Tư Mã Thiên soạn, Lưu Tống - Bùi Nhân tập giải, Đường - Tư Mã Trinh sách ẩn, Trương Thủ Tiết chính nghĩa), Tích Dã hiệu đính
1. Sở thế gia:
Tổ tiên của vua nước Sở xuất từ vua Chuyên Húc hiệu là Cao Dương. Cao Dương là cháu của Hoàng Đế, con của Xương Ý. Cao Dương sinh ra Xứng. Chính nghĩa: Đọc là 'xích chứng' phiên.Xứng sinh ra Quyển Chương. Quyển Chương sinh ra Trùng Lê. Tập giải: Từ Quảng nói: "Thế bản chép Lão Đồng sinh ra Trùng Lê và Ngô Hồi." Tiếu Chu nói: "Lão Đồng là Quyển Chương." Sách ẩn: Quyển Chương tên là Lão Đồng, cho nên Hệ bản chép Lão Đồng sinh ra Trùng Lê." Hai họ nhà Trùng-Lê thay nhau coi việc về trời-đất, Trùng làm Mộc chính, Lê làm Hỏa chính. Xét: Tả thị truyện chép con của vua Thiếu Hạo tên là Trùng, con của vua Chuyên Húc là Lê. Nay lấy Trùng Lê là một người, lại là con cháu của vua Chuyên Húc. Họ Lưu nói: "Dòng dõi của vua Thiếu Hạo là Trùng, dòng dõi của vua Chuyên Húc là Trùng Lê. Đối với Trùng này thì gọi riêng là Lê, như tự nói nhà kia thì xưng là Trùng Lê. Cho nên nói vua nước Sở và họ Tư Mã đều là dòng dõi của Trùng Lê, không liên quan đến dòng dõi của vua Thiếu Hạo tên là Trùng." Kẻ hèn này cho rằng lời giải ấy là phải. Trùng Lê làm quan Hỏa chính của vua Khốc hiệu Cao Tân, Sách ẩn: Trùng Lê này làm Hỏa chính, dòng dõi của vua Thiếu Hạo là Trùng kia làm Mộc chính, biết rằng Trùng Lê này là dòng dõi của vua Chuyên Húc là Lê vậy. rất có công, nổi rõ ở thiên hạ, vua Khốc ban cho hiệu là Chúc Dung. Tập giải: Ngu Phiên nói: "'Chúc' là lớn, 'dung' là sáng." Vi Chiêu nói: "'Chúc' là bắt đầu.". Vua nước Cung Công làm loạn, vua Khốc sai Trùng Lê đánh diệt đi nhưng không dứt, vua Khốc vào ngày canh dần bèn giết Trùng Lê, lại lấy em của Trùng Lê là Ngô Hồi làm dòng dõi của Trùng Lê, cho làm lại quan Hỏa chính, vẫn hiệu là Chúc Dung.
Ngô Hồi sinh ra Lục Chung. Lục Chung sinh ra sáu người con, đều mổ rạch mà sinh ra. [color=red]Tập giải: Can Bảo nói: "Nhiều học sĩ nhà Nho thời xưa nghi ngờ việc này. Tiếu Doãn Nam tài cao học rộng, tinh thông môn lí số, soạn sách Cổ sử khảo, cho rằng là người soạn sách chép bậy, bèn bỏ đi mà không bàn đến. Ta cũng cho là cách sinh ra ấy là lạ. Nhưng xét thế phả của sáu người con ấy thì con cháu của họ có nước, lên xuống sáu đời trong khoảng mấy ngàn năm, làm đến nghiệp bá vương, trời giúp cho họ nổi lên, tất phải có vật lạ chăng? Như những sách cũ chép lại có chuyện Tu Kỉ rạch lưng mà sinh ra vua Vũ, Giản Địch mổ bụng mà sinh ra Khiết, thế đại lâu dài, chẳng đáng làm chứng. Nhưng gần đây vào năm Hoàng Sơ thứ năm thời nhà Ngụy có người vợ họ Vương của người quận Nhữ Nam là Khuất Ung sinh con trai, nước từ bụng dưới nách phải tràn ra, thế mà yên ổn như không có gì, mấy tháng sau thì vết thương tự lành, mẹ con không bị gì, đấy là việc đáng tin gần đây vậy. Lấy việc đời này để suy việc đời xưa, cho nên biết những ghi chép ấy làn không bậy vậy. Trời đất xoay vần, âm dương biến hóa, há lại chỉ có một mối, đại khái là lẽ thường chăng? Kinh Thi chép 'không mổ không rạch, không tai không hại' là ý của nhà thơ thời xưa nói đàn bàn thời xưa từng có chuyển mổ rạch mà sinh con vậy. Lại có chuyện vì sinh con mà bị tai hại, cho nên khen chuyện ấy (không mổ không rạch) là không có hại." Sách ẩn: Hệ bản chép: "Lục Chung lấy em gái vua nước Quỷ Phương tên là Nữ Khoái." Con cả trong đó là Côn Ngô; Tập giải: Ngu Phiên nói: "Côn Ngô tên là Phàn, mang họ Kỉ, được phong ở ấp Côn Ngô." Thế bản chép: "Côn Ngô thuộc nước Vệ." Sách ẩn: Con cả là Côn Ngô. Hệ bản chép: "Một trong đó tên là Phàn, được phong ở ấp Côn Ngô." Lại chép: "Côn Ngô thuộc nước Vệ." Tống Trung nói: "Côn Ngô là tên ấp, vua nước ấy họ Kỉ." Tả truyện chép: "Vua nước Vệ nằm mơ thấy có người xõa tóc lên đài Côn Ngô." Xét: Trong thành Bộc Dương ngày nay có đài Côn Ngô. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Huyện Bộc Dương là nước Côn Ngô thời xưa. Thành cũ Côn Ngô tại phía tây huyện ba chục dặm, có đài tại phía tây huyện một trăm bước, là làng Côn Ngô vậy." thứ hai là Tham Hồ; Tập giải: Thế bản chép: "Tham Hồ thuộc nước Hàn." Sách ẩn: Hệ bản chép: "Thứ hai là Huệ Liên, được phong ở ấp Tham Hồ. Tham Hồ thuộc nước Hàn." Tống Trung nói: "Tham Hồ là tên nước, vua nước ấy họ Châm, không có dòng dõi." thứ ba là Bành Tổ; Tập giải: Ngu Phiên nói: "Tên là Tiễn, mang họ Bành, được phong ở ấp Đại Bành." Thế bản chép: "Bành Tổ là huyện Bành Thành." Sách ẩn: Hệ bản chép: "Thứ ba là Tiên Khanh, được phong ở ấp Bành Tổ. ẤpBành Tổ là huyện Bành Thành." Ngu Phiên nói: "Tên là Tiễn, mang họ Bành, được phong ở ấp Đại Bành." Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Bành Thành là nước Bành Tổ xưa. Ngoại truyện chép cuối thời nhà Ân diệt nước Bành Tổ. Ngu Phiên nói tên là Tiễn. Thần tiên truyện chép người ấp Bành Tổ là Tiên Khanh, là cháu đời sau của vua Chuyên Húc, sống đến năm cuối thời nhà Ân đã bảy trăm sáu mươi bảy tuổi mà không già yếu, rút cuộc đến phía tây miền Lưu Sa cũng không chết đi vậy." thứ tư là Cối Nhân; Tập giải: Thế bản chép: "Cối Nhân thuộc nước Trịnh." Sách ẩn: Hệ bản chép: "Thứ tư là Cầu Ngôn, được phong ở ấp Cối Nhân. Cối Nhân thuộc nước Trịnh." Tống Trung nói: "Tên là Cầu Ngôn, vua nước Cối mang họ Vân." Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành nước Cối xưa tại phía đông bắc huyện Tân Trịnh châu Trịnh hai mươi hai dặm. Mao thi phả chép là đất của vua Cao Tân ngày xưa, là ấp phong của Chúc Dung, trải từ thời nhà Đường đến thời nhà Chu là đất phong của dòng dõi Trùng Lê có vua họ Vân, đấy là vua nước Cối, bị Võ Công nước Trịnh đánh diệt." thứ năm là Tào Tính; Tập giải: Thế bản chép: "Tào Tính thuộc nước Trịnh." Sách ẩn: Hệ bản chép: "Thứ năm tên là An, được phong ở ấp Tào Tính. Tào Tính thuộc nước Trịnh." Tống Trung nói: "Tên là An, ấp Tào Tính mà nơi gốc của các họ Tào." Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Nước Chu xưa tại phía đông nam huyện Hoàng Cương châu Hoàng một trăm hai mươi mốt dặm, sách sử xưa chép vua nước Chu họ Tào vậy." thứ sáu là Quý Liên, mang họ Mị, vua nước Sở là dòng dõi họ Mị ấy vậy. Sách ẩn: Hệ bản chép: "Thứ sáu là Quý Liên, được phong ở ấp Mị Tính. Quý Liên là tổ tiên của vua nước Sở." Tống Trung nói: "Tên là Quý Liên, tổ tiên của vua nước Sở mang họ Mị." Mị, đọc là 'mi thị' phiên. 'Mị', là tiếng dê kêu. Vua nước Côn Ngô vào thời nhà Hạ thường làm hầu bá, vào thời vua Kiệt bị vua Thang đánh diệt. Vua nước Bành Tổ và thời nhà Â thường làm hầu bá, cuối thời nhà Ân diệt vua nước Bành Tổ.
Quý Liên sinh ra Phụ Tự. Tập giải: Tôn Kiểm nói: "Còn chép là Tổ." Sách ẩn: Tự, đọc là 'tài tự' phiên. Phụ Tự sinh ra Huyệt Hùng, dòng dõi đời sau suy yếu, có kẻ ở Trung Quốc, có kẻ ở Man-Di, không chép được thế đại.
Vào thời Văn Vương nhà Chu có dòng dõi của Quý Liên tên là Dục Hùng. Con của Dục Hùng giúp Văn Vương, chết sớm, có con là Hùng Li. Hùng Li sinh ra Hùng Cuồng. Hùng Cuồng sinh ra Hùng Dịch.
Vào thời Thành Vương nhà Chu tiến cử dòng dõi của người có lao công giúp Văn Vương-Võ Vương, do đó phong Hùng Dịch ở miền Sở Man, ban cho ruộng thuộc bậc tước tử-nam, mang họ Mị, đóng giữ ở thành Đan Dương. Tập giải: Từ Quảng nói: "Tại huyện Chi Giang quận Nam." Chính nghĩa: Truyện lệ của Dĩnh Dung chép: "Vua nước Sở đóng đô ở thành Đan Dương, là thành cũ huyện Chi Giang ngày nay vậy." Quát địa chí chép: "Thành cũ Quy ở phía đông nam huyện Ba Đông châu Quy bốn dặm là nước cũ của vua nước Sở là Hùng Dịch. Lại có mộ của Hùng Dịch ở huyện Tỉ Quy châu Quy. Dư địa chí chép phía đông huyện Tỉ Quy có thành Đan Dương, chu vi tám dặm, là chỗ Hùng Dịch được phong." Vua nước Sở là Hùng Dịch với vua nước Lỗ là Bá Cầm, con của Khang Thúc nước Vệ là Mâu, vua nước Tấn là Tiếp, con của Thái Công nước Tề là Lữ Cấp cùng giúp Thành Vương.
