1. Vị trí địa lý
Thành phố Cần Thơ nằm ở trung tâm vùng hạ lưu châu thổ sông Cửu Long, trải dài trên 65 Km dọc bờ Tây sông Hậu với diện tích tự nhiên 1.401 km2. Bắc giáp tỉnh An Giang; Đông giáp tỉnh Đồng Tháp, Vĩnh Long; Tây giáp tỉnh Kiên Giang; Nam giáp tỉnh Hậu Giang. Nằm trong giới hạn: 105độ 13’ 38’’ – 105 độ 50’ 35’’ kinh độ Đông. 9độ 55’ 08’’ – 10 độ 19’ 38’’ vĩ độ Bắc.
2. Điều kiện tự nhiên
- Khí hậu, thủy văn: Cần Thơ có khí hậu nhiệt đới, hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình trong năm 2009 là 27 độ C, lượng mưa trung bình 1.500- 1.800 mm/năm, tổng số giờ nắng 2.300- 2.500 giờ, độ ẩm trung bình là 83%.
- Tài nguyên thiên nhiên: Cần Thơ nằm ở khu vực bồi tụ phù sa của sông Mêkong, trong đó Sông Hậu là con sông lớn với chiều dài chảy qua thành phố là 65 Km, tổng lượng phù sa của sông Hậu là 35 triệu m3/năm. Sông Cái Lớn dài 20 Km có khả năng tiêu thoát nước tốt. Sông Cần Thơ dài 16 Km đổ ra sông Hậu, nước ngọt quanh năm, có tác dụng tưới nước trong mùa nước kém vừa tiêu úng trong mùa nước đổ; đồng thời do có hệ thống kênh rạch dày đặc nên thuận lợi cho phục vụ sản xuất nông nghiệp.
- Địa chất, địa mạo: Cần Thơ thuộc vùng đồng lũ nửa mở, bao gồm 3 dạng địa mạo: đê tự nhiên sông Hậu, đồng lũ nửa mở thuộc vùng tứ giác Long Xuyên và đồng bằng châu thổ. Cao trình phổ biến từ 0,8 - 1,0 m và thấp dần từ Đông bắc sang Tây nam. Địa bàn được hình thành chủ yếu qua quá trình bồi lắng trầm tích biển và phù sa của sông Cửu Long.
- Thổ nhưỡng: Có hai nhóm đất chính là nhóm đất phù sa chiếm 84% diện tích tự nhiên và 16% nhóm đất phèn. Khoáng sản thì có đất sét làm gạch ngói, sét dẻo, cát xây dựng, than bùn…Về tài nguyên sinh vật là đặc trưng cho vùng phù sa ngọt nhưng hiện nay cạn nguồn do tận dụng đánh bắt khai thác.
3. Lịch sử hình thành
Vào thế kỷ thứ XVII, ông Mạc Cửu là người Châu Lôi ở tỉnh Quảng Đông - Trung Quốc. Do không thuần phục nhà Thanh nên kéo tùy tùng đến Hà Tiên đầu phục Chúa Nguyễn. Tại đây ông đã chiêu mộ dân phiêu tán khẩn hoang mở vùng đất mới. Chúa Nguyễn Phúc Chu vào năm Mậu Tý (1708) đã sắc phong cho ông làm Tổng binh trấn Hà Tiên và cho ông lập đồn binh ở Phương Thành. Năm 1732, Chúa Nguyễn phân định Nam bộ thành 3 dinh và 1 trấn gồm có: Trấn Biên Dinh thuộc vùng Biên Hòa, Phiên Trấn Dinh thuộc vùng Gia Định, Long Hồ Dinh thuộc vùng Vĩnh Long và 1 trấn là Hà Tiên. Sau khi Mạc Cửu mất, con là Mạc Thiên Tứ tiếp tục sự nghiệp của cha đẩy mạnh công cuộc khai hoang mở đất đến 1739 thì hoàn thành xong việc khai mở và lập thêm 4 đạo là Long Xuyên, Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ), Trấn Di (Bắc Bạc Liêu) và sát nhập các đạo trên vào Hà Tiên. Với vị trí đắc địa Trấn Giang được Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát thuận cho Mạc Thiên Tứ xây dựng thành một thủ sở mạnh ở miền Hậu Giang. Như vậy, đất Cần Thơ được khai mở với tên là Trấn Giang từ năm 1739.
Đối với thực dân Pháp và ngụy quyền Sài Gòn thì Cần Thơ có nhiều thay đổi địa giới hành chính như: Ngày 23 tháng 2 năm 1876, Soái phủ Sài Gòn ra Nghị định lấy huyện Phong Phú cùng một phần huyện An Xuyên và Tân Thành lập hạt Cần Thơ với thủ phủ là Cần Thơ đặt tại làng Tân An. Đến năm 1954, Cần Thơ bao gồm huyện Châu Thành, Ô Môn, Phụng Hiệp, Trà Ôn, Cầu Kè. Năm 1956, Ngô Đình Diệm đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh. Năm 1961, tách một phần Long Mỹ, Vị Thanh thành lập tỉnh Chương Thiện.
Chính quyền Cách Mạng trong kháng chiến chống Pháp vào hai năm 1948- 1949 điều chỉnh địa giới hành chính: Cần Thơ nhận thêm Thốt Nốt của Long Xuyên, Long Mỹ, Gò Quao, Giồng Riềng, thị xã Rạch Giá của tỉnh Rach Giá. Đồng thời Cần Thơ trả lại 2 huyện Cầu Kè và Trà Ôn cho Vĩnh Long và Trà Vinh. Tên gọi là tỉnh Cần Thơ. Tháng 11 năm 1954 chuyển Long Mỹ, Giồng Riềng, Gò Quao, thị xã Rạch Giá về tỉnh Rạch Giá. Trả huyện Kế Sách về tỉnh Sóc Trăng, Thốt Nốt về Long Xuyên. Năm 1957 nhận lại huyện Thốt Nốt, năm 1966 thành lập thị xã Vị Thanh thuộc tỉnh Cần Thơ. Năm 1969 tách thị xã Cần Thơ ra khỏi tỉnh Cần Thơ trực thuộc Khu Tây Nam Bộ, năm 1971 thị xã Cần Thơ trực thuộc tỉnh Cần Thơ. Năm 1972, thị xã Cần Thơ trở thành thành phố Cần Thơ trực thuộc Khu Tây Nam Bộ.
Thống nhất đất nước, Nghị định số 03/NĐ-76 ngày 24 tháng 3 năm 1976 của Chính phủ về việc sáp nhập tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ thành tỉnh Hậu Giang. Tháng 12 năm 1991, Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 10 ra Nghị quyết tách Hậu Giang thành 2 tỉnh- tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Kỳ họp thứ 4 của Quốc Hội khóa XI ra Nghị quyết số 22/2003/QH ngày 26 tháng 11 năm 2003 và Nghị định số 05 của Chính phủ ngày 02/01/2004 tách tỉnh Cần Thơ trở thành thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương và lập tỉnh Hậu Giang. Chính phủ đã ban hành Quyết định số 889-QĐ/TTg ngày 24/6/2009 công nhận thành phố Cần Thơ là đô thị loại 1 trực thuộc Trung ương.
4. Dân cư
Trên địa bàn thành phố Cần Thơ có người thuộc 28 dân tộc sinh sống, trong đó đông nhất là dân tộc Kinh (Việt), tiếp theo là các dân tộc Khmer, Hoa.
Theo số liệu tổng điều tra dân số năm 2009 có 1.188.435 người, có 65,89% là dân thành thị; dân tộc Kinh chiếm 96,95%; mật độ dân số 848 người/Km2, quận Ninh Kiều có mật độ dân cư đông nhất 8.407 người/Km2 và mật độ dân cư thấp nhất là huyện Vĩnh Thạnh 274 người/Km2.
Theo cantho.gov.vn
Thời điểm lịch sử hình thành vùng đất Cần Thơ được khai mở và có mặt trên dư đồ Việt Nam từ năm 1739, với tên gọi Trấn Giang. Nếu tính xa hơn nữa, thì vùng đất này đã xuất hiện và tồn tại trong quá trình hình thành vùng Châu thổ sông Cửu Long từ trước Công nguyên. Đến ngày 23 tháng 2 năm 1876, sau khi đã chiếm trọn Nam kỳ lục tỉnh, thực dân Pháp mới ra nghị định lấy huyện Phong Phú (Trấn Giang xưa) và một phần huyện An Xuyên và Tân Thành thuộc tỉnh An Giang (thời vua Minh Mạng) để thành lập hạt Cần Thơ.
I. CÔNG CUỘC KHẨN HOANG Ở NAM BỘ – CHÂU THỔ SÔNG CỬU LONG, VÀ SỰ HÌNH THÀNH THỦ SỞ TRẤN GIANG:
Vào thế kỷ XIII, Châu Đạt Quang khi đi thuyền theo cửa biển vào sông Tiền, theo hướng Tây – Nam, đến Ăng Co đã ghi nhận trong sách “Chân Lạp phong thổ ký” nói về vùng châu thổ sông Cửu Long như sau: “Nhìn lên bờ, chúng tôi thấy toàn là cây mây cao vút, cổ thụ, cát vàng, lau sậy trắng, thoáng qua không dễ gì biết được lối vào. Thế nên các thuỷ thủ cho rằng rất khó mà tìm đúng cửa sông”. Đến cuối thế kỷ thứ XVIII, khi miệt trên Đồng Nai – Sài Gòn đã có thôn làng, bộ máy hành chính cai trị cấp Phủ huyện đã chính thức thiết lập từ 1698, thì toàn vùng này từ cửa biển trở lên vẫn còn là “rừng rậm hàng ngàn dậm”.
