vì tiền bạc không nhiều. Tại Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành vào hỏi và học trường Bá Nghệ (tức trường nghề). Nguyễn Tất Thành học nghề một thời gian, bị Pháp phát hiện nên anh phải bỏ học. Nguyễn Tất Thành vừa đi học, vừa đi làm để kiếm sống, tình cờ Người cũng biết các tàu vận tải của Pháp thường qua lại ở Sài Gòn nên nảy ra ý tưởng muốn sang phương Tây để tìm hiểu thêm. Nếu muốn đi, cách duy nhất là đi làm thuê cho tàu đó thì có đủ tiền mà đi thôi.

Nguyễn Tất Thành qua bên Pháp, việc đầu tiên mà anh làm là viết đơn xin vào học ở trường thuộc địa Pháp - cho nên mới có quan điểm là: Bác Hồ ra nước ngoài không phải để cứu nước mà là muốn làm giàu cho bản thân nhưng không phải vậy (một số hiểu nhầm Bác làm thế để làm tay sai nữa chứ; nhưng Bác đi học chỉ để làm cách mạng chứ không muốn tìm một hạnh phúc cá nhân nào). Bác không đời nào làm như vậy, bởi vì sau đó Bác còn có nhiều việc khác phải làm để tìm cho mình cuộc sống mới ở trời Tây nhưng Bác không làm, theo Phan Châu Trinh làm cách mạng. Có thư của Nguyễn Tất Thành xin vào học trường thuộc địa của Pháp (bức thư này vẫn còn) dịch ra là Nguyễn Tất Thành sinh năm 1892, con của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc; đề nghị Bộ thuộc địa Pháp xem xét để có thể được học vào trường đó. Thực ra Nguyễn Tất Thành muốn học tiếng Pháp để ở lại Pháp, nhưng Nguyễn ở bên Pháp không có ai quen biết gì cả - phải có danh chính ngôn thuận thì mới ở được bên Pháp chứ ở chui thì không được; viết thư để tìm cơ hội để chính thức ở lại Pháp. Trước khi Nguyễn Tất Thành qua Pháp, có một nhóm Việt kiều chạy vào ở ké nhà của Phan Châu Trinh và Nguyễn Tất Thành cũng ở tại nhà chí sĩ họ Phan. Trong tài liệu của Ban tuyên giáo tỉnh Tiền Giang có nói việc Phan Châu Trinh sang Pháp vào tháng 4/1911 và hai tháng sau thì Nguyễn Tất Thành cũng sang Pháp. Cũng tư liệu ở Tiền Giang nói rằng có hai cha con ông nào đó có đến gặp Phan Châu Trinh khi ông bị giam lỏng thì nói rằng: đó là hai cha con Phan Châu Trinh và Nguyễn Tất Thành nên vẽ nên câu chuyện hai cha con cụ Sắc cùng với Phan Châu Trinh bàn việc nước thì Phan đi trước, Nguyễn đi sau. Nguyễn Tất Thành sau khi sang phương Tây đã nhiều lần gửi tiền về cho cha sinh sống tới ba lần qua giấy uỷ quyền (hiện nay tờ giấy này vẫn còn). Trong gia đình, Nguyễn Tất Thành có tình cảm sâu nặng với cụ Sắc; mẹ mất thì ở với bố và đi đâu bố cũng dẫn đi theo. Khi Bác Hồ ở Hà Nội năm 1968, Bác mặc dù sức khoẻ yếu nhưng vẫn quyết vào nam cho bằng được để thăm mộ cha, nhưng ông Lê Duẩn thấy tình trạng của Bác như thế này nên nhất quyết không cho. Trước khi Bác Hồ mất, Bác bắt phải giữ kỹ phần kỉ vật của cha mình và cấm không ai được mở ra hết. Khi Bác mất, trong di chúc không nói gì về việc riêng liên quan đến tình cảm gia đình, nhưng có một chuyện chung và riêng, đó là: phân di cốt của mình đi khắp nơi. Ông Khiêm cũng có vợ và con ở Huế, nhưng qua đời hết và Bác Hồ cũng vậy (hiện nay có thuyết cho rằng Tổng bí thư Nông Đức Mạnh là con của cụ Hồ, nhưng thực ra không phải vậy).

Khi Nguyễn Tất Thành đi sang phương Tây thì cụ Sắc ở nhà kết nối với mấy ông hàng xóm. Cuộc sống của ông Sắc khổ lắm, lúc Nguyễn Tất Thành ở Sài Gòn thì cụ lên làm cai ở Bình Dương và cụ sống chan hoà với mọi người, Nguyễn Tất Thành có lúc cũng lên đó thăm cha mình. Cụ cũng vô chùa làm sư, giúp đỡ công nhân rất nhiều; về sau thì cụ về Cao Lãnh làm nghề thuốc nam, có quan hệ với Lương Văn Can của Đông Kinh nghĩa thục và các chí sĩ ở Campuchia có tinh thần yêu nước. Trước khi cụ Sắc mất, cụ ở trong ngôi chùa và mất tại đó (người đời sau tính nâng cụ lên thành chí sĩ yêu nước, nhưng không thực hiện được); để ra câu chuyện: ngày xưa cụ Sắc ở Đồng Tháp, sư Thích Chân Quang tự nhận mình là cháu rơi của cụ Sắc (họ Hồ cũng từng thừa nhận Chân Quang là con cháu của dòng họ Nguyễn Sinh, Chân Quang tự nhận cụ Hồ là bác của mình). Người nói xấu Bác Hồ rất nhiều, người tâng bốc Bác cũng nhiều không kể xiết nhưng Bác không ngại, Bác rất cầu thị trong chuyện đó, Bác không có yêu vì nợ nước. Nếu Nguyễn Sinh Sắc không phải là một người có tinh thần yêu nước, không có nhân cách tốt thì không thể tạo ra một Hồ Chí Minh. Ông Sắc không ủng hộ Phan Bội Châu, không ủng hộ kiểu yêu nước của Phan Châu Trinh mà cụ có con đường riêng của mình do vợ mất sớm nên ông không có thời gian làm cách mạng như các cụ đó được, ông Sắc phải chọn cách đi khác - cách đi của ông Sắc không thể nào nâng ông thành kiểu một người yêu nước theo kiểu Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh được. Ông Phan Châu Trinh là dân Quảng Nam - người Quảng Nam có nguồn gốc từ cư dân Nghệ - Tĩnh vào rất nhiều trong thời gian chúa Nguyễn mở cõi phương Nam, nên thầy đồ xứ Nghệ và xứ Quảng có quan hệ là ở chỗ đó. Ông Phan Châu Trinh là một trong những nho sĩ khẳng khái và dám từ bỏ những lợi lộc của mình - chấp nhận thì không thiếu thứ gì, làm quan tay sai cho Nam triều không khổ gì - nói triều đình Huế là tay sai, nhưng thực ra triều đình có những quyền riêng của nó dù bản thân nó bị mất hết quyền lực, nhưng ông không làm được. Làm quan thì toàn là những người có lợi ích của mình là số một, chấp nhận những trái tay gai mắt nhưng ít khi làm được; Vua thì Pháp nói gì nghe nấy, xin tiền Pháp để xài vậy thì làm quan cho chính quyền kiểu đó để làm gì ? Đương nhiên, câu nói đó chỉ dành cho những người có chí khí và dám đặt những cái gì mình không thích xuống. Trong chuyện "Lều chõng" của Ngô Tất Tố, bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương thì những vợ nào lo hết mọi việc cho chồng ăn học là bà phải hi sinh nhiều lắm, ông chồng chỉ là mối phiền hà; khi chồng đỗ tiến sĩ và vinh quy bái tổ thì bà vợ được hưởng một đặc ân rất lớn là được ngồi vào kiệu sau của chồng. Trong "Lều chõng" có bà vợ lấy một ông chồng nhiều đời là học trò; khi chồng đi thi thì bà mới về làm vợ và mong muốn chồng thi đỗ, nhưng khi chồng đỗ thì bà không có khen mà muốn chồng từ từ hẳn rồi đỗ, khi đó cuộc sống rất tốt; cho nên cụ Sắc rất khổ, vợ ông phải lo toan hết mọi việc trong nhà cho chồng đi thi. Khi vợ mất thì cụ Sắc phải cố gắng thi đậu rồi sau đó ôm con về quê. Ông Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh cũng rảnh rỗi và nhà có người lo hết, nên hai ông mới đi làm cách mạng. Ông nào ra làm quan thì vợ cũng được nhờ.

