Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN

1. Cách mạng:

* Đường Kách Mệnh, (Nguyễn Ái Quốc, NXB Sự thật, 1982): phá cái cũ, đổi cái mới; phá cái xấu đổi ra cái tốt.

* Từ điển tiếng Việt: (Văn Tân, NXB Khoa học xã hội, 1967).

- Cuộc đấu tranh của giai cấp bị áp bức đứng lên lật đổ nền thống trị của giai cấp áp bức, phá vỡ quan hệ sản xuất cũ và xây dựng một chế độ mới và tiến bộ.

- Sự phá vỡ tổ chức cũ xấu xa để dựng lên một hệ thống mới tốt đẹp.

* Từ điển chính trị: (NXB Thông Tấn Xã – Mát-xcơ-va, 1983): sự chuyển biến sâu sắc về mặt xã hội để giải quyết những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đã lớn mạnh với quan hệ sản xuất lỗi thời làm thay đổi tận gốc rễ chế độ xã hội và đưa giai cấp xã hội mới tiến lên nắm chính quyền.

Vì sao có mâu thuẫn đó? Dựa vào loại hình, hình thái; đặt nó dưới góc độ tiếp cận vấn đề. Cách mạng thực chất là chuyển từ trạng thái chất lượng này sang trạng thái chất lượng khác; thể hiện sự biến đổi sâu sắc trong phạm vi, lĩnh vực nào đó.

2. Cách mạng xã hội: là sự thắng thế căn bản một hình thái kinh tế - xã hội này bằng một hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn (Từ điển triết học giản yếu); là sự thay đổi chế độ, chuyển chính quyền từ giai cấp này sang giai cấp khác.

Cách mạng xã hội nhằm mục đích giải quyết vấn đề căn bản là chính quyền (giành và giữ chính quyền); tính chất của mỗi cuộc cách mạng do cơ sở kinh tế - xã hội quyết định => Do yêu cầu của xã hội => giải quyết mâu thuẫn (ví dụ: cách mạng dân chủ tư sản Tây Âu (thế kỷ XVII – XVIII), cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô (1917)…

Nhiệm vụ cách mạng quy định lực lượng cách mạng – tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể và lực lượng cách mạng là những giai cấp thực hiện và thúc đẩy cách mạng phát triển.

Cách mạng xã hội chủ nghĩa khác với đảo chính:

- Đảo chính: dùng bạo lực thay đổi chính phủ do một bộ phận người hay một tập đoàn cùng một giai cấp thay thế nhau cầm quyền.

- Cách mạng xã hội chủ nghĩa có đặc điểm cơ bản là hoàn toàn biến đổi chế độ, chuyển chính quyền từ giai cấp này sang giai cấp khác.

- Cách mạng và phản cách mạng: giai cấp phản động gây ra cuộc nổi dậy chống lại giai cấp tiến bộ; lực lượng phản cách mạng chiếm được chính quyền – phản cách mạng. Nguồn gốc sâu xa đó là vấn đề quyền lợi giữa các giai cấp.

3. Cách mạng nhân dân: do các tầng lớp nhân dân rộng rãi tiến hành

4. Cách mạng dân chủ nhân dân: là cuộc cách mạng dân chủ chống đế quốc và phong kiến, xuất hiện trong và sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Động lực cách mạng dân chủ nhân dân chính là quần chúng nhân dân. Hình thức chính quyền là nhà nước dân chủ nhân dân – nền chuyên chính dân chủ cách mạng của giai cấp cách mạng.

5. Cách mạng giải phóng dân tộc: phát triển từ phong trào giải phóng dân tộc nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, để giành độc lập dân tộc; xóa bỏ áp bức – bóc lột của thực dân để thực hiện quyền tự quyết của dân tộc.

6. Cách mạng tư sản: là một cuộc cách mạng xã hội do giai cấp tư sản lãnh đạo nhằm xóa bỏ chế độ phong kiến, thiết lập sự thống trị về kinh tế - chính trị của tư sản. Lúc đầu là cách mạng dân chủ tư sản – phát triển cao dẫn tới mâu thuẫn giai cấp, lật đổ ách thống trị của tư sản. Ví dụ, cách mạng tư sản Pháp 1789 khi quần chúng tham gia đông đảo và đưa yêu sách thì gọi là “cách mạng dân chủ tư sản”. Ở nước thuộc địa – phụ thuộc, cách mạng tư sản thường đưa ra khẩu hiệu “độc lập – dân tộc”, lật đổ ách thống trị của thực dân; đưa giai cấp tư sản dân tộc phát triển cao. Cách mạng tư sản nổ ra với nhiều loại hình; trong đó loại hình tiêu biểu và phổ biến là cách mạng dân chủ tư sản.

7. Cách mạng xã hội chủ nghĩa: là loại cách mạng xã hội cao nhất, sâu sắc nhất trong lịch sử xã hội có giai cấp; thể hiện bước nhảy vọt về chất trong sự phát triển xã hội để chuyển xã hội từ hình thái tư bản chủ nghĩa sang xã hội chủ nghĩa. Động lực chính đó là giai cấp công nhân và chính đảng marxid lãnh đạo; đặc điểm cơ bản là chính quyền là sự liên minh công nhân, nông dân và trí thức, tầng lớp tiên tiến khác trong xã hội.

8. Cách mạng không ngừng: cách mạng Việt Nam là sự vận dụng chủ nghĩa Mác – Engels (đề xướng năm 1848 – 1850) về lý luận “cách mạng không ngừng”. Theo đó, giai cấp vô sản có thể thực hiện chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa và giai cấp đó nắm vai trò lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng đến khi giành được chính quyền. Tính “không ngừng” là sự thay thế nhau liên tục của các giai đoạn trong quá trình cách mạng.

Lenin phát triển tư tưởng của Mác trong lý luận về sự chuyển hóa không ngừng từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa; giữa hai giai đoạn đó không có bức tường ngăn cách với điều kiện quyền lãnh đạo thuộc về giai cấp vô sản. Lenin nhấn mạnh, một khi hoàn thành cách mạng dân chủ thì sẽ quá độ sang cách mạng xã hội chủ nghĩa, không ngừng lại giữa đường. Quá độ theo Lenin, là thời kỳ đặc biệt và nó dài – ngắn; nhiều – ít tùy thuộc thời điểm trong nước khi cái cũ chưa mất hẳn, cái mới đang hình thành.

Song trong lịch sử phát triển xã hội chủ nghĩa, khi vận dụng lý luận đó thì người ta cũng đã có khuynh hướng “tả” và “hữu”. Ví dụ, “cách mạng không ngừng” do Trosky đưa ra năm 1905 là sự xuyên tạc đối với chủ nghĩa Mác. Về lý luận, Trosky phủ nhận vai trò cách mạng của nông dân, phủ nhận tính chất dân chủ tư sản của cách mạng Nga khi đó. Chủ trương “đốt cháy giai đoạn” của ông ta đã cho thấy tư tưởng là muốn “bỏ qua” cách mạng dân chủ, trực tiếp làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trosky gắn liền vận mệnh của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong mỗi nước với nhân tố bên ngoài, với cách mạng thế giới. Bác bỏ lý luận của Lenin về khả năng thắng lợi của cách mạng xã hội trong một nước, ông ta đề xuất “xuất khẩu cách mạng” để thúc đẩy cách mạng từ bên ngoài.

Các Mác cho rằng, cách mạng vô sản muốn thắng lợi phải đồng thời nổ ra cùng một lúc ở khắp các nước tư bản, nếu nổ ra trong một nước sẽ không tránh khỏi thất bại (lý luận này thích hợp với thời kỳ chủ nghĩa tư bản đang phát triển, nhưng khi chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa thì không phù hợp).

Lenin đã chỉ ra, chủ nghĩa tư bản trở thành hệ thống trên toàn thế giới; ách áp bức – bóc lột thuộc địa của chúng thì tất yếu sẽ xảy ra mâu thuẫn; dẫn đến sự suy yếu của chủ nghĩa đế quốc trên phạm vi toàn thế giới.

=> Điều đó cho thấy cách mạng vô sản nổ ra đã chín mùi trên phạm vi toàn thế giới, nhưng do quy luật phát triển không đều về kinh tế giữa các nước đế quốc dẫn đến các nước đế quốc mâu thuẫn với nhau; từ đó giai cấp vô sản có thể lợi dụng mâu thuẫn ấy để chiến thắng nơi này hay nơi khác. Cách mạng có thể nổ ra và thắng lợi ở nước đế quốc nhưng đó là khâu yếu nhất, chẳng hạn như nước Nga.

Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam:

1. Trong cương lĩnh quốc tế cộng sản: phân loại thành 3 cuộc cách mạng trên thế giới:

- Cách mạng xã hội chủ nghĩa: diễn ra ở các nước tư bản như Anh, Pháp, Mỹ…

- Cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới: do giai cấp vô sản (công nhân) lãnh đạo ở các nước độc lập về chính trị, có nền công nghiệp phát triển đến một trình độ nhất định nhưng còn nhiều tàn tích phong kiến và vẫn bị phụ thuộc vào đế quốc bên ngoài; hay ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa còn nhiều hình thức bóc lột phong kiến cho nên nhiệm vụ giải phóng dân tộc và cách mạng ruộng đất chưa được giải quyết. (Ví dụ, Việt Nam, Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a).