Trên không gian hoang vu của vùng đất phương Nam, mãi đến thế kỷ XVI, XVII mới được các tập đoàn lưu dân kéo tới khai khẩn, mở ra một tiến trình lịch sử mới với một mô thức văn hoá khác. Trong tiến trình đó, Cần Thơ xưa là “lõm” đất chẳng những được khai phá có phần muộn màng so với miệt trên Đồng Nai – Sài Gòn mà cả với miệt dưới (Hà Tiên). Cuối thế kỷ XVII, ông Mạc Cửu là người Châu Lôi, tỉnh Quảng Đông – Trung Quốc không thần phục nhà Thanh cùng nhiều đoàn tuỳ tùng và dân cư theo đường biển kéo thẳng vào miệt Hà Tiên giáp xứ Chân Lạp (Campuchia) mở vùng đất mới, khai khẩn, lập nghiệp. Ông “Chiêu mộ dân phiêu tán về Hà Tiên, Phú Quốc, Lũng Kỳ, Cần Bột, Vũng Thơm, Rạch Giá, Cà Mau lập làm 7 xã thôn…”. Lúc đầu ông Mạc Cửu xin thần phục vương quốc Chân Lạp, nhưng sau này bị quân Xiêm đánh phá liên tiếp mà triều đình Chân Lạp thì không đủ sức che chở, nên ông quyết định sai thuộc hạ là Trương Cầu, Lý Xá đệ biểu văn trần tình đến kinh đô Phú Xuân, xin dâng bảy xã thôn mình khai phá cho Chúa Nguyễn. Mùa thu tháng 8 năm Mậu Tý (1708), Chúa Nguyễn Phước Chu sắc phong cho ông Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên. Ông Mạc Cửu lập đồn dinh ở Phương Thành, nhân dân qui tụ ngày càng đông. Năm 1732, toàn bộ đất phương Nam được Chúa Nguyễn phân định ra làm 3 Dinh và 1 Trấn. Đó là Trấn Biên Dinh (vùng Biên Hoà), Phiên Trấn Dinh (vùng Gia Định), Long Hồ Dinh (vùng Vĩnh Long) và Trấn Hà Tiên. Năm 1735, Tổng trấn Mạc Cửu mất. Con ông là Mạc Thiên Tích (trước đó có tên là Mạc Thiên Tứ) được phong làm Tổng trấn nối nghiệp cha. Từ Hà Tiên, ông đẩy mạnh công cuộc khai mở thêm vùng đất hữu ngạn sông Hậu. Năm 1739, ông đã hoàn thành việc khai mở này và lập thêm 4 vùng đất mới mà “ Gia Định thành thông chí” gọi là “đạo” gồm: Long Xuyên (Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ), Trấn Di (Bắc Bạc Liêu), để sáo nhập vào đất Hà Tiên.
Tổng trấn Mạc Thiên Tích thấy Trấn Giang có một vị trí chiến lược để làm hậu cứ vũng chức cho Hà Tiên nhằm chống lại quân Xiêm và quân Chân Lạp thường xuyên xâm lấn và quấy phá. Thế nên, trước đó ông Mạc Cửu đã mở mang đất Hà Tiên thế nào thì lúc này ông Mạc Thiên Tích cũng xây dựng Trấn Giang như thế về mọi mặt: quân sự, kinh tế, thương mại và văn hoá.
Chính đại thần Nguyễn Cư Trinh được Chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát phái vào Nam từ năm 1753, đã gặp Tổng trấn Mạc Thiên Tích và rất đồng tình về mưu lược của ông này. Hai hiền tài đã bàn và nhất trí nhau trong kế hoạch xây dựng Trấn Giang. Từ đó Trấn Giang càng được phát triển và trở thành một “thủ sở” mạnh ở miền Hậu Giang.
Sách Gia Định thành thông chí khi viết về sông Hậu ngày xưa có đề cập đến Thủ sở Trấn Giang nằm trên bờ Tây sông Hậu thượng lưu từ phía Đông thành Nam Vang chảy xuống Châu Đốc, Cần Đăng, vô Nam đến thủ Cường Oai, núi Lấp Vò, rồi đến thủ Trấn Giang, qua đạo Trấn Di, ra cửu biển Ba Thắc…”
Đầu năm 1755, Đại thần Nguyễn Cư Trinh, đang điều khiển sĩ tốt 5 dinh Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ (tức từ Phú Khánh đến Vĩnh Long ngày nay) giúp ông Thiện Chính lo việc bình ổn ở biên giới Tây Nam thì Nặc Nguyên (Vua Campuchia thời xưa) dựa vào quân Xiêm bức lại dân Côn Man (người Chăm sống ở Campuchia) và quấy rối biên cảnh nước ta. Sau khi Nguyễn Cư Trinh đem quân giải cứu cho người Côn Man và định cư họ ở núi Bà Đen (Tây Ninh), thì bấy giờ, Chúa Nguyễn và các quan tướng có ý định cất quân đi hỏi tội Nặc Nguyên. Nặc Nguyên thấy rõ thanh thế quân nhà Nguyễn liền chạy qua Hà Tiên nhờ Tổng trấn Hà Tiên là Mạc Thiên Tích làm trung gian đặt lại mối quan hệ. Mạc Thiên Tích viết sớ dâng lên, nhưng Chúa Nguyễn không đồng ý vì cho Nặc Nguyên là kẻ tiếm vị và dối trá. Nguyễn Cư Trinh dâng sớ can Chúa: “Từ xưa sở dĩ dùng binh chẳng qua là để diệt trừ kẻ cừ khôi, mở mang bờ cõi. Nay Nặc Nguyên đã biết hối lỗi, nộp cống cầu hoà. Nếu cứ truy mãi lời dối trá ấy thì chúng tất chạy trốn. Vả lại từ đồn dinh Gia Định đến La Bích đường sá xa xôi, nghìn rừng muôn suối, không tiện đuổi đến cùng (…) chi bằng uỷ thác cho thần xem xét, xem hình thế, đặt luỹ đóng góp quân, chia cấp ruộng đất cho quân dân cày cấy, vạch định biên giới lại rõ ràng”.
Lời tâu của đại thần Nguyễn Cư Trinh được Chúa chấp thuận, đã mở ra một hướng chiến lược quan trọng cho công cuộc khai hoang lập nghiệp trên “lõm” đất Tầm Phong Long (vùng Bassac) còn hoang hoá này. Nguyễn Cư Trinh cho dời dinh Long Hồ từ Cái Bè qua bên kia sông Tiền (tỉnh Vĩnh Long ngày nay); lấy xứ Sa Đéc đặt đạo Đông Khẩu, xứ Cù Lao ở sông Tiền đặt đạo Tân Châu, xứ Châu Đốc ở sông Hậu đặt đạo Châu Đốc và đem binh ở dinh Long Hồ trấn thủ các địa điểm xung yếu nơi địa đầu có ý nghĩa là một quân khu, vừa có chức năng quân sự – quốc phòng, vừa đảm nhận chức năng hành chính – cai trị teo chế độ quân quản, thuộc dinh Long Hồ – một đơn vị hành chính – quân sự thuộc Nhà nước Trung ương. Ba đạo Đông Khẩu, Tân Châu, Châu Đốc bố trí theo hình tam giác hỗ trợ cho nhau. Ở miệt dưới, Tổng trấn Mạc Thiên Tích cũng sắp đặt lại các vùng hành chính – quân sự mới: Đặt xứ Rạch Giá làm đạo Kiên Giang, xứ Cà Mau làm đạo Long Xuyên, cắt cử quan lại cai trị, chiêu mộ cư dân lập thành thôn ấp. Hà tiên đến lúc này rộng lớn là như vậy.
Thủ sở Trấn Giang ở bờ phía Tây sông Cần Thơ lập từ 1739, không chỉ là vị trí đồn thủ ở một địa điểm trên thuỷ lộ xung yếu mà là vùng khai mở rộng lớn dang tay đón người tứ phương từ miệt trên đổ xuống, miệt dưới đổ về để khai phá lập nghiệp và đặc biệt, trong bối cảnh thường bị quân Xiêm và quân xứ Chân Lạp sang xâm lấn, quấy phá thì Trấn Giang (Cần Thơ) là một vùng hậu cứ của Hà Tiên – Rạch Giá khi hữu sự. Nói cách khác, việc khai mở vùng Trấn Giang là một yêu cầu kinh tế và quân sự.
Chính sử chép: “Ngày 3 tháng 10 năm Tân Mão (1771) quân Tiêm (Xiêm) tấn công thành Hà Tiên, Tôn Đức Hầu Mạc Thiên Tích cùng quan tướng của mình theo sông Giang Thành mà tẩu thoát; còn Hiệp Trấn mạc Tử Hoàn, Thắng Thuỷ Mạc Tử Xướng và Tham tướng Mạc Tử Dung đều đem thuỷ binh phá vòng vây theo đường biển chạy xuống Kiên Giang rồi qua Trấn Giang đồn trú”.
…Mạc Thiên Tích chạy qua Châu Đốc, rồi rút về Tân Châu gặp được quân tiếp viện của Chúa Nguyễn đưa về Long Hồ tạm trú. Đến tháng 12 được chiếu khoan miễn tội, Mạc Thiên Tích lại được cấp tiền lương và được binh biền hộ vệ đưa về Trấn Giang cư trú, “đặng chiêu dụ kẻ lưu vong, để toan có ngày dẹp giặc”.
Như thế, năm 1771, quân Xiêm, sau khi chiếm được Hà Tiên thì tiếp tục tràn tới Trấn Giang nhưng đã bị đánh trả quyết liệt và phải rút lui. Sau đó, thì Trấn Giang càng được cũng cố và phát triển rất mạnh.
Năm 1774 nghĩa quân Tây Sơn đánh chiếm kinh thành Phú Xuân. Chúa Định Vương Nguyễn Phước Thuần và Nguyễn Ánh chạy vào Gia Định, trú ở địa phương Bến Nghé. Mạc Thiên Tích đích thân đến hầu, được Chúa phong làm Quốc lão Đô đốc quận công và gia phong cho 3 con là Mạc Tử Hoàng làm Chưởng Cơ, “Xướng” làm Thuỷ Thắng cơ đội và “Dung” làm Tham tướng Cai Cơ đều “cho về án thủ Trấn Giang đạo, chiêu tập lưu dân, tàn tốt Hà Tiên để chờ cơ hội”.
Tháng 3 năm Đinh Dậu (1777) quân Tây Sơn vào chiếm Gia Định. Tháng 4, xa giá Chúa Nguyễn chạy xuống Trấn Giang đạo. Mạc Thiên Tích đón Chúa ở đấy. Tháng 8 quân Tây Sơn kéo xuống Miền Tây và Trấn Giang. Tháng 1 năm 1785, Nguyễn Huệ thân chinh chỉ huy quân Tây Sơn đánh tan 20 ngàn quân và 300 chiến thuyền của quân Xiêm mượn cớ vào giúp Chúa Nguyễn để xâm lược Việt Nam một lần nữa. Đó là trận Rạch Gầm Soài Mút (Tiền Giang). Chúa Nguyễn tiếp tục chạy khỏi Trấn Giang và ra hòn Thổ Chu lánh nạn. Sang năm 1787, quân Tây Sơn rút khỏi các dinh trấn ở Miền Tây và quân nhà Nguyễn mới thu lại được các vùng này, trong đó có Trấn Giang.
Như vậy, suốt thập niên 70 của thế kỷ XVIII, Trấn Giang đã trở nên một cứ điểm quan trọng và được phát triển trong bối cảnh lịch sử đầy xáo động.