Ông Phan Châu Trinh từ quan về quê, về nhà có bạn kéo đến tâm sự nên rất chán đời; làm không thích thì nghỉ. Sau khi chửi vua Khải Định (viết thư công kích vua - Thư thất điều, vì vua mất hết quyền lực; nếu vua còn quyền lực lớn thì Phan Châu Trình cũng bị xử tử cùng gia quyến), Phan Châu Trinh sau đó từ quan về quê thì cụ Sắc vào và hai người cùng hàn huyên tâm sự. Phan Châu Trinh với tư tưởng "khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh" với chủ trương kỳ vọng vào dân chủ và đúng như thế, nhận thức của người dân phải được nâng cao, phải có thực lực về kinh tế nên ông mong muốn dựa vào Pháp chứ đừng có chống Pháp giống kiểu Phan Bội Châu, tranh thủ chính sách của Pháp để phục vụ cho thực lực của đất nước nên mới kêu gọi mở trường học kiểu mới, lập hội buôn, cải cách phong tục; đi từ Quảng Nam vận động liên tục đến tận Phan Thiết. Đi đến đâu thì trường học được mở đến đó, vận động duy tân của ông dần lan rộng cải cách văn hoá ở khắp nơi. Nguyễn Tất Thành lúc ở Huế có tham gia vận động duy tân của Phan Châu Trinh như cắt tóc, mặc Âu phục. Trong bối cảnh đất nước như vậy, đi đến đâu các ông cũng được uy tín lớn là nhóm ba ông Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp. Di đến đâu là mấy ông diễn thuyết, người dân địa phương theo ào ạt đến đó. Ông diễn thuyết tại sao chúng ta lại như thế này, cách thoát khỏi cái thế này là gì... thì thuyết phục được nhiều người, người ta theo rầm rộ. Mấy ông này về Quảng Nam rồi đứng lên chống Pháp theo kiểu luật của Pháp - luật của Pháp quy định: không cấm đề cao dân quyền, nhưng phải làm sao để dân ý thức được điều đó; dựa vào Pháp để tranh thủ những chính sách tiến bộ chứ không chống lại Pháp nhằm củng cố thực lực cho mình - khi mạnh đến đâu sẽ đòi quyền lợi đến đó (cừ từ từ chống Pháp chứ đừng có vội mà không được gì). Sau một thời gian phong trào lan toả, nhân vụ Pháp huy động phu phen làm đường bộ ở Quảng Nam và người dân rất bức xúc; thế thì nhân bữa một đám giỗ ở Đại Lộc (Quảng Nam) thì mấy ông này đến ăn tiệc, nhân đó bàn chuyện chống Pháp bắt phu phen ở Quảng nam (Pháp tuyên truyền như vậy là vì dân, muốn làm cách mạng cho dân đỡ khổ); ba ông lên gặp Pháp đòi nguyện vọng về dân chủ (dân mình hồi đó không biết gì về dân chủ dân quyền, làm sao nhóm người đó lại biết việc dân quyền này ? Chắc chắn phải có ai đó bày chứ không phải tự nhiên các ông đó làm điều này). Dùng dằn mãi không vào, dân chờ lâu quá nên họ buộc phải kéo lên; họ kéo lên càng đông để tìm kiếm ai là người đề xuất ra tư tưởng dân quyền, dân chủ này. Khi dân kéo đến càng đông thì Pháp phải cho đại diện ra tiếp; cử vào và giữ lại, khảo cho ra ai là người xúi giục cho cuộc đấu tranh này. Khi thấy đại diện của mình không ra, nhân dân kéo đến ùn ùn và hình thành phong trào chống thuế ở Trung Kỳ năm 1908. Đương nhiên, cái phong trào đó bắt nguồng từ Tân thư của Phan Châu Trinh, cách đấu tranh là của Phan Châu Trinh. Pháp sau đó điều tra và bắt nhiều người, càng bắt thì người dân càng nổi lên chống đối rất mạnh để rồi tạo thành một phong trào không chỉ là đấu tranh bất bạo động mà là bạo động - bạo động này gọi là "bạo động quá khích" chứ không phải bạo động theo chủ trương. Pháp cũng không đàn áp ngay, nó cho kiểm tra hết rồi bắt nhiều người, trong đó có Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp. Ba ông đều là dân có học, nhưng ông Trinh và ông Kháng có uy tín cao hơn nên Pháp cho xử tử Trần Quý Cáp, riêng ông Kháng và ông Trinh bị chúng bắt đày ra Côn Đảo nên mới có bài "Đập đá ở Côn Lôn" của Phan Châu Trinh. Vận động Duy tân của ông Phan Châu Trinh có ảnh hưởng quá lớn nên ở bên Pháp có hội bảo vệ dân chủ và nhân quyền bắt đầu phản đối, yêu cầu nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương phải xem lại vụ này, Trước sức ép của hội, chính quyền thuộc địa buộc phải thả Phan Châu Trinh về giam lỏng. Phan Châu Trinh về đất liền, thấy rằng cách đấu tranh của mình nếu ở Pháp thì có lợi, có điều kiện hơn nên Phan qua Pháp, chứ ở đây thì làm cách mạng không được. Thế là cụ Trinh viết thư, lúc này Pháp cần người nghiên cứu văn hoá Đông - Tây nên cụ viết thư đề nghị sang Pháp theo học chương trình đó, và Pháp lập tức đồng ý ngay. Pháp cho tiền nhiều để cụ Trinh sang Pháp ở, cụ cũng xin cho con cả là Phan Châu Dật đi theo. Qua Pháp thì xài lương của Pháp một thời gian, sau đó đổ ra kiếm việc để làm và sinh sống; ông làm thợ chụp ảnh và tập hợp các Việt kiều yêu nước tại Pháp lập thành phong trào đấu tranh, trong đó có luật sư Phan Văn Trường là một người yêu nước nồng nàn. Ông Trinh và ông Trường chơi thân với nhau và gom thêm Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Tất Thành ở bên nước Anh vào phong trào. Cả năm ông thì có Phan Châu Trinh có bằng Cử nhân Luật, Nguyễn Tất Thành ít học nhất nhưng anh có lòng yêu nước và phổ biến các tư tưởng này ra bên ngoài. Tại Pháp, Phan Châu Trinh cũng diễn thuyết và viết nhiều bài báo nên Pháp đưa vào sổ đen để theo dõi và sau đó cắt lương của ông. Nguyễn Tất Thành lúc sang Pháp thì tham gia hoạt động tích cực trong nhóm của Phan Châu Trinh - nổi bật nhất là viết "Yêu sách 8 điểm của nhân dân An Nam" gửi hội nghị Versailles 1919: hiện nay trong "Hồ Chí Minh toàn tập" thì họ chú thích bản yêu sách này là công trình của một tập thể, nhưng phân tích sâu thì những nội dung trong yêu sách đều là những nội dung của ông Phan Châu Trinh; cụ Phan Văn Trường đi diễn thuyết khắp nơi nói về những nội dung này. Nội dung này không mới, nhưng nhóm của Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường hoạt động chung với nhau và Nguyễn Tất Thành (sau là Nguyễn Ái Quốc) phổ biến bản Yêu sách này đến hội nghị Versailles. Bản Yêu sách này lấy tên Nguyễn Ái Quốc, mà Nguyễn Ái Quốc là bút danh chung của cả nhóm vậy, nên khi Pháp gửi mật thư yêu cầu gặp Nguyễn Ái Quốc thì Nguyễn Tất Thành đứng ra nhận và từ đó Nguyễn Tất Thành được xem là tác giả của bản Yêu sách này. Sau bản Yêu sách này, Nguyễn Ái Quốc không còn tin vào đường lối bất bạo động của cụ Trinh nữa mà nghĩ tới phương pháp đấu tranh khác. Người đấu tranh lúc đầu theo kiểu dân chủ, về sau theo chủ nghĩa cộng sản. Lâu nay khi nói về Bác Hồ thì người ta lờ đi mấy câu chuyện về mấy vị tiền bối của Bác; chính Phan Châu Trinh đã dạy Nguyễn Tất Thành học tiếng Pháp. Khởi đầu của Bác Hồ là đấu tranh bất bạo động theo kiểu dân chủ tư sản và có kết nối với Phan Châu Trinh nên Nguyễn không có nộp Yêu sách, mấy ông trong hội nghị Versailles thừa nhận Bác đàu tranh bất bạo động vì Bác gửi hết cho các đại biểu trong hội nghị này. Chính Phan Châu Trinh cũng đã dạy Bác Hồ cách hoạt động chính trị; Bác tham gia hoạt động cắt tóc, biểu tình chống thuế, dạy trường Dục Thanh của Phan Châu Trinh. Khi từ Anh về Pháp tham gia các nhóm Việt kiều yêu nước cũng theo đường lối bất bạo động của Phan Châu Trinh. Chính Phan Châu Trinh dạy Bác Hồ làm chính trị, nhưng Bác không chấp nhận cách làm của cụ mà chọn một cách làm khác ổn định hơn trên nền tảng con đường đấu tranh này của cụ, chịu ảnh hưởng của tiền bối chứ không phải tự nhiên Bác theo đường lối vô sản nhanh vậy đâu; Phan Châu Trinh thay đổi được Bác Hồ rất nhiều. Ngay cả chủ nghĩa Mác - Lenin thì Bác Hồ cũng chỉ hiểu ở mức thấp, Bác chỉ chọn một số nội dung trong chủ nghĩa đó để phục vụ cho mình mà thôi.