- Cách mạng giải phóng dân tộc: ở các nước thuộc địa còn nhiều tàn tích phong kiến hay tiền phong kiến, kinh tế chưa phát triển, chưa có nền công nghiệp lớn. Song đề cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa thì Đại hội VI nhận định: Ở các nước thuộc địa, cách mạng dân chủ tư sản khác hẳn cách mạng dân chủ tư sản ở những các nước độc lập bởi vì nó liên quan chặt chẽ với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi đế quốc (như Việt Nam).

Ở Việt Nam, tên đầu tiên: Trong Luận cương chính trị (10-1930), cách mạng Việt Nam đầu tiên sẽ là cuộc cách mạng tư sản dân quyền. Luận cương viết: “Trong lúc đầu, cuộc cách mạng Đông Dương sẽ là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền… Tư sản dân quyền là thời kì dự bị để làm cách mạng xã hội”. Cách mạng tư sản dân quyền mà Luận cương đề cập với nội dung cụ thể của nó không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền cổ điển (tư sản lãnh đạo) mà là cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới.

Cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới: là cuộc cách mạng diễn ra dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân (vì giai cấp tư sản không có khả năng tiến hành) nhằm xóa bỏ mọi hình thức bóc lột phong kiến, mở đường phát triển công nghiệp hiện đại, xây dựng kinh tế độc lập tự chủ.

Đảng ta không coi cách mạng dân chủ tư sản và cách mạng giải phóng dân tộc là hai cuộc cách mạng đối lập với nhau mà kết hợp với nhau thành một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, bao hàm ý nghĩa sau:

- Dân tộc, dân chủ: tính chất của cách mạng.

- Nhân dân: lực lượng cách mạng.

Từ đó, suy ra nội dung của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là:

- Dân tộc: đánh đế quốc, phong kiến để giành độc lập dân tộc.

- Dân chủ: thành lập chính phủ công nông binh cách mạng, bảo vệ độc lập, xây dựng và phát triển nền kinh tế dân tộc dân chủ nhân dân => tạo điều kiện để chuyển lên xây dựng chế độ mới.

Đến Đại hội II năm 1951, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tạo tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Luận cương vạch ra phương hướng tiến lên của cuộc cách mạng tư sản dân quyền là tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa (2 giai đoạn chiến lược của cách mạng Đông Dương). Một vấn đề đặt ra: sau khi cách mạng dân tộc dân chủ thắng lợi thì tiến hành ngay cách mạng xã hội chủ nghĩa, hay phải dừng lại để phát triển tư bản chủ nghĩa sau đó mới tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vận dụng lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lenin vào tính chất thời đại thực tiễn Việt Nam, Luận cương khẳng định sau khi cách mạng dân tộc dân chủ thắng lợi thì phải làm luôn cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Tuy Luận cương ra đời khi cách mạng xã hội chủ nghĩa mới thành công đầu tiên ở Liên Xô, thực tiễn và thời gian chưa đủ để đi sâu, nghiên cứu cách mạng xã hội chủ nghĩa ở các nước lạc hậu. Tuy vậy, sự vận dụng sáng tạo lý luận về cách mạng dân chủ và cách mạng giải phóng dân tộc của Lenin vào điều kiện cụ thể của xã hội thuộc địa nửa phong kiến thì đó chính là sự kết hợp hai loại hình cách mạng vào điều kiện cụ thể trong thời đại mới sau cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga thành công. Từ đó, dự kiến của Luận cương (1930) của Đảng đã trở thành sự thật lịch sử. Điều đó chứng tỏ đường lối và dự kiến con đường phát triển của cách mạng Việt Nam có đầy đủ cơ sở khoa học.

Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng tiếp tục hoàn chỉnh thêm những luận điểm của Luận cương 1930: Trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không thể tách rời và ở nước ta khi giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã bắt đầu.

CHƯƠNG II: NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH CHẤT NGUYÊN TẮC VỀ CHIẾN LƯỢC CỦA CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN VIỆT NAM

Nguyên tắc chiến lược: nhân tố có tính chất quyết định hàng đầu.

1. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

2. Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc – phong kiến; khẩu hiệu độc lập dân tộc, người cày có ruộng.

3. Xác định đầy đủ, đúng đắn vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân trong việc xây dựng liên minh công nông.

4. Xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi để đảm bảo thắng lợi của cuộc cách mạng.

5. Cách mạng Việt Nam theo chủ nghĩa quốc tế chân chính, là bộ phận không thể tách rời của cách mạng thế giới.

1. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

a. Cơ sở lý luận:

Cương lĩnh khẳng định: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì không còn con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức bóc lột, nhân dân lao động thoát khỏi ách nô lệ. Chính cương vắn tắt cũng khẳng định: cách mạng Việt Nam là cách mạng tư sản dân quyền, nhằm chống đế quốc và phong kiến, làm cho Việt Nam độc lập, dựng ra chính phủ công nông và “đi tới xã hội cộng sản”. Tuy còn sơ lược, ngắn gọn nhưng văn kiện đó đã đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất của cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta. Và nó được coi là cơ sở cho Luận cương chính trị (tháng 10-1930).

Tiếp đến, Luận cương chính trị 1930 khẳng định, con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn từ cách mạng dân tộc dân chủ sang cách mạng xã hội chủ nghĩa, bỏ qua tư bản chủ nghĩa (kết hợp độc lập dân tộc – chủ nghĩa xã hội).

b. Lý do:

* Phù hợp quy luật:

- Phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại; cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới, cần phải đồng minh.

- Vấn đề dân tộc gắn với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân với chủ nghĩa xã hội, không mâu thuẫn với nhau.

- Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, ách thống trị của đế quốc bao trùm khắp thế giới, giai cấp công nhân toàn thế giới đấu tranh vì mục tiêu xã hội chủ nghĩa gắn với độc lập dân tộc. Điều đó đã trở thành trào lưu cách mạng thống nhất, chống chủ nghĩa đế quốc.

- Vấn đề đặt ra không chỉ ở các nước thuộc địa mà đặt ngay đối với các nước tư bản chủ nghĩa.

- Muốn độc lập thực sự chỉ có xây dựng chủ nghĩa xã hội.

* Phù hợp với yêu cầu thực tiễn:

Việt Nam là nước thuộc địa nửa phong kiến, có sự cấu kết giữa đế quốc – phong kiến thống trị để áp bức nhân dân lao động; Vì thế, chống đế quốc để giải phóng dân tộc, chống phong kiến mang dân chủ đến cho nhân dân; muốn độc lập thực sự chỉ có con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

c. Sự vận dụng trong thực tiễn:

- 1930 – 1954: chia làm 3 giai đoạn nhỏ

+ 1930-1939: thực hiện cùng lúc hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến. Trong giai đoạn này sẽ chia thành 2 giai đoạn nhỏ: 1930 – 1931 và 1936 – 1939

# 1930-1931: thực hiện chủ trương của Đảng về vấn đề dân tộc – dân chủ, thể hiện rõ trong Cao trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh. Từ tháng 1 – tháng 5/1930, phong trào đấu tranh (bãi công, biểu tình) của công – nông bắt đầu diễn ra; đến sau ngày 1/5/1930 thì lên Cao trào; đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh (tháng 9/1930). Sau khi đánh bại bọn địch, nhân dân lập chính quyền cách mạng; thực hiện các quyền dân chủ cho nhân dân (ban bố quyền dân chủ, chia ruộng đất cho nông dân, đưa chữ Quốc ngữ vào phát triển văn hóa) – thực hiện song song nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến; nhưng do tư tưởng “đào tận gốc, trốc tận rễ trí, phú, địa, hào” nên làm cho sức mạnh đoàn kết của quân chúng suy giảm => thất bại.

# 1936-1939: là đang thực hiện độc lập dân tộc, nhưng chủ yếu nhấn mạnh dân chủ (đòi quyền dân chủ cho nhân dân). Do sự ra của các Mặt trận nhân dân mà hoạt động dân chủ bùng lên mạnh mẽ, qua phong trào “Đông Dương đại hội”. Trong phong trào này, nhân dân thực hiện nhiều hình thức dân chủ mới: biểu tình – bãi công, nghị trường, báo chí… để nhằm mục đích đòi “tự do, cơm áo, hòa bình” cho nhân dân.

+ 1939-1945: Đặt nhiệm chống đế quốc lên hàng đầu nhưng vẫn chống phong kiến. Từ sau Hội nghị Trung ương Đảng VII và VIII, nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt lên hàng đầu để phù hớp với tình hình thế giới: chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Trong Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII, Đảng đặt mạnh vấn đề giải phóng dân tộc lên hàng đầu (có chống phong kiến), lập Mặt trận Việt Minh để trực tiếp lãnh đạo cách mạng; cách mạng Việt Nam sẽ là khởi nghĩa vũ trang (bạo lực cách mạng), nhưng được tiến hành từng bước một: từ khởi nghĩa từng phần => tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945.