Tổng trấn Mạc Thiên Tích có hai người con được phong chức Tham tướng: Một là, Tham tướng Mạc Tử Dung giữ chức này trong trận chống Tiêm (Xiêm) ở Hà Tiên năm 1771 và sau đó, năm 1774 được Chúa Nguyễn gia phong chức Tham tướng Cai cơ cho về trấn thủ Trấn Giang đạo. Đến năm 1777, Mạc Tử Dung cùng Mạc Thiên Tích chạy qua tỵ nạn ở Vọng Các (BangKok ngày nay) và năm 1780, Tham tướng Mạc Tử Dung bị Phi Nhã Tân (vua Xiêm) đánh chết vì nghi là người làm nội ứng trong mưu toan đánh chiếm Vọng Các. Mạc Thiên Tích tự tử chết trong cùng vụ này.
Vị Tham tướng thứ hai, con của Mạc Thiên Tích, là Mạc Tử Sanh. Lúc cha con Mạc Thiên Tích bị Phi Nhã Tân làm hại thì các con thứ của ông là Tử Sanh, Tử Tuấn và Tử Thiêm vì còn nhỏ tuổi lại nhờ có Cao La Hâm Hốc (người Cao Miên làm quan nước Xiêm) thương tình giấu kín nên thoát chết. Về sau, năm 1784, Chúa Nguyễn nghĩ đến dòng dõi công thần còn xót lại, bèn dùng Tử Sanh làm Tham tướng phong tước Lý Chánh hầu. Giữa năm 1787 đại binh Chúa Nguyễn chiếm lại đạo Kiên Giang, tiến vào Trấn Giang đánh phá quân Tây Sơn, rồi thẳng đến Ba Thắc, Trà Ôn, Mân Thít, Sa Đéc chia binh đồn trú. Tham tướng Mạc Tử Sanh đã tử trận trong khi đánh nhau với quân Tây Sơn.
Như vậy, địa danh Tham Tướng (vùng rạch Tham Tướng thuộc phường Xuân Khánh, thành phố Cần Thơ hiện nay) được hình thanh như chỗ đồn trú của binh lính Chúa Nguyễn do tướng Mạc Tử Sanh cầm quân trong hệ thống liên lập với Măn Thít, Sa Đéc ở một phía, phía bên kia với Trà Ôn, Ba Thắc và miệt Bãi Sào, Sóc Trăng.
Năm Quý Hợi – 1803, một năm sau khi lên ngôi, vua Gia Long phân định lại dư đồ cả vùng miền Tây sông Hậu, đổi tên dinh Long Hồ thành dinh Hoằng Trấn, sau đổi lại là Vĩnh Trấn và đến năm Mậu Thìn 1808, gọi tên mới là Trấn Vĩnh Thanh, là một trong 5 trấn của Gia Định thành thời ấy (Phiên An, Biên Hoà, Vĩnh Thanh, Định Tường và Hà Tiên). Trấn Giang vẫn nằm trong địa giới trấn Vĩnh Thanh.
Đến năm Quý Dậu 1813, 26 năm sau ngày Tham tướng Mạc Tử Sanh tử trận tại Trấn Giang, vua Gia Long cắt một vùng đất phì nhiêu ở vùng hữu ngạn sông Hậu (bao gồm Trấn Giang – Cần Thơ xưa) để lập riêng một huyện Vĩnh Định, trực thuộc phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh.
Năm Nhâm Thìn 1832, vua Minh Mạng ban chiếu dụ đổi “Trấn” thành “Tỉnh” và hình thành nên Nam kỳ lục tỉnh gồm: Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Nhà vua đã tách huyện Vĩnh Định (Cần Thơ xưa) ra khỏi phụ Định Viễn, tỉnh Vĩnh Long và cho trực thuộc phủ Tân Thành, tỉnh An Giang.
Năm Kỷ Hợi 1839, vua Minh Mạng đổi tên huyện Vĩnh Định là huyện Phong Phú, trực thuộc phủ Tịnh Biên, tỉnh An Giang và lấy làng Tân An làm huyện trị của huyện Phong Phú. Từ đó, huyện Phong Phú tiếp tục phát triển và nổi tiếng là một vùng đất thạnh trị và an ninh khác hẳn mọi vùng ở miền Tây lúc bấy giờ.
Trên bản đồ sơn văn của A.Pouyanne, Cần Thơ xưa là một giồng đất ven sông rạch có đô cao thuộc loại trên 2,50m. Đặc điểm tự nhiên này là một ưu điểm cho việc cư trú. Trong sách Cần Thơ xưa và nay nhà nghiên cứu Huỳnh Minh có trích một đoạn sách thời Gia Long Minh Mạng tả vị trí con sông Cần Thơ như sau:
“Sông Cần Thơ ở phía Đông huyện Phong Phú 3 dặm, bờ phía Tây sông Hậu, rộng 4 trượng, sâu 2 trượng rưỡi. Bờ phía Tây sông này có cựu thủ sở đạo Trấn Giang. Bắt đầu từ phía Nam Đại Giang chảy xuống, thông sông Bồn, rồi do cửa sông ấy chảy qua đà Sưu, đà Răng, cách 13 dặm đến ngã ba Ba Láng. Chi phía Bắc chảy qua Đông 12 dặm thông với sông Bình Thuỷ, lại một chi nữa cũng do phía Bắc chuyển về hướng Đông 45 dặm chảy ra cảng khẩu đạo Kiên Giang, tục gọi là cửa Bé”.
Cộng đồng dân cư ở đây từ ngày xưa gồm một bộ phận là binh lính và gia đình của quân binh Hà Tiên, Rạch Giá theo chồng, theo cha về trú ngụ ở Trấn Giang. Một bộ phận khác là những lưu dân từ miền ngoài đi vào, từ miền Đông đi xuống và ở lại trên đất Trấn Giang.
“Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai
Nước trong xanh, sao lại chảy hoài
Thương người xa xứ lạc loài đến đây…”.
Một bằng chứng nữa là dấu vết văn hoá truyền thống từ miền ngoài còn thể hiện rõ ở Thường Thạnh, Phong Điền sau này như tục thờ Bà – Cậu (Bà Thuỷ và Cậu Chai – Cậu Quí) tục thờ các chúa Trân, chúa Ngọc, nữ thần Thượng Động Cố Hỉ… Tại đình làng Thới Bình có hai bài vị thờ Đồng Chinh Vương và Dực Thánh Vương là hai hoàng tử, con Vua Lý Thái Tổ – vốn được coi là ông tổ khai hoang của các cộng đồng di dân đi khẩn hoang ở vùng đất mới miền duyên hải Bắc bộ và Trung bộ. Tại đình Bình Thuỷ, có thờ Đại càn quốc gia Nam hải tứ vị thánh nương nương gốc là thần ở cửa biển Cần Hải, Quỳnh Lưu (Nghệ An) để bảo vệ người đi biển.
Xét về thời khai hoang, làng Tân An, Thới Bình đã được hình thành sớm ở trên vùng đất cao này. Có lẽ sóng gió của sông lớn, rạch to mà con người lúc đầu ấy chưa có đủ phương tiện để làm chủ sức mạnh vô thức của tự nhiên nên phải lánh vào nơi rạch nhỏ sóng lặng như rạch Cần Thơ, rạch Tham Tướng, rạch Bình Thuỷ. Ở làng Bình Thuỷ, như tên gọi của nó, sông nước hiền hoà và phẳng lặng hơn; do vậy mà dân đến lập nghiệp sớm, nhanh chóng phát triển và trở thành nơi đất gốc của người dân Cần Thơ mà thế hệ sau này tự hào về nó. Về sau, qua thời gian tô điểm của con người, cảnh trí trở nên thi vị hơn và văn vật hơn, nên hậu thế lại đặt cho nó là Long Tuyền, coi ra mang hơi hám phong thuỷ của quan niệm địa linh nhân kiệt trên dòng sông phẳng lặng này.
Ở đây, đường sông là mạch máu giao thông chính, ghe xuồng trở nên quan trọng đến mức thiết yếu. Làng xã luôn được hình thành trên các giồng đất trải dài theo sông, rạch và về sau là kinh đào. Chợ búa đều hình thành trên bến sông, rạch, kinh đào. Những khúc sông thuận lợi, giáp nước, cửa vàm, ngã ba, ngã tư là tụ điểm giao thương và tất yếu trở thành thị tứ – Trung tâm thương mại – văn hoá của một vùng. Các chợ búa, thị tứ cổ xưa đều hình thành do sông rạch định vị. Các chợ thị tứ nằm sâu trong đất liền xa sông đều là mới thành lập, khi đường bộ đã phát triển, xe cộ đã phổ biến.
Đặc điểm này có thể đã hình thành từ cuối thế kỷ XVIII ở vùng Bình Thuỷ – Cần Thơ và liên lập với các tụ điểm khác trải dài trên vùng đất trung lưu và hạ lưu sông Hậu. Bởi vậy nên đến đầu thế kỷ XIX được tác giả Gia Định thành thông chí nhắc đến như những trung tâm mua bán tương xứng với bên hữu ngạn sông Tiền là Sa Đéc, Long Hồ… Đó là: 1 – Trung tâm bờ phía Tây Thủ sở đạo Trấn Giang trên sông Cần Thơ, 2 – Trung tâm ở sông Trà Ôn, thuộc tổng Bình Chánh, nơi đây phố chợ trù mật; người Tàu, người Cao Miên tụ tập đông đảo”; và trung tâm Trường tàu Ba Thắc dưới hạ lưu sông Hậu là nơi có người Tây Dương đến buôn bán; có đủ người Việt, người Tàu, người Cao Miên chung lộn; đường phố, chợ quán nối dài liên tiếp.
Nói chung đây là biểu hiện nổi bật nhất của cái mà các nhà nghiên cứu định danh là văn minh sông rạch mà ở mức độ cao hơn là các chợ nổi ở các giao lộ đường thuỷ chẳng hạn như Trà Ôn, Phong Điền, Phụng Hiệp sau này. Sông rạch có vai trò quan trọng cho giao thông và ngày trước, nó là con đường đưa người đi khai hoang sâu vào đất liền để định cư và thôn làng theo đó mà hình thành. Đối với xứ sở này ngày xưa, rạch Cần Thơ từ đầu vàm giáp sông Hậu (bến Ninh Kiều ngày nay) chảy tới Phong Điền (Cầu Nhiếm) cùng với rạch Bình Thuỷ từ bờ sông Hậu chảy vào Giai Xuân – Long Tuyền là thuỷ lộ có vai trò lịch sử quan yếu đối với công cuộc khai canh định cư của xứ Cần Thơ ngày trước. Năm 1788, khi Chúa Nguyễn Ánh đã hoàn toàn làm chủ đất phương Nam và tiến dần ra Trung Bắc, Trấn Giang (Cần Thơ) bước vào giai đoạn xây dựng hòa bình và càng ngày càng được cũng cố hệ thống hành chính – cai trị của nhà Nguyễn; theo đó, hệ ý thức Nho giáo cùng với những chế định về văn hoá – giáo dục, những chuẩn tắc về đạo đức và chuẩn mực ứng xử càng được phát triển.