Sau vụ gửi Yêu sách 8 điểm, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy phương pháp làm cách mạng của cụ Phan Châu Trinh không ổn, khó có thể dùng nó để tiến hành đấu tranh giành độc lập. Nguyễn Ái Quốc lập tức chuyển sang tham gia Đảng Xã hội Pháp do Đảng này hoạt động mạnh và có ảnh hưởng nhiều. Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng này vì Đảng bảo vệ lợi ích cho những người nghèo khổ, giảm ách bóc lột mà thôi chứ không phải Đảng này có xu hướng cộng sản đâu. Trong lúc tham gia Đảng Xã hội Pháp, Phan Châu Trinh không ủng hộ con đường của Nguyễn Ái Quốc, riêng ông Trường rất thích hướng đi của Nguyễn Ái Quốc; lúc này Quốc tế Cộng sản đẩy mạnh tuyên truyền nên tác động rất lớn đến Đảng Xã hội, tạo tiền đề cho việc thành lập các Đảng Cộng sản. Liên Xô nếu kêu gọi công nhân các nước cùng theo mình thì vô lý, nhưng nêu Liên Xô lập ra tổ chức có tình quốc tế và cắt bỏ phần dân tộc trong đó (thực ra, LX tập hợp giai cấp công nhân trên toàn thế giới thì không ai nghe, nhưng LX tự che mình là một tổ chức quốc tế thì tức khắc sẽ nghe theo). Quốc tế cộng sản là công cụ của LX xoá đi yếu tố dân tộc để tập hợp lực lượng. Lúc bấy giờ Quốc tế cộng sản thúc đẩy mạnh phong trào công nhân để tiến tới thành lập các Đảng Cộng sản ở các nước tư bản châu Âu, thế thì Quốc tế Cộng sản cũng thúc đẩy các Đảng Xã hội nhanh chóng theo xu hướng vô sản, Đảng Cộng sản trong Đảng Xã hội là một trong những yếu tố quốc tế mà Liên Xô nắm được. Trong Đảng Xã hội này, khi nhìn thấy Đảng Bôn-sê-vích Nga giành được chính quyền như vậy nên cũng kích thích - mang đến lợi ích là cơm áo gạo tiền, nhưng quan trọng nhất là giải phóng dân tộc, công nhân có quyền tự quyết các công việc của mình; Đảng Xã hội Pháp có một bộ phận khá lớn rất yêu thích chủ nghĩa cộng sản, muốn tiến tới giành chính quyền theo kiểu như vậy, Nguyễn Ái Quốc theo Đảng Xã hội Pháp cũng muốn bản thân mình theo con đường đó. Năm 1920, Đảng Xã hội Pháp đem những vấn đề của Quốc tế Cộng sản ra tranh luận quyết liệt, nhất là "Sơ thảo Luận cương về những vấn đề dân tộc và thuộc địa" của Lenin (Quốc tế III không chỉ đấu tranh giải phong công nhân trong chính quốc, mà còn phải giải phóng công nhân ở các thuộc địa). Nguyễn Ái Quốc rất trăn trở về vấn đề giải phóng dân tộc, nên trong các tranh luận ở Đảng Xã hội Pháp gợi ý cho Nguyễn Ái Quốc có thể giải phóng đất nước theo con đường vô sản và kết nối được như vậy sẽ tạo sự dung hoà trong các lợi ích. Từ đó Nguyễn Ái Quốc đọc nhiều bài báo liên quan đến chủ nghĩa cộng sản, nhưng cũng không hiểu được chủ nghĩa cộng sản là gì hết. Không hiểu được. Nguyễn không có điều kiện đọc hết các bài báo, nhưng điều mà Nguyễn trăn trở nhất đó là làm sao để tập hợp lực lượng một cách tốt nhất để giành được độc lập dân tộc, nên Nguyễn chỉ tìm những gì mình cần thôi. Phan Châu Trinh không ủng hộ xu hướng của Nguyễn Ái Quốc, nên tổ chức yêu nước của cụ dần bị phân hoá; Nguyễn An Ninh có cách làm khác Nguyễn Ái quốc, nhưng thái độ không dứt khoát, cũng tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản nhưng không thành lập Đảng theo kiểu của Nguyễn Ái Quốc, Phan Văn Trường về nước cũng tham gia ít hoạt động, Nguyễn Thế Truyền cũng vậy. Ông Truyền hoạt động cách mạng rất gắn bó với cụ Hồ, khi cụ Hồ mất thì ông Truyền nhịn ăn mà qua đời. Bác Hồ rất quý những đồng chí cùng hoạt động cách mạng thời kỳ đầu như ông Ninh, ông Truyền; nhưng quan điểm khác là chuyện bình thường. Phan Châu Trinh về ở ẩn, Nguyễn Ái Quốc về sau theo Quốc tế Cộng sản luôn; khi về nước, anh Nguyễn gom thêm một số đồng chí của Phan Bội Châu về thành lập Cộng sản Đoàn (2/1925). Phan Bội Châu thì bất lực, hay trao đổi thư từ với anh Nguyễn và ông rất mừng khi Nguyễn kế thừa con đường của ông. Phan Bội Châu hoạt động cách mạng thì bị lộ bí mật và bị mật thám bắt cóc ở Thượng Hải.

