4. Bài thơ ĐỀ ĐÔNG SƠN TỰ :
題東山寺 ĐỀ ĐÔNG SƠN TỰ
君親一念久嬰懷, Quân thân nhất niệm cửu anh hoài,
澗愧林慚夙願乖。 Giản quý lâm tàm túc nguyện quai.
三十餘年塵境夢, Tam thập dư niên trần cảnh mộng,
數聲啼鳥喚初回。 Sổ thanh đề điểu hoán sơ hồi.
* Chú Thích :
- ĐÔNG SƠN TỰ 東山寺 : Tên một ngôi chùa tại xã Vĩnh Lũ, huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương.
- QUÂN THÂN 君親 : QUÂN là Vua; THÂN là Cha mẹ; chỉ trung với vua và hiếu thảo với cha mẹ.
- CỬU ANH HOÀI 久嬰懷 : Vấn vít mãi trong lòng.
- TÀM QÚY 慚愧 : là Thẹn thùa. GIẢN 澗 là Khe nước trong núi; LÂM 林 là Rừng. Nên GIẢN QÚY LÂM TÀM 澗愧林慚 : là Thẹn với suối thẹn với rừng.
- TÚC NGUYỆN 夙願 : Nguyện vọng ấp ủ từ lâu, là Lời nguyền cũ.
- QUAI 乖 : là Láu lỉnh, Trái ngược.
- SỔ 數 : SỔ (dấu hỏi) Động từ có nghĩa là Đếm; Hình Dung từ có nghĩa là Mấy; Danh từ đọc là SỐ (dấu sắc) : là Con số. Trong bài thơ là Hình Dung từ SỔ THANH 數聲là Mấy tiếng (chim kêu).
* Nghĩa bài Thơ :
ĐỀ ĐÔNG SƠN TỰ
Cái quan niệm về Quân Thân lâu nay vẫn cứ vấn vít mãi trong lòng. Nên ta mới đành thẹn với suối với rừng mà đi ngược lại cái tâm nguyện lâu nay của mình. Hơn ba mươi năm lăn lóc trong cảnh trần đời thoáng qua như một giấc mộng. Mấy tiếng chim hót gọi dậy trong ta những nguyện ước lúc ban đầu.
Như cụ Nguyễn Công Trứ đã nói "... Sắp hai chữ QUÂN THÂN mà gánh vác", nên Nguyễn Trải vẫn cứ phải bận lòng mãi với Trung với Hiếu mà đành thẹn với suối với rừng, không thực hiện được tâm nguyện của mình là về sống ấn cư nhàn tản với núi rừng như đã từng ao ước. Ba mươi mấy năm lăn lóc trong trường danh lợi, trong chốn quan trường, chợt nghe tiếng chim hót líu lo mới giật mình mà muốn quay đầu sống với những ước nguyện của buổi ban đầu : Về hưu hưởng nhàn !
* Diễn Nôm :
ĐỀ ĐÔNG SƠN TỰ
Vấn vít quân thân suốt một đời,
Thẹn cùng rừng núi lỡ rong chơi.
Ba mươi năm lẻ đời như mộng,
Mấy tiếng chim kêu chợt ngẩn người !
Lục bát :
Quân thân ràng buộc một đời,
Thẹn cùng rừng núi sai lời nguyền xưa.
Ba mươi năm mấy nắng mưa,
Chim kêu tỉnh mộng như vừa hôm qua !
Đỗ Chiêu Đức