5. Bài thơ TRẠI ĐẦU XUÂN ĐỘ :
寨頭春渡 TRẠI ĐẦU XUÂN ĐỘ
渡頭春草綠如煙, Độ đầu xuân thảo lục như yên,
春雨添來水拍天。 Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên.
野徑荒涼行客少, Dã kính hoang lương hành khách thiểu,
孤舟鎮日擱沙眠。 Cô chu trấn nhật các sa miên.
* Chú Thích :
- ĐỘ 渡 : Độ nầy có 3 chấm thủy 氵bên trái, nên có nghĩa là đi ngang qua nước (sông, hồ, ao, biển). Danh từ ĐỘ ĐẦU 渡頭 : là Nơi để đi ngang qua sông, ta gọi là BẾN ĐÒ. XUÂN ĐỘ 春渡 là Bến đò xuân.
- THỦY PHÁCH THIÊN 水拍天: là Nước vổ trời. Trong cảnh sông nước bao la, ta thấy những đợt sóng lăn tăn như vổ vào tận chân trời.
- DÃ KÍNH 野徑 : Con đường đi ngoài ngoại ô, là Đường đồng trống vắng.
- TRẤN NHẬT 鎮日 : là Suốt ngày, Cả ngày.
- CÁC 擱 : Có bộ THỦ 扌là Tay bên trái, nên có nghĩa là Đặt, Để, Kê, Gác. Trong bài thơ có nghĩa : Chiếc đò nằm gác lên trên bãi cát vì không có khách sang sông.
* Nghĩa Bài Thơ :
BẾN ĐÒ XUÂN ĐẦU TRẠI
Cỏ xuân trên bến đò xanh biếc như sương khói, cộng thêm với mưa xuân phơi phới nên những sóng nước lăn tăn như vổ tận chân trời. Con đường hoang vắng ở ngoại ô ít khách vãng lai, nên con đò đơn lẻ suốt ngày nằm gác lên trên cát mà ngủ.
Cảnh bến đò vắng khách trên bến sông xuân vắng lặng, đẹp một cách nên thơ đầy thi vị của cuộc sống êm ả ở thôn quê, càng trở nên yên ắng hơn với con đò như nằm ngủ yên trên bãi cát vì không có khách sang sông !
* Diễn Nôm :
BẾN ĐÒ XUÂN ĐẦU TRẠI
Trên bến đò xuân sắc cỏ tươi,
Mưa xuân phơi phới nước ngang trời.
Khách xuân thưa thớt đường xuân vắng,
Đò nhỏ nằm trơ cát ngủ vùi !
Lục bát :
Cỏ xanh như khói bến xuân,
Thêm mưa xuân vổ sóng lưng ngang trời.
Đường xuân thưa thớt vắng người,
Đò xuân trơ cát ngủ vùi sáng trưa !
Đỗ Chiêu Đức