Cùng nhận một Tân thư và Tân văn, nhưng mỗi người có một cách suy nghĩ khác nhau, hành động khác nhưng đó là những trí thức thứ thiệt.

3.3. Chính phủ Trần Trọng Kim trước cuộc cách mạng tháng Tám 1945

Giữa thế kỷ XX, phong trào yêu nước diễn ra rất nhiều, trong đó có cả của Đảng Cộng sản Đông Dương; đương nhiên Đảng Cộng sản Đông Dương chiếm số đông vì được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân, nhất là lực lượng công - nông và đây là lực lượng chủ đạo giữ vai trò quan trọng trong cuộc vận động cách mạng 1939 - 1945 giành độc lập. Ngoài Đảng Cộng sản Đông Dương, còn có rất nhiều tổ chức và đảng phái chính trị khác cùng hoạt động và mục tiêu chung cũng là hướng đến giành độc lập dân tộc; mỗi nơi mỗi kiểu khác nhau. Giáo viên dạy học sinh là chỉ có Đảng Cộng sản Đông Dương là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng thì quan điểm này chưa chính xác; và trước việc phải đối đấu với kẻ thù chính thì Đảng Cộng sản Đông Dương cũng phải cạnh tranh với các đảng phái chính trị khác, các tổ chức chính trị khác trong việc tập hợp lực lượng - muốn làm cách mạng phải có người theo, đó là tập hợp lực lượng. Bây giờ Đảng tập hợp nhiều người dân yêu nước, cùng đấu tranh để đánh bại kẻ thù lớn nhất

Nhiều người nói chính phủ Trần Trọng Kim là một chính phủ phản động, cái này đúng thật và chính phủ này có cạnh tranh với Mặt trận Việt Minh nữa, Họ muốn cạnh tranh được thì họ phải có đường đi của họ và đó là chăm lo nhân dân để có một chính quyền; để làm được như vậy thì Trần Trọng Kim làm theo cách đó: đó là lập chính quyền. Chính quyền đó đến mức nào, làm tay sai hay không thì đó là một việc khác. Bên cạnh các ý thức phong kiến tiến bộ, mang tính cách mạng của hai chí sĩ họ Phan rời bỏ triều Nguyễn mà làm cách mạng; cũng có những tiến sĩ trong triều đình họ cũng làm việc chứ - họ làm tay sai cho giặc à. Nhưng bạn cũng cần lưu ý: có hai lựa chọn là bị mất hết quyền lực (trắng tay không có gì hết), vẫn còn chút quyền lực nhất định thì việc chọn như thế cũng là sự lựa chọn. Tại sao ca ngợi Xiêm làm cải cách trong khi nó có nhiều thiệt thòi nhưng nó vẫn giữ được nền độc lập thì đó là cách người Xiêm giữ lại nền độc lập dân tộc; nhà Nguyễn cũng đã có sự lựa chọn và nhiều người cho rằng nhà Nguyễn cố gắng giành lại nền độc lập cho đất nước và triều đình Nguyễn cũng có nhiều hạn chế nên có người bảo là bán nước, phản bội quyền lợi dân tộc. Nghĩ lại, nước Xiêm vì cải cách nên đã giữ được nền độc lập ở mức độ nhất định; triều Nguyễn ký các hiệp ước, rồi Pháp đồng ý cho triều Nguyễn còn tồn tại và vua còn quyền lực nhất định - có Nam Kỳ theo chế độ thuộc địa; Bắc và Trung Kỳ vẫn còn quyền lực nhất định - Bắc Kỳ vẫn còn bộ máy quan lại của triều đình, ở Trung Kỳ triều đình còn có quyền nhiều hơn. Xiêm cải cách được nên mình bảo là hay, mình đem về áp dụng - đương nhiên đó là đứng trên quan điểm cách mạng, giặc đến phải đánh đến cùng, quan điểm của giai cấp vô sản là như vậy; còn chuyện giành độc lập xong thì cái đó tính sau. Cái hay và dở bắt đầu từ đây; những người vô tư vào đây thấy tâm hồn nhẹ nhàng, vời họ sao cũng cũng được, người khác vô thì tùm lum hết nên mọi việc càng phức tạp, rắc rối hơn - phương pháp cũ dễ quên, làm xong là quên hết