Khi Nhật đầu hàng Đồng minh, Đảng cho rằng thời cơ đã đến nên quyết định Tổng khởi nghĩa nhanh, gọn trong 14 ngày – trước khi Đồng minh kéo vào. Ngày 14/8, Đảng phát “Quân lệnh số 1”, kêu gọi nhân dân khởi nghĩa. Hội nghị Tân Trào tại Tuyên Quang (trong chiến khu Trần Hưng Đạo) đã lập Ủy ban Mặt trận Giải phóng, lãnh đạo khởi nghĩa trong cả nước. Từ 14 – 28/8/1945, khởi nghĩa nổ ra trên các địa phương cả nước (nhất là ở các thành phố lớn) – địch tan rã hoàn toàn, chính quyền phong kiến họ Nguyễn sụp đổ (30/8/1945). Ngày 2/9/1945, nước Việt Nam dân chủ hòa ra đời.

+ 1945-1954: Tiếp tục thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc để giữ độc lập dân tộc và chính quyền cách mạng. Theo đó, ta thực hiện cùng lúc 2 nhiệm vụ quan trọng:

* Xây dựng chính quyền cách mạng: ngày 25/11/1945, Đảng ra Chỉ thị kháng chiến kiến quốc với nội dung quan trọng là xây dựng chính quyền các cấp từ Trung ương đến Địa phương, mở rộng Mặt trận Việt Minh và đề ra kế hoạch công tác về chính trị, kinh tế, văn hóa… Ngày 6/1/1946, nhân dân Việt Nam Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa 1; ra kế hoạch cụ thể để khắc phục 3 khó khăn của nhân dân là đói, dốt và tài chính.

* Bảo vệ chính quyền cách mạng: đấu tranh ngoại giao khôn khéo, có sách lược để “từng bước” đẩy lùi quân thù ra khỏi nước ta – chiến lược “thêm bạn bớt thù”. Đồng thời chính phủ có chiến lược đẩy lui bọn nội phản trong nước, giữ yên chính quyền mới thành lập.

Ngày 19/12/1946, Đảng (lúc này rút vào hoạt động bí mật) phát động Toàn quốc kháng chiến. Về sau để bảo toàn lực lượng, quân dân rút sâu vào vùng rừng núi để lập căn cứ địa (rút lui có chiến lược) – kháng chiến lâu dài với Pháp. Bằng chiến thắng Việt Bắc 1947, quân dân Việt Bắc đã phản công đánh bại chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của Pháp, buộc chúng rút về thế bị động về chiến lược. Khi Pháp thực hiện kế hoạch Revers “khóa chặt biên giới Việt – Trung”, ta chủ động mở chiến dịch Biên giới 1950 với Pháp. Kết quả, ta đánh tan 2 binh đoàn mạnh nhất của Pháp, khai thông biên giới với Trung Quốc. Thắng lợi của chiến dịch 1950 đã làm Pháp lún sâu hơn nữa vào thế bị động; thế và lực của ta tăng lên đáng kể; quân dân Việt Nam chủ động mở các chiến dịch ở trung du – miền núi, dùng “du kích chiến” để đánh tan quân địch. Với kế hoạch tài tình của Bác Hồ và Võ Nguyên Giáp về phân tán lực lượng địch, quân dân ta chủ động tiến công trên 5 hướng chiến lược – phá sản bước đầu kế hoạch Navarre. Chiến dịch Điên Biên Phủ - đỉnh cao của chiến tranh Việt – Pháp, đã đánh tan âm mưu xâm lăng của Pháp và buộc chúng ngồi vào bàn ký Hiệp định Geneve.

- 1954 – 1975: kết hợp độc lập dân tộc – chủ nghĩa xã hội trong kháng Mỹ cứu nước.

Đảng thực hiện xen kẽ hai nhiệm vụ song song:

- Miền Bắc quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội

- Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ

Hai nhiệm vụ này được tiến hành đồng thời, song song trong cùng 1 nước; khi đó Đảng đề ra chiến lược – sách lược phù hợp, đáp ứng yêu cầu lịch sử xã hội, nguyện vọng của nhân dân

Năm 1960, Đại hội III đề cập 2 nhiệm vụ chiến lược – có quan hệ khăng khít và không tách rời nhau.

Về lý luận: 1954 – 1975 là thời kỳ hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ để tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Về thực tiễn, miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội => hoàn thành nốt dân tộc dân chủ ở miền Nam, thống nhất đất nước.

Quan hệ hai miền Nam – Bắc là quan hệ tiền tuyến – hậu phương. Điều này thể hiện trong Đại hội III năm 1960. Đại hội khẳng định: Nhiệm vụ tiến hành CM XHCN ở miền Bắc là “nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta; miền Nam là nhiệm vụ quyết định trực tiếp với giải phóng dân tộc => Hai nhiệm vụ cùng làm đồng thời, cùng lúc. Theo Lenin: “hậu phương vững chắc quyết định 50% thắng lợi của cuộc chiến”. Quan hệ hai miền là gắn bó, có tính chiến lược: giải phóng miền Nam tạo đà, điều kiện thuận lợi để xây dựng CNXH ở miền Bắc. Miền Nam là tiền tuyến, quyết định thắng lợi của cách mạng; miền Bắc xây dựng CNXH tạo lực giúp miền Nam giành thắng lợi. Quan hệ hậu phương – tiền tuyến là quan hệ biện chứng; thúc đẩy sự phát triển – kìm hãm phong trào giải phóng dân tộc.

Mác thì xã hội có hai mặt đối lập – quan hệ biện chứng không ngang nhau, là hai cái riêng biệt. Nếu biết kết hợp => thành thể thống nhất. Trong Đại hội III, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là quyết định; miền Bắc thực hiện nhiệm vụ hậu phương lớn với cách mạng miền Nam. Đại hội cũng nhấn mạnh, giải phóng dân tộc miền Nam là mục tiêu quan trọng đối với cách mạng dân tộc dân chủ Việt Nam

Xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc là chủ nghĩa cộng sản thời chiến; không theo quy luật kinh tế, không đặt hạch toán lên hàng đầu; kinh tế bao câp trong chiến tranh. Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội để tạo sự chuyển biến kinh tế, bảo vệ độc lập dân tộc và đạt nhiều thành tựu đáng kể:

- Đạt thành tựu bước đầu trong quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội

- Đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ

- Miền Bắc có vai trò là hậu phương chi viện cho chiến trường miền Nam

- Miền Bắc làm quan hệ quốc tế với nhân dân Lào, Campuchia

- Xã hội miền Bắc thay đổi căn bản về quan hệ sản xuất, xã hội dân chủ, chính quyền

· Hạn chế:

- Miền Bắc thực hiện mục tiêu tiến nhanh, mạnh lên chủ nghĩa xã hội để giải quyết đời sống nhân dân (thay đổi quan hệ sản xuất, tư liệu sản xuất và vấn đề ruộng đất; đưa dân vào hợp tác xã nông nghiệp) – về sau phải bỏ hình thức hợp tác xã (1960) => không phù hợp với thực tiễn xã hội miền Bắc.

- Đảng quá máy móc trong việc áp dụng hình thức xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ngoài, không phù hợp thực tiễn Việt Nam, chưa hiểu bản chất của chủ nghĩa xã hội. Cơ sở, nền tảng của Việt Nam rất thấp; ăn – mặc còn không đủ. Ở Liên Xô, Lenin - Stalin dựa vào tình hình thực tế trong nước và gom họ vào làm ăn tập thể - Việt Nam bắt chước (do xóa bỏ tư bản chủ nghĩa) bằng cách: nông nghiệp thì đưa nông dân vào ruộng đồng lớn thật nhiều trong khi nhà nước chưa đủ sức cơ giới hóa nông nghiệp, làm nhanh và không theo tuần tự (nhảy vọt); áp dụng nguyên si và máy móc của Xô – Trung (gom công nghiệp nặng vào, chú trọng tập thể mà ít khi tư nhân). Kim Ngọc “cởi trói” bằng cách khoán sản phẩm nông nghiệp (1967) – bị Đảng kỷ luật. Xây dựng chủ nghĩa xã hội được hay không tùy thuộc vào trách nhiệm người lãnh đạo; làm trong thử nghiệm phải nhìn thực tiễn mà rút ra bài học kinh nghiệm cho mình.

2. Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc – phong kiến, khẩu hiệu độc lập dân tộc, người cày có ruộng

a. Cơ sở lý luận:

- Chính cương, sách lược vắn tắt (2-1930).

- Luận cương chính trị (10-1930).

=> Đều khẳng định 2 nhiệm vụ chiến lược có mối liên hệ mật thiết với nhau. Thực chất vấn đề dân tộc ở các nước thuộc địa là vấn đề nông dân - Đánh đuổi đế quốc, lật đổ phong kiến, giành độc lập dân tộc, người cày có ruộng.

b. Lý do:

- Từ trước đến nay, một phong trào dân tộc thực sự bao giờ cũng bao hàm nội dung dân chủ. Trong quá trình phát triển cách mạng thế giới, nhiều nhà lý luận cách mạng cho rằng phong trào dân tộc bao giờ cũng gắn với nội dung dân chủ. Để giải quyết vấn đề dân tộc thì phải đấu tranh chống áp bức – giải phóng dân tộc.