II. THỰC DÂN PHÁP CHIẾM TOÀN BỘ NAM KỲ LỤC TỈNH VÀ QUYẾT ĐỊNH THÀNH LẬP TỈNH CẦN THƠ:
Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX là giai đoạn lịch sử ở Nam kỳ lục tỉnh có nhiều biến động dữ dội. Thực dân Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông theo hoà ước nhượng bộ của Triều đình Huế năm 1862, rồi sau đó, qua ngày 20, 22 và 24 tháng 6 năm 1867 lại vi phạm hoà ước 1862, chiếm luôn hết 3 tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.
Ngày 1 tháng giêng năm 1868, Thống đốc Nam kỳ là Bonard quyết định sáp nhập huyện Phong Phú (Trấn Giang – Cần Thơ) với Bãi Sào (Sóc Trăng) đặt thành một quận, lập toà bố tại Sa Đéc.
Ngày 30 tháng 4 năm 1872, Thống đốc Nam kỳ ra nghị định sáp nhập Phong Phú với Bắc Tràng là một vùng thuộc phủ Lạc Hoá tỉnh Vĩnh Long lập thành một hạt, đặt toà bố tại Trà Ôn và chỉ một năm sau Toà bố Trà Ôn lại phải dời về Cái Răng (Cần Thơ).
Ngày 23 tháng 2 năm 1876, Soái phủ Sài Gòn ra nghị định mới lấy huyện Phong Phú và một phần huyện An Xuyên và Tân Thành để lập nên hạt Cần Thơ với thủ phủ là Cần Thơ (làng Tân An, huyện trị của huyện Phong Phú cũ). Viên chánh tham biện (Tỉnh trưởng) đầu tiên trấn nhậm hạt Cần Thơ là đại uý Nicolai. Viên quan thực dân này cai trị một năm thì Villard đến thay. Villard ở Cần Thơ chỉ được 3 tháng thì Nicolai trở lại Cần Thơ. Thời gian sau Nicolai, không có Viên chánh tham biện nào trấn nhậm Cần Thơ được lâu hơn. Chỉ từ 3 đến 10 tháng hoặc một vài năm là đổi đi. Năm 1889, Pháp đổi các đơn vị hành chính cấp hạt thành tỉnh và huyện đổi lại là quận.
Từ năm 1876, thành lập hạt Cần Thơ, đến khi Pháp trở lại xâm chiếm Việt Nam lần thứ 2, vào năm 1945 và cho đến ngày Pháp thất trận ở Điện Biên Phủ, ký kết hiệp định Genève (Giơ-ne-vơ) năm 1954, thì địa giới hành chính tỉnh Cần Thơ trong thời Pháp thuộc vẫn không thay đổi. Tỉnh Cần Thơ gồm có thị xã Cần Thơ và các huyện Châu Thành, Ô Môn, Phụng Hiệp, Trà Ôn, Cầu Kè.
Tuy nhiên, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vào 2 năm 1948 – 1949 chính quyền kháng chiến có điều chỉnh một phần địa giới hành chính của các tỉnh. Cần Thơ nhận thêm huyện Thốt Nốt (của tỉnh Long Xuyên), các huyện Long Mỹ, Gò Quao, Giồng Riềng, thị xã Rạch Giá (của tỉnh Rạch Giá) và huyện Kế Sách (tỉnh Sóc Trăng). Tỉnh Cần Thơ giao 2 huyện Trà Ôn và Cầu Kè về tỉnh Vĩnh Trà (Vĩnh Long – Trà Vinh).
Sau hiệp định Genève (Giơ-ne-vơ) năm 1954, nước Việt Nam ta tạm thời chia làm hai miền. Ở miền Bắc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, toàn dân ta ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ở miền Nam, tạm thời do địch quản lý, nhân dân ta một lòng tin Đảng và tiếp tục làm cách mạng để giải phóng quê hương, tiến tới thống nhất nước nhà.
Lúc này, đế quốc Mỹ nhảy vào thay chân Pháp, phá hoại hiệp định Genève (Giơ-ne-vơ), dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm làm tay sai cho Mỹ, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Từ đó, địa giới hành chính trong chế độ cũ ở miền Nam nói chung và tỉnh Cần Thơ nói riêng có nhiều thay đổi. Năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm quyết định đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh. Năm 1961, tách một vùng đất ở Long Mỹ, Vị Thanh lập thành tỉnh Chương Thiện. Sau đó, các quận, các tổng, xã trong tỉnh Phong Dinh và tỉnh Chương Thiện đều có phân chia lại.
Về phía chính quyền cách mạng, trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ta vẫn duy trì tên tỉnh Cần Thơ. Địa giới hành chính có thay đổi một phần. Tháng 11 năm 1954, Long Mỹ và các huyện Gò Quao, Giồng Riềng, thị xã Rạch Giá đều đưa về tỉnh Rạch Giá trở lại. Huyện Kế Sách về tỉnh Sóc Trăng. Huyện Thốt Nốt về tỉnh Long Xuyên. Cần Thơ nhận lại 2 huyện Trà Ôn và Cầu Kè như cũ. Năm 1956, hai huyện Trà Ôn và Cầu Kè đưa về Vĩnh Long (trong thời điểm Mỹ ngụy lập ra tỉnh mới “Tam Cần”). Năm 1957, huyện Long Mỹ lại về tỉnh Cần Thơ. Năm 1958, huyện Kế Sách (thuộc tỉnh Sóc Trăng) cũng về tỉnh Cần Thơ.
Năm 1963, huyện Thốt Nốt (tỉnh Long Xuyên) đưa về tỉnh Cần Thơ.Năm 1966, hình thành thị xã Vị Thanh trực thuộc tỉnh Cần Thơ. Năm 1969, tách thị xã Cần Thơ ra khỏi tỉnh Cần Thơ trực thuộc khu Tây Nam bộ. Năm 1971, thị xã Cần Thơ trở lại thuộc tỉnh Cần Thơ. Năm 1972, thị xã Cần Thơ trở thành là thành phố Cần Thơ, trực thuộc khu Tây Nam bộ.
Từ sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc chính phủ ta công bố nghị định số 03/NĐ-76 ngày 24-3-1976 sáp nhập tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ lập thành tỉnh mới lấy tên là Hậu Giang, tỉnh lỵ là thành phố Cần Thơ.
Đến tháng 12 năm 1991, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khoá 8 trong kỳ họp thứ 10 đã ra nghị quyết tách tỉnh Hậu Giang thành 2 tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng. Thế là từ đầu năm 1992, tỉnh Cần Thơ được tái lập với tên gọi Cần Thơ đã từng xuất hiện hàng trăm năm trước.
III. VỀ TÊN GỌI “CẦN THƠ” VÀ XUẤT XỨ CỦA HAI TIẾNG “TÂY ĐÔ”:
Về tên gọi Cần Thơ, trong sử sách xưa nay, không có ghi chép xuất xứ rõ ràng như tên gọi một số tỉnh khác, chỉ có những truyền thuyết do các bô lão địa phương đời trước kể lại cho con cháu đời sau. Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Minh, trong quyển sách sưu khảo Cần Thơ xưa và nay xuất bản năm 1966 thì có hai truyền thuyết như sau:
Ngày xưa, khi chưa lên ngôi vua, Chúa Nguyễn Ánh vào Nam và đã đi qua nhiều vùng châu thổ sông Cửu Long. Một hôm, đoàn thuyền của Chúa đi theo sông Hậu vào địa phận thủ sở Trấn Giang (Cần Thơ xưa). Đêm vừa xuống, thì đoàn thuyền cũng vừa đến Vàm sông Cần Thơ (bến Ninh Kiều ngày nay). Đoàn thuyền đang lênh đênh trên mặt nước ở ngã ba sông này, Chúa nhìn vào phía trong thấy nhiều thuyền bè đậu dài theo hai bờ sông, đèn đóm chiếu sáng lập loè. Giữa đêm trường canh vắng, vọng lại nhiều tiếng ngâm thơ, hò hát, tiếng đàn, tiếng sáo hoà nhau nhịp nhàng. Chúa thầm khen về một cảnh quan sông nước hữu tình. Chúa mới có cảm nghĩ ban cho con sông này một cái tên đầy thơ mộng là Cầm thi giang tức là con sông của thi ca đàn hát. Dần dần 2 tiếng Cầm thi được lan rộng trong dân chúng và nhiều người nói trại ra là Cần Thơ. Tên Cần Thơ nghe thấy hay và đẹp nên được người trong vùng chấp nhận và cùng gọi là sông Cần Thơ.
Một truyền thuyết khác cho rằng: sông Cần Thơ ngày xưa ở hai bên bờ, dân chúng trồng rất nhiều rau cần và rau thơm. Ghe thuyền chở nhiều loại rau cần, rau thơm qua lại rao bán đông vui từ năm này qua năm khác. Vì vậy từ xa xưa, còn truyền lại những câu ca dao:
– “Rau cần, rau thơm xanh mướt,
mua mau kẻo hết, chậm bước không còn”.
– “Rau cần lại với rau thơm
Phải chăng đất ấy rau thơm có nhiều”
Cũng có thể từ đó mà người địa phương lại gọi sông này là sông Cần Thơm, nói trại là Cần Thơ. Hai truyền thuyết Cầm Thi và Cần Thơm chưa biết cái nào là đúng nguồn gốc. Nhưng dù nói thế nào đi nữa, thì từ xa xưa, người dân địa phương đã gọi dòng sông quê hương mình là sông Cần Thơ.
Đến năm 1876, khi Pháp lấy huyện Phong Phú, lập ra hạt mới thì đã dùng tên sông Cần Thơ để đặt tên cho hạt Cần Thơ rồi sau đó là tỉnh Cần Thơ.
Về hai chữ Tây Đô, trước nay chưa có một văn bản Nhà nước nào chính thức gọi Cần Thơ là Tây Đô (thủ đô miền Tây). Tuy nhiên, do vị trí địa lý thuận lợi về giao thông, thương mại, công kỹ nghệ và cả về quân sự đều ở trung tâm khu vực châu thổ sông Cửu Long nên từ thời thực dân Pháp đô hộ đến thời Mỹ xâm lược, về phía ta và địch đều coi ở đây có vị trí trung tâm của vùng. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội thì thành phố Cần Thơ vẫn được Nhà nước ta xác định vị trí là trung tâm của vùng Đồng băng sông Cửu Long.