Đọc hồi ký của Trần Trọng Kim giải thích không chỉ một mình ông mà cả một nhóm trí thức tham gia trong chính phủ này. Mấy người tham gia chính phủ này đều có tinh thần yêu nước, nhưng áp dụng như thế nào, cách thức áp dụng ra làm sao, làm sao để hướng đến mục đích giành độc lập dân tộc; mục đích đó phải có con đường riêng, ngay cả hai chí sĩ họ Phan cũng có con đường cứu nước riêng, Nguyễn Ái Quốc không theo Phan Chu Trinh và có một hướng đi khác. Nhóm trí thức sau khi tham gia chính phủ Trần Trọng Kim thì họ suy nghĩ: lúc này Nhật trên đà thất bại, quân Nhật muốn một cơ sở xã hội để lập ra một lực lượng tại chỗ để phục vụ cho một mục đích nào đó. Nếu mình xem việc Nhật tìm kiếm bọn tay sai thì cái này chính xác; mấy ông này có biết Nhật lợi dụng mình để tạo ra một lực lượng nhằm duy trì quyền lực của mình không ? Họ biết quá rõ đấy chứ; ông Phan Anh là trí thức đường hoàng, không phải người thường. Những họ lại nghĩ: ở trong ngõ cụt, nếu họ giành được quyền lợi cho mình. Đương nhiên quan điểm của những ông này - giành độc lập cho đất nước và giành quyền lợi cho dân tộc thì phải làm từ từ, chứ không phải giành một cái là được hết - đó là quan điểm của Đảng Cộng sản Đông Dương. Đảng lúc đầu không coi trí thức là lực lượng cách mạng, dễ thoả hiệp và làm cách mang không đến nơi, nửa vời. Giữa một bên là không còn quyền lực nào và một bên là nhân cơ hội này lập một chính phủ để từ đó gầy dựng lực lượng phục vụ cho việc giải phóng dân tộc; dù sao thì họ cũng lập được chính phủ của người Việt để có quyền lực còn hơn là không có gì. Mấy ông trí thứ nghĩ rằng, đây là thời cơ để có thể giành lại quyền độc lập dân tộc đã đến, đương nhiên họ cũng nhìn thấy Nhật và phe phát xít thất bại gần kề, thành lập chính quyền là việc rất rõ ràng; việc lập chính quyền cũng là một cách để phục vụ cho mục đích của mình, vì mình cũng nghĩ rằng giành chính quyền và thành lập chính quyền rồi; việc các ông này được Nhật trao chính quyền như vậy thì Nhật cũng trao lại một số quyền lợi và quyền lực nhất định; điều đó có nghĩ là "một chính quyền ở Việt Nam đã được thành lập rồi, từ việc lập chính phủ đến việc lập chính phủ cho người Việt đã rồi; thì việc Đảng vận động nhân dân giành chính quyền, lập ra chính quyền mới thì nó có nhiều thuận lợi hơn (xác định kẻ thù, lực lượng cách mạng chủ yếu, chính phủ Trần Trọng Kim là tay sai của Nhật); như vậy về quan điểm cách mạng thì rõ ràng họ là vậy - tư duy của mình là vậy. Giành chính quyền và việc lập chính quyền là nên làm; trong bối cảnh như vậy việc tập hợp các lực lượng thì đó là việc họ nên làm (xuất phát từ suy nghĩ đó). Họ làm như vậy có vì lợi ích cá nhân của họ không ? Có chứ, họ rất muốn làm chính trị đấy chứ. Ông Trần Trọng Kim rất muốn làm Thủ tướng nên có vận động chính trị vì các nguyên nhân khác nhau. Đương nhiên, Trần Trọng Kim muốn làm thủ tướng nhằm khẳng định bản thân để phục vụ cho đất nước chứ không phải khẳng định bản thân để kiếm tiền bỏ túi riêng - đó là rác rưởi. Sự xuất hiện của chính phủ Trần Trọng Kim như sự thành lập một chính quyền tay sai làm biểu tượng cho tay sai của thực dân, phát xít - Nhật muốn tạo thành nhà nước quân chủ lập hiến theo kiểu của đế quốc Nhật. Đồng thời, ta cũng xét những hoạt động của chính phủ Trần Trọng Kim sau khi được thành lập, nhưng cách làm của họ có khi tạo sự cản trở hay không lại là việc khác. Họ muốn phát triển kinh tế mạnh nhất trong những điều kiện có thể dù chính phủ này bị Nhật hạn chế khá nhiều quyền lực; trong chính phủ toàn là các trí thức có tiếng để đánh thức dân tộc; nhưng người làm cách mạng triệt để như cụ Hồ thì phần lớn họ cũng là trí thức, những người lập Đảng và cả những người làm cách mạng ở các giai đoạn kế sau phần lớn đều là trí thức chứ không phải công nhân. Những trí thức là là một thành phần của giai cấp tiểu tư sản, nhưng trí thức không phải là một giai cấp riêng biệt, giai cấp công nhân trong thời kỳ đầu thành lập Đảng cũng khá đông (trên 22 vạn người), họ cũng đi theo con đường đó mặc dù một số cũng không tán thành con đường cách mạng vô sản của cụ Hồ, mấy cái hội cách mạng của giai cấp vô sản tìm cách thực hiện từ từ đường lối cách mạng, theo kiểu phản du kích - mình nhìn vậy nhưng không phải vậy; cũng lực lượng đó, nhưng dựa vào các lực lượng khác nhau. Tất cả đều có mẫu số chung: đều theo tình hình chung, nhưng có khi có khác nhau không theo ý muốn của mình (làm việc phải đi kèm với lợi ích). Mục tiêu là giống nhau và ai cũng có cả; nhưng cách làm và suy nghĩ rất khác nhau; nhiều lúc nhận thức chưa tới mà mình nóng vội biến thành kẻ thù của mình, hai bên đều muốn cạnh tranh với nhau thì chuyện đó không phải bình thường. Thế nhưng, Trần Trọng Kim cho rằng: ai cạnh tranh được thì đó là kẻ thù của mình; mình thất bại thì đổ thừa chính họ làm mình thất bại, do bản thân mình không đủ lực thì mình thất bại.

Xem cách Bác Hồ ứng xử với các trí thức Trung và Nam Kỳ; đó là cách ứng xử chứ không phải lợi dụng đâu. Suy nghĩ như thế đã thể hiện cái tầm của Bác Hồ trong việc quy tụ các tầng lớp trí thức thành một mối còn hơn để nguyên thực trạng cũ như thế, dùng Phan Anh là một trí thức tiêu biểu. Chính nhờ cách Bác ứng xử với các trí thức như vậy, Bảo Đại, Ngô Đình Diệm cũng rất yêu nước, nhưng con đường của họ thì khác mình; cái khác đã dẫn đến cái đối đầu thì đó là chuyện bình thường. Học sử mà có những người suy nghĩ hẹp hòi thì công việc không bao giờ thành. Họ không cùng đường, nhưng không có nghĩa là họ không yêu nước; mình mà thấy ai đó khác đường thì mặc định coi là kẻ thù - đầu óc cứ suy nghĩ nhiêu đó nên không tìm ra được cái gì mới hết, thành ra Bác Hồ có nhiều sáng tạo như vậy, tầm nhìn đủ rộng để tất cả mọi thứ không làm cản trở Bác. Khi GS Phạm Hồng Tung viết chuyên luận về Trần Trọng Kim thì cũng có nhiều ý kiến phản bác rất quyết liệt, làm ảnh hưởng nhiều đến công việc của ông này; nhưng sau này thoáng hơn. Lâu nay dạy học trò là: chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim. Ông có sai chứ; nhưng nếu xét đây là sự thù địch của cách mạng thì chính phủ Trần Trọng Kim "phản cách mạng". Anh có yêu nước, nhưng cách làm của anh khác đi; nó mang khuynh hướng "giúp đỡ tư sản" nhiều quá, đó là chuyện bình thường. Khi chính phủ Trần Trọng Kim thực hiện chính sách thì mấy cán bộ cách mạng nói với dân: đừng theo chính phủ đó, theo tôi nè ! thì cũng là một cách, không sai. Nhiều khi tuyên truyền là "bù nhìn, phản cách mạng" và những hoạt động của chính phủ này ảnh hưởng đến những hoạt động cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Về nhóm "Thanh niên Tiền phong" do Nhật lập ra trong cách mạng tháng Tám ở Nam Bộ; Phạm Ngọc Thạch là người của Đảng mới chơi với một số quan chức của Pháp rồi Pháp mới nhờ Nhật thành lập tổ chức này mà Pháp - Nhật không hề biết Phạm Ngọc Thạch là người của Đảng Cộng sản; không biết Phạm Ngọc Thạch lợi dụng nhóm này để chuẩn bị tập hợp lực lượng cách mạng. Tại sao ở trong nam Phạm Ngọc Thạch làm vậy mà sao không ai nói ông là tay sai ? Lực lượng "Thanh niên Tiền phong" được Đảng Cộng sản lợi dụng để trở thành một lực lượng chính để giành chính quyền trong Nam Bộ. Dạy sử toàn nói về chuẩn bị lực lượng cách mạng ở miền Bắc theo Trung ương, còn ở Trung và Nam Bộ không có. Sau cách mạng tháng Tám 1945, bác Trần Văn Giàu liên tục bị Trung ương cho gọi ra (lên bờ xuống ruộng nhiều lần, uất ức - xem Hồi ký Trần Văn Giàu hồi 1946), không làm cách mạng này mà trở thành nhà nghiên cứu sử học tài ba.