2. Tần Thủy Hoàng bản kỉ
Thủy Hoàng Đế nhà Tần là con của Trang Tương Vương nước Tần. Sách ẩn: Trang Tương Vương là con giữa của Hiếu Văn Vương, là cháu của Chiêu Tương Vương, tên là Tử Sở. Xét: Chiến quốc sách chép vốn tên là Tử Dị, sau làm con nối dõi của Hoa Dương phu nhân, phu nhân là người nước Sở, nhân đó đổi tên là Tử Sở. Vào lúc Trang Tương Vương làm con tin của vua nước Tần ở nước Triệu Chính nghĩa: Vua nước mạnh muốn để cho vua nước yếu đến giúp mình cho nên sai con và bầy tôi quyền quý đến làm con tin. Lại nữa hai nước đối địch cũng cho con tin qua lại. Tả truyện chép: "Nhà Chu và nước Trịnh cho con tin qua lại, con vua nhà Chu là Hồ làm con tin ở nước Trịnh, con vua nước Trịnh là Hốt làm con tin ở nhà Chu." có gặp người thiếp của Lữ Bất Vi bèn thích mà lấy nàng, Sách ẩn: Xét: Bất Vi truyện chép: "Bất Vi là nhà buôn lớn người huyện Dương Trạch có người thiếp là con gái nhà giàu ở thành Hàm Đan múa hát giỏi, có thai mà dâng cho Tử Sở. sinh ra Thủy Hoàng, sinh ra ở thành Hàm Đan vào tháng giêng năm thứ bốn mươi tám thời Chiêu Vương nước Tần. Lúc sinh, đặt tên là Chính, mang họ Triệu. Tập giải: Tống Trung nói: "Vì sinh ra vào buổi sáng tháng giêng cho nên đặt tên là Chính." Sách ẩn: Hệ bản chép tên là 'Chính', lại sinh ở nước Triệu, cho nên gọi là Triệu Chính. Có người nói vua nước Tần cùng tổ với vua nước Triệu, được phong ở thành Triệu mà nổi lên, cho nên mang họ Triệu. Chính nghĩa: Chính nghĩa: Chính, đọc là 'chính'. Thủy Hoàng sinh vào buổi sáng tháng giêng ở nước Triệu, nhân đó đặt tên là Chính, sau vì kị húy Thủy Hoàng cho nên đọc là 'chinh'. Năm mười ba tuổi thì Trang Tương Tương chết, Chính thay lập làm vua nước Tần. Vào thời bấy giờ, nước Tần đã gồm cả các quận Ba-Thục-Hán Trung, qua huyện Uyển lấy thành Dĩnh mà đặt ra quận Nam; phía bắc thu lấy từ quận Thượng về phía đông có các quận Hà Đông-Thái Nguyên-Thượng Đảng; phía đông đến thành Huỳnh Dương, diệt hai nước của nhà Chu đặt ra quận Tam Xuyên. Lấy Lữ Bất Vi làm Tướng quốc, phong cho mười vạn hộ, hiệu là Văn Tín Hầu. Mời gọi tân khách kẻ sĩ du thuyết đến muốn để mưu việc chiếm cả thiên hạ. Lấy Lí Tư làm Xá nhân. Tập giải: Văn loại chép: " Là chức quan nhỏ chủ về việc trông coi chuồng ngựa. Có kẻ nói là chủ việc tiếp đãi tân khách gọi là Xá nhân." Lấy bọn Mông Ngao, Vương Ỷ, Tập giải: Từ Quảng nói: "Có sách chép là Vương Hột." Sách ẩn: Mông Ngao là người nước Tề, là cha của Mông Vũ, là ông tổ của Mông Điềm. Vương Ỷ là Vương Hột, là kẻ thay quan Đại phu tên là Lăng đánh nước Triệu vào năm thứ bốn mươi chín thời Chiêu Vương. Ỷ, đọc là 'ngư ỉ' phiên. Lưu Bá Trang đọc là 'ỷ'. Biều Công Tập giải: Ứng Thiệu nói: Biều là tên ấp của nước Tần." Sách ẩn: Biều Công có lẽ là chúa ấp Biều, sử không chép họ tên. Chính nghĩa: Biều, đọc là 'bỉ miêu' phiên, có lẽ là tên huyện của nước Tần, quan Đại phu thì xưng là 'Công' như phép tắc của nước Sở. làm tướng quân. Vua tuổi nhỏ mới lên ngôi, trao việc nước cho đại thần.
Năm đầu (năm 246 TCN), người ở huyện Tấn Dương làm phản, tướng quân là Mông Ngao đánh dẹp được. Năm thứ hai (năm 245 TCN), Biều Công đem quân đánh huyện Quyển, chém ba vạn đầu.
Năm thứ ba (năm 244 TCN), Mông Ngao đánh nước Hàn, lấy mười ba thành. Vương Ỷ chết. Tháng mười, tướng quân là Mông Ngao đánh ấp Sướng của nước Ngụy, đòi cắt đất. Năm đó đói to.
Năm thứ tư (243 TCN), chiếm ấp Sướng, đòi cắt đất. Tháng ba, rút quân. Con tin của vua nước Tần từ nước Triệu quay về, Thái tử của nước Triệu cũng ra về nước. Ngày canh dần tháng mười, châu chấu từ phía đông bay đến che cả bầu trời. Thiên hạ mắc bệnh dịch, hạ lệnh trăm họ nếu dâng một ngàn thạch thóc thì được phong tước thêm một bậc.
Năm thứ năm (năm 242 TCN), tướng quân là Mông Ngao đánh nước Ngụy, dẹp các ấp Toan Tảo, Yến, Hư, Trường Bình, Ung Khâu, Sơn Dương, đều thắng được, lấy hai mươi thành, bắt đầu đặt nên quận Đông. Mùa đông có sấm.
Năm thứ sáu (năm 241 TCN), quân các nước Hàn, Ngụy, Triệu, Vệ, Sở cùng đánh nước Tần, lấy ấp Thọ Lăng. Chính nghĩa: Từ Quảng nói: "Tại quận Thường Sơn.". Xét: Vốn là ấp của nước Triệu.Quân Tần ra đánh, quân của năm nước rút về. Quân Tần chiếm nước Vệ, đến gần quận Đông, vua nước Vệ tên là Giác dẫn họ hàng thuộc hạ dời đến ấp Dã Vương, dựa vào núi hiểm để giữ quận Hà Nội của nước Ngụy.
Năm thứ bảy (năm 240 TCN), sao Chổi xuất hiện ở phương đông trước, rồi xuất hiện ở phương bắc, đến tháng năm lại xuất hiện ở phương tây. Chính nghĩa: Chổi, đọc là 'tự tuế' phiên. Hiếu kinh nội kí chép: "Nếu sao Chổi phạm vào chòm sao Bắc Đẩu thì binh cách nổi mạnh. Nếu sao Chổi phạm vào chòm sao Tam Thai thì tôi hại vua. Nếu sao Chổi phạm vào cung Thái Vi thì vua hại tôi. Nếu sao Chổi phạm vào chòm sao Thiên Ngục thì chư hầu làm loạn, phạm vào các chỗ ấy là điềm rất gở. Nếu sao Chổi xuất hiện ở cạnh Mặt Trời thì con muốn giết cha." Tướng quân là Mông Ngao chết vào lúc đánh các ấp Long, Hồ, Khánh Đô, đem quân về đánh ấp Cấp. Sao Chổi lại xuất hiện ở phương tây lâu đến mười sáu ngày. Hạ thái hậu chết. Sách ẩn: Là mẹ sinh ra Trang Tương Vương. Chính nghĩa: Là mẹ của Tử Sở.
Năm thứ tám (năm 239 TCN), em của vua là Trường An Quân tên là Thành Kiểu đem quân đánh nước Triệu, rồi làm phản, chết ở huyện Đồn Lưu, Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành cũ Đồn Lưu tại phía đông bắc huyện Trưởng Tử châu Lộ ba chục dặm, là nước Đồn Lưu, Lưu Hu thời nhà Hán." quan quân đều bị chém chết, dời dân của họ đến ở huyện Lâm Thao. Sách ẩn: Huyện Lâm Thao tại quận Lũng Tây. Chính nghĩa: Sông Lâm Thao cho nên đặt tên là huyện Lâm Thao. Châu Lộ ngày nay tại quận Lũng Tây xưa, cách tây kinh năm năm năm mươi mốt dặm. Ý nói dân huyện Đồn Lưu bị Thành Kiểu bắt ép cùng làm phản, cho nên dời họ đến huyện Lâm Thao. Tướng quân chết ở trong lũy rồi, Chính nghĩa: Ý nói Thành Kiểu tự sát ở trong rào lũy. rút cuộc dân các huyện Đồn Lưu-Bồ Cao cũng làm phản, đềi bị phanh thây. Tập giải: Từ Quảng nói: "Đồn Lưu-Bồ Cao đều là tên huyện. Vào lúc đắp lũy ở các huyện ấy, quân lính chết đều bị phanh thanh. Sách ẩn: Cao Dụ nói: "Đồn Lưu là huyện thuộc quận Thượng Đảng. Ý nói Thành Kiểu làm tướng quân mà làm phản, vua Tần phát binh đến đánh cho nên Thành Kiểu đắp lũy ở huyện Đồn Lưu rồi chết. Quân lính làm phản ở hai huyện Đồn Lưu-Bồ Cao dẫu chết rồi mà vẫn còn bị phanh thây." Cá ở sông Hà nhảy lên bờ, Sách ẩn: Ý nói nước sông Hà tràn, có nhiều cá nhảy lên đất bằng, cũng có ý nói là gặp nạn nước lụt. Là ý 'cái hại của loài sâu bọ' mà Lưu Hướng nói trong Hán thư ngũ hành chí. Năm sau, Lạo Ải bị giết. Cá là loài thuộc khí âm, tượng trưng cho tiểu nhân. Chính nghĩa: Năm thứ tám thời Thủy Hoàng, cá ở sông Hà bơi về phía tây vào sông Vị. người dân ngồi xe cưỡi ngựa sang phía đông ăn cá. Sách ẩn: Ý nói hiều cá ở sông Hà nhảy lên bờ, người nước Tần đều ngồi xe cưỡi ngựa cùng nhau đến ăn cá ở phương đông, ý nói đến bờ sông Hà ăn cá. Có kẻ nói cá ở sông Hà nhảy lên bờ là nạn nước lụt, người ta bèn sang phía đông kiếm ăn, đều ngồi xe cưỡi ngựa mà đi.Phong cho Lạo Ải làm Trường Tín Quân, Sách ẩn: Lạo là họ, Ải là tên chữ. Xét: Hán thư thì họ Lạo xuất từ thành Hàm Đan. Vương Thiệu nói: "Giả thị trung nói mẹ của Thủy Hoàng nhà Tần thông dâm với Lạo Ải mà bị bắt giết, cho nên người đời mắng kẻ dâm đãng là 'lạo ải'. Các việc săn bắt, làm vườn cây, quần áo, xe ngựa, cung thất đều theo ý Ải, cá việc không kể lớn nhỏ đều do Ải tự làm. Lại lấy các quận Hà Tây-Thái Nguyên làm đất phong cho Ải.
