2. Bài thơ VÃN LẬP :
晚立 VÃN LẬP
長天漠漠水悠悠, Trường thiên mạc mạc thủy du du,
黃落山河屬暮秋。 Hoàng lạc sơn hà thuộc mộ thu.
羨殺花邊雙白鳥, Hâm sát hoa biên song bạch điểu,
人間累不到滄洲。 Nhân gian lụy bất đáo thương châu !
* Chú Thích :
- VÃN LẬP 晚立 : VÃN là Buổi chiều gần tối; LẬP là Đứng. Nên VÃN LẬP là Đứng ngắm cảnh chiều tối.
- HOÀNG LẠC 黃落 : là Vàng rụng, là Lá mùa thu vàng rơi rụng.
- HÂM SÁT 羨殺 : HÂM là Hâm mộ; SÁT là giết, là chết. Sát ở đây là Phó Từ dùng để chỉ mức độ của Động từ. Nên HÂM SÁT là : Hâm Mộ muốn chết; Ý chỉ Rất là hâm mộ, Hâm mộ vô cùng !
- NHÂN GIAN LỤY 人間累 : là Cái lụy phiền của nhân gian người đời.
- THƯƠNG CHÂU 滄洲 : là Cồn bãi, thường ngụ ý dùng để chỉ nơi ở ẩn nhàn hạ.
* Nghĩa Bài Thơ :
ĐỨNG NGẮM TRỜI CHIỀU
Trời rộng thênh thang mơ màng dưới dòng nước chảy lửng lờ. Lá vàng rụng đầy cả núi cả sông trời đã thuộc về cuối mùa thu rồi. Ta vô cùng hâm mộ đôi chim trắng bay lượn bên hoa đang nở rộ. Cái lụy phiền của nhân gian không thể đến được với mảnh đất thương châu nhàn nhã nầy !
* Diễn Nôm :
VÃN LẬP
Trời cao lồng lộng nước mênh mông,
Lá rụng chiều thu khắp núi sông.
Hâm mộ thay đôi chim trắng lượn,
Người đời phiền muộn khó chờ trông.
Lục bát :
Trời cao rộng, nước mênh mông,
Lá vàng rụng khắp núi sông thu buồn.
Bên hoa chim trắng chập chờn,
Nhân gian phiền muộn chẳng còn nơi đây !
Đỗ Chiêu Đức