Dù sao, cũng cần tìm hiểu hai chữ Tây Đô; xuất hiện từ thời nào và ai là người xướng gọi đầu tiên để đến ngày nay, nhiều người vẫn quen gọi là Tây Đô. Theo các bài báo Cần Thơ xưa của nhà nghiên cứu Sơn Nam đăng liên tiếp nhiều kỳ trong báo Cần Thơ vào năm 1994, thì từ tháng 2 năm 1919, trên tạp chí Nam Phong đã có đăng loạt bài du ký Một thoáng ở Nam kỳ của ông Phạm Quỳnh. Đây là nhà văn, nhà báo đầu tiên ở Bắc Hà vào viếng miền Nam. Tác giả Phạm Quỳnh lúc bấy giờ còn trẻ, chưa vào Huế làm quan cho triều đình.
Nhà nghiên cứu Sơn Nam trích lại một đoạn trong bài báo của ông Phạm Quỳnh hồi ấy từng có nhã ý phong gọi tỉnh Cần Thơ là Thủ đô miền Tây. Đoạn trích bài báo ấy như sau:
“Trước khi từ biệt các bạn Long Xuyên, nhân bữa chủ nhật, Phủ Đài (chủ quận Châu Thành, Long Xuyên) dắt đi chơi Cần Thơ. Từ Long Xuyên ra Cần Thơ ước 60 cây lô mét (nguyên văn) đi bằng xe hơi. Phải cái xe hơi chạy khí chậm nên đi mất từ sáng đến ngót trưa mới tới nơi, nhưng chậm vì đỗ ở Ô Môn mất non một giờ đồng hồ. Ô Môn là một quận lớn, giàu có nhất trong hạt Cần Thơ, ở vào khoảng đường từ Long Xuyên đến Cần Thơ. Cai trị quận Ô Môn là quan đốc phủ Nguyễn Đăng Khoa, người đã có tuổi mà tính tình vui vẻ lắm. Khi trở về, ngài còn giữ ăn cơm chiều, nói chuyện khoái trá lắm. Ngài khi xưa còn theo quân thứ ở mấy tỉnh Bắc kỳ và khắp cả các tỉnh Trung kỳ, có tài săn bắt ít người bằng. Hiện chỗ ngài ngồi chơi còn bài la liệt các thứ súng. Ngài chỉ một cây súng lớn mà nói rằng: “Cây súng này tôi đã từng bắn mấy chục con hổ ở cùng Bình Thuận, Phú Yên đây”.Rồi ngài kể chuyện một bữa bắn được con hổ to lớn lạ thường, khi nó vươn mình ra từ đầu đến cuối đuôi có tới 6 thước tây, nó làm kinh hoàng cả một vùng đó, ăn hại không biết bao nhiêu người và sức vật, người dân đã cho là hổ thần, đành chịu không ai bắn nổi. Nhà săn bán đại tài thấy những miếng nguy hiểm hay liều mình. Ngài bèn cùng mấy người đầy tớ giỏi đem chiếc súng lớn vào rừng. Quả gặp hổ thần thật… Quan đốc phủ nói chuyện vui quá, muốn ngồi nghe mãi không chán.
Con đường từ Long Xuyên đến Cần Thơ tốt lắm, giữa đổ đá, hai bên trồng cây, cái xe bon bon chạy giữa, coi phong cảch rất là ngoạn mục. Vả lại, đường bộ trong Nam kỳ này ở đâu cũng tốt như vậy: chẳng bù với đường Bắc kỳ, thứ nhất là đường Trung kỳ, xe hơi chạy có chỗ tưởng bổng lên đến ngọn núi, có chỗ tưởng xô xuống vực sâu.
Cần Thơ có cái vẻ mỹ miều xinh xắn, sạch sẽ phong quan, thật xứng tên làm tỉnh đầu ở miền Tây. Đường phố thênh thang, cửa nhà san sát, các nhà buôn Tây cũng nhiều hơn tỉnh khác, có chỗ coi xinh đẹp hơn ở Sài Gòn. Tới Cần Thơ, vào thăm ông huyện Võ Văn Thơm, chủ bút An Hà Nhật báo. Ông là người đứng tuổi, tính tình trầm mặc, chuyên về kinh tế học. Ông không thích chữ nho, giữ cái thuyết muốn lấy chữ Pháp làm quốc văn. Ông kể cái lẽ sở dĩ làm sao ông không ưa Hán tự, thì nói rằng thuở nhỏ đã từng học 5 năm mà chẳng thấy tấn tới gì, ông kết luận rằng chữ nho quyết không phải là cái lợi khí cho sự học vấn. Tôi nói rằng đó có lẽ là bởi cái phép dạy học sai lầm, chứ không phải tại lỗi tại chữ nho, ngày nay có cách học giản dị, chỉ một vài năm là thông. Xem ra ông không tin lời tôi”.
Như thế thì chúng ta đã thấy chính hoàn cảnh địa lý, lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của tỉnh Cần Thơ đã từng tồn tại phát triển qua nhiều thời kỳ, tạo cơ sở, để trước nay, không ai bảo ai, mà nhiều người ở nhiều nơi vẫn thường gọi Cần Thơ là Tây Đô.
Nguồn: TuoitreTayDo. Trích trong quyển: Địa Chí Cần Thơ Xuất bản năm 2002
Ngày xuân trên đất Tây Đô, du khách sẽ thấy đây là thành phố trẻ đầy sinh lực, tuy nhiên, trong tương lai đô thị này sẽ hoành tráng gấp 5-10 lần hiện nay bởi theo định hướng phát triển, đây là một thành phố mang tầm cỡ quốc tế.
So với các đô thị khác ở ĐBSCL, Cần Thơ sinh sau đẻ muộn. Những Vĩnh Long, Mỹ Tho, Hà Tiên… có lịch sử hình thành phát triển hơn 300 năm, còn Cần Thơ đến nay chỉ mới 145 năm thành lập.
Trong Cần Thơ xưa và nay (xuất bản năm 1967) của Nhà biên khảo Huỳnh Minh có viết: “Theo nghị định của Soái phủ Sài Gòn năm 1876, vùng Phong Phú lập thành tỉnh mang tên Cần Thơ. Tòa bố chánh đặt tại tỉnh lỵ Cần Thơ”. Trước khi Pháp xâm chiếm Nam Kỳ, vùng đất Cần Thơ lúc đó chỉ là một đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Vĩnh Long. Qua lời kể của những các cụ già về Cần Thơ xưa thì khoảng 100 năm trước, trung tâm tỉnh lỵ Cần Thơ lúc ấy còn hoang sơ lắm. Cách nay gần 15 năm, trong một cuộc triển lãm ảnh về Cần Thơ xưa tại Thư viện TP.Cần Thơ, tôi thấy nhiều bức ảnh rất quý về đô thị Cần Thơ khoảng 100 năm trước.
Chẳng hạn ảnh một hiệu ăn của người Hoa ở Cần Thơ tên Chui Hoa. Quan sát kỹ bức ảnh, có thể thấy đây là quán cơm, hủ tíu… Người đàn ông ăn mặc tươm tất có thể là chủ quán, một người mặc áo bà ba là nhân viên phục vụ, chạy bàn ngồi trước quán. Điều lý thú là trong quán có người đàn ông ở trần, trẻ em có đứa ở truồng…, quán treo rất nhiều thịt, cá, gà vịt đã làm sẵn… Theo những người am hiểu, quán này nằm ở đường Lê Lợi xưa dọc sông Cần Thơ, ở phường Tân An hiện nay.
Một bức ảnh khác ghi lại con rạch trước cổng Bệnh viện Cần Thơ trên đường Nguyễn An Ninh hiện nay. Bây giờ là một đại lộ đẹp của trung tâm TP, tuy nhiên, trăm năm trước nơi đây có con rạch chạy gần đến bệnh viện.
Một bức ảnh khác nữa có giá trị lịch sử lớn, là tấm ảnh ghi lại lễ khánh thành Bệnh viện Cần Thơ năm 1906. Trong ảnh có những người cảnh sát Tây đứng nghiêm trang kiểu lễ tân mặc đồng phục trắng, quan khách đến dự rất đông, bệnh viện là những dãy nhà lá thô sơ, trước bệnh viện là những ao vũng, có thể nơi đây cũng là nơi tiếp giáp với con rạch chạy từ sông Cần Thơ vô rạch đến bệnh viện khi khánh thành. Một bức ảnh khác do cố nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Văn Bé chụp khoảng năm 1920, đó là cảnh trường Trung học College, sau đổi tên là Trường trung học Phan Thanh Giản, nay là Trường trung học Châu Văn Liêm. Trường này nằm ở trung tâm quận Ninh Kiều ngày nay.
Tôi đã may mắn gặp cụ Trần Văn Bé trong một lần triển lãm ảnh về Cần Thơ, khi hỏi cụ về bức ảnh Trường College, cụ bảo: “Vào những năm 1920, trường xây dựng xong nhưng dân cư quanh vùng này còn thưa thớt lắm”. Trong bức ảnh, trường như nằm trên một cánh đồng hoang, còn ngày nay chỗ này là trung tâm đô thị với “tấc đất tấc vàng”. Cũng theo cụ Trần Văn Bé, vào những năm 20 của thế kỷ trước, dân cư Cần Thơ thưa thớt, chỉ tập trung gần chợ Cần Thơ nơi có những dãy phố buôn bán của người Hoa, do gần chợ nên sầm uất. Còn lại, nhà nằm ven những con đường nội ô phần lớn là nhà trệt thô sơ, chỉ có vài căn biệt thự của nhà giàu, quan chức, giáo chức, thông ngôn, thầy ký… Một số dinh thự, cơ quan do Pháp xây dựng như kho bạc, bến xe, trụ sở làm việc thường có kiến trúc na ná như biệt thự, một trệt một lầu, mái lợp ngói.
Ông Bùi Văn Tước, hơn 90 tuổi, tuy sống ở H.Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long, nhưng vào những năm 1930 đã tới Cần Thơ, ông cho biết: “Cần Thơ sau năm 1930 vẫn là một một tỉnh lẻ chưa phồn thịnh bằng Vĩnh Long, nhà cửa, dân cư thưa thớt. Phà qua sông là những chiếc phà tải trọng 10 - 20 tấn. Cây cầu sắt Sáu Thanh đường lên bến xe mới ngày nay xe đò chạy qua chỉ được một chiếc, chứ hai chiếc không qua mặt nhau được”.