Năm thứ chín (năm 238 TCN), sao Chổi xuất hiện, có lúc dài suốt cả bầu trời. Đánh các huyện Hoàn-Bồ Dương của nước Ngụy. Tháng tư, vua nghỉ ở huyện Ung. Ngày kỉ dậu, vua đội mũ đeo kiếm.Tập giải: Từ Quảng nói: "Bấy giờ hai mươi hai tuổi." Chính nghĩa: Lễ kí chép: "Hai mươi tuổi thì đội mũ." Xét: Bấy giờ vua hai mươi mốt tuổi. Trường Tín Quân là Lạo Ải làm loạn bị phát hiện, bèn làm giả ấn tỉ của vua và ấn tỉ của Thái hậu Tập giải: Sái Ung nói: "Ấn tỉ là ấn làm tin. Ấn tỉ của thiên tử làm bằng ngọc trắng khắc văn li hổ. Thời xưa cũng có ấn tỉ cao thấp. Nguyệt lệnh chép là 'giữ ấn tỉ'. Tả truyện chép là 'Quý Vũ Tử mang trao ấn tỉ thư từ đuổi theo mà ban cho'. Đấy là ấn của Đại phu chư hầu gọi là ấn tỉ." Vệ Hoành nói: "Từ thời nhà Tần về trước thì người dân đều lấy vàng ngọc làm ấn, có khắc hình rồng hổ, chỉ thích như thế. Từ thời nhà Tần đến nay, thiên tử chỉ dùng ấn gọi là ấn tỉ, lại chỉ làm bằng ngọc, bầy tôi chẳng dám dùng." Chính nghĩa: Thôi Hạo nói: "Lí Tư mài tấm ngọc mà làm nên, các vị vua thời Hán nối nhay dùng nó, gọi là 'ấn tỉ truyền quốc'." Ngô thư của Vi Chiêu chép: "Ấn tỉ vuông bốn thước, trên đó có khắc hình năm con rồng, có văn khắc chữ có ý là 'vâng mệnh từ trời, tuổi thọ mãi dài'. Hán thư chép lời văn khắc có ý là 'vâng mệnh từ trời xanh, hoàng đế thọ dài'. Xét: Hai lời văn không giống nhau. Hán thư Nguyên Hậu truyện chép: 'Vương Mãng sai Vương Thuấn ép Thái hậu lấy ấn tỉ, Vương thái hậu giận, ném ấn tỉ xuống đất, một góc ấn tỉ bị vỡ mất'. Ngô chí chép: 'Tôn Kiên vào ấp Lạc, quét dọn tông miếu của nhà Hán, quân lính đến giếng Chân Cung lấy được ấn tỉ, sau dâng cho nhà Ngụy. Tháng sáu năm Vĩnh Gia thứ năm thời Hoài Đế nhà Tấn, Hoài Đế giấu ấn tỉ ở huyện Bình Dương, ấn tỉ lại vào tay vua nhà Tiền Triệu là Lưu Thông. Đến năm Hàm Hòa thời Thành Đế nhà Đông Tấn thì Thạch Lặc diệt nhà Tiền Triệu, lấy được ấn tỉ. Năm Vĩnh Hòa thứ tám thời Mục Đế, Thạch Lặc bị Mộ Dung Tuấn đánh diệt, Thái thú Bộc Dương là Đái Thi vào thành Nghiệp, lấy ấn tỉ, sai Hà Dung dâng cho nhà Tấn. Lại truyền cho nhà Lưu Tống, nhà Lưu Tống truyền cho nhà Nam Tề. Nhà Nam Tề truyền cho nhà Lương. Nhà Lương truyền đến năm Thiên Chính thứ hai thì Hầu Cảnh phá nhà Lương, đến quận Quảng Lăng, kịp lúc tướng nhà Nam Tề là Tân Thuật đánh lấy quận Quảng Lăng, lấy được ấn tỉ đem về cho nhà Bắc Tề. Kịp đến tháng giêng năm Kiến Đức thứ sáu nhà Chu thì bình nhà Bắc Tề, ấn tỉ vào nhà Chu, Nhà Chu truyền cho nhà Tùy, nhà Tùy truyền cho nhà Đường. để phát quân lính ở kinh sư và quân lính túc vệ, quan kị, quân trưởng của người Nhung-Địch, tân khách, muốn để đánh vào cung Kì Niên làm loạn. Tập giải: Địa lí chí chép: "Cung Kì Niên ở huyện Ung." Vua biết chuyện, sai Tướng quốc là Xương Bình Quân, Xương Văn Quân phát quân đánh Ải. Sách ẩn: Xương Bình Quân là con cua nước Sở, lấy làm Tướng quốc, sau dời đến thành Dĩnh, được Hạng Yên lập làm vua nước Kinh, sử không chép tên. Xương Văn Quân cũng không chép tên. Đánh ở thành Hàm Dương, Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành Hàm Dương cũ cũng có tên là thành Vị, tại phía bắc châu Ung năm dặm, nay ở chỗ phía đông huyện Hàm Dương mười lăm dặm. Từ thời Hiếu Công nước Tần về sau đã dựng đô ở đấy. Thủy Hoàng đúc mười hai tượng người vàng dựng ở thành Hàm Dương là chỗ ấy. chém mấy trăm đầu, đều được ban tước, những quan hoạn đều ở trong trận cũng được ban tước thêm một cấp. Bọn Lạo Ải thua chạy, liền hạ lệnh trong nước rằng: "Ai bắt sống được Ải thì ban cho trăm vạn tiền; giết được hắn thì ban cho năm mươi vạn tiền." Rút cuộc bắt hết được bọn Ải. Hai mươi người bọn Vệ úy là Kiệt, Nội sử là Tứ, Tá dặc là Kiệt, Trung đại phu lệnh là Tề đều bị treo đầu, Tập giải: Treo đầu ở trên cây. lấy xe phanh thây để làm gương, diệt cả họ hàng bọn ấy.Chính nghĩa: Thuyết uyển chép: "Thái hậu của Thủy Hoàng nhà Tần không cẩn thận mà tin yêu Lạo Ải, Thủy Hoàng phanh thây cắt bốn tay chân Ải, bắt đánh chết hai người em, dời Thái hậu đến ở cung Hàm Dương. Hạ lệnh rằng: 'Những kẻ can ngăn về việc của Thái hậu đều bắt giết mà phanh thây, lấy xương làm củi'. Có hai mươi bảy người vì can ngăn mà chết. Mao Tiêu bèn lên khuyên can nói: 'Kẻ làm khách đến từ nước Tề là Mao Tiêu xin can ngăn việc của Thái hậu'. Hoàng đế nói: "Đã lệnh như thế, không thấy người chết chồng chất ở dưới cửa khuyết ư?' Sứ giả hỏi Tiêu, Tiêu nói: 'Bệ hạ lấy xe phanh thây cha dượng là có ý ghen ghét; đánh đập hai người em là có tiếng là không nhân từ; dời mẹ đến ở cung Hàm Dương là cái cái đức bất hiếu, róc xương kẻ sĩ can ngăn là việc làm của vua Kiệt-Trụ; thiên hạ biết chuyện sẽ vỡ lở cả, không hướng đến nhà Tần'. Vua bèn tự đón Thái hậu về thành Hàm Dương, lập Mao Tiêu làm quan Phó, ban tước thượng khanh." Quát địa chí chép: "Mao Tiêu là người châu Thương." Còn những tân khách của bọn ấy thì nhẹ bị tội quỷ tân. Tập giải: Ứng Thiệu nói: "Lấy củi cấp ở tông miếu gọi là quỷ tân." Như Thuần nói: "Theo luật thì tội quỷ tân phải lao dịch ba năm." Chíhh nghĩa: Ý nói tân khách của Ải tội nặng thì đã bị tội phanh thây, tội nhẹ thì bị bắt dời đi lao dịch ba năm. Có hơn bốn ngàn nhà bị cắt tước dời sang quận Thục, làm nhà ở huyện Phòng Lăng. Tháng tư băng đóng, có người chết. Chính nghĩa: Tháng tư là tháng tị, đầu mùa hạ băng đóng, có người dân chết cóng, là vì nhà Tần làm hình pháp nghiêm ngặt thì trời có báo ứng, cho nên sử chép lại. Cho nên Thượng thư hồng phạm chép 'hình pháp nghiêm ngặt thì trời lạnh'. Dương Đoan Hòa đánh huyện Diễn Thị. Sách ẩn: Dương Đoan Hòa là tướng nước Tần. Diễn Thị là huyện của nước Ngụy. Sao Chổi xuất hiện ở phương tây, lại xuất hiện ở phương bắc, từ chòm sao Bắc Đẩu xẹt về phía nam lâu đến tám chục ngày.
Năm thứ mười (năm 237 TCN), Tướng quốc là Lữ Bất Vi vì tội của Lạo Ải mà bị bãi chức. Lấy Hoàn Ỷ làm tướng quân. Người nước Tề-Triều đến dâng rượu. Người nước Tề là Mao Tiêu khuyên vua Tần rằng: "Nước Tần lo việc của thiên hạ mà nhà vua có tiếng là đày mẹ là Thái hậu, sợ rằng chư hầu nghe chuyện ấy tất làm phản lại nước Tần." Vua Tần bèn đón Thái hậu ở huyện Ung về thành Hàm Dương, Tập giải: Thuyết uyển chép: "Thủy Hoàng Đế lập Mao Tiêu làm làm quan Phó, lại ban tước thượng khanh. Thái hậu cả mừng, nói: 'Thiên hạ ngay thẳng, làm cho hỏng lại lành, giữ vững xã tắc nước Tần, khiến cho mẹ con thiếp lại được gặp nhau, là công của Mao Tiêu vậy'." lại cho ở cung Cam Tuyền.Tập giải: Từ Quảng nói: "Biểu chép là cung phía nam thành Hàm Dương." Bắt đuổi tân khách trong nước, Lí Tư dâng thư can khuyên, bèn dừng lệnh bắt đuổi tân khách. Lí Tư nhân đó khuyên vua Tần là đánh lấy nước Hàn trước để làm cho người các nước khác lo sợ. Do đó sai Tư đánh nước Hàn. Vua nước Hàn lo việc ấy, mưu cùng Hàn Phi làm cho nước Tần suy yếu. Người nước Đại Lương là Úy Liễu đến khuyên vua Tần rằng: "Dựa vào sức mạnh của nước Tần thì vua chư hầu chỉ như vua của quận huyện. Thần chỉ sợ chư hầu hợp tung, tụ tập mà ra chỗ không ngờ, đấy là cái cớ mà Trí Bá, Phù Sai, Mẫn Vương bị diệt. Xin nhà vua chớ thích tiền của, hãy đem tặng cho bầy tôi quyền quý để làm làm loạn mưu của họ, chỉ mất không quá ba chục vạn cân vàng mà chư hầu bị dẹp hết." Vua Tần nghe kế ấy, gặp Úy Liễu thì làm lễ ngang hàng, cách ăn uống mặc quần áo giống cũng với Liễu. Liễu nói: "Vua Tần là người mũi cao, mắt dài, ngực chim ác, tiếng sói, ít thương người mà có lòng hùm sói, lúc khó khăn thì nhún nhường dưới người, lúc thỏa chí cũng dễ khinh nhờn người. Ta là kẻ áo ải, nhưng vua Tần gặp ta thường tự nhún nhường dưới ta. Nếu vua Tần thỏa chí với thiên hạ thì thiên hạ đều là kẻ bị bắt. Không chơi với vua Tần lâu được." Bèn bỏ đi. Vua Tần biết, cố giữ lại, cho làm Quốc úy của nước Tần, Chính nghĩa: Như quan Thái úy của nhà Hán, tước ngang với Đại tướng quân. cuối cùng dùng mưu kế của Liễu, lại cho Lí Tư nắm việc nước.