CHƯƠNG 4: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẬP NHẬT VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM THỜI HIỆN ĐẠI

4.1. Về quá trình chuyển chiến lược chiến tranh của cách mạng miền Nam giai đoạn 1954 – 1960

Lâu nay nói chính quyền Ngô Đình Diệm là xấu, nhưng phải nhìn lại: mình sẵn sàng chơi ngay từ sau 1954 vì lực lượng vẫn còn, nhưng chính chủ trương "không vũ trang" kéo dài của Trung ương từ 1954 đến 1959 khiến cách mạng miền Nam phải "giơ lưng chịu trận", kêu gào đủ thứ nhưng Trung ương không có chủ trương và kéo dài cho đến Hội nghị 15 (1959). Hội nghị Trung ương lần thứ 15 họp vào tháng 1/1959 nhưng thực tế cán bộ cách mạng ở miền Nam biết hết thông tin của hội nghị này, Lê Duẩn ở miền Nam từ 1957 nên biết quá rõ tình hình cách mạng miền Nam. Hội nghị họp vào tháng 1/1959 thống nhất cách mạng miền Nam nếu không có vũ trang là tiêu ngay, nhưng chưa thông qua được Nghị quyết; đến tháng 4/1959 Hội nghị họp khẩn mới thông qua Nghị quyết, nhưng không phổ biến ngay và ông Lê Duẩn trực tiếp đi Liên Xô và Trung Quốc về phổ biến từ Trung ương đến cấp Khu, chủ trương chưa phổ biến xuống cấp Tỉnh. Mãi đến tháng 12/1959 thì Nghị quyết 15 mới được phổ biến trong Đảng và các địa phương.

Nói chính quyền Ngô Đình Diệm tàn ác là không sai, nhưng làm sao để họ tàn sát như thế thì cái đó là một vấn đề. Sau 1954, khi ký hiệp định Geneve thì có nhiều sách ghi "rất tin tưởng vào tính quốc tế của hiệp định Geneve, chủ trương đấu tranh hoà bình để bảo vệ thành quả của hiệp định". Mình là "con Thỏ", nói gì cũng nghe hết à ? Khi mới ký hiệp định xong thì trong Trung ương họp bàn Hội nghị toàn quốc và có câu "rút kinh nghiệm sâu sắc từ Hiệp định Geneve, lần này Trung ương sẵn sàng làm lại tổ chức; nhưng làm gì một tổ chức từ hai bàn tay trắng có thể gầy dựng lực lượng nhanh như vậy, làm gì có chuyện "ngây thơ" đến như vậy ? Nếu "ngây thơ" quá thì làm sao có thể lãnh đạo quần chúng làm cách mạng thắng lợi được ? Nếu chính quyền Diệm phản đối hiệp thương chính trị thì sao ? Có nhiều phương án đặt ra, làm cách mạng trong tình hình hiểm nghèo này là không hề dễ dàng, cần ra nhiều phương án đối phó. Nếu không có phương án thì khi tình hình diễn ra không đúng như thế, thì "tịt ngòi" luôn làm gì có "mê muội" như thế ? Bao nhiêu người tin vào Đảng, tin vào Bác Hồ thế bây giờ tình hình như thế thì giải quyết ra sao ?

Sau khi hiệp định Geneve kết thúc, ta rút gần như hết lực lượng của ta từ trong Nam ra Bắc hết; giữ lại một lực lượng mỏng, chôn giấu hết vũ khí đạn dược. Có ý kiến cho rằng, Trung ương sợ giữ không được miền Bắc nên tập trung củng cố miền Bắc trước và đương nhiên cùng có mong muốn tổng tuyển cử, nhưng về sau cũng thừa biết là điều đó khó; càng khó đến độ khi Mỹ nhảy vào lại càng lo hơn. Bác Hồ cũng từng nói: khi mà rút hết lực lượng về Bắc thì có ý kiến cho rằng, làm như thế là rất nguy hiểm và miền Nam rất khó giải quyết (nhìn lại Nam - Bắc Triều Tiên, Đông - Tây Đức, nhìn ra xa chút tại sao phải lo ?). Việc mà chúng ta tin vào hiệp định là việc của TW, nhưng làm khác có được không ? Lấy đâu ra mà làm khác được ? Ta không đủ khả năng lấy miền Nam, mà là ở góc độ chiến lược - ta không ngây thơ vậy đâu. Khi cần một người lãnh đạo, không gượng ép thì làm được. Có ai tin là Đảng và Nhà nước tin theo bản hiệp định đó không ? Đấu tranh để bảo toàn hiệp định đó không ? Sao mà ngây thơ thế được, cả một bộ sậu dày dạn kinh nghiệm từ số 0 mà làm được bao nhiêu chuyện. Nếu không tin vào hiệp định, thì có dám giải phóng được toàn miền Nam hay không ? Không thể được; nên trong hoàn cảnh đó, biết có phải là cách rồi đó, nhưng phải dùng cách nào để làm gì - làm chính trị để muốn tập hợp nhân dân (dựa vào quần chúng đẩy mâu thuẫn đi xuống). Bây giờ có cách là nổi dậy đánh bại quân thù biến ngay, đất nước phải được thống nhất thì chưa làm được. Không những không làm được mà tôi bỏ đó, giúp kẻ thù lấn tới. Trong sách Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 7 viết rõ những thông tin này, mà người ta gọi là "chuyển chiến lược": "những cán bộ cao cấp lo ngại chủ lực của mình mất hết, nên Bác Hồ nói đại khái: sẽ rất nguy hiểm trong giai đoạn này. Ra đời trong điều kiện này nên phải tập trung lực lượng như thế này; còn chuyện thống nhất miền Nam thì Bác không nói là khó, mà Bác nói là chuyện lâu dài (để hô hào nhân dân). Đã báo tình hình cho Bộ Chính trị rất minh bạch, có theo định hướng khoa học nhưng không thực thi. Nên cũng nói khi hội nghị được thành lập kể từ thời gian mà tính pháp lý của Geneve được duy trì thì tin được không ? Không tin được. Đó chẳng qua là một cơ sở, một phương tiện, một công cụ cho việc thực hiện công việc của mình thôi. Trong lúc người ta muốn làm cho xong việc mà làm không được thì tôi phải tiến tới (cầm chắc) chứ - trong chiến tranh lạnh, đã không muốn đàn áp đối phương thì dùng hiệp ước để che chắn, đổ lỗi cho đối phương để mua chuộc.

