4. Bài thơ : Quy Côn Sơn chu trung tác
* Bản chữ Hán cổ của bài thơ :
歸昆山舟中作 QUY CÔN SƠN CHU TRUNG TÁC
阮廌 Nguyễn Trãi
十年飄轉嘆蓬萍,Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình,
歸思搖搖日似旌。Quy tứ dao dao nhật tự tinh.
幾托夢魂尋故里,Kỷ thác mộng hồn tầm cố lý,
空將血淚洗先塋。Không tương quyết lệ tẩy tiên doanh.
兵餘斤斧嗟難禁,Binh dư cân phủ ta nan cấm,
客裡江山只此情。Khách lý giang sơn chỉ thử tình.
鬱鬱寸懷無奈處,Uất uất thốn hoài vô nại xứ,
船窗推枕到天明。Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh.
* Chú Thích :
- Phiêu Chuyển 飄轉 : Phiêu bạc chuyển động, có nghĩa Trôi nổi không ở yên một chỗ.
- Thán Bồng Bình 嘆蓬萍 : Than cho thân mình như cỏ bồng bay phất phơ, như cánh bèo trôi nổi.
- Dao Dao Nhật Tự Tinh 搖搖日似旌 : Phất phơ như cờ bay trong nắng gió.
- Kỷ Thác 幾托 : Mấy lần gởi gắm, Mấy độ ký thác ...
- Tẩy Tiên Doanh 洗先塋 : Tẩy rửa quét dọn mồ mả Tổ Tiên.
- Cân Phủ 斤斧 : là Rìu, Búa. Ở đây chỉ Vũ Khí (rơi rớt).
- Vô Nại 無奈 : Không biết phải làm gì; Không biết làm sao cho phải...
- Thôi Chẩm 推枕 : là Đẩy gối; Ý nói trăn trở mãi không ngủ được nên gối bị đẩy lêch sang một bên.
* Nghĩa Bài Thơ :
CẢM TÁC TRONG THUYỀN VỀ CÔN SƠN
Mười năm phiêu bạc trôi nổi đó đây như cỏ bồng như bèo nước. Lòng nhớ quê cứ canh cánh như ngọn cờ mãi phất phơ trong nắng. Đã biết mấy lần gởi gắm mộng hồn tìm về nơi quê cũ. Nhưng cũng chỉ tẩy rửa được mộ phần của Tổ Tiên khơi khơi bằng huyết lệ của kẻ tha hương mà thôi. Sau cuộc binh đao khó mà tránh được sự rơi rớt của búa rìu vũ khí (gây nên cướp bóc bạo lực). Nơi đất khách chút lòng đối với quê hương cũng chỉ có thế nầy mà thôi. Nên chi lòng cứ u uất mãi không biết phải làm sao cho phải, trăn trở mãi lệch cả gối chăn vẫn không ngủ được cho đến khi ngoài khoang thuyền trời đà sáng tỏ.
*.Diễn Nôm :
TRONG THUYỀN VỀ CÔN SƠN CẢM TÁC
Mười năm phiêu bạc tựa bèo trôi,
Thôi thúc lòng quê biết mấy hồi.
Gởi mộng cố hương hồn kiếm lối,
Rửa mồ tiên tổ lệ tuôn rơi.
Tàn binh đao kiếm khôn lường được,
Đất khách núi sông chỉ thế thôi.
U ẩn tấc lòng canh cánh mãi,
Suốt đêm trăn trở mặc thuyền trôi !
Lục bát :
Mười năm trôi nổi bình bồng,
Cố hương lòng những ngóng trông ngày về.
Mấy lần hồn mộng tìm quê,
Không tuôn máu lệ nhớ về Tổ tiên.
Loạn binh đao kiếm triền miên,
Đành thân đất khách chút riêng tình nầy.
Lòng buồn biết nói sao đây,
Khoang thuyền gối lệch hây hây sáng trời !
Đỗ Chiêu Đức