Năm thứ mười một (năm 236 TCN), Vương Tiễn, Hoàn Ỷ, Dương Đoan Hòa đánh huyện Nghiệp, lấy chín thành. Vương Tiễn đánh các thành Át Dư, Liêu Dương, đều hợp thành một cánh quân. Tiễn dẫn quân đi mười tám ngày, cho quan có bổng một đấu trở xuống quay về, cứ mười người lại chọn hai người theo quân, sai Hoàn Ỷ đem quân đánh lấy huyện Nghiệp.
Năm thứ mười hai (năm 235 TCN), Văn Tín Hầu là Lữ Bất Vi chết, táng ngầm. Sách ẩn: Xét: Bất Vi nuốt thuốc độc chết, mấy ngàn tân khách của hắn ngầm cùng táng hắn ở núi Bắc Mang huyện Lạc Dương. Tân khách của hắn đến điếu, nếu là người Tam Tấn thì đuổi đi về, nếu là người Tần có bổng sáu trăm thạch trở lên thì cắt tước, bắt dời đi chỗ khác, có bổng năm trăm thạch trở xuống không đến điếu thì dời đi chỗ khác, không cắt tước. Từ đó về sau, những kẻ nắm việc nước bất đạo như Lạo Ải-Lữ Bất Vi đều bị bắt thu người nhà, lấy đó làm gương. Mùa thu, lại bắt người nhà của Lạo Ải dời đến quận Thục. Vào thời bấy giờ, thiên hạ hạn to, từ tháng sáu đến tháng tám mới có mưa.
Năm thứ mười ba (năm 234 TCN), Hoàn Ỷ đánh ấp Bình Dương của nước Triệu, giết tướng nước Triệu là Hỗ Triếp, chém mười vạn đầu. Vua đến phía nam sông Hà. Tháng giêng, sao Chổi xuất hiện ở phương đông. Tháng mười, Hoàn Ỷ đánh nước Triệu.
Năm thứ mười bốn (năm 233 TCN), đánh quân Triệu ở ấp Bình Dương, đánh lấy được thành Nghi An, giết tướng quân giữ thành ấy. Hoàn Ỷ dẹp được các ấp Bình Dương-Vũ Thành. Hàn Phi đi sứ đến nước Tần, vua Tần dùng mưu của Lí Tư, giữ Phi ở lại, Phi chết ở huyện Vân Dương. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành Vân Dương ở phía tây huyện Vân Dương châu Ung tám chục dặm, có cung Cam Tuyền của Thủy Hoàng nhà Tần ở đấy." Vua nước Hàn xin làm bầy tôi.
Năm thứ mười lăm (năm 232 TCN), phát quân lớn, một cánh quân đến huyện Nghiệp, một cánh quân đến quận Thái Nguyên, đánh lấy huyện Lang Mạnh. Đất động.
Năm thứ mười sáu (năm 231 TCN), tháng chín, phát quân đến nhận quận Nam Dương của nước Hàn, dùng qụan Thú tên là Thắng. Bắt đầu hạ lệnh con trai ghi tuổi vào sổ sách. Vua nước Ngụy dâng đất cho vua nước Tần. Vua Tần đặt ra áp Li. Chính nghĩa: Li, đọc là 'lực tri' phiên. Quát địa chí chép: "Huyện Tân Phong châu Ung vốn là ấp Li Nhung thời nhà Chu. Tả truyện chép 'Hiến Công nước Tấn đánh người Li Nhung'. Đỗ Dự chú là tại huyện Tân Phong quận Kinh Triệu, sau đó bị người Tần diệt đặt thành huyện."
Năm thứ mười bảy (năm 230 TCN), Nội sử là Thắng đánh nước Hàn, bắt được vua nước Hàn tên là An, thu hết đất ấy, lấy nước ấy đặt thành quận, đặt tên là quận Dĩnh Xuyên. Đất động. Hoa Dương thái hậu chết. Dân đói to.
Năm thứ mười tám (năm 229 TCN), Từ Quảng nói: "Ở quận Ba xuất hiện người lớn, dài hai mươi lăm trượng sáu thước." phát binh lớn đánh nước Triệu. Vương Tiễn đem quân từ quận Thượng đến đánh lấy huyện Tỉnh Hình. Dương Đoan Hòa đêm quân ở quận Hà Nội đi đánh. Khương Hội đánh nước Triệu. Dương Đoan Hòa vây thành Hàm Đan.
Năm thứ mười chín (năm 228 TCN), Vương Tiễn, Khương Hội đánh lấy hết đất Đông Dương của nước Triệu, bắt được vua nước Triệu. Vua Triệu tên là Thiên. Chính nghĩa: Năm thứ tám thời U Mâu Vương nước Triệu, quân Tần đánh nước Triệu, đến huyện Bình Dương, dời vua Triệu đến ở huyện Phòng Lăng. Dẫn quân muốn đánh nước Yên, đóng đồn ở nước Trung Sơn. Vua Tần đến thành Hàm Đan, gặp những kẻ từng có thù oán với vua từ thời ở nhà mẹ tại nước Triệu, đều chôn họ. Vua Tần về, theo đường từ quận Thái Nguyên-Thượng để đi. Mẹ là Thái hậu của Thủy Hoàng băng. Con vua nước Triệu tên là Gia đem mấy trăm người họ hàng đến ở quận Đại, tự lập làm vua nước Đại, sang phía đông hợp binh với vua nước Yên, đóng quân ở quận Thượng Cốc. Đói to.
Năm thứ hai mươi (năm 227 TCN), Thái tử nước Yên tên là Đan lo sợ quân Tần đến nước mìn, bèn sai Kinh Kha đi đâm vua Tần. Vua Tần biết được, phanh thây Kha để làm gương, lại sai Vương Tiễn, Tân Thắng đánh nước Yên. Vua các nước Yên-Đại phát binh đánh quân Tần. Quân Tần phá quân Yên ở phía tây sông Dịch.
Năm thứ hai mươi mốt (năm 226 TCN), Vương Bôn đánh thành Kế. Bèn phát thêm quân đến giúp Vương Tiễn, rút cuộc phá quân của Thái tử nước Yên, lấy thành Kế của nước Yên, chém được đầu của Thái tử tên là Đan. Vua nước Yên sang phía đông thu quân ở quận Liêu Đông mà làm vua ở đấy. Vương Tiễn cáo già bệnh xin về quê. Người huyện Tân Trịnh làm phản. Xương Bình Quân dời đến ở thành Dĩnh. Có mưa tuyết lớn, dày đến hai thước năm tấc.
Năm thứ hai mươi hai (năm 225 TCN), Vương Bôn đánh nước Ngụy, dẫn nước sông Hà chảy vào thành Đại Lương, thành Đại Lương bèn vỡ. Vua nước Ngụy xin hàng, lấy hết đất ấy.
Năm thứ hai mươi ba (năm 224 TCN), vua Tần lại gọi Vương Tiễn, ép bắt đi, sai đem quân đánh nước Kinh. Chính nghĩa: Người Tần gọi nước Sở là nước Kinh là vì kị tên của Trang Tương Vương là Tử Sở. lấy đất Trần về phía nam đến đất Bình Dư, bắt được vua nước Kinh. Vua Tần đến chơi ở thành Dĩnh, huyện Trần. Tướng nước Kinh là Hạng Yên lập Xương Bình Quân làm vua nước Kinh, phản nước Tần ở phía nam sông Hoài.
Năm thứ hai mươi tư (năm 223 TCN), Vương Tiễn, Mông Vũ đánh nước Kinh, phá quân Kinh. Xương Bình Quân chết, Hạng Yên bèn tự sát.
Năm thứ hai mươi lăm (năm 222 TCN), phát binh lớn, sai Vương Bôn đem đi, đánh quận Liêu Đông của nước Yên, bắt được vua Yên tên là Hỉ. Về đánh nước Đại, bắt vua nước Đại tên là Gia. Vương Tiễn bèn dẹp yên miền phía nam sông Giang của nước Kinh, bắt vua người Việt hàng, Chính nghĩa: Uy Vương nước Sở đã diệt nước Việt, dòng dõi còn lại tự xưng làm quân trưởng, nay hàng quân Tần. đặt ra quận Cối Kê. Tháng năm, thiên hạ mở tiệc lớn. Chính nghĩa: Thiên hạ vui mừng mở tiệc lớn uống rượu. Người Tần đã dẹp năm nước Hàn, Triệu, Ngụy, Yên, Sở, cho nên thiên hạ mở tiệc lớn.
Năm thứ hai mươi sáu (năm 221 TCN), vua nước Tề tên là Kiến cùng Tướng quốc là Hậu Thắng phát binh giữ biên giới phía tây của mình, không qua lại với nước Tần. Vua Tần sai tướng quân là Vương Bôn từ phía nam nước Yên đánh nước Tề, bắt được vua nước Tề tên là Kiến. Sách ẩn: Sáu nước đều bị diệt. Năm thứ mười bảy thì bắt được vua Hàn là An. Năm thứ mười chín thì bắt được vua Triệu là Thiên. Năm thứ hai mươi hai thì bắt được vua Ngụy là Giả. Năm thứ hai mươi ba thì bắt được vua Kinh là Phụ Sô. Năm thứ hai mươi lăm thì bắt được vua Yên là Hỉ. Năm thứ hai mươi sáu thì bắt được vua Tề là Kiến.