Về bên ngoài, muốn đánh nhau thì xem lại thực lực của mình đánh được không ? Sau lưng mình là Liên Xô, Trung Quốc (xem quyển Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc của Bộ Ngoại giao Việt Nam). TQ muốn duy trì một Việt Nam bị chia cắt trên đó, sức ép của phương Tây - đó là tư duy kiểu cũ (tư duy đổ thừa): ông đánh nhiều đế quốc để ban phát quyền tự do cho nhân dân, làm cách mạng để được ủng hộ, ta là vô địch. Ta muốn có sức mạnh, không còn thời gian chờ hậu Geneve; muốn giữ miền Bắc làm hậu phương cho cuộc kiến thiết đất nước - chuyện đó không có gì xấu; làm tốt mà không có lợi ích cũng bị chê trách. Nhiều nước khác kém hơn mình rất nhiều, nhưng có người vượt qua mọi hoàn cảnh và đó là biểu hiện xuất sắc của tư duy. Lúc đó TQ chủ trương muốn như thế (tức là muốn chia cắt Việt Nam) nên không ủng hộ cuộc chiến tranh vũ trang trong nước ta (vì nếu muốn chiến tranh thì sẽ có rắc rối) sẽ tạo ra giữa hai bên vĩ tuyến của những lực lượng tại chỗ. Liên Xô xưng hùng xưng bá ở khắp nơi sẽ biết cách làm điều này. Vào thời gian này, Liên Xô cũng xuất hiện những rạn nứt nên hai nước lớn này khó liên kết với nhau, cho dù cùng chung chiến tuyến - tỏ ra không muốn đoàn kết lực lượng cùng chống kẻ thù chung. Dĩ nhiên, ai đó phải tự lo cho mình trước cái đã, tự lo được và dĩ nhiên có sai lầm - sai ở chỗ không nói ra những điều cần nói, nói xạo (nói đúng hết có khi lại không hay). Trong bối cảnh đó, tính toán thì phải giữ cái đã có (trước mắt là giữ được đất) là chuyện bình thường; quân chủ lực được rút về để giữ vững miền Bắc; trong Nam cử lấy vấn đề tập hợp lực lượng là chủ đạo. Đương nhiên cũng tính đến chuyện lâu dài hơn là tập kết ra Bắc để đào tạo lâu dài phục vụ cho đất nước, khi có điều kiện gì sẽ ở lại để thực hiện các nhiệm vụ do cấp trên giao phó. Như vậy, cả từ bên trong lẫn bên ngoài và với đối phương đã tạo ra cục diện mới

Hội nghị diễn ra vào tháng 1, các bạn biết ở trong Nam rất bức xúc và rất muốn vũ trang ngay nhưng TW không đồng ý: việc không cho vũ trang ở miền Nam là việc cấp thiết, nếu muốn vũ trang thì phải hỏi ý kiến của Liên Xô và Trung Quốc (đánh nhau thì không thể đánh nổi). Nhưng vấn đề đặt ra là mình quyết định như thế nào để các đồng minh lớn của mình bị thuyết phục, ông đó mà không quyết thì càng chết dở nữa và ảnh hưởng đến sự tồn vong của đất nước. Các sự kiện tiếp theo đều không nói nhiều về chủ trương vũ trang, chủ yếu là chính trị; nhưng vũ trang tuyên truyền chính trị, nghĩa là sử dụng vũ trang để hỗ trợ cho việc chính trị. Nhưng cách mạng miền Nam muốn TW tính cách gì cũng được, chỉ cần hai chữ "vũ trang" trong nghị quyết là được. Tháng 1/1959, khi Bác Hồ ra nghị quyết cho "vũ trang" ở miền Nam (trong TW và Xứ uỷ Nam Bộ bàn bạc hết rồi, nhưng chưa triển khai được mà phải cần thêm nhiều thứ mới triển khai được; nếu vũ trang trái ý TW chắc chắn sẽ có khó khăn). Khi đó, ông Phạm Văn Xô được cử ra Bắc khi hội nghị 15 cho tiến hành khởi nghĩa vũ trang (những nghị quyết không được phổ biến), ông Xô gặp được Bác Hồ vì trong Nam đề xuất là phải có vũ trang để giành chính quyền. Ông Xô nói với Bác Hồ: giờ TW đã làm như vậy, quyết như vậy nhưng có nghị quyết về chỉ đạo thì không thực hiện được; bây giờ xin cho Bác chỉ đạo (kiểu như phải có người bảo kê, người ủng hộ kẻo không nội bộ về sau có mâu thuẫn không tốt cho sự lãnh đạo chung cho cách mạng miền Nam). Bác Hồ đã có một vài ý kiến làm cơ sở như (dùng lời đặc biệt thì mới có giá trị): Xứ uỷ thì có phải là Đảng không ? Xứ uỷ là đại diện của Đảng trong Nam để thực hiện các nhiệm vụ đó. Anh làm cách mạng trong Xứ uỷ đó, giờ hỏi thế này là làm sao ? Bác trách đó. TW có cái khó của TW nên càng phải hiểu; cho nên vào trong đó, tuỳ tình hình mà quyết định và chịu trách nhiệm. Sao từ từ nữa, cho hay không cho cũng hại nhiều hơn, tự làm và tự chịu trách nhiệm. Bác nói: cái chuyện đó thì tôi không biết, nhưng vì vướng nhiều vấn đề nên không có lợi (ông Xô qua TQ liền thì thế nào cũng bị phạt, mà vì không có hỗ trợ nên thiệt hại có khi nặng hơn. Nếu trong đó chịu đựng không nổi đạn pháo của quân thù thì TW không có chỉ đạo gì hết, ở trong đó tự mà làm đó là một việc khác), tuỳ thực tế mà làm. Ông Xô hiểu ý Bác Hồ và về. Mặc dù về sau nghị quyết hội nghị 15 chưa vào Nam Bộ, những nơi nào mà phong trào mạnh và lực lượng có sẵn thì liệu tình hình mà thực hiện đấu tranh; tuy nhiên tính chất lẻ tẻ vẫn có nên quân đội Sài Gòn không làm gì được. Cho một chủ trương đã được TW đồng ý rồi, chờ những điều kiện để được "bật đèn" từ tháng 4/1959 (có thể không sợ kỷ luật). Sau khi sửa hết các câu chữ, tháng 4/1959 mới công bố bản nghị quyết hội nghị 15; lúc này Lê Duẩn đích thân sang cầu viện Liên Xô để vận động, làm cách nào đó để TQ đồng ý; vì TQ cho rằng "ở vào thế đã rồi thì nhất định là không; nếu có thì chỉ du kích thôi chứ không được phát triển thành chính quy, vì nếu chính quy Mỹ nhảy vào có mà rắc rối"; Liên Xô cũng cùng quan điểm như vậy; vì hai nước này thừa biết tình hình và cách mạng miền Nam đang ở thế đã rồi. Sau khi Lê Duẩn về, lúc này nghị quyết 15 mới được phổ biến xuống Xứ uỷ Nam Bộ; đến tháng 12 mới được phổ rộng ra cả nước.