Theo tôi tìm hiểu, phà Hậu Giang đã có từ năm 1900, tuy nhiên lúc ấy chỉ như chiếc đò lớn đưa người qua sông Hậu chứ không bề thế và hiện đại như sau này. Nhà văn Sơn Nam trong cuốn Văn minh miệt vườn xuất bản năm 1992 có viết: “Tiêu biểu cho “miệt vườn” của tỉnh Cần Thơ là làng Long Tuyền ở rạch Bình Thủy gồm 11.939 dân, làng Nhơn Ái (Phong Điền) với 10.464 dân. Mỗi làng của miệt vườn nói trên đông bằng dân số tỉnh lỵ Cần Thơ 10.000 người”.
Số liệu này nhà văn Sơn Nam dẫn từ tài liệu của Pháp năm 1899 có thể thấy vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, dân số tỉnh lỵ Cần Thơ quá ít dù người Pháp thành lập tỉnh lỵ đã khoảng 25 năm. Cần Thơ thời đó dân cư thưa thớt bởi so các đô thị lâu đời hơn như Sài Gòn, Chợ Lớn, khi đó là thành phố thuộc tỉnh Gia Định đầu thế kỷ 20 khoảng 180.000 người, Mỹ Tho khoảng 20.000, hai đô thị này tính tới đầu thế kỷ 20 đã có tuổi gần 200 năm, thì Cần Thơ mới 25 năm, dân số ít là đương nhiên. Theo nhà văn Sơn Nam, tính chung cả Nam Kỳ vào năm 1900 chưa được 3 triệu người.
"Hiểu xưa để biết nay", và mong rằng Cần Thơ ngày một đẹp hơn, hiện đại hơn khi được trở thành đô thị đặc biệt của vùng Tây Nam Bộ.
-Nguồn: Văn Kim Khanh, Theo thegioi.vn-
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
thành phố Cần Thơ
Các điều kiện tự nhiên như địa hình, khí hậu, thủy văn, tài nguyên nước, tài nguyên đất, đặc trưng sinh thái, môi trường… là những đặc trưng quan trọng ảnh hưởng đến quá trình phát triển của Thành phố này.
Địa hình
Thành phố Cần Thơ nằm ở trong vùng trung - hạ lưu và ở vị trí trung tâm đồng bằng sông Cửu Long, trải dài trên 65 km dọc bờ Tây sông Hậu, tổng diện tích tự nhiên 1.401,61 km2 , chiếm 3,49 % diện tích toàn vùng. Cần Thơ nằm toàn bộ trên khu vực bồi tụ phù sa lâu đời của sông Mê Kông với địa hình tương đối bằng phẳng. Cao độ trung bình phổ biến từ 0,2m đến 1m so với mực nước biển, một vài nơi có độ cao từ 1,5m đến 2m, địa hình thấp dần từ đất trồng ven sông Hậu, sông Cần Thơ về phía nội đồng (từ Đông Bắc sang Tây Nam). Do nằm cạnh sông lớn, nên Cần Thơ có mạng lưới sông, kênh, rạch khá dày. Thêm vào đó, thành phố còn có các cồn và cù lao trên sông Hậu như Cồn Ấu, Cồn Khương, Cồn Sơn, Cù lao Tân Lập.
Khí hậu
Thành phố Cần Thơ nằm trong vùng khí hậu của đồng bằng sông Cửu Long với với các đặc điểm chung như nền nhiệt cao và ổn định, biên độ nhiệt ngày và đêm nhỏ; khí hậu phân hóa thành hai mùa tương phản là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng năm đến tháng mười, mùa khô từ tháng mười một đến tháng tư năm sau. Nhiệt độ trung bình trong năm là 27oC, lượng mưa trung bình là 1.500 - 1.800 mm/năm, tổng số giờ nắng trong năm là 2.300 - 2.500 giờ, độ ẩm trung bình đạt 83%. Gió có 2 hướng chính là hướng Đông Bắc (mùa khô) và hướng Tây Nam (mùa mưa), tốc độ gió bình quân 1,8 m/s, thành phố Cần Thơ ít gặp gió bão nhưng thường có giông, lốc vào mùa mưa.
Dù chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa nhưng Cần Thơ có lợi thế về nền nhiệt độ, chế độ bức xạ nhiệt, chế độ nắng cao và ổn định theo hai mùa 4 trong năm. Các lợi thế này rất thuận lợi cho việc phát triển hệ thống nông nghiệp nhiệt đới có năng suất cao, với nhiều chủng loại cây trồng, vật nuôi, tạo nên sự đa dạng trong sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, mùa mưa thường đi kèm với ngập lũ ảnh hưởng tới nhiều diện tích của thành phố; mùa khô thường đi kèm với việc thiếu nước tưới, gây khó khăn cho sản xuất và sinh hoạt, nhất là khu vực bị ảnh hưởng của mặn, phèn làm tăng thêm tính thời vụ cũng như nhu cầu dùng nước không đồng đều giữa các mùa của sản xuất nông nghiệp.
Tài nguyên nước
Tài nguyên nước trên địa bàn thành phố khá dồi dào, chủ yếu lấy từ nguồn nước mặt, nước mưa và nước ngầm.
Theo thống kê, trên địa bàn thành phố Cần Thơ có tổng cộng 13 sông. Các sông chính bao gồm: sông Hậu (sông liên quốc gia), sông Đờn Dang, sông Rạch Sỏi, sông Ô Môn, sông Cần Thơ, sông Bình Thuận. Hiện nay, việc khai thác nước mặt ở Cần Thơ chủ yếu lấy từ nguồn nước sông Hậu, sông Cần Thơ....thành phố có khoảng 52 công trình khai thác nước mặt với tổng công suất khoảng 3.459.000 m3 /ngày đêm, cung cấp nước tưới cho mùa khô và có ý nghĩ lớn đối với giao thông đường thủy.
Nước mưa có tổng lượng tương đối lớn, với lượng mưa trung bình 1500 - 1800mm/ năm, có thể sử dụng cho nhiều mục đích như sinh hoạt, tưới tiêu… góp phần giúp tiết kiệm sử dụng tài nguyên nước ngầm và nước mặt trong điều kiện biến đổi khí hậu và thiếu hụt nguồn nước từ thượng nguồn của các sông lớn.
Trữ lượng nước dưới đất tại thành phố Cần Thơ tồn tại trong 7 tầng chứa nước lỗ hổng phân bố đến độ sâu khoảng 400 - 500 m, trong đó các tầng chứa nước nhạt có khả năng khai thác gồm qp2-3, n22 và n21, các tầng chứa nước còn lại đa phần bị nhiễm mặn hoặc có chất lượng kém. Trữ lượng tiềm năng nước dưới đất (nước nhạt) tại thành phố Cần Thơ khoảng 1,5 triệu m3/ngày đêm, tập trung chủ yếu trong tầng chứa nước qp2-3, n22 và n21.
Tài nguyên nước trên địa bàn thành phố đáp ứng đủ nhu cầu phục vụ ăn uống, sinh hoạt và sản xuất của nhân dân, tuy nhiên, đang có dấu hiệu suy giảm về chất lượng nguồn nước. Đặc biệt, cần xem xét đến yếu tố lưu lượng nước đầu nguồn An Giang, Campuchia, hoạt động nông nghiệp ngày càng phát triển tại Campuchia là nguồn thải đáng kể ảnh hưởng đến chất lượng nước đầu nguồn của thành phố Cần Thơ trong tương lai. Hơn thế nữa cũng cần xem xét đến các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp, sinh hoạt gây ô nhiễm môi trường đất, nước trên chính địa bàn thành phố.
Thủy văn
Cần Thơ nằm ở vùng đất có sự bồi tụ phù sa của sông Cửu Long, có địa hình đặc trưng của đồng bằng. Thành phố có hệ thống sông ngòi, kênh, rạch khá dày, trong đó sông Hậu là con sông lớn nhất với tổng chiều dài chảy qua thành phố là 65 km, đoạn qua Cần Thơ, sông có chiều rộng khoảng 1,6 km, tổng lượng phù sa của sông Hậu là 35 triệu m 3 /năm. Sông Cần Thơ bắt nguồn từ khu vực nội đồng tây sông Hậu, có chiều dài khoảng 16 km, chiều rộng từ 280 - 350 m, đi qua các quận Ô môn, huyện Phong Điền, quận Cái Răng, quận Ninh Kiều và đổ ra sông Hậu tại bến Ninh Kiều. Sông Cần Thơ có nước ngọt quanh năm, vừa có tác dụng tưới nước trong mùa cạn, vừa có tác dụng tiêu úng trong mùa lũ và có ý nghĩa lớn về giao thông. Sông Cái Lớn dài 20 km, chiều rộng cửa sông 600 - 700 m, độ sâu 10 - 12 m nên có khả năng tiêu, thoát nước rất tốt .
Bên cạnh đó, Cần Thơ có hơn 158 sông, rạch lớn nhỏ là phụ lưu của 2 sông lớn là Sông Hậu và sông Cần Thơ đi qua thành phố và nối thành mạng đường thủy. Các sông rạch lớn khác là rạch Bình Thủy, Trà Nóc, Ô Môn, Thốt Nốt, kênh Tham Rôn và nhiều kênh lớn khác tại các huyện ngoại thành là Thốt Nốt, Vĩnh Thạnh, Cờ Đỏ và Phong Điền, cung cấp nước ngọt suốt hai mùa mưa và mùa khô, tạo điều kiện cho công tác thủy lợi và cải tạo đất cho hoạt động nông nghiệp.
Tài nguyên đất
Được bồi đắp thường xuyên của sông Hậu và các sông khác nên đất đai Cần Thơ tương đối màu mỡ. Diện tích đất phù sa chiếm 84% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, ngoài ra còn một số loại đất khác chủ yếu là đất nhiễm mặn ít, đất nhiễm phèn chiếm 16% diện tích còn lại. Nhìn chung khí hậu và thổ nhưỡng của Cần Thơ rất thuận lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp đa ngành với nhiều loại cây trồng và vật nuôi. Hiện nay diện tích tự nhiên của thành phố là 1.401,61 km2, qua hơn 15 năm phát triển, thành phố Cần Thơ đã tập trung khai thác quỹ đất hợp lý và có hiệu quả, Đất nông nghiệp có 115.320 ha, chiếm 81,85% diện tích đất tự nhiên, đất phi nông nghiệp có 25.378 ha, chiếm 18,01% diện tích đất tự nhiên, còn lại là đất chưa sử dụng.
Đặc trưng sinh thái
Về tổng quan, thành phố Cần Thơ có mức độ đa dạng sinh học trung bình. Cần Thơ không có tài nguyên rừng tự nhiên, tỷ lệ che phủ cây xanh trên địa bàn thành phố chiếm khoảng 16,19% diện tích. Đáng lưu ý nhất là hệ sinh thái đặc trưng gồm hệ sinh thái nông nghiệp và các hệ sinh thái ngập nước tự nhiên như các cồn, cù lao (cồn Khương, cồn Sơn, Cù lao Tân Lộc, cồn Ấu, cồn Cái Khế).