Vua Tần vừa chiếm cả thiên hạ, lệnh cho các quan Thừa tướng, Ngự sử rằng: "Ngày trước vua Hàn nạp đất trao ấn, xin làm bầy tôi, rồi lại trái ước, hợp tung với các nước Triệu-Ngụy phản nước Tần, cho nên dấy binh diệt đi, bắt được vua Hàn. Quả nhân cho là tốt, ngõ hầu ngừng binh cách. Vua Triệu sai Tướng quốc của mình là Lí Mục đến kết minh, do đó cho con tin của vua Triệu quay về, nhưng lại bội minh, phản ta ở quận Thái Nguyên, do đó dấy binh diệt nước ấy, bắt được vua Triệu. Con vua Triệu là Gia lại tự lập làm vua nước Đại, cho nên phát binh đánh diệt đi. Vua Ngụy lúc trước hẹn theo phục nước Tần, rồi lại mưu với vua các nước Hàn-Triệu đánh úp nước Tần, quân quân Tần lại đánh, bèn diệt nước ấy. Vua Kinh dâng đất từ huyện Thanh Dương về phía tây, Tập giải: Hán thư Trâu Dương truyện chép: "Nước qua Trường Sa, thuyền về Thanh Dương." Tô Lâm nói: "Thanh Dương là huyện thuộc quận Trường Sa." rồi cũng bội ước, đánh quận Nam của ta, cho nên phát binh đánh, bắt được vua Kinh, rút cuộc dẹp được nước Kinh. Vua Yên hôn loạn, Thái tử của hắn là Đan lại ngầm sai Kinh Kha làm giặc, ta lại phát binh đánh, diệt nước ấy. Vua Tề dùng kế của Hậu Thắng, cắt đứt sứ giả qua lại với nước Tần, muốn làm loạn, quân ta lại đánh, bắt được vua Tề, bình nước Tề. Quả nhân lấy tấm thân cỏn con dấy binh dẹp bạo loạn, cậy vào uy linh của tông miếu, cho nên vua sáu nước phải chịu tội, thiên hạ yên định. Nay nếu không đổi tên gọi thì không lấy gì để nêu công lao truyền cho đời sau. Hãy bàn cách đặt hiệu đế." Bọn Thừa tướng là Oản, Ngự sử đại phu là Kiếp, Sách ẩn: Oản họ Vương, Kiếp họ Phùng. Đình úy là Tư Tập giải: Ứng Thiệu nói: "Xét hình ngục phải hỏi ở triều đình, cùng tranh cãi với mọi người, quan coi về quân lính và hình phục cùng bậc, cho nên gọi là Đình úy." đều nói: "Ngày xưa đất của Ngũ đế vuông một ngàn dặm, ở ngoài là chư hầu theo phục, chư hầu có chầu hoặc không, thiên tử không giữ được. Nay bệ hạ Tập giải: Sái Ung nói: "Bệ là bậc thềm, là chỗ để lên nhà trên. Thiên tử phải có bầy bôi gần gũi ở bên bậc thềm để ngăn giữ những việc không hay. Gọi là 'bệ hạ' là bầy tôi nói với thiên tử, không dám nói thẳng, cho nên xưng là kẻ dưới bậc thềm để nói với thiên tử, tỏ ý kẻ thấp nói với kẻ trên. dấy quân nghĩa dẹp giặc ác, dẹp bằng thiên hạ, trong nước thành quận huyện, pháp lệnh từ một mối, từ thời xa xưa đến nay chưa từng có, Ngũ đế cũng chẳng hơn được. Bọn thần cẩn thận bàn với quan Bác sĩ Tập giải: Hán thư bách quan biểu chép: "Bác sĩ là chức quan thời Tần, coi việc xét việc xưa nay." rằng: Thời xưa có 'thiên hoàng', có 'địa hoàng', có 'thái hoàng', 'thái hoàng' là cao nhất. Bọn thần liều chết dâng hiệu quý gọi vua là 'thái hoàng', gọi mệnh là 'chế', gọi lệnh là 'chiếu', thiên tử tự xưng là 'trẫm'. Tập giải: Sái Ung nói: "Trẫm là ta. Thời xưa trên dưới cùng xưng như vậy. Sang hèn không khác, vậy là có ý lấy cùng hiệu. Cao Dao nói với vua Thuấn rằng: 'Lời trẫm hay, nên làm theo.' Khuất Nguyên nói: "Tổ tiên của trẫm.' Đến thời Tần thì mới thiên tử chỉ xưng như thế, nhà Hán cũng noi theo không đổi." Vua Tần nói: "Bỏ chữ 'thái', chọn chữ 'hoàng', lấy hiệu vị 'đế' thời xa xưa, gọi là 'hoàng đế'. Còn lại như lời bàn." Hạ chế rằng: "Được". Xét gọi Trang Tương Vương là Thái thượng hàng. Hạ chế rằng: "Trãm nghe nói thời xưa lắm có tên hiệu mà không có tên thụy, thời xưa giữa có tên hiệu, sau khi chết thì xét việc làm để đặt tên thụy. Như thế thì con xét cha, tôi xét vua, rất là không có hay, trẫm chẳng chọn cách ấy. Từ nay về sau bỏ cách đặt tên thụy. Trẫm là hoàng đế đầu tiên, đời sau kể theo thứ tự là đời thứ hai, đời thứ ba cho đến muôn đời, truyền đến không cùng."
Thủy Hoàng xét ngũ hành xoay chuyển đầu cuối, Sách ẩn: Ý nói khí tốt của ngũ hành xoay vần vào nhau trước sau. Hán thư giao tế chí chép: "Người nước Tề là bọn Trâu Tử bàn về sự xoay vần trước sau của ngũ hành, Thủy Hoàng chọn dùng cách ấy." cho rằng nhà Chu được khí tốt của hành hỏa, nhà Tần thay nhà Chu phải có khí tốt mà nhà Chu không thắng được. Chính nghĩa: Nhà Tần cho rằng nhà Chu có khí tốt của hành hỏa, mà diệt được hành hỏa là hành thủy, cho neê xưng hành mà mà Chu không thắng được cho nhà Tần. Nay đang là lúc bắt đầu của hành thủy, Sách ẩn: Phong thiện thư chép: "Văn Công nước Tần bắt được con rồng đen, cho là có điềm lành của hành thủy, Thủy Hoàng nhà Tần nhân đó tự nói là có khí tốt của hành thủy." đổi tháng đầu năm, chầu hội chúc mừng đều đầu tháng mười. Chính nghĩa: Nhà Chu lấy tháng kiến tí làm tháng giêng, nhà Tần lấy tháng kiến hợi làm tháng giêng, cho nên đầu năm bắt đầu từ tháng mười mà làm lễ chầu hội chúc mừng. Quần áo, cờ mao, cờ tiết đều chuộng màu đen. Số đếm thì lấy số sáu làm một mối; phù, mũ đều dài sáu tấc, còn xe thì dài sáu thước, sáu thước là một bước, một cỗ xe có sáu con ngựa kéo. Tập giải: Trương Yến nói: "Hành thủy là phương bắc, màu đen, cuối là số sáu, cho nên làm phù dài sáu tấc, lấy sáu thước là một bước." Toản nói: "Hành thủy là số sáu, cho neê lấy số sáu làm tên." Tiếu Chu nói: "Một bước là lấy chân người làm số đếm, không chỉ có phép tắc của nhà Tần." Sách ẩn: Quản Tử-Tư mã pháp đều chép sáu thước là một bước. Lễ kí vương chế chép 'thời xưa tám thước là một bước'. Đổi tên sông Hà là sông Đức Thủy, cho là bắt đầu của hành thủy. Làm việc nghiêm ngặt cứng rắn, mọi việc đều xét theo hình pháp, khắt khe không có nhân nghĩa ôn hòa, sau mới hợp số thứ tự của ngũ hành. Do đó hình pháp kín kẽ, lâu ngày không tha lỏng.
Bọn Thừa tướng là Oản nói: "Chư hầu vừa phá, các đất Yên-Tề-Kinh ở xa, nếu không đặt vua thì không sao giữ được. Xin lập các người con làm vương, mong nhà vua nghe theo." Thủy Hoàng hạ lệnh bầy tôi bàn việc ấy, bầy tôi đều cho là tiện. Đình úy là Lí Tư bàn rằng: "Những con em mà Vũ Vương nhà Chu phong tước cho rất đông, nhưng sau lại xa rời, đánh diệt nhau như oán thù, chư hầu lại lại đánh giết nhau, thiên tử nhà Chu không ngăn lại được. Nay trong nước cậy vào uy linh của bệ hạ mà thành một mối, đều lập ra quận huyện, các con bầy tôi có công đều được thu tô thuế mà ban thưởng cho rất nhiều, vậy là rất dễ ngăn giữ được. Làm cho thiên hạ không có ý khác là kế yên ổn. Đặt chư hầu là việc không tiện." Thủy Hoàng nói: "Thiên hạ cùng đánh đá khổ sở không ngừng là vì có các vương hầu. Nay cậy vào tông miếu, thiên hạ vừa yên, lại dựng lại các nước là gây ra binh đao vậy. Lúc ấy mong được nghỉ ngơi, há chẳng khó sao! Đình úy nói phải."
Chia thiên hạ ra làm ba mươi sáu quận, Tập giải: Ba mươi sáu quận là Tam Xuyên, Hà Đông, Nam Dương, Nam, Cửu Giang, Chương, Cối Kê, Dĩnh Xuyên, Đãng, Tứ Thủy, Tiết, Đông, Lang Da, Tề, Thượng Cốc, Ngư Dương, Hữu Bắc Bình, Liêu Tây, Liêu Đông, Đại, Cự Lộc, Hàm Đan, Thượng Đảng, Thái Nguyên, Vân Trung, Cửu Nguyên, Nhạn Môn, Thượng, Lũng Tây, Bắc Địa, Hán Trung, Ba, Thục, Kiềm Trung, Trường Sa, cả thảy là ba mươi lăm quận, cùng quận Nội Sử là ba mươi sáu quận. Chính nghĩa: Phong tục thông chép: "Theo phép tắc của nhà Chu thì đất của thiên tử vuông một ngàn dặm, chia thành một trăm huyện, mỗi huyện có bốn quận, cho nên Tả truyện chép 'Thượng đại phu nhận huyện, Hạ đại phu nhận quận'. Thủy Hoàng bắt đầu đặt ra ba mươi sáu quận để coi xét các huyện." mỗi quận đặt quan Thú, Úy, Giám. Tập giải: Hán thư bách quan biểu chép: "Quan Thú của một quận thời Tần nắm việc trong quận, có quan Thừa, Úy coi về quân lính võ bị, có quan Giám ngự sử coi xét cả quận." Đổi gọi dân là 'đầu đen'. Mở hội uống rượu lớn. Thu lấy binh khí trong thiên hạ tụ ở thành Hàm Dương, Tập giải: Ứng Thiệu nói: "Thời xưa lấy đồng làm binh khí." hủy để làm cồng chuông, đúc thành mười hai tượng người vàng, đều nặng đến một ngàn thạch, Sách ẩn: Xét: Năm thứ hai mươi sáu có người lớn xuất hiện ở huyện Lâm Thao, cho nên hủy binh khí, đúc mà làm tượng người ấy. Hậu Hán thư của Tạ Thừa chép: "Tượng người đồng là Ông Trọng, Ông Trọng là ten của tượng người đồng." Tam phụ cựu sự chép: "Mười hai tượng người đồng đều nặng hai mươi tư vạn cân. Đặt ở trước cửa cung Trường Lạc thời nhà Hán." Đổng Trác hủy mười tượng trong đó để làm tiền, còn hai tượng vẫn còn. Thạch Quý Long dời đến thành Nghiệp, Bồ Kiên lại dời đến thành Trường An mà hủy đi. Chính nghĩa: Hán thư ngũ hành chí chép: "Năm thứ hai mươi sáu, có cả thảy mười hai người lớn dài năm trượng, chân đi giày dài sáu thước, đều mặc áo người Di-Địch, xuất hiện ở huyện Lâm Thao, do đó hủy binh khí, đúc làm tượng người ấy." Ngụy chí Đổng Trác truyện chép: "Đập phá mười tượng người đồng và cồng chuông để đúc tiền nhỏ." Quan Trung kí chép: "Đổng Trác hủy tượng người đồng, còn để lại hai tượng, dời đến trong cửa Thanh. Minh Đế nhà Ngụy muốn đem đến thành Lạc Dương, chở đến thành Bá thì nặng không chở được, sau đó Thạch Quý Long dời đến thành Nghiệp, Bồ Kiên lại dời đến thành Trường An mà hủy đi." Anh hùng kí chép: "Ngày xưa người lớn xuất hiện ở huyện Lâm Thao thì đúc nên tượng người đồng, đến thời Đổng Trác thì hủy tượng người đồng." đặt ở trong cung đình. Đặt phép lệnh cách cân đo đếm làm một mối, bánh xe dài bằng nhau, cùng một chữ viết. Đất phía đông đến biển liền nước Triều Tiên; Chính nghĩa: Biển là phía nam biển Bột đến biển Đông của các châu Dương-Tô-Đài. Ở phía đông bắc là nước Triều Tiên. Quát địa chí chép: "Nước Cao Li đóng đô ở thành Bình Nhưỡng vốn là thành Vương Hiểm quận Lạc Lãng thời Hán, là nước Triều Tiên thời xưa." phía tây đến huyện Lâm Thao, miền Khương Trung; Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Huyện Lâm Thao là châu Thao ngày nay, cũng là đáy của người Khương miền tây thời xưa, ở miền Khương Trung cách tây kinh một ngàn năm trăm năm muơi mốt dặm. Từ phía tây nam huyện Lâm Thao, phủ Phù Tùng châu Phương về phía tây đều là đất của người Khương thời xưa." phía nam đến miền cửa nhà quay mặt về phía bắc, Tập giải: Ngô đô phú chép: "Mở cửa quay mặt về phía bắc để hướng về Mặt Trời." Lưu Quỳ nói: "Ở phía nam Mặt Trời thì mở cửa quay mặt về phía bắc, tựa như ở phía bắc Mặt Trời thì mở cửa quay mặt về phía nam." phía bắc dựa vào sông Hà làm lũy, men huyện Âm Sơn đến quận Liêu Đông. Tập giải: Địa chí chép: "Quận Tây Hà có huyện Âm Sơn." Chính nghĩa: Ý nói Từ sông Hà men theo huyện Âm Sơn sang phía đông đến quận Liêu Đông, đắp thành dài để làm ranh giới phía bắc. Dời mười hai vạn nhà giàu mạnh đến ở thành Hàm Dương. Các miếu và nền đài, vườn Thượng Lâm đều đặt ở phía nam sông Vị. Vua Tần mỗi khi phá được chư hầu liền vẽ lại cung thất của các nước, rồi dựng lại ở trên dốc núi phía bắc thành Hàm Dương, Tập giải: Từ Quảng nói: "Ở phía tây bắc thành Tràng An, thời Vũ Đế nhà Hán có tên khác là thành Vị." phía nam kề sông Vị; từ cửa Ung về phía đông đến sông Kính-Vị, giữa các cung điện lại có đường lối vòng quanh liền nhau; Chính nghĩa: Miếu kí chép: "Phía bắc đến cung Cửu Tông, cung Cam Tuyền; phía nam đến cung Trường Dương, cung Ngũ Tạc; phía đông đến sông Hà; phía tây đến chỗ giao hội của sông Khiên-Vị; chiều đông tây dài tám trăm dặm, các cung rời quán rạc liền nối nhau. Áo lụa vải thêu, đất phủ thảm đỏ tía, người trong cung không đi ra ngoài, người ở đến già không muốn về, vẫn không đi khắp được." bắt được chuông, trống, người đẹp của chư hầu đều cho vào đấy. Chính nghĩa: Tam phụ cựu sự chép: "Thủy Hoàng lấy sông Hà làm cửa đông của nhà Tần, lấy sông Khiên làm cửa tây của nhà Tần, lấy một trăm năm mươi lăm cung quan làm mặt trong ngoài, có hơn một vạn gái đẹp ở hậu cung, chí lớn xông lên tày trời.