- Đặc trưng cơ bản ở các nước thuộc địa là có sự câu kết giữa đế quốc và phong kiến, làm nảy sinh các mâu thuẫn sau:

+ Mâu thuẫn dân tộc Việt Nam với đế quốc, tay sai.

+ Mâu thuẫn nhân dân với phong kiến.

- Đế quốc là kẻ thù của dân tộc, đồng thời tước đoạt quyền tự do và khát vọng dân chủ cho nên phải giải phóng dân tộc, đồng thời đòi quyền tự do dân chủ cho nhân dân.

- Phong kiến ở nước thuộc địa là tay sai của đế quốc nên chống phong kiến là nhiệm vụ cách mạng dân chủ và xuất phát từ chính yêu cầu của cách mạng giải phóng dân tộc để phục vụ cho mục đích giải phóng dân tộc.

* Về mặt lý luận: thực chất vấn đế dân tộc thuộc địa là vấn đề nông dân. Ở Việt Nam, thành phần chủ yếu là nông dân nên khi tham gia cách mạng, quyền lợi của họ phải được đảm bảo. Với một nước Việt Nam có khoảng 90% lao động là nông dân (vấn đề sâu xa là ruộng đất) – vấn đề “tam nông” được đặt ra (vườn – ao – chuồng).

* Về mặt thực tiễn: nông dân chiếm đa số và bị đế quốc bóc lột nên giải phóng dân tộc trước hết là giải phóng nông dân; vừa mang tính dân chủ vừa thể hiện tính dân tộc.

c. Sự thể hiện trong thực tiễn:

- 1930-1945:

+ 1930-1931: chống đế quốc – phong kiến cùng một lúc; tiêu biểu là Cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh. Bắt đầu từ tháng 1, phong trào đấu tranh của công – nông đã phát triển mạnh mẽ; tháng 5 thì trở thành cao trào và đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh. Bằng cuộc biểu tình của nông dân ở huyện Hưng Nguyên (bị Pháp đàn áp), quần chúng đã đánh sập từng mảng của phong kiến – đế quốc; giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của phong kiến – thực dân. Sau khi đã giải phóng được độc lập dân tộc; mặc dù chưa có chủ trương của Đảng về thành lập chính quyền mới, nhưng nhân dân đã nhanh chóng thành lập chính quyền mới và thực thi các quyền dân chủ của nhân dân. Do sai lầm về đường lối (triệt tiêu trí, phú, địa, hào) nên chính quyền mới chỉ lập ra được vài tháng rồi bị giặc đàn áp dã man => thất bại. Tuy thất bại, nhưng để lại bài học kinh nghiệm về cách thực hiện đúng vấn đề kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ: chống đế quốc – chống phong kiến (thực hiện song song và đồng thời); cách giành và giữ chính quyền (Lenin từng nói: giành chính quyền đã khó, nhưng giữ chính quyền ngày càng khó hơn), về xây dựng Mặt trận để tập hợp lực lượng thành một khối thống nhất.

Về sau, cách mạng rời vào thời kỳ khó khăn và đã bắt đầu có bước phục hồi trở lại. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần 1 năm 1935 đã xác nhận sự phục hồi hoàn toàn của các chi bộ, cơ quan Đảng; từ đó phong trào cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn mới: giai đoạn đấu tranh dân chủ mà đỉnh cao là cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939 ở Việt Nam. Với nhiều hình thức khác nhau, phong trào này chứng tỏ nhân dân đã nắm được quyền dân chủ của mình (tạm gác chống đế quốc – phong kiến ra một bên).

Năm 1939 – 1945 đánh dấu bước chuyển biến chiến lược của Đảng, chuyển từ vấn đề dân chủ sang dân tộc – đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu; nhiệm vụ chống phong kiến có thực hiện – nhưng làm một cách cầm chừng. Trước tình hình thế giới có biến chuyển lớn (Mặt trận nhân dân chống phát xít thành lập, cách mạng khoa học kỹ thuật ra đời), Hội nghị Trung ương VIII năm 1941 khẳng định quyết tâm chống đế quốc, giải phóng dân tộc là trên hết bằng cách tạm gác khẩu hiệu: ““Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu: “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian cho dân cày nghèo”. Hội nghị đã nêu ra 6 nhiệm vụ bức thiết cho cách mạng lúc này như sau:

- Đặt vấn đề dân tộc lên hàng đầu.

- Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, tịch thu ruộng đất của đế quốc - Việt gian chia cho dân cày nghèo

- Thành lập Mặt trận Việt Minh

- Chớp thời cơ

- Quyền tự quyết của dân tộc

- Lập chính quyền mới

Như vậy, Nghị quyết VIII đã thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ: chống đế quốc - phong kiến; qua thất bại ở phong trào dân chủ 1936 - 1939 thì Đảng đặt giải phóng dân tộc lên hàng đầu, chống phong kiến phục vụ đắc lực cho chống đế quốc.- được thực hiện từng bước. Sau một thời gian chuẩn bị lực lượng về chính trị - quân sự, cách mạng Việt Nam đã lớn mạnh và làm tiền đề để bắt đầu cuộc cách mạng tháng Tám.

Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp và xâm lược Việt Nam; Đảng thấy đây là điều kiện tốt nên đã ra Chỉ thị "Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" (12/3/1945), hình thành nên Cao trào kháng Nhật cứu nước; bắt đầu khởi nghĩa từng phần để tạo bước đệm, nguồn lực cho cuộc cách mạng sắp tới. Khi Nhật đầu hàng (15/8/1945), Đảng cho rằng tình thế cách mạng (chủ quan, khách quan) lúc này đã chín mùi nên chớp thời cơ tiến hành khởi nghĩa. Chớp thời cơ là nghệ thuật, làm đúng lúc và chọn đúng thời điểm để làm; quá sớm hay quá muộn đều thất bại. Hơn nữa, việc chớp thời cơ được như thế đó là kết quả của sự chuẩn bị, tập hợp lực lượng và áp dụng phương pháp bạo lực cách mạng trong kinh nghiệm cách mạng Việt Nam - điều đặc biệt nhất trong việc vận dung chủ nghĩa Marx - Lenin vào cách mạng nước ta.

- 1945-1975:

+ 1945-1954: Đảng ta chủ trương chống đế quốc là nhiệm vụ cấp bách, về sau mới chống phong kiến. Sau khi giành độc lập ít lâu, nước ta rơi vào tình thế cực kỳ khó khăn. Để đưa đất nước thoát khỏi tình cảnh đó, Đảng ta chủ trương phục hồi đất nước để có tiềm lực chống lại đế quốc – nhiệm vụ cấp bách với nước ta khi đó. Trong nước, Đảng củng cố chính quyền mới; thi hành chính sách chống đói – dốt – tài chính để củng cố trong nước; bên ngoài thì dùng sách lược hòa hoãn – nhân nhượng có quy tắc để từng bước đẩy lùi từng kẻ thù ra khỏi nước ta để thực hiện mục tiêu cuối cùng là chống Pháp để giải phóng dân tộc.

Để chống đế quốc Pháp hiệu quả, quân dân ta có sự chuẩn bị về mọi mặt – tạo tiềm lực mới cho cuộc chiến. Về quân sự, ta tích cực xây dựng lực lượng vũ trang; củng cố 3 thứ quân và thiết lập hệ thống căn cứ địa – hậu phương vững chắc; thực hiện phương châm: đánh lâu dài; với cách tác chiến là du kích chiến với nửa vận động chiến. Về kinh tế - chính trị, ta chuyển nền kinh tế sang kinh tế thời chiến; thành lập liên minh 3 nước Đông Dương. Về chống phong kiến, chính phủ ra sắc lệnh giảm tô, tịch thu ruộng đất của Việt gian và đế quốc cho nông dân; năm 1953 thì tiến hành cải cách ruộng đất – chia ruộng đất lại cho nông dân.

Nhờ sự chuẩn bị chu đáo nên quân dân ta đánh bại địch trên nhiều chiến trường. Từ chiến thắng Việt Bắc, chiến thắng Biên Giới 1950 thì ta đánh càng mạnh, địch càng suy yếu và lâm vào thế bị động chiến lược. Chiến cuộc Đông – Xuân 1953 – 1954 và thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ đã kết thúc âm mưu xâm lược của Pháp, buộc chúng ngồi vào bàn đàm phán Geneve năm 1954.

+ 1954-1975: chủ yếu vẫn là giải phóng dân tộc, phong kiến là thứ yếu

Sau hiệp định Geneve, Mỹ - Diệm âm mưu phá hoại cách mạng miền Nam, biến vùng này thành thuộc địa kiểu mới. Trước tình thế đó, Đảng ta xác định đường lối cách mạng của hai miền:

Miền Nam: Vẫn còn dưới ách thống trị của đế quốc (từ Pháp chuyển sang Mỹ)

Miền Bắc: hoàn toàn giải phóng khỏi ách đế quốc và phong kiến, hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Miền Bắc hòa bình giải phóng, nhưng luôn phải đối phó với âm mưu mở rộng chiến tranh phá hoại của Mĩ.