Cần Thơ hiện có khu du lịch sinh thái Phù Sa là cồn nổi trên sông Hậu, tại quận Cái Răng. Khu du lịch có diện tích 30 ha, hệ sinh thái bao gồm rừng bần chua hơn 15 ha với nhiều loài động thực vật hoang dã. Bên cạnh đó, một số khu sinh thái khác như vườn cò Bằng Lăng tại quận Thốt Nốt có diện tích 22,5 ha với hơn 300.000 cá thể cò các loại; Cù lao Tân Lộc có đất đai phì nhiêu màu mỡ nhờ phù sa do nước lũ mang đến, sinh cảnh đặc trưng tại cù lao là sinh cảnh vườn gia đình, dọc hai bên bờ cù lao là lục bình, bần, các vườn mận, xoài, trên sông và một phần ba diện tích đầu cồn đã được tận dụng để phát triển các bè cá và nuôi cá công nghiệp.
Hệ sinh thái nông nghiệp: động vật chăn nuôi ít, chủ yếu là trâu, bò, lợn, gà, vịt..., hoạt động nuôi trồng thủy sản gồm khoảng 120 loài cá với gần 50 loài có giá trị kinh tế. Những loài này thường chiếm sản lượng và chất lượng cao, trong đó có nhiều loài đang là đối tượng nuôi quan trọng ở địa phương như cá 6 tra, cá leo, cá kết… Thêm vào đó, có khoảng 60 loài cây được trồng làm thức ăn và dược liệu, với lúa nước là loài cây lương thực ưu thế, các giống cây ăn trái chính là nhãn, cam, chôm chôm, bưởi, dâu, măng cụt…
Môi trường
Đối với Cần Thơ, vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nhất là ô nhiễm nước do các hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn thành phố; hoạt động nuôi trồng thủy sản; chăn nuôi gia súc, gia cầm, chất thải từ sinh hoạt thường ngày của người dân sống ven các con sông, hệ thống kênh, rạch.
Từ kết quả quan trắc chất lượng nước mặt ô nhiễm tập trung tại thành phố Cần Thơ cho thấy nước mặt tại các kênh rạch nội ô thành phố Cần Thơ đã bị ô nhiễm hữu cơ và vi sinh; tuy nhiên, mức độ ô nhiễm chưa nặng và không thay đổi nhiều qua các năm. Đối với chất lượng nước ngầm, các thông số chỉ có 02/13 thông số Quan trắc vượt Quy chuẩn cho phép, cụ thể là thông số Coliform và Clorua. Thông số Coliform tại các quận huyện đều vượt Quy chuẩn cho phép, cao nhất tại huyện Vĩnh Thạnh vượt quy chuẩn quy định đến 29 lần; đối với chỉ tiêu Clorua, có 02/09 quận, huyện có giá trị vượt quy chuẩn cho phép, cụ thể huyện Vĩnh Thạnh vượt 1,6 lần và huyện Thới Lai vượt 1,2 lần.
Chất lượng môi trường không khí tại thành phố Cần Thơ nhìn chung còn tốt, hầu hết các thông số tại các điểm quan trắc đều đạt so với các quy chuẩn so sánh. Tuy nhiên, ở các điểm có mật độ giao thông cao, các công trình xây dựng thì nồng độ bụi lơ lửng, các chất gây ô nhiễm không khí như NO2, SO2 thường vượt mức cho phép vào các giờ cao điểm. Thêm vào đó, tình trạng ô nhiễm tiếng ồn cũng xảy ra gây ảnh hưởng đến khu vực dân cư và cộng đồng.
Mỗi ngày, thành phố có khoảng 650 tấn rác thải sinh hoạt được thu gom, đạt từ 85% - 90%, phần còn lại người dân tự chôn lấp hoặc đốt. Việc thu gom và xử lý chất thải rắn tại tại thành phố Cần Thơ đã và đang được cải thiện đáng kể từ khi Nhà máy đốt rác phát điện Cần Thơ tại xã Trường Xuân, huyện Thới Lai, đi vào hoạt động tháng 12/2018. Nhà máy đốt rác phát điện Cần Thơ đã xử lý được khoảng 175.000 tấn rác thải sinh hoạt của thành phố, tạo ra 53,2 triệu kWh điện. Hiện nay, nhà máy xử lý từ 400 - 430 tấn rác mỗi ngày, chiếm khoảng 70% lượng rác thải hàng ngày của Cần Thơ, giúp cải thiện hiệu quả môi trường thành phố.
-Nguồn:https://www.monre.gov.vn/-
Các di sản văn hóa phi vật thể quốc gia ở Cần Thơ
Nghệ thuật đờn ca tài tử có nguồn gốc từ nhạc cung đình Huế, được ra đời vào khoảng cuối thế kỷ XIX. Hệ thống bài bản của đờn ca tài tử rất phong phú, đa dạng; được các nhóm nghệ nhân tiên phong, bậc thầy thống kê, phân nhóm gồm 20 bài bản Tổ, gọi là “Nhị thập huyền Tổ bản”, gồm: 3 bài thuộc điệu thức Nam, 6 bài thuộc điệu thức Bắc, 7 bài thuộc điệu thức Bắc Lễ và 4 bài thuộc điệu thức Oán. Nhạc cụ trong nghệ thuật đờn ca tài tử khá phong phú, nhưng thường quen thuộc là bộ tứ tuyệt: kìm, cò, tranh, bầu cùng với song lang (loan). Nghệ thuật đờn ca tài tử thịnh hành và lan tỏa khắp 21 tỉnh, thành Nam Bộ. Trong lịch sử của nghệ thuật đờn ca tài tử, vùng đất Cần Thơ có nhiều đóng góp rõ nét, thể hiện ở các ban tài tử ra đời sớm nhất, thầy tuồng, nghệ nhân, nghệ sĩ giỏi nghề, trổi vượt... Hiện nay, phong trào đờn ca tài tử ở Cần Thơ phát triển khá mạnh, đều khắp ở các địa phương trong thành phố.
Ngày 5-12-2013, UNESCO công nhận Nghệ thuật Ðờn ca tài tử Nam Bộ của Việt Nam là DSVHPVT đại diện của nhân loại.
Chợ nổi Cái Răng tọa lạc trên sông Cần Thơ, đoạn chảy qua địa bàn quận Cái Răng, cách trung tâm thành phố chừng 6km. Chợ hình thành từ những năm đầu của thế kỷ XX, nổi bật cho loại hình chợ nổi ở miền Tây Nam Bộ.
Ðến nay, chợ nổi Cái Răng vẫn là chợ nổi nổi tiếng, được thế giới biết nhiều và trở thành sản phẩm du lịch đặc trưng của Tây Ðô.
Trải qua hơn 100 năm hình thành và phát triển, việc mua bán, sinh hoạt của thương hồ dần hình thành nên nét văn hóa độc đáo - Văn hóa Chợ nổi Cái Răng. Văn hóa đó được thể hiện ở phong tục tập quán, tín ngưỡng, tri thức dân gian, qua việc mua bán, quảng bá sản phẩm đến thờ cúng, giao tiếp của thương hồ...
Với nét văn hóa đặc trưng đó, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTT&DL) đã đưa Văn hóa Chợ nổi Cái Răng vào Danh mục DSVHPVT quốc gia ngày 10-3-2016.
Ðình Bình Thủy tọa lạc tại phường Bình Thủy, quận Bình Thủy, đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia. Ngoài kiến trúc nghệ thuật độc đáo, mỗi năm, đình đáo lệ Kỳ yên 2 lần, gọi là Thượng điền và Hạ điền. Kỳ yên Thượng điền là lễ hội lớn nhất trong năm ở Ðình Bình Thủy, diễn ra từ ngày 12 đến 14-4 âm lịch, trang nghiêm phần lễ như Lễ Ðưa Sắc Thần du ngoạn, Lễ Tế Thần Nông, Lễ Thay Khăn Sắc Thần, Lễ Xây chầu - Ðại bội, Lễ Tế Bàn Soạn, Lễ Túc Yết, Lễ Tế Sơn Quân... và nhiều hoạt động phần hội rộn ràng. Kỳ yên Hạ điền diễn ra vào ngày 14 và Rằm tháng Chạp âm lịch, phần lễ tương tự nhưng có giản lược.
Lễ hội Kỳ yên Ðình Bình Thủy được Bộ VHTT&DL đưa vào Danh mục DSVHPVT quốc gia ngày 30-1-2018.
Hò Cần Thơ được phân bố trên nhiều quận, huyện của TP Cần Thơ, tập trung ở địa bàn huyện Thới Lai, quận Ô Môn và quận Cái Răng. Ðây là loại hình hò hát dân gian có từ hơn 100 năm qua, hình thành từ quá trình lao động, sản xuất và sinh hoạt đời thường của người dân.
Hò Cần Thơ nhìn chung có 3 loại hình căn bản là hò mái dài, hò cấy và hò huê tình. Các điệu hò này mang những đặc trưng tiêu biểu của hò Nam Bộ, nhưng cũng có những nét riêng của vùng đất Cần Thơ.
Tại Quyết định số 446/QÐ-BVHTTDL ngày 29-1-2019, Bộ trưởng Bộ VHTT&DL đã đưa Hò Cần Thơ và Danh mục DSVHPVT quốc gia.
Cũng như các địa phương khác trong cả nước, từ xa xưa, người Cần Thơ đã dùng câu hát ru để trẻ em ngon giấc ngủ. Tiếng ru của bà, của mẹ, của chị dần đi vào tâm khảm của bao thế hệ người Việt ở Cần Thơ, ăn sâu vào tâm thức văn hóa một cách bền chặt. Ðiệu hát ru của người Việt ở Cần Thơ tạo được sắc thái riêng trong âm điệu, tiết tấu và nội dung lời ru. Với những giá trị tiêu biểu trong loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian, Bộ VHTT&DL công nhận Hát ru của người Việt ở Cần Thơ là DSVHPVT quốc gia vào ngày 30-9-2020.
Làng nghề làm bánh tráng Thuận Hưng thuộc phường Thuận Hưng, quận Thốt Nốt, TP Cần Thơ, có quá trình hình thành và phát triển khoảng 200 năm. Nhiều thế hệ người dân địa phương đã nối nghiệp, giữ nghề truyền thống, hình thành những giá trị văn hóa phi vật thể độc đáo trong thực hành làm bánh. Ðó là các công đoạn, bí quyết từ chọn nguyên liệu đến làm bột, tráng bánh, pha bánh... để làm nên những loại bánh tráng ngon như bánh tráng mặn, bánh tráng lạt, bánh tráng ngọt, bánh tráng dừa... Với những giá trị độc đáo đó, Bộ VHTT&DL đưa Nghề làm bánh tráng Thuận Hưng vào Danh mục DSVHPVT quốc gia, ngày 6-3-2023, loại hình nghề thủ công truyền thống.