Năm thứ hai mươi bảy (năm 220 TCN), Thủy Hoàng đi tuần ở các quận Lũng Tây-Bắc Địa, đến núi Kê Đầu, Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Núi Kê Đầu ở phía đông bắc huyện Thượng Lộc châu Thành hai chục dặm, tại phía tây nam kinh sư chín trăm sáu chục dặm. Lịch Đạo Ngyên nói: "Có lẽ là tên khác của núi Đại Lũng." Hậu Hán thư Ngôi Hiêu truyện chép: "Vương Mãng chặn ở núi Kê Đầu." Là núi này. Xét: Phía tây huyện Bình Cao châu Nguyên một trăm dặm cũng có núi Kê Đầu, tại phía tây kinh sư tám trăm dặm, là núi Kê thời Hoàng Đế. qua cung Hồi Trung. Tập giải: Ứng Thiệu nói: "Cung Hồi Trung tại huyện Bình Cao quận An Định." Mạnh Khang nói: "Cung Hồi Trung ở quận Bắc Địa." Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Cung Hồi Trung tại phía tây huyện Ung châu Kì bốn chục dặm." Ý nói Thủy Hoàng đi tuần ở miền tây qua phía bắc quận Lũng Tây, từ thành Hàm Dương hướng lên phía tây bắc ra khỏi châu Ninh, đi về phía tây nam đến châu Thành, đến núi Kê Đầu, rồi về phía đông, qua cung Hồi Trung châu Kì. Dựng cung Tín ở phía nam sông Vị, rồi lại đổi cung Tín thành miếu Cực, bắt chước chòm sao Thiên Cực. Sách ẩn: Dựng cung miếu giống cung sao Thiên Cực cho nên gọi là miếu Cực. Thiên quan thư chép: "Cung giữa gọi là cung sao Thiên Cực." Từ miếu Cực làm đường thông đến núi Li; dựng điện trước cung Cam Tuyền. Đắp đường ống, Tập giải: Ứng Thiệu nói: "Đắp tường thành như ngõ phố." Chính nghĩa: Ứng Thiệu nói: "Ý nói là đắp tường ở ngoài đường xe ngựa chạy, thiên tử đi ở giữa, người ngoài không thấy được." từ thành Hàm Dương liền đến đó. Năm đó, ban tước lên một cấp cho thiên hạ. Sửa đường xe ngựa chạy. Tập giải: Ứng Thiệu nói: "Đường xe ngựa chạy là đường của thiên tử, đường này như đường cái ngày nay." Hán thư Giả Sơn truyện chép: "Nhà Tần làm đường cái ở thiên hạ, phía đông nối đất Yên-Tề, phía nam liền đất Ngô-Sở, đến miền sông hồ bờ biển, đều đến xem được. Đường rộng năm mươi bước, bên đường cách ba trượng lại trồng một cây, đắp tường dày ở ngoài, lấy vồ sắt cắm giấu ở trong, lại trồng cây tùng xanh."
Năm thứ hai mươi tám (năm 219 TCN), Thủy Hoàng đi tuần ở các quận huyện phía đông, lên núi Dịch huyện Trâu. Tập giải: Vi Chiêu nói: "Trâu là huyện thuộc nước Lỗ, có núi ở phía bắc huyện ấy." Chính nghĩa: Quốc hệ chép: "Núi Trâu Dịch cũng có tên là núi Trâu, tại phía nam huyện Trâu châu Duyện ba mươi hai dặm. Núi này cách sông Hà hơn ba trăm dặm." Dựng bia đá, nói chuyện với những kẻ sĩ học đạo Nho nước Lỗ, khắc lên đá ca ngợi công đức của nhà Tần, bàn việc phong thiện cúng tế sông núi. Chính nghĩa: Tấn Thái Khang địa kí chép: "Đắp đàn ở núi Thái để tế trời, cho thấy trời càng cao. Quét đất ở núi Lương Phủ để tế đất, cho thấy đất càng rộng. Dùng rượu đen và mâm cá để tế. Chỗ đất quét dài rộng mười hai trượng. Chỗ đàn đắp cao ba thước, có ba bậc thềm; lại dựng bia đá cao ba thước một tấc rộng ba thước ở trên núi Thái, là bia đá khắc văn của nhà Tần." Rồi bèn lên núi Thái, Chính nghĩa: Núi Thái còn có tên là núi Đại Tông, là núi lớn ở phía đông, tại phía tây bắc huyện Bác Thành châu Duyện ba chục dặm. Sơn hải kinh chép: "Trên núi Thái có nhiều ngọc, dưới núi ấy có nhiều đá." Quách Phác nói: "Từ dưới lên đến đỉnh núi Thái hết một trăm bốn mươi tám dặm ba trăm bước." Đạo thư phúc địa kí chép: "Núi Thái cao bốn ngàn chín trăm trượng lẻ hai thước, vòng quanh hai ngàn dặm, có nhiều đá ngọc cỏ thuốc, suối nước ngọt, khe nước dài, có nhà của người tiên. Lại có sáu cái hang xuyên vào lòng núi gọi là phủ quỷ thần. Từ phía trên dưới phía tây núi có hang nhìn thấy trời, vòng quanh ba ngàn dặm, là chỗ quỷ thần xét hỏi." dựng bia đá, đắp đàn làm lễ tế trời. Khi xuống núi, gặp mưa gió lớn đến, bèn nghỉ ở dưới cây, nhân đó phong cây ấy làm Ngũ đại phu. Tế đất ở núi Lương Phủ. Tập giải: Toản nói: "Vua hiền thời xưa tế trời ở núi Thái, tế đất ở núi Đình Đình hoặc núi Lương Phủ, đều là núi nhỏ ở dưới núi Thái, quét đất làm đàn, tế ở núi Lương Phủ." Chính nghĩa: Tại phía bắc huyện Tứ Thủy châu Duyện tám chục dặm. Khắc văn lên bia đá mà mình dựng, lời ấy là:
"Hoàng đế lên ngôi, đặt ra phép tắc sáng suốt, bầy tôi sửa sang cẩn thận. Vào năm thứ hai mươi sáu mới chiếm cả thiên hạ, chẳng ai không theo phục. Tự thân đi tuần xét dân đen ở phương xa, lên núi Thái này mà nhìn khắp miền cuối cùng của phương đông. Bầy tôi đi theo nghĩ nhớ công lao, xét rõ sự nghiệp, ca ngợi công đức. Cái đạo của việc trị nước là làm cho muôn vật được hòa hợp, đều có phép thường, làm cho nghĩa lớn sáng rõ, truyền cho đời sau, nối theo không đổi. Hoàng đế thấu suốt, đã bình thiên hạ, không lười việc nước, dậy sớm ngủ muộn, bày kế làm lợi lâu dài, chăm chỉ giáo hóa, răn dạy truyền bảo, gần xa đều yên, noi theo ý trên. Sang hèn chia rõ, trai gái thuận lễ, kính vâng chức phận, chiếu rọi trong ngoài, chẳng gì không trong sạch, lan đến đời sau. Giáo truyền đến không cùng, ban ra chiếu này, làm gương lâu dài."