* Giai đoạn 1954 - 1965: là giai đoạn miền Bắc đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, làm hậu phương vững chắc cho cách mạng miền Nam. Để thực hiện, miền Bắc tiến hành cải cách ruộng đất (chống phong kiến), cải tạo xã hội để khôi phục lại tiềm lực kinh tế sau chiến tranh – tạo chỗ dựa vững chắc cho tiền tuyến miền Nam. Còn miền Nam thì chủ trương củng cố lực lượng, tái lập căn cứ để kháng giặc. Cho đến 1965, miền Nam đánh bại 2 chiến lược chiến tranh của Mỹ và giành nhiều thắng lợi vang dội.

* Giai đoạn 1965 – 1975: hai miền cùng kháng Mỹ. Khi Mỹ tiến hành các chiến lược chiến tranh với quy mô tinh vi, tàn bạo; quân dân hai miền vẫn chiến đấu chống giặc; đồng thời hỗ trợ nhau (viện trợ Bắc – Nam) cùng chiến đấu, kết quả là giành thắng lợi trọn vẹn trong năm 1975.

4. Xây dựng khối liên minh công nông, đảm bảo quyền lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân và đảm bảo cho cách mạng thắng lợi

a. Cơ sở lý luận:

- Theo Các Mác: nếu không có sự hợp xướng của phong trào nông dân trong trong tất cả các quốc gia nông dân, bản đơn ca của cách mạng vô sản sẽ trở thành bài ai điếu.

Theo Angghen, việc Đảng xã hội chủ nghĩa giành chính quyền đã trở thành một việc không xa, nhưng muốn giành được chính quyền thì trước hết Đảng đó phải chuyển từ thành thị về nông thôn, phải có thế lực ở nông thôn.

Lenin cho rằng công nông là nền tảng đảm bảo cho cách mạng dân tộc dân chủ thắng lợi triệt để, là nguyên tắc chuyên chính vô sản, một tất yếu đối với tất cả cuộc cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo.

Vận dụng lý luận trên, Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh đã xác định: công nông là gốc cách mệnh.

b. Cơ sở thực tiễn:

Giai cấp công nhân Việt Nam đa số xuất thân từ nông dân nên có nhiều điều kiện thuận lợi; giai cấp công nhân tuy có tinh thần cách mạng triệt để nhưng số lượng ít phải cần liên minh để tăng sức mạnh.

Giai cấp nông dân Việt Nam là thành phần chủ yếu trong cơ cấu giai cấp, là lực lượng cơ bản làm nên lịch sử, văn hóa, truyền thống dân tộc nhưng lại không có hệ tư tưởng độc lập nên yêu cầu cơ bản của họ là độc lập dân tộc và dân chủ nên có tinh thần cách mạng triệt để, luôn hăng hái tham gia cách mạng. Yêu cầu đặt ra là phải có một lực lượng khởi xướng.

c. Vai trò của liên minh công nông thể hiện trong thực tiễn cách mạng Việt Nam:

- Là điều kiện quan trọng để xác lập và đảm bảo quyền lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân và chính đảng vô sản.

- Giúp giai cấp công nhân khắc phục hạn chế về số lượng đồng thời tăng sức mạnh, mở rộng quyền lãnh đạo đối với các giai tầng xã hội khác.

d. Sự vận dụng trong thực tiễn:

+ 1930-1954:

Đặc điểm công nhân Việt Nam trước khi Đảng ra đời:

* Đặc điểm chung: Là giai cấp tiên tiến nhất; có tinh thần cách mạng triệt để, có tổ chức kỷ luật cao và có tinh thần quốc tế

* Đặc điểm riêng:

- Kế thừa truyền thống đấu tranh của dân tộc, giai cấp công nhân là giai cấp kiên cường bất khuất.

- Chịu hai tầng áp bức bóc lột: Phong kiến-đế quốc nên động cơ, nghị lực, tính triệt để cách mạng của GCCN được nhân lên gấp bội

- GCCN VN ra đời trước GCTS, có đảng lãnh đạo luôn giữ được sự đoàn kết, thống nhất và vai trò lãnh đạo của mình.

- GCCN VN xuất thân từ nông dân, có mối liên hệ máu thịt với nhân dân,là điều kiện thuận lợi thực hiện liên minh Công – nông.

Tuy thế, nhưng trình độ công nhân không cao, khoa học và ý thức giác ngộ thấp; vì vậy phải lien minh với các tầng lớp khác mới bảo đảm thực hiện sứ mệnh lãnh đạo cách mạng.

Đặc điểm giai cấp nông dân Việt Nam:

Lao động, chiếm số đông và cần cù, chịu khó; có truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm; nhưng hạn chế là sở hữu nhỏ, không hệ tư tưởng độc lập và kỹ thuật canh tác lạc hậu – nông dân không thể tự giải phóng minh => cần có sự liên minh công – nông.

Nguyễn Ái Quốc có vai trò rất lớn trong việc này: Người đã đưa thanh niên về nước, lập Hội VNCMTN và mở các lớp huấn luyện cho thanh niên; đến 926 – 1928 thì Hội đã chủ trương “vô sản hóa”, làm công nông tin vào chủ nghĩa Mác – Lenin. Khi Đảng ra đời, Đảng xác định cần có sự liên minh giữa các lực lượng mà nòng cốt là công – nông với đội tiên phong là Đảng Cộng sản. Khi cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh diễn ra, với khẩu hiệu “Nhà máy về tay thợ thuyền!”, “ruộng đất về tay dân cày!”… lần đầu tiên công – nông liên minh với nhau thành một lực lượng thống nhất do công nhân lãnh đạo. Giữa lúc cao trào đang diễn ra mạnh mẽ, trong Luận cương 1930 của Trần Phú có viết: “Giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vô sản là động lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nông dân là động lực mạnh của cách mạng”.

Đến cao trào 1936-1939 và 1939-1945, liên minh công – nông đã phối hợp ăn ý rất mạnh mẽ. Trong cao trào 1936-1939, công – nông tham gia mít tinh, biểu tình và đưa “dân nguyện” đến phái đoàn Pháp sang Đông Dương. Thông qua các cuộc đấu tranh đó, Đảng đã đã tập hợp được đông đảo quần chúng tham gia; đồng thời giúp tầng lớp nhân nhân giác ngộ về con đường cách mạng của Đảng, mặt trận dân tộc thống nhất củng cố, liên minh công nông ngày càng vững chắc. Đến thời kỳ 1939-1945, với việc lập Mặt trận Việt Minh thì Đảng củng cố một cách vững chắc liên minh công – nông, đưa liên minh này chiến đấu đến thắng lợi tháng Tám 1945.

Đến thời kỳ 1945 – 1975, Đảng càng củng cố vững chắc liên minh này. Thời kháng Pháp, Đảng chủ trương tập hợp công – nông – trí thành liên minh thống nhất tấn công địch trên mọi mặt trận. Chính đường lối kháng chiến đúng đắn của Hồ Chí Minh và của Đảng đã dẫn dắt nhân dân ta làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Đến thời kháng Mỹ, Sau hiệp định Giơ-ne-vơ (từ 1954 – 1965), Miền Bắc được giải phóng đã bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế và làm nhiệm vụ hậu phương lớn cho chiến trường Miền Nam. Miền Nam đặt dưới sự kiểm soát cuả chính quyền Ngô Đình Diệm và tiến hành nhiều cuộc kháng chiến để giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. Đến thời kỳ 1965 – 1975, hai miền hợp sức kháng Mỹ, cứu nước.

5. Xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi để đảm bảo cho cách mạng phát triển thắng lợi:

Nắm vững nguyên tắc: muốn đánh thắng kẻ thù mạnh thì phải xây dựng lực lượng cách mạng mạnh nên ngay sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ việc cần thiết phải xây dựng một mặt trận thống nhất.

a. Vì sao trong quá trình tiến hành cách mạng cần phải có Mặt trận Dân tộc thống nhất? Vì thực tế xã hội Việt Nam ngoài hai giai cấp cơ bản còn có các giai tầng khác cho nên có tinh thần yêu nước, cách mạng; Việt Nam luôn phải đối phó với những kẻ thù mạnh hơn.

b. Vấn đề Mặt trận Dân tộc thống nhất thể hiện trong thực tiễn:

- 1930-1935: sự thành lập các Mặt trận dân tộc đầu tiên sau khi Đảng ra đời. Khi Đảng ra đời vào năm 1930, để trực tiếp lãnh đạo cách mạng trong tình thế bị địch chống phá thì Đảng lập Hội Phản đế Đồng minh (18/11/1930) là Mặt trận Dân tộc thống nhất đầu tiên của cách mạng nước ta. Trong cương lĩnh, Hội phản đối cách tổ chức của Luận cương tháng 10/1930 và đồng tình với Cương lĩnh đầu tiên của Đảng; phân tích sâu sắc thái độ của tầng lớp tư sản, tiểu tư sản, trí thức… với cách mạng; tuy nhiên đến tháng 2/1931 thì lại bác bỏ Tổ chức Mặt trận dân tộc đầu tiên này – cách mạng rơi vào thời kỳ khó khăn chưa từng thấy sau 1931 – 1935.

