3. Bài thơ LOẠN HẬU ĐÁO CÔN SƠN CẢM TÁC .
LOẠN HẬU ĐÁO CÔN SƠN CẢM TÁC 亂後到崑山感作
Nhất biệt gia sơn kháp thập niên, 一別家山恰十年
Quy lai tùng cúc bán tiêu nhiên. 歸來松菊半翛然
Lâm tuyền hữu ước na kham phụ, 林泉有約那堪負
Trần thổ đê đầu chỉ tự liên. 塵土低頭只自憐
Hương lý tài qua như mộng đáo, 鄉里纔過如夢到
Can qua vị tức hạnh thân tuyền. 干戈未息幸身全
Hà thời kết ốc vân phong hạ, 何時結屋雲峰下
Cấp giản phanh trà, chẩm thạch miên 汲澗烹茶枕石眠
* CHÚ THÍCH :
Côn Sơn : Một ngọn núi ở xã Chí Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (Bắc Việt), trên núi có động Thanh Hư, dưới có cầu Thấu Ngọc, đều là thắng cảnh (theo sách Quảng Dư Chí). Đời Trần, Trúc Lâm thiền sư dựng am ở đây, và trạng nguyên Lý Đạo Tái (tức sư Huyền Quang) sau khi từ chức trở về nhập thiền và trụ trì chùa Ân Tứ ở núi này. Triều Trần, quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn Trãi, thường ngâm thơ uống rượu ở núi Côn Sơn sau khi từ chức vì can gián Hồ Quý Ly chuyên quyền mà không được. Tác giả từng thừa hưởng cơ ngơi của ngoại tổ.
1. GIA SƠN家山 : Nhà ở trên núi, thay vì nói GIA HƯƠNG là Quê Hương, thì ông nói là GIA SƠN vì Quê hương của ông là Vùng Núi.
2. KHÁP 恰 : Phó Từ chỉ Vừa Vặn, Đúng Lúc.
3. NA KHAM 那堪 : Đây là từ BẠCH THOẠI lẫn trong VĂN NGÔN, tức là Văn nói lẫn trong Văn Viết. Tiếng Hán Hiện Đại vẫn còn sử dụng từ nầy. Có nghĩa : Làm sao mà..., Làm sao có thể...
NA KHAM PHỤ : Làm sao mà Phụ rãi cho đành. Làm sao mà có thể quên được !
4. TÀI QÚA 纔過 : Phó Từ, cũng là Bạch Thoại, Tiếng Hán Hiện Đại còn rất thông dụng từ nầy trong Đàm Thoại.
TÀI QÚA : là Mới vừa qua. Đáng lẽ phải đọc là TÀI QUÁ, như DƯƠNG QUÁ
trong Thần Điêu Hiệp Lữ của KIM DUNG vậy, có bản
dịch là DƯƠNG QUA. Tất cả đều do bằng trắc mà thôi !
5. CAN QUA 干戈 : CAN là Cái Mộc để đở, QUA là ngọn Giáo để đâm. Một đâm một đở, chỉ sự đánh nhau, nên CAN QUA nghĩa rộng là CHIẾN TRANH.
* DỊCH NGHĨA :
CẢM TÁC ĐẾN CÔN SƠN SAU BUỔI LOẠN LY.
Rời xa quê hương vùng núi nầy thoắt cái mà đã mười năm rồi. Nay về thăm lại thì hỡi ôi những cây tùng và các khóm hoa cúc ngày xưa đều đã tiêu điều quá nửa. Nhưng vì có ước hẹn trước với rừng xanh và dòng suối nơi đây cho nên phải quay trở lại ( không nở phụ ước ), cúi đầu nhìn xuống đất quê nơi cố thổ mà tự cảm thương thân mình lưu lạc . Làng xóm năm xưa vừa thoáng qua như trong cơn mộng, chiến tranh còn dai dẵng chưa yên, may mà thân mình vẫn còn được bảo toàn. Không biết đến bao giờ thanh bình để được kết một mái tranh dưới đĩnh núi phủ đầy mây trắng nầy, lấy nước suối để pha trà và gối đầu lên các tảng đá mà ngủ ( 1 giấc cho ngon lành ! ).
* DIỄN NÔM :
Quê nhà cách biệt thoắt mười năm,
Tùng cúc tiêu điều trở gót thăm.
Hẹn ước lâm tuyền sao phụ rãy,
Cúi đầu cố thổ những bâng khuâng.
Xóm làng như mộng vờn qua đó,
Chinh chiến chưa yên chẳng lụy thân.
Ước dưới núi mây ta kết cỏ,
Suối trà gối đá ẩn lều tranh !
Lục bát :
Xa quê thoắt đã mười năm,
Tiêu điều tùng cúc âm thầm xót xa.
Lâm tuyền ước hẹn cùng ta,
Cúi nhìn đất Tổ quê Cha chợt buồn.
Xóm làng như mộng vấn vương,
Chiến tranh dai dẳng xót thương thân mình.
Khi nào dưới núi kết tranh,
Suối trà gối đá rừng xanh ngủ vùi !
Đỗ Chiêu Đức.