Do đó bèn men theo biển Bột về phía đông, qua các huyện Hoàng-Thùy, Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Thành cũ huyện Hoàng tại phía đông nam huyện Hoàng châu Lai hai mươi lăm dặm, là nước Lai thời xưa." leo đến đỉnh núi Thành, lên núi Chi Phù, Tập giải: Địa lí chí chép núi Chi Phù tại huyện Thùy. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Núi Chi Phù tại phía đông huyện Văn Đăng châu Lai một trăm tám chục dặm. Núi Thành tại phía tây bắc huyện Văn Đăng một trăm chín chục dặm." Phong thiện thư chép: "Có tám vị thần, thứ năm là thần Dương Chủ, tế ở núi Chi Phù, thứ bảy là thần Nhật Chủ, tế ở núi Thành, đầu núi Thành liền biển." dựng bia đá ca ngợi công đức của nhà Tần rồi đi. Về phía nam lên núi Lang Da, rất vui mừng, ở lại đây ba tháng. Lại dời ba vạn nhà dân đầu đen đến ở dưới đài Lang Da, Tập giải: Địa lí chí chép: "Vua nước Việt là Câu Tiễn từng trị ở huyện Lang Da, dựng đài quán." Sách ẩn: Sơn hải kinh chép: "Đài Lang Da tại giữa biển Bột, có lẽ là bờ biển có núi hình như cái đài tại quận Lang Da cho nên gọi là đài Lang Da." Chính nghĩa: Quát địa chí chép: "Phía đông nam huyện Chư Thành châu Đại một trăm bảy chục dặm có đài Lang Da, là đài ngắm biển của vua nước Việt là Câu Tiễn. Phía tây bắc đài chục dặm có thành thành Lang Da thời xưa." Ngô Việt xuân thu chép: "Năm thứ hai mươi lăm thời vua Việt là Câu Tiễn, dời đô đến thành Lang Da, dựng đài quán để ngắm biển Đông, rồi hiệu lệnh các nước Tần, Tấn, Tề, Sở để giúp đỡ nhà Chu, uống máu hội thề." tha thuế cho mười hai năm. Dựng đài Lang Da, dựng bia đá khắc văn ca tụng công đức của nhà Tần để nêu rõ công đức của nà Tần rằng:
"Vào năm thứ hai mươi sáu, bắt đầu xưng hoàng đế, sửa sang phép tắc, nắn sửa muôn vật...
3. Tây Nam Di liệt truyện (vương quốc Dạ Lang)
Bản đồ Trung Quốc thời Hán với khu vực lãnh thổ Dạ Lang (đồ họa :nghiencuulichsu)
Có hàng chục quân trưởng người Di ở miền tây nam, Chính nghĩa: Ở phía nam của quận Thục. trong đó lớn nhất là quân trưởng nước Dạ Lang. Sách ẩn: Tuân Duyệt nói: “Là nước thuộc quận Kiền Vi.” Vi Chiêu nói: “Nhà Hán đặt thành huyện, thuộc quận Tang Kha.” Xét: Hậu Hán thư chép: “Nước Dạ Lang phía đông liền quận Giao Chỉ, nước này ở phía nam hồ, có quân trưởng vốn sinh ra từ cây tre, nhân đó lấy làm họ Trúc.” Chính nghĩa: Là các châu Khúc-Hiệp ở bờ nam sông lớn của châu Lư, vốn là nước Dạ Lang. Phía tây nước ấy có hàng chục quân trưởng người Mi Mạc, Chính nghĩa: Ở phía nam đất Thục xuống phía dưới về phía tây. Huyện Mi Phi ở phía bắc châu Diêu, cách tây kinh bốn ngàn chín trăm ba mươi lăm dặm về phía nam là chỗ của người rợ Mi Mạc. Sách ẩn: Là tên ấp của người Di, quân trưởng ấp này cùng họ với quân trưởng nước Điền. lớn nhất là quân trưởng nước Điền. Tập giải: Như Thuần nói: Điền, đọc là ‘điên’. Ngựa điên có từ nước này.” Sách ẩn: Thôi Hạo nói: “Sau đặt thành huyện, là chỗ mà quan Thái thú quận Việt Tủy đóng sở trị.” Chính nghĩa: Các châu Côn-Lang vốn là nước Điền, cách tây kinh năm ngàn ba trăm bảy chục dặm. Có hàng chục quân trưởng ở chỗ từ nước Điền lên phía bắc, lớn nhất là quân trưởng nước Cung Đô, người ở đây đều búi tóc, cày ruộng, có làng ấp. Ở phía tây ngoài chỗ ấy từ huyện Đồng Sư về phía đông, Sách ẩn: Hán thư chép là huyện Đồng Hương.phía bắc đến huyện Diệp Du Tập giải: Vi Chiêu nói: “Tại quận Ích Châu. Diệp, đọc là ‘diệp’.” Chính nghĩa: Có đầm Diệp ở phía bắc châu Mi hơn một trăm dặm. Huyện Diệp Du thời Hán ở phía tây đầm Trạch. Huyện Mi Phi quận Ích Châu vốn là nước thuộc Diệp Du Vương. là chỗ của người Tủy, người Côn Minh, Tập giải: Từ Quảng nói: “Quận Vĩnh Xương có huyện Tủy Đường.” Sách ẩn: Thôi Hạo nói: “Là tên hai nước.” Vi Chiêu nói: “Tủy là huyện thuộc quận Ích Châu.” Chính nghĩa: Tủy, đọc là ‘tủy’, là châu Tủy ngày nay. Côn Minh là huyện thuộc châu Tủy, có lẽ phía nam liền huyện Côn Minh, nhân đó đặt tên ấy. người ở đây đều bện tóc, dời theo bầy vật nuôi, không thường ở một chỗ, không có quân trưởng, đất rộng khoảng mấy ngàn dặm. Có hàng chục quân trưởng ở từ chỗ của người Tủy về phía đông bắc, lớn nhất là quân trưởng nước Tư-Tạc. Tập giải: Từ Quảng nói: “Huyện Tư tại quận Hán Gia. Tạc, đọc là ‘tạc’, tại quận Việt Tủy.” Sách ẩn: Phục Kiền nói: “Là tên hai nước.” Vi Chiêu nói: ” Huyện Tư thuộc quận Thục, huyện Tạc thuộc quận Việt Tủy.” Chính nghĩa: Tư, đọc là ‘tư’. Quát địa chí chép: “Châu Tạc vốn là chỗ ngoài phía tây quận Thục, là chỗ của người Miêu Khương, người Tủy. Địa lí chí chép: “Có huyện Tư.” Hoa dương quốc chí chí chép: “Núi Cung Hiệp thuộc châu Nhã vốn là núi Cung Tạc, là chỗ của người nước Cung, người nước Tạc.” Có hàng chục quân trưởng ở chỗ từ nước Tạc Đô về phía đông bắc, lớn nhất là quân trưởng nước Nhiễm Mang, Sách ẩn: Xét: Ứng Thiệu nói: “Quận Vấn Giang vốn là nước Nhiễm Mang. Đọc là ‘vô giang’ phiên.” Chính nghĩa: Quát địa chí chép: “Là chỗ của người Khương ngoài phía tây quận Thục, các châu Mậu-Nhiễm vốn là nước Nhiễm Mang. Hậu Hán thư chép là trong núi nước Nhiễm Mang có sáu nhóm người Di, bảy nhóm người Khương, chín nhóm người Đê, đều có bộ lạc.” người dân ở đây có thói ở một chỗ hoặc di chuyển, chỗ này ở phía tây của quận Thục. Có hàng chục quân trưởng ở chỗ từ nước Nhiễm Mang về phía đông bắc, lớn nhất là quân trưởng nước Bạch Mã, Sách ẩn: Là tên ấp của người rợ, là người Đê Bạch Mã. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: “Các châu Thành-Vũ ở miền Lũng Hữu đều là chỗ của người Đê Bạch Mã, quân trưởng nước ấy là người họ Dương trú ở trên núi Cừu Trì châu Thành.” đều là người Đê. Đấy đêu là người Man-Di ở ngoài phía tây nam quận Ba-Thục.
Lúc trước vào thời Uy Vương nước Sở, sai tướng quân tên là Trang Cược đem quân ngược theo sông Giang đánh lấy các nước từ quận Ba-Thục-Kiềm Trung về phía tây. Chính nghĩa: Đọc là ‘kì lược’ phiên. Các châu Lang-Côn là chỗ mà Trang Cược làm vua. Trang Cược vốn là dòng dõi của Trang Vương nước Sở. Sách ẩn: Cược, đọc là ‘cự chước’ phiên. Là em của Trang Vương nước Sở, từng làm kẻ cướp. Cược đến đầm Điền, đầm rộng ba trăm dặm, Sách ẩn: Địa lí chí chép: “Quận Ích Châu có huyện Điền Trì, có đầm ở phía tây bắc.” Hậu Hán thư chép: “Nguồn nước đầm này sâu rộng, lại đổi thành nông hẹp như dòng nước chảy ngược, cho nên gọi là đầm Điền.” bên đầm là đất bằng màu mỡ rộng mấy ngàn dặm, bèn đem quân uy hiếp lấy gộp vào nước Sở. Muốn về báo tin, nhưng gặp lúc quân nước Tần đánh lấy các quận Ba-Kiềm Trung của nước Sở, đường bị nghẽn chẳng thông, do đó quay lại, làm vua của người nước Điền, đổi áo theo thói của người ở đấy để làm kẻ đứng đầu. Thời nhà Tần thường mở đường năm thước, Sách ẩn: Là nói đường sàn rộng năm thước. Chính nghĩa: Quát địa chí chép: “Đường năm thước ở châu Lang.” Nhan Sư Cổ nói: “Chỗ ấy chật hẹp, cho nên đường chỉ rộng năm thước.” có đặt quan lại ở một số nước ấy. Được hơn chục năm thì nhà Tần mất. Kịp lúc nhà Hán nổi lên lại đều bỏ các nước ấy mà chỉ mở đường nhỏ ở quận Thục. Có người dân ở quận Ba-Thục lẻn ra buôn bán, thu mua ngựa của người Tạc, nô lệ và bò lông dài của người Bặc, Chính nghĩa: Các châu Ích-Nam Nhung ngày nay phía bắc kề núi lớn là nước Bặc xưa. Sách ẩn: Vi Chiêu nói: “Huyện Bặc thuộc quận Kiền Vi, đọc là ‘bồ bắc’ phiên. Phục Kiền nói: “Lúc trước ở kinh sư có kẻ hầu gái người Bặc.”, do đó người quận Ba-Thục giàu có.