- 1936-1939: thành lập các Mặt trận dân tộc trong thời kỳ vận động dân chủ. Do ảnh hưởng từ những tư tưởng tiến bộ mà Mặt trận Nhân dân Pháp đưa sang, Đảng ta thành lập Mặt trận Dân tộc phản đế Đông Dương tại Thượng Hải – Trung Quốc ngày 26/7/1936; năm 1938 đổi thành Mặt trận Dân chủ Đông Dương (thành phần tham gia đa dạng, nhiều tầng lớp – giai cấp; phương pháp tổ chức đa dạng, phong phú)

- 1939- 1945: trước tình hình thế giới, Hội nghị Trung ương Đảng lần VII năm 1941 (kế thừa các Hội nghị trước) đã phân tích thái độ các giai cấp, tình hình Việt Nam và quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để trực tiếp lãnh đạo cách mạng cho đến ngày thắng lợi tháng Tám 1945.

- 1945-1951: Sau khi chính phủ mới được thành lập, ta đã thành lập Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam gọi tắt là Hội Liên Việt được thành lập (29-5-1946) nhằm thu hút các tầng lớp nhân dân tham gia kháng chiến, kiến quốc.

- 1951-1955: Ngày 7-3-1951, Mặt trận Liên Việt được thành lập từ sự thống nhất của hai tổ chức Mặt trận Việt MinhHội Liên Việt và Ủy ban toàn quốc của Mặt trận Liên Việt gồm 53 thành viên do cụ Tôn Đức Thắng làm chủ tịch. Mặt trận Liên Việt đã góp phần động viên công sức của toàn quân, toàn dân lập nên chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ, đưa đến việc ký kết hiệp định Giơnevơ năm 1954 công nhận chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt nam.

- 1955-1960: hai miền chịu sự chỉ đạo chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

- 1960-1975 (Miền Bắc-Miền Nam): hai miền thành lập hai Mặt trận khác nhau: Miền Bắc là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Miền Nam là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam => cùng hợp sức đánh Mỹ xâm lược.

- 1975-nay: đất nước thống nhất, dưới sự chỉ đạo chung của Mặt trận Dân tộc thống nhất.

6. Cách mạng Việt Nam luôn được coi là bộ phận không thể tách rời của cách mạng thế giới

a. Cơ sở lý luận:

- Trong thời đại cách mạng vô sản, chủ nghĩa quốc tế và đoàn kết quốc tế đã trở thành điều tất yếu, khách quan, được khái quát trong những khẩu hiệu có tính chiến lược:

+ Các Mác và Angghen cho rằng: Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại.

+ Lenin: Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại.

+ Hồ Chí Minh: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công.

- Cách mạng Việt Nam không chỉ để lại bài học cho nhân dân Việt Nam mà còn ảnh hưởng đến phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

b. Vấn đề đoàn kết quốc tế được thể hiện trong thực tiễn:

Sau 1930 – 1931, Hội nghị XI của Quốc tế Cộng sản công nhận, Đảng Cộng sản Đông Dương là bộ phận trực thuộc Quốc tế Cộng sản. Tháng 2/1932, Quốc tế Cộng sản cho phép Đảng Cộng sản Pháp, Ấn Độ ủng hộ Đảng Cộng sản Đông Dương; lập Ủy ban vận động tòa án và giải phóng tù chính trị ở Đông Dương. Trong Đại hội Đại biểu lần thứ nhất năm 1935, với sự kiện Lê Hồng Phong được cử làm Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản thì Đảng Cộng sản trở thành đội ngũ kiên cường của cách mạng vô sản thế giới.

Năm 1936 – 1938, Đại hội VII Quốc tế Cộng sản ra chủ trương chống phát xít năm 1935 thì lập tức, nhiều Đảng Cộng sản đã ủng hộ và dẫn tới thành lập các Mặt trận nhân dân chống phát xít, đòi tự do, cơm áo, hòa bình. Hưởng ứng Mặt trận Nhân dân Pháp do Đảng Cộng sản Pháp khởi xướng năm 1936, Đảng Cộng sản Đông Dương mở phong trào “Đông Dương đại hội”, kêu gọi nhân dân đấu tranh chống phát xít, ủng hộ và hòa vào phong trào chung của cách mạng vô sản thế giới chống phát xít.

Năm 1939 – 1945, Hội nghị Trung ương lần thứ VII – VIII xác định, nhiệm vụ chính của cách mạng nước ta là giải phóng dân tộc nên hết sức tranh thủ Trung Quốc, vận động Việt kiều, tiếp xúc đại diện Mỹ đấu tranh giành độc lập. Với sự thành lập Mặt trận Đông Dương độc lập đồng minh, Lào độc lập đồng minh và Campuchia đồng minh đã tạo nên liên minh đoàn kết giữa 3 nước cùng chống kẻ thù chung là Pháp, sau là Pháp – Nhật để tiến tới độc lập dân tộc hoàn toàn.

Năm 1945 – 1954 là đoàn kết quốc tế thể hiện ở: đoàn kết với thế giới, tranh thủ sự ủng hộ của Trung Quốc và Liên Xô về độc lập ở Việt Nam (vai trò của Hồ Chủ tịch, vì Việt Nam thời gian đầu thì đơn độc – bị đế quốc bao vây nhiều phía). Năm 1948, Việt Nam giúp đỡ cách mạng Lào, Campuchia tổ chức nền chính trị, lập khu giải phóng và các lực lượng vũ trang. Tháng 1/1950, Việt Nam quan hệ ngoại giao với các nước, các lực lượng tiến bộ trên thế giới trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng. Sau sự kiện đó, Trung Quốc và Liên Xô công nhận độc lập của Việt Nam và quan hệ hữu nghị với nước ta. Tháng 3/1951, nhờ thành lập Mặt trận Liên Việt (Việt – Lào – Canpuchia), Việt Nam tranh thủ được sự giúp đỡ, ủng hộ của Trung Quốc và Liên Xô; 2 nước láng giềng để chống giặc. Đồng thời, Việt Nam đã quan hệ ngoại giao với các nước tư bản. Với Mỹ, Hồ Chí Minh tiếp phái đoàn OSS đầu tiên của A. Patti (1944) dẫn tới bắt đầu thiết lập quan hệ với Mỹ. Năm 1947, Hồ Chủ tịch viết thư cho Tổng thống Mỹ để tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ với cách mạng Việt Nam. Tháng 1/1947, Việt Nam lập hội Hữu nghị Việt – Mỹ để kêu gọi sự ủng hộ của Mỹ; tháng 9/1947, lập Hội ái hữu Việt – Mỹ cũng để kêu gọi sự ủng hộ của Mỹ. Đối với Pháp, Việt Nam mong muốn cộng tác với Pháp để chấm dứt chiến tranh trên cơ sở tình nghĩa, hữu nghị và bình đẳng. Năm 1946 – 1947, Hồ Chí Minh 8 lần gửi thư đến chính phủ Pháp (phóng thích tù binh Pháp), nhưng Pháp không đáp lại.

Năm 1954 – 1975, Việt Nam tranh thủ sự đồng tình - ủng hộ của Trung Quốc, Liên Xô bằng cuộc tiếp xúc Trung – Việt (1961) và Việt – Trung (1966). Tháng 3/1965 thì lập Liên minh Đông Dương kêu gọi sự ủng hộ của thế giới tiến bộ cho cách mạng Việt Nam. Hội nghị cấp cao 3 nước Đông Dương năm 1970 kêu gọi 3 nước đoàn kết chống thù chung; Việt Nam giúp quân dân Lào, Campuchia đánh Mỹ; ủng hộ các phong trào kháng chiến ở Chile, Angeria chống giặc chung. Năm 1968 là Việt Nam đấu tranh với Mỹ ở hòa đàm Paris. Trong thời gian hòa đàm (đấu tranh 4 bên), Việt Nam tận dụng mọi thời cơ, sách lược để kêu gọi sự ủng hộ của quốc tế với cách mạng Việt Nam.

Từ 1975 đến nay, Việt Nam mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước – tiến tới đa phương hóa, đa dạng hóa hình thức ngoại giao. Từ văn kiện Đại hội VI, VII trở đi; Việt Nam nhấn mạnh sẽ “hợp tác bình đẳng (đặc trưng của cách mạng xã hội chủ nghĩa), cùng có lợi; làm ban với các nước trên thế giới”. Hội nghị Trung ương 3 thể hiện sự sáng tạo trong phát triển đất nước để phù hợp với nền độc lập tự chủ, sự đa dạng của chủ nghĩa xã hội và sự sáng tạo không mệt mỏi trong lao động của nhân dân – tạo thành tựu cho đất nước. Từ 1996 – 2011, Đại hội IX vẫn khẳng định, Việt Nam sẵn sàng làm bạn với các nước trên thế giới; Đại hội XI thể hiện sự phát triển đồng bộ về mọi mặt, trong đó thực thi đối ngoại rất rộng mở: quan hệ hữu nghị, hợp tác song phương; quan hệ Đảng – chính quyền…

c. Bài học kinh nghiệm từ vấn đề đoàn kết quốc tế theo thực tiễn:

- Phải xác định rõ mối quan hệ tác động của cách mạng thế giới với Việt Nam và ngược lại.