4.2. Về thực thể chính quyền Việt Nam cộng hòa trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam hiện nay

Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, vấn đề "Việt Nam Cộng hoà" là rất bình thường. Bây giờ hoà hợp dân tộc rồi, nên nếu gọi đúng là Việt Nam Cộng hoà thì cũng rất bình thường. Có vấn đề thừa nhận Việt Nam Cộng hoà là một chính quyền thực sự thì trong thực tế đã thừa nhận từ lâu rồi, trên bản Hiệp định Paris có Việt Nam Cộng hoà mà, về mặt quốc tế đã thừa nhận Việt Nam Cộng hoà là một chính quyền, mình đã thừa nhận từ lúc đàm phán Paris với Việt Nam Cộng hoà rồi. Hội nghị Paris đã chấp nhận Việt Nam Cộng hoà, chấp nhận Việt Nam Cộng hoà là một trong bốn bên tham gia đàm phán Paris. Ông đã thừa nhận Việt Nam Cộng hoà, thực tế thừa nhận hai chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và chính quyền Việt Nam Cộng hoà; mình đã công nhận Việt Nam Cộng hoà thì công nhận sao cho phù hợp. Việt Nam Cộng hoà thực tế cũng chưa phải tay sai, nó chẳng qua tự mình đảm nhận mọi việc ở miền Nam. Nếu xét về mặt luật pháp, có thời kỳ tranh chấp quyền lực của chính quyền quân quản thì chính quyền Sài Gòn cũng có những vụ bỏ phiếu và có cả chuyện dân chống đối việc bỏ phiếu bầu chính quyền Việt Nam Cộng hoà mới; phần lớn họ đi bầu chẳng qua do áp lực của chính quyền (hiện tượng này có) cho nên có những uất ức, chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm là có thật, việc này là phổ biến nhung cũng không phải thế; tình trạng chống đối và tình trạng này rõ nhất nhất ở nông thôn từ 1956 đến 1960, Đồng khởi diễn ra ở nông thôn, còn đô thị không có đồng khởi. Việt Nam Cộng hoà có bầu cử, có đại biểu quốc hội đàng hoàng thì tất cả đều biết rõ - nên có những cái luôn theo ý chí của mình mà quên đi quy định của luật pháp. Chúng ta thừa nhận rằng chính quyền Việt Nam Cộng hoà là chính quyền do Mỹ dựng lên, Mỹ viện trợ; thấy được cả Mỹ đem quân chính quy của mình ra bảo trợ cho chính quyền này là hợp quốc tế. Nhiều người cho rằng chính quyền Việt Nam Cộng hoà là "nguỵ" và là "tàn ác" nên không thừa nhận nhưng bây giờ lại thừa nhận thế này, thế nọ chỉ vì lợi ích thôi. Bạn không cần phân định đúng hay sai, bạn hiểu điều này: mình thừa nhận thì thừa nhận luôn cho thống nhất và là một phần của lãnh thổ Việt Nam, nhưng chỉ phục vụ lợi ích thôi (thể hiện suy nghĩ thiển cận). Ta muốn thừa nhận thì dù cho nó đem tài sản gì ta cũng đồng ý. Ta ủng hộ thì ta thừa nhận rồi, còn không ủng hộ là chuyện khác, nó thể hiện cái suy nghĩ không rõ ràng (không có bản lĩnh).

Chuyện thừa nhận hay không thừa nhận Việt Nam Cộng hoà là chính quyền là chuyện nhỏ, nhưng nó thể hiện tính con người là "ăn cắp" nên phải rõ ràng: có là có thừa nhận, không là không thừa nhận. Còn bây giờ nếu không thừa nhận thì phải có tiêu chí gì chứ ? Sự kiện là gì ? Bằng chứng là có bầu cử Quốc hội và các vấn đề khác. Dân không thành lập chính quyền này, mà chính quyền này được thành lập bất hợp pháp nên không có giá trị, không thừa nhận. Việc Mỹ đưa Bảo Đại và Ngô Đình Diệm lên cầm quyền là bước đầu tiên (Mỹ phế truất Bảo Đại, đưa Diệm lên là đúng thông lệ quốc tế). Sau khi Diệm lên thì Mỹ muốn tách ra và tổ chức bầu cử riêng để lập ra Quốc hội hợp hiến, chính phủ hợp hiến, nhưng đó là điều mà sử cũ bàn tán. Một chính quyền được bầu, được quốc tế thừa nhận thì nó tự xưng lên cũng không có vấn đề gì.

Tài liệu tham khảo:

  1. Nhiều tác giả (2018), Mấy vấn đề Sử học Việt Nam cần làm sáng tỏ, NXB Hồng Đức, Thanh Hóa.

  2. Trịnh Văn Thảo (2013), Ba thế hệ trí thức người Việt (1862-1954), NXB Thế Giới, Hà Nội.

  3. Phạm Phúc Vĩnh (2017), Phong trào Minh Tân ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX, NXB ĐHQG TP. Hồ Chí Minh.

  4. Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên) (2003), Tiến trình lịch sử Việt Nam (tái bản lần thứ 3), Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

  5. Trương Hữu Quýnh (Chủ biên) (2000), Đại cương lịch sử Việt Nam, Tập I, (tái bản lần thứ 3), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

  6. Chương Thâu, Hồ Song, Ngô Văn Hoà (1999), Lịch sử Việt Nam 1897-1918, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

  7. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến tranh cách mạng Việt Nam - Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

  8. Viện Sử học (2001), Lịch sử Việt Nam từ khởi thuỷ đến thế kỷ X, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

  9. Trần Bá Đệ (Chủ biên) (2013), Giáo trình lịch sử Việt Nam, Tập VIII, IX, X. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

  10. Đinh Trần Dương (2002), Sự chuyển biến của phong trào yêu nước và cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong 30 năm đầu thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

  11. Trần Văn Giàu (1975), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám, T.II, Hệ ý thức tư sản và sự thất bại của nó trước nhiệm vụ lịch sử, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

  12. Đinh Xuân Lâm (Chủ biên) (2001), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

  13. Lê Mậu Hãn (Chủ biên) (2001), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

  14. Nguyễn Thế Anh (1970), Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, Nxb Lửa thiêng, Sài Gòn.

  15. Phan Huy Lê (Chủ biên) (2012). Lịch sử Việt Nam, tập I, II,Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

  16. Đinh Xuân Lâm (Chủ biên) (2012). Lịch sử Việt Nam, tập III, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

  17. Lê Mậu Hãn (Chủ biên) (2012), Lịch sử Việt Nam, tập IV, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.