Năm Kiến Nguyên thứ sáu (năm 135 TCN), quan Đại hành là Vương Khôi đánh nước Đông Việt, người nước Đông Việt giết vua của mình tên là Sĩnh để báo tin. Khôi nhân oai quân sai quan Lệnh huyện Bà Dương là Đường Môn đến báo cho vua nước Nam Việt biết. Vua nước Nam Việt mời Mông ăn món tương củ. Tập giải: Từ Quảng nói: Củ, đọc là ‘cũ’. Bùi Nhân xét: Hán thư âm nghĩa chép: “Cây củ giống cây lúa nhưng lá như lá cây dâu, lấy lá của nó để làm giấm tương, ngon, người quận Thục cho là món ăn quý.” Sách ẩn: Xét: Lưu Đức nói: “Cây củ như cây dâu, quả của nó dài hai-ba tấc, vị chua, lấy hạt của nó để làm tương, ngon.” Lại nói: “Cây củ leo cây khác mà lớn lên, không phải là cây gỗ. Người đất Thục ngày nay có trồng cây này, quả như quả dâu nhưng vị cay như gừng, không chua.” Lại chú rằng lá như lá cây dâu là sai. Quảng chí chép: “Quả màu đen, vị cay, trừ hơi tiêu cơm.” Mông hỏiôcs từ đâu, nói: “Theo đường sông Tang Kha ở phía tây bắc, sông Tang Kha rộng mấy dặm, Chính nghĩa: Thôi Hạo nói: “‘Tang kha’ là cọc buộc thuyền.” Hoa dương quốc chí của họ Thường chép: “Vào thời Khoảnh Tương Vương nước Sở sai Trang Cược đánh nước Dạ Lang, đem quân đến nước Thư Lan, buộc thuyền ở bờ rồi lên đánh trên đất. Đã diệt nước Dạ Lang, cho là nước Thư Lan có cọc buộc thuyền, bèn đổi tên nước ấy thành nước Tang Kha.” qua dưới thành Phiên Ngu.” Mông về đến thành Tràng An, hỏi nhà buôn đến từ quận Thục, nhà buôn nói: “Riêng quận Thục có món tương củ, lén đem nhiều ra bán ở nước Dạ Lang. Nước Dạ Lang kề sông Tang Kha, sông này rộng hơn một trăm bước, đủ để đi thuyền. Vua nước Nam Việt đem tiền của đến để sai khiến người nước Dạ Lang, phía tây đến ấp Đồng Sư, nhưng cũng không bắt người các nước ấy thần phục được.” Mông bèn dâng thư khuyên nhà vua rằng: “Vua nước Nam Việt ngồi xe lọng vàng cắm cờ tiết bên trái, có đất rộng hơn vạn dặm trải từ đông sang tây, mang tiếng là bầy tôi ở ngoài nhưng thực là chúa của một châu. Nay đem quân từ các quận Trường Sa-Dự Chương đến đánh thì đường sông có nhiều chỗ ngăn cách, khó đi. Thần trộm nghe nước Da Lang có được khoảng chục vạn quân mạnh, nếu chèo thuyền theo sông Tang Kha mà ra chỗ người ta không ngờ đến tềi cũng là một cách hay để đánh người Việt vậy.” Nhà vua nghe theo. Bèn bái Mông làm Lang trung tướng đem một ngàn người, hơn một vạn người chở đồ dùng tiền lương theo từ đường cửa Tạc quận Ba-Thục đi vào, rồi gặp vua nước Dạ Lang tên là Đa Đồng. Mông ban cho nhiều đồ dùng, tỏ uy đức để dụ, hẹn đặt ra quan lại, sai con của Đa Đồng làm quan Lệnh. Người các ấp nhỏ kề nước Dạ Lang đều ham tơ lụa của nhà Hán, lại cho là con đường mà quân nhà Hán hiểm trở nên chẳng đánh lấy mình được, nèn nghe theo lời hẹn của Mông. Mông về báo, liền lập nên quận Kiền Vi, phát lính của quận Ba-Thục sửa đường từ nước Bặc thẳng đến sông Tang Kha. Sách ẩn: Địa lí chí chép: “Nước Dạ Lang lại có sông Đồn, phía đông chảy đến huyện Tứ Hội quận Nam Hải mà vào biển, đấy là sông Tang Kha. Người quận Thục là Tư Mã Tương Như cũng nói nên đặt quận ở các nước Cung-Tạc của người Di miền tây nam. Bèn sai Tương Như làm Lang trung tướng đến dụ, cùng đến chỗ người Di miền tây nam, đặt ra một quan Đô úy, hơn chục huyện, thuộc vào quận Thục.
Vào lúc ấy, người bốn quận Ba-Thục Tập giải: Từ Quảng nói: “Là các quận Hán Trung-Ba-Quảng Hán-Thục.” mở đường đến chỗ người Di miền tây nam, chở lương ăn đến cấp. Được mấy năm mà đường chẳng thông, rất nhiều quân lính đói mệt gặp phải hơi ẩm mà chết; mà người Di miền tây nam lại nhiều lần làm phản, phát binh đến đánh cũng tổn hao không có công gì. Nhà vua lo, sai Công Tôn Hoằng đến hỏi xem việc ấy. Hoằng về báo nói là việc ấy không được lợi. Kịp lúc Hoằng làm Ngự sử đại phu là lúc lúc đang đắp thành Sóc Phương để dựa vào sông Hà đuổi rợ Hồ, Hoằng nhân đó nói người Di miền tây nam gây hại, nên tạm bỏ, dốc sức đánh nước Hung Nô. Nhà vua bèn bỏ việc đến chỗ người Di miền tây nam, chỉ đặt một quan Đô úy của hai huyện thuộc nước Dạ Lang ở miền tây nam, lại sai người quận Kiền Vi tự giữ lấy. Chính nghĩa: Sai người quận Kiền Vi tự giữ lấy mà dần dần tu sửa quận huyện của mình.
Kịp đến năm Nguyên Thú thứ nhất (năm 122 TCN), Bác Vọng Hầu là Trương Khiên đi sứ nước Đại Hạ về nói là lúc ở nước Đại Hạ có thấy vải của người quận Thục, gậy tre của của người nước Cung, Tập giải: Vi Chiêu nói: “Là tre của người huyện Cung thuộc quận Thục.” Toản nói: “Cung là tên núi, đốt tre ở đấy cao mà ống đặc, làm gậy được.” sai người hỏi đến từ đâu, nói: “Từ nước Thân Độc phía đông nam, Tập giải: Có bản Sử kí chép là nước Can Độc. Bùi Nhân xét: Hán thư âm nghĩa chép: “Còn có tên là nước Thiên Trúc, là nước của rợ Hồ có Phù Đồ.” cách khoảng mấy ngàn dặm, mua được từ nhà buôn quận Thục.” Có nggười nói là phía tây nước Cung khoảng hai ngàn dặm có nước Thân Độc. Khiên nhân đó nói to lên là nước Đại Hạ ở phía tây nam của nhà Hán rất thích đến Trung Quốc, nhưng lo người Hung Nô chặn đường đi. Nếu mở đường từ quận Thục đến nước Thân Độc lại gần mà có lợi không có hại. Do đó thiên tử liền sai bọn Vương Nhiên Vu, Bách Thủy Xương, Lữ Việt Nhân đi sứ, ra từ phía tây của chỗ người Di miền tây nam để đến nước Thân Độc. Đến nước Điền, vua nước Điền tên là Thường Khương bèn giữ lại, giúp cho hơn chục nhóm người tìm đường về phía tây. Hơn một năm đều bị người Côn Minh chặn lại, Tập giải: Như Thuần nói: “Bị người Côn Minh chặn đường.” Chính nghĩa: Người Côn Minh ở phía nam châu Tủy, là huyện Côn ngày nay. chẳng ai đến được nước Thân Độc.
Vua nước Điền nói chuyện với sứ giả của nhà Hán rằng: “Nhà Hán so với nước ta thì ai lớn hơn?” Kịp lúc đó vua nước Dạ Lang cũng hỏi như vậy. Là vì đường không thông, đều tự cho là chúa của một châu mà không biết nhà Hán rộng lớn đến nhường nào. Sứ giả về, đều nói to lên rằng nước Điền là nước lớn, đủ để thân thiết. Thiên tử cũng để ý đến nước ấy.
Kịp đến lúc vua nước Nam Việt làm phản, nhà vua sai Trì Nghĩa Hầu đến quận Kiền Vi phát quân người Di miền tây nam đi đánh. Vua nước Thư Lan sợ đi xa Sách ẩn: Thư, đọc là ‘tử dư’ phiên. Là tên nước nhỏ. Sau đặt thành huyện thuộc quận Tang Kha. thì người nước bên bắt lấy kẻ già yếu của mình, bèn dấy binh của nước mình làm phản, giết sứ giả và Thái thú quận Kiền Vi. Nhà Hán bèn sai tám viên Hiệu úy phát người có tội ở quận Ba-Thục từng đánh nước Nam Việt quay về đánh phá nước ấy. Gặp lúc nước Nam Việt đã bị phá, tám viên Hiệu úy của nhà Hán không xuống phía dưới, liền dẫn binh về đi đánh nước Thư Lan, là nước chặn đường đến nước Điền. Đã phá nước Thư Lan, rồi dẹp người Di miền tây nam đặt thành quận Tang Kha. Vua nước Dạ Lang lúc trước cậy thế của nước Nam Việt, kịp lúc quân Hán đã diệt nước Nam Việt mà quay về đánh các nước làm phản, vua nước Dạ Lang bèn vào chầu. Nhà vua cho làm Dạ Lang Vương.
Sau khi nước Nam Việt bị phá, kịp lúc quân Hán đánh diệt các nước Thư Lan-Cung Đô, lại giết vua của nước Tạc Đô, vua các nước Nhiễm Mang đều sợ hãi, xin thần phục đặt quan lại. Nhà Hán bèn lấy nước Cung Đô đặt thành quận Việt Tủy, lấy nước Tạc Đô đặt thành quận Thẩm Lê, lấy nước Nhiễm Mang đặt thành quận Vấn San, Tập giải: Ứng Thiệu nói: “Là huyện Mân Giang quận Thục ngày nay.” lấy đất của người Bạch Mã phía tây quận Quảng Hán lập nên quận Vũ Đô.
Nhà vua sai Vương Nhiên Vu đưa tin oai quân phá nước Nam Việt và người Di miền tây nam đến khuyên dụ vua nước Điền vào chầu. Vua nước Điền còn có mấy vạn quân, phía đông bắc kề mình có người các nước Lao Tẩm-Mi Mạc Sách ẩn: Lao Tẩm, Mi Mạc là hai nước có cùng họ với vua nước Điền. đều là người cùng họ giúp nhau, chưa chịu nghe theo. Người Lao Tẩm-Mi Mạc nhiều lần xâm phạm sứ giả, quan quan. Năm Nguyên Phong thứ hai (năm 109 TCN), thiên tử phát quân của miền Ba-Thục đánh diệt các nước Lao Tẩm-Mi Mạc, đem quân đến nước Điền. Lúc ấy vua nước Điền mới chịu theo hàng, cho nên không giết. Vua nước Điền rời khỏi chỗ người Di miền tây nam, đem người cả nước ra hàng, xin đặt quan lại rồi vào chầu. Do đó lấy nước Điền đặt nên quận Ích Châu, bán ấn vương cho vua nước Điền, sai lại làm vua của dân mình như trước.
Có đến hàng trăm quân trưởng của người Di miền tây nam, nhưng chỉ có vua các nước Dạ Lang-Điền nhận ấn vương. Điền là nước nhỏ mà được sủng ái nhất.
Thái sử công nói: Tổ tiên của vua nước Sở há có lộc trời chăng? Vào thời nhà Chu thì làm thầy của Văn Vương, được phong ở nước Sở. Kịp lúc nhà Chu suy mà vẫn có đất rộng năm ngàn dặm. Nhà Tần diệt chư hầu mà riêng dòng dõi của vua nước Sở còn làm vua nước Điền. Nhà Hán diệt người Di miền tây nam, nhiều nước bị mất nhưng riêng nước Điền được sủng ái. Mầm mối đến chỗ người Di miền tây nam là việc thấy tương củ ở thành Phiên Ngu, gậy tre của nước Cung ở nước Đại Hạ. Sau đó người Di miền tây nam bị chia cắt thành hai miền, Sách ẩn: Ý nói sau này người Di miền tây nam bị xua đuổi đi, rồi chia ở hai miền góc tây nam, đều thuộc quận huyện. cuối cùng đặt thành bảy quận. Tập giải: Từ Quảng nói: “Là các quận Kiền Vi, Tang Kha, Việt Tủy, Ích Châu, Vũ Đô, Thẩm Lê, Vấn Sơn.”
Sách ẩn: Thuật tán rằng:
“Ngoài cõi tây nam,
Trang Cược mở đường,
Biết nước Đại Hạ,
Bèn sai Đường Mông,
Lao Tẩm, Mĩ Mạc,
Lạ tục khác phong,
Dạ Lang lớn nhất,
Cung-Tạc xưng hùng,
Kịp đặt quận huyện,
Muôn đời ghi công.”