- Đoàn kết, hợp tác trên cơ sở độc lập, tự chủ; tự lực tự cường.

- Chú trọng xây dựng khối liên minh giữa ba nước Đông Dương.

- Đoàn kết toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa và tranh thủ sự giúp đỡ của phong trào công nhân, phong trào cộng sản quốc tế.

- Trên cơ sở sự thay đổi của thế giới, Đảng chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ, linh hoạt và mềm dẻo.

7. Vấn đề chính quyền trong quá trình cách mạng Việt Nam

a. Cơ sở lý luận:

Mac – Lenin cho rằng, vấn đề chính quyền là vấn đề cơ bản của cách mạng, xuất hiện đầu tiên với cụm từ “thành lập chính phủ công nông”; vận dụng trong hoàn cảnh khác, chiến lược khác.

- Cách mạng bất hợp pháp -> mục tiêu (sách lược của Đảng)

- Giành chính quyền mới -> công cụ xóa cái cũ, xác lập cái mới

- Giữ chính quyền là khó hơn

b. Sự thể hiện trong thực tiễn:

- Trong cách mạng tháng Tám năm 1945:

Vấn đề chính quyền được đặt ra trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930. Trong Cương lĩnh, Đảng đã đề nhiệm vụ là “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập”. Chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày. “Dựng ra chính phủ công-nông-binh”. Đi theo sách lược trên, phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh khi giành thắng lợi đã thành lập chính quyền sơ khai do công nhân lãnh đạo. Chính phủ này thực hiện mọi quyền dân chủ cho nhân dân. Dù bị Pháp đàn áp, nhưng Cao trào đã có ý nghĩa to lớn: “Đảng đã thực hiện được khối liên minh công nông, do đó đã giành được quyền lãnh đạo cho giai cấp công nhân” (Trường Chinh – Tiến lên dưới lá cờ Đảng, NXB Sự thật, Hà Nội, 1963, trang 9).

Đến thời kỳ 1936 – 1939, trước sự chuyển biến của tình hình thế giới thì tại Ban chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần 2 (7/1936), lần 3 (3/1937), lần 4 (9/1937), lần 5 (3/1938 ) đề ra chủ trương mới về chính trị, tổ chức và hình thức đấu tranh mới phù hợp với tình hình cách mạng nước ta. Ban chấp hành Trung ương xác định: “cách mạng ở Đông Dương vẫn là cách mạng tư sản dân quyền, phản đế và điền địa, lập chính quyền của công – nông bằng hình thức Xôviết, để dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa”. (Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, trang 139). Trong thời kỳ này, Đảng đã vận động hàng triệu quần chúng, nhất là quần chúng công – nông và tập hợp họ trong một Mặt trận thống nhất => hình thành lực lượng chính trị vững mạnh.

Vào thời kỳ 1939 – 1945, Đảng thành lập Mặt trận Việt Minh để tập hợp lực lượng thành một khối thống nhất – lực lượng chính trị vững mạnh; đồng thời thành lập lực lượng vũ trang đầu tiên của nước ta, Khi Nhật đảo chính Pháp, Đảng ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”; kêu gọi quần chúng nhanh chóng khởi nghĩa. Nhật đầu hàng, Đảng chớp thời cơ tiến hành khởi nghĩa nhanh, gọn trong 14 ngày – thắng lợi, lập nhà nước mới.

- 1945-1946: thời kỳ xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Sau cách mạng, nước ta ở tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” (khó khăn bên ngoài – bên trong), nhưng đã giải quyết nhanh chóng, củng cố lòng tin vào nhân dân để cùng họ chống giặc ngoại xâm. Chính phủ đã nhiều lần đổi tên: Ủy ban Dân tộc Giải phóng, Chính phủ Lâm thời, Chính phủ 3 phái và Chính phủ liên hiệp kháng chiến.

- 1946-1954: chính quyền mới tổ chức chuẩn bị mọi mặt để kháng Pháp. Về quân sự thì xây dựng lực lượng vũ trang – với 3 thứ quân vững mạnh; phát triển kinh tế thời chiến; cải cách ruộng đất để cải thiện đời sống nông dân – đưa họ vào cuộc chiến và phát triển văn hóa – giáo dục để phục vụ cho cuộc chiến. Chính phủ cũng thiết lập ngoại giao với nhiều nước: Liên Xô, Trung Quốc, Triều Tiên, Tiệp Khắc, CHDC Đức… để củng cố sự ủng hộ của họ với cuộc chiến tranh chính nghĩa ở Việt Nam.

- 1954-1975:

* Thời kỳ 1954 – 1965:

+ Miền Bắc: củng cố chính quyền để tiến tới Hiệp thương thống nhất 1956 (củng cố bộ máy chính quyền; các cơ quan cấp cao và ban ngành). Năm 1959, miền Bắc cho ra Hiến pháp 1959 và được Quốc hội khóa III ban hành năm 1960; thay đổi lại vị trí một số cơ quan tiêu biểu trong Quốc hội. Sau khi chính quyền mới ra đời, chính quyền này tiến hành cải cách ruộng đất, cải tạo xã hội và củng cố lực lượng – đánh bại thổ phỉ để bảo vệ chính quyền

+ Miền Nam: chưa có chính quyền – chính quyền ở đây là chính quyền Sài Gòn. Khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, tổ chức này như một chính quyền bán chính thức quản lý các vùng giải phóng, tổ chức quản lý người dân.

* Thời kỳ 1965 – 1975: hai miền cùng đánh Mỹ; riêng miền Nam thì vì yêu cầu của tình hình mới nên đã lập Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam – chính quyền chính thức ở miền Nam, thay thế Mặt trận trong vấn đề quân sự, chính trị, đặc biệt là ngoại giao.

- 1975-nay: đất nước thống nhất, chính phủ Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa VI thống nhất – bầu ra chính phủ Việt Nam thống nhất năm 1976. Năm 1980, chính phủ ra bản Hiến pháp mới quy định chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, ngoại giao. Sau Đổi mới 1986, chính quyền từng bước hoàn thiện về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ của từng cơ quan trong chính quyền. Hiến pháp 1992 ra đời khẳng định sự đổi mới về mọi mặt của chính quyền (mở thêm một số cơ quan mới, mở rộng quyền hạn của một số cơ quan ban ngành – cơ quan cấp cao, người đứng đầu các cơ quan đó…)

CHƯƠNG III: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC TRONG CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN VIỆT NAM

1. Kiên trì đánh lâu dài, chủ động tạo tình thế, thời cơ cách mạng; lợi dụng tình thế và thời cơ để giành thắng lợi.

2. Chiến lược tiến công và phòng ngự; giữa tiến công và biết thắng từng bước trong cách mạng dân tộc dân chủ.

3. Vấn đề chính quyền trong cách mạng dân tộc dân chủ. (Đã đề cập phần trên)

1. Kiên trì đánh lâu dài, chủ động tạo tình thế, thời cơ cách mạng; lợi dụng tình thế và thời cơ để giành thắng lợi.

a. Kiên trì con đường cách mạng lâu dài:

Vì vị trí địa chiến lược đặt trong mối quan hệ khu vực và thế giới, Việt Nam luôn là đối tượng của các thế lực mạnh hơn mình.

Thế nào là kiên trì con đường cách mạng lâu dài? Không phải là trường kì mai phục, bị động chờ đợi mà phải luôn phát huy cao độ nỗ lực chủ quan của toàn dân, chủ động tạo tình thế, lợi dụng tình thế, sáng tạo thời cơ và lợi dụng thời cơ, tạo bước đột biến nhảy vọt.

b. Thế nào là tình thế cách mạng?

Lenin cho rằng tình thế cách mạng là một trạng thái xã hội đặc biệt khi mà:

+ Quần chúng bị áp bức bóc lột không thể sống như trước.

+ Kẻ thống trị không thể thống trị như trước được nữa.

=> Khi đó cách mạng sẽ thắng lợi; giai cấp lãnh đạo hoàn toàn có khả năng chủ động tạo tình thế, kiên trì vận động quần chúng làm cách mạng.

c. Thời cơ cách mạng:

Khi điều kiện khách quan và chủ quan đã chín mùi => chớp thời cơ giành thắng lợi.

Đảng cách mạng có thể chủ động sáng tạo thời cơ bằng cách:

+ Chủ động chăm lo, xây dựng lực lượng.

+ Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.

+ Khi có cơ hội thuận lợi, Đảng phải sáng suốt, nhạy bén để đẩy cách mạng phát triển thành cao trào.

d. Vấn đề thời cơ trong cách mạng dân tộc dân chủ:

* Thời cơ trong phong trào cách mạng 1930-1931:

Tình thế cách mạng: Do quần chúng nhân dân bị áp bức bóc lột nặng nề khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bùng nổ.

Phong trào diễn ra qua các giai đoạn:

+ Mở đầu: tháng 1-5.

+ Cao trào: tháng 5-9 (Ngày 1-5-1930, tình thế cách mạng đã chín mùi, thời cơ xuất hiện).

+ Thoái trào: tháng 9-1930 đến tháng 1-1931.

Thời cơ chỉ xuất hiện ở Nghệ - Tĩnh nhưng toàn quốc chưa chín.

* Thời cơ trong cách mạng tháng Tám 1945:

Tình thế cách mạng: Nhật đảo chính Pháp => kẻ thù không còn thống trị được nữa, Đảng lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù để phát động cao trào kháng Nhật cứu nước.

Quần chúng nhân dân đã được tập dượt qua các cao trào 1930-1931, 1936-1939.

Thời cơ trong cách mạng tháng Tám 1945 diễn ra khi đã hội tụ đủ điều kiện khách quan, chủ quan và các tầng lớp trung gian.

=> Chớp thời cơ: trong một thời gian rất ngắn giành chính quyền trước khi quân Đồng minh kéo vào.

* Trong kháng chiến Pháp (1945-1954) vấn đề không rõ.

* Trong kháng chiến chống Mĩ (1954-1975):

Thời cơ xuất hiện trong phong trào Đồng khởi (1959 – 1960). Do chính sách “tố cộng – diệt cộng”; bình định các vùng nông thôn làm nhân dân mâu thuẫn với Mỹ - Diệm – mâu thuẫn lên đỉnh điểm. Cách mạng nổ ra ở nông thôn miền Nam, khâu yếu nhất trong chính sách thống trị của Mỹ ở miền Nam – hình thức là bạo lực cách mạng; khác với thời kỳ 1954 – 1957 là đấu tranh chính trị để thực thi nghiêm chỉnh Hiệp định Geneve.

Năm 1973 – 1975, sau khi Hiệp định Paris được ký kết và Mỹ rút về nước – Sài Gòn suy yếu không còn khả năng chống lại; lúc này thế và lực của ta mạnh hơn địch – thời cơ đã đến. Khi miền Bắc viện trợ mạnh vào miền Nam, quân dân ta dốc toàn lực đánh bại Sài Gòn để giải phỏng miền Nam.

2. Chiến lược tiến công và phòng ngự; tiến công và biết thắng từng bước trong cách mạng Việt Nam

a. Khi bàn về chiến tranh cách mạng:

- Lenin đã nói chỉ có tiến công, phòng ngự là con đường chết.

- Hồ Chí Minh:

“Phải nhìn cho rộng, suy cho kĩ

Kiên quyết không ngừng thế tiến công”.

“Tấn công, phòng thủ nhanh như chớp

Chân lẹ tài cao ắt thắng người”.

- Lê Duẩn: tiến công là chiến lược, phòng ngự là sách lược; phòng ngự là chuẩn bị, củng cố lực lượng.

* Thực tiễn:

Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa và phát huy những tư tưởng quân sự đó để giải quyết đúng mối quan hệ giữa tiến công và phòng ngự; giữa tiến công và biết thắng từng bước trong quá trình cách mạng:

+ Khởi nghĩa vũ trang:

- Đảng đã xác định khởi nghĩa là nghệ thuật, nguyên tắc chủ yếu là tiến công, phòng ngự là con đường chết.

+ Việt Bắc (1947): chủ động phản công, buộc Pháp chuyển từ đánh nhanh thắng nhanh sang đánh lâu dài với ta. Chủ trương của Đảng Cộng sản là chưa đánh, khi Pháp tấn công thì sẽ chủ động phản công, phương châm là toàn dân kháng chiến và đánh lâu dài (thắng từng bước).

+ Vấn đề bạo lực trong cách mạng Việt Nam: Muốn bạo lực được trước hết phải có chính trị kết hợp vũ trang. Năm 1945: chính trị + bán vũ trang (gậy gộc, giáo mác). Kháng Pháp là du kích chiến, đến 1950 thì mới chủ động tấn công. Năm 1951-1952, quay lại du kích chiến. Điều đó, đã tạo sự chuyển hóa lực lượng giữa ta và địch (đánh lâu dài để đẩy Pháp vào thế bị động).

- Để tiến công thì phải được chuẩn bị đầy đủ.

- Con đường tiến công từng bộ phận, từng mặt => toàn diện và tổng tiến công. Đồng thời phải biết rút lui đúng lúc để bảo toàn lực lượng tạo điều kiện để tiến công dưới hình thức khác.

- Trong thực tiễn về mặt quân sự có khi phải phòng ngự - đó là chiến thuật mang tính tạm thời, thực chất không chủ động tìm đánh địch, nếu địch đánh thì ta phản công.

b. Điều kiện để tiến công:

- Nắm vững và vận dụng đúng lý luận về khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng:

+ Khởi nghĩa phải dựa vào cao trào của quần chúng có sự lãnh đạo của chính đảng.

+ Chỉ khởi nghĩa khi kẻ thống trị hoang mang, dao động, tan rã tột độ.

+ Sử dụng kết hợp nhiều hình thức khởi nghĩa như chiến tranh du kích, khởi nghĩa vũ trang quần chúng, chiến tranh cách mạng.

* Kiên trì con đường cách mạng lâu dài với tư tưởng chiến lược tiến công:

+ Xác định đúng đắn phương hướng, chọn đúng mục tiêu tiến công => làm thay đổi so sánh lực lượng, cục diện cách mạng.

+ Biết tạo thời cơ.

+ Tạo sự phát triển tuần tự => Nhảy vọt => Giành thắng lợi cuối cùng.

* Giải quyết đúng mối quan hệ giữa thế và lực cách mạng.

* Phải xác định đúng kẻ thù chính của cách mạng trong suốt quá trình và trong từng thời kì, nắm vững quan điểm so sánh lực lượng một cách khoa học.

Tóm lại, bài học cần rút ra: trong khởi nghĩa vũ trang chiến tranh nhân dân, tư tưởng chiến lược nhất quán là phải tiến công nhưng trong tác chiến đơn thuần về quân sự thì có cả tiến công lẫn phòng ngự, có cả rút lui hay rút lui chiến lược => Nhưng phải đúng lúc.

3. Nghệ thuật tiến công từng bước có mối quan hệ hữu cơ với tư tưởng chiến lược tiến công

a. Để thực hiện đòi hỏi:

+ Bộ tham mưu và cơ quan lãnh đạo phải luôn nắm được âm mưu, thủ đoạn, chính sách của kẻ thù để tổ chức lực lượng cách mạng để đánh bại chúng.

+ Giành thắng lợi từng trận, thắng lợi trên lĩnh vực này để thúc đẩy lĩnh vực khác => Tạo tiền đề cho thắng lợi tiếp theo ở trình độ cao hơn, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.

b. Thực tiễn:

* Trong cách mạng tháng Tám 1945: Đi từ khởi nghĩa từng phần, từng địa phương => tổng khởi nghĩa giành thắng lợi. Khi khởi nghĩa từng phần phát triển thì nó đẩy điều kiện đi đến chín mùi => Tạo thời cơ. Khi thời cơ đến, chớp thời cơ khởi nghĩa.

* Trong kháng chiến chống Pháp:

- 1946-1948:

+ Chuẩn bị xây dựng lực lượng.

+ Phương châm: du kích chiến => làm thất bại kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Pháp, buộc Pháp chuyển chiến lược.

- 1948-1950: Kết hợp du kích chiến với vận động chiến để tạo chuyển biến tương quan so sánh lực lượng => Tạo thế và lực mới (bị động sang chủ động; trong tình thế bị động => mở rộng ra bên ngoài, nhận được sự ủng hộ của cách mạng thế giới để tạo uy thế vững mạnh, tạo sự cân bằng thế và lực giữa ta và địch).

- 1950-1954:

+ 1951-1952: Với thế và lực mới => giành và giữ thế chủ động trên chiến trường chính.

+ 1953-1954: Với chiến cuộc Đông Xuân và chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử thì ta đã đánh thắng từng bước và giành thắng lợi hoàn toàn.

* Trong kháng chiến chống Mĩ:

- 1954-1960: Đấu tranh chính trị không dùng bạo lực và đến Đồng Khởi là khởi nghĩa từng phần để giành thắng lợi, hình thành 3 vùng chiến lược.

- 1961-1973: Đánh bại từng kế hoạch chiến lược chiến tranh của Mĩ, kết hợp đấu tranh quân sự với ngoại giao.

- 1973-1975: Thế và lực của ta cân bằng, Đảng quyết định dốc toàn bộ lực lượng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

MỘT SỐ VẤN ĐỀ KẾT LUẬN

1. Để tiến hành cách mạng điều quyết định đầu tiên là vận dụng đường lối; xác định đường lối đúng cũng chính là đảm bảo cho sự lãnh đạo cách mạng của Đảng đi đến thắng lợi.

2. Đường lối cách mạng của Đảng ta là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lenin vào thực tiễn để khai thác động viên, tập hợp mọi lực lượng, hạn chế đến mức thấp nhất mọi trở lực.

Khoét sâu đến mức cao nhất chủ yếu nhược điểm của đối phương => chuyển yếu thành mạnh, lấy ít thắng nhiều.

3. Nhờ có đường lối đúng đắn thì mới xác định phương châm, tìm ra bước đi, phương pháp và vận dụng nghệ thuật lãnh đạo cách mạng, tổ chức thực hiện.