Khi nhắc tới địa danh vô cùng nổi tiếng như chợ nổi Cái Răng, bến Ninh Kiều thì mọi người ngay lập tức sẽ nghĩ ngay tới Cần Thơ. Đây là vùng đất mệnh danh chính là Tây Đô, điểm đến Cần Tây này khoác lên mình nét đẹp mê hoặc, quyến rũ và nên thơ.
Khi tới Cần Thơ thì bạn sẽ tận hưởng được cảm giác lênh đênh ở trên sông Hậu, bình yên, nét đẹp lãng mạn và thơ mộng đẹp tới nao lòng khi mà ngắm nhìn bình minh với khung cảnh mặt trời ở trên cao phía khu rừng tràm sư. Bên cạnh khung cảnh tươi đẹp, văn hóa Cần Thơ là nét đặc trưng trong vùng đất bình yên. Sau đây là nét văn hóa của Cần Thơ mà bạn khám phá.
Đây là thủ phủ mệt vườn cây sông nước, Cần Thơ chính là nơi tập trung nhiều vườn trái cây, tươi tốt. Hiện đó, du lịch miệt vườn là nét đặc trưng cho văn hóa của Cần Thơ, hấp dẫn khách du lịch tới thăm quan. Vườn trái cây tại Cần Thơ rộng lớn, nổi tiếng với các trái cây và đặc sản, hoạt động đậm chất của Nam Bộ là vườn trái cây huyện Phong Điền. Vườn trái cây nổi tiếng phục vụ khách du lịch như là vườn du lịch Vàng Xáng, vườn Hạ Châu, Mỹ Khánh …. Khi tới đây, bạn sẽ tận mắt nhìn nhiều loại trái cây khác nhau như măng cụt, ổi, sầu riêng … với không gian bắt mắt, gần gũi và thư thái.
Nền ẩm thực là yếu tố mang lại phong phú, đa dạng, nổi bật cho nền văn hóa của Cần Thơ. Món ăn mang hương vị vô cùng thơm ngon, chế biến cầu kỳ do người đầu bếp kinh nghiệm hấp dẫn khách khi dịp tới ghé thăm miền tây. Đây là thủ phủ miệt vườn của sông nước Cửu Long, trung tâm nền văn hóa của khu vực. Do đó, Cần Thơ chính là nơi tập trung của nhiều người dân đến học tập, làm ăn và sinh sống. Người dân luôn mang theo món ăn của vùng đất quê hương quên đi việc xa quê. Chính lý do tạo ra đa dạng và phong phú cho nền ẩm thực của Cần Thơ. Các món ăn vùng đất của Tây Đô kết tinh từ các món đặc sản của địa phương khu vực đồng sông Cửu Long.
Món ăn rất tiêu biểu được khách du lịch yêu thích khi ghé thăm điểm đến Cần Thơ như bánh xèo, bánh cống, canh chua linh bông điên điển, nem nướng, lẩu bần ….
Chợ nổi với các phương thức về bán hàng đa dạng và độc đáo tạo ra nét văn hóa rất đặc biệt, ấn tượng cho Cần Thơ. Khu chợ nổi chính là loại hình rất quen thuộc trong tình miền Tây. 1 trong các chợ nổi nổi bật và độc đáo ở Cần Thơ là chợ Cái Răng. Đây là cái tên rất đầu tiên hành trình của vùng đất Tây Đô của rất nhiều bạn trẻ.
Cái Răng buôn bán trái cây, thực phẩm ăn uống, hàng hóa, đặc sản vùng đồng bằng của sông Cửu Long bằng phương tiện ở sông xuống ghê. Khi tới chợ này, bạn được hòa mình, không khí của buổi chợ, quan sát, tìm hiểu nét sinh hoạt nhiều gia đình hồ với các thế hệ chung sống. Lối sinh hoạt kết hợp màu sắc hoa tươi, trái cây, món ăn tạo ra bức tranh nhiều màu sắc, rực rỡ, đốn tim khi dịp ghế thăm khu chợ nổi.
Là trung tâm của nền văn hóa, thủ phủ của miệt vườn ở khu vực Sông Cửu Long. Tỉnh Cần Thơ hiện trở thành điểm đến hấp dẫn khách du lịch, được nhiều người yêu thích. Nền văn hóa ở Cần Thơ đa dạng, phong phú, độc đáo với các nét đặc trưng, riêng biệt. Hy vọng với chia sẻ trên đây, bạn sẽ hiểu hơn nét văn hóa đặc trưng và độc đáo ở Cần Thơ.
Nằm cách thành phố Cần Thơ khoảng 6km, chợ nổi Cái Răng là chợ đầu mối chuyên trao đổi, mua bán các mặt hàng nông sản, trái cây, thực phẩm, ăn uống đồng thời là địa điểm tham quan mang đậm bản sắc vùng sông nước của thành phố Cần Thơ. Điều đặc biệt của chợ là các ghe hàng trên sông đều có một cây chèo bẻo, trên đó có treo mặt hàng họ bán với mục đích “quảng cáo”. Chiếc ghe, xuống như “căn hộ di động” trên sông nước với đầy đủ tiện nghi, chậu cây cảnh, vật nuôi, xe gắn máy. Nếu muốn tìm hiểu cuộc sống của người thương hồ nơi đây, bạn hãy hòa mình vào không khí tấp nập của chợ nổi Cái Răng.
Tọa lạc trên đường đường Bùi Hữu Nghĩa phường Bình Thủy, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ, nhà cổ Bình Thủy được thiết kế với 5 gian 2 mái, mang kiến trúc thời Pháp được xây dựng năm 1870. Nhà cổ đã, đang và sẽ giữ được những giá trị văn hóa và lịch sử được lưu giữ qua dòng thời gian. Bên ngoài nhà cổ trồng nhiều cây và hoa làm không gian vừa cổ kính, vừa tươi mới.
Đến Cần Thơ, bạn đừng quên ghé thăm bến Ninh Kiều – Địa danh du lịch, văn hóa nổi tiếng của thành phố. Tọa lạc ở bờ phải sông Hậu, nằm giữa ngã ba sông Hậu và sông Cần Thơ và tiếp giáp với đường Hai Bà Trưng, quận Ninh Kiều, bến Ninh Kiều đã trở thành biểu tượng của thành phố Cần Thơ. Với vẻ đẹp nên thơ, trữ tình, bến Ninh Kiều không chỉ đi vào cuộc sống của người dân miền sông nước mà còn đi vào thơ ca và lòng người. Từ bến Ninh Kiều, du khách có thể dễ dàng đi thăm các địa điểm du lịch khác.
Làng du lịch Mỹ Khánh được xem như một đồng bằng sông Cửu Long thu nhỏ – đây là một điểm du lịch sinh thái nổi tiếng ở Cần Thơ. Ghé qua đây, bạn hãy thưởng thức trái cây đủ loại trong miệt vườn và các món ăn đặc sản, tham quan làng nghề truyền thống và nghe câu ca hát dân ca Nam Bộ nhé!. Đồng thời bạn đừng bỏ qua các trò chơi dân gian như leo cây, nhảy bao bố, đua heo,…
Cầu Cần Thơ là cây cầu bắc qua sông Hậu, nối thành phố Cần Thơ và tỉnh Vĩnh Long, tại thời điểm hoàn thành năm 2010, đây là cây cầu dây văng có nhịp chính dài nhất tại khu vực Đông Nam Á, được khởi công xây dựng ngày 25/9/2004. Nhìn từ trên cao xuống, cầu Cần Thơ như mái tóc dài của cô gái đang tuổi xuân thì xõa xuống dòng sông Hậu. Khoảng cách hai bờ sông Hậu lớn hơn sông Tiền khiến cây cầu vừa “trải dài “ ra, vừa cao hơn, thật kỳ vỹ đến ngỡ ngàng.
Bãi biển Cần Thơ là bãi biển nhân tạo dài 400m. Từ biển, khách tham quan có thể ngắm cầu Cần Thơ với khoảng cách khá gần. Bạn có thể thử chơi các trò chơi dưới nước hấp dẫn như: Motor nước, chèo thuyền kayak, phao chuối…hay thuê cao tốc chạy dọc bãi biển.
Nằm cách Thành phố Cần Thơ khoảng 60km, đi theo Quốc Lộ 91, qua khỏi huyện Ô Môn, đến huyện Thốt Nốt đến cầu Bằng Lăng, qua khỏi cầu quẹo trái vào, bạn sẽ tới được Vườn cò Bằng Lăng. Vé vào cổng khách Việt Nam 10.000đ/ người , khách Nước ngoài 20.000đ/ người. Ở đây có rất nhiều loại cò như: cò ruồi, cò cá, cò ngà, cò ma, cò xanh, cò lép, cò đúm, cò sen, cò quắm… Đây là một trong những sân chim lớn nhất nơi miệt vườn chín dòng sông.
Miệt vườn trái cây là nét đặc trưng của vùng sông nước Cần Thơ, thời điểm đi du lịch miệt vườn vào cuối tháng 5 đến đầu tháng 6 khi trái cây đang chín rộ.
Địa chỉ các miệt vườn tham khảo cho bạn như Mỹ Khánh, vườn nhà ông Sáu Dương, vườn lan Bình Thủy, vườn vòng cung trên các tuyến sông Phong Điền, Phụng Hiệp và nhiều vườn du lịch gia đình khác ở Ô Môn, Thốt Nốt.
Làng hoa Bà Bộ với diện tích 20ha thuộc quận Bình Thủy. Ở đây có nhiều loại hoa khác nhau nhưng chủ yếu là cúc vạn thọ, hướng dương, hoa trang, hoa mai vàng, hoa hồng. Du khách ghé thăm làng hoa có thể chụp hình thoải mái.
Nằm cách trung tâm thành phố Cần Thơ khoảng 1km về phía Tây sông Hậu, chợ Tây Đô là trung tâm buôn bán lớn của các tỉnh Nam Bộ, đồng thời cũng là điểm vui chơi giải trí hấp dẫn không thể bỏ qua cho du khách khi du lịch Cần Thơ. Chợ có các dịch vụ ăn uống, ẩm thực, giải trí náo nhiệt vào ban đêm. Đồng thời đây cũng là đầu mối buôn bán nhiều mặt hàng khác nhau.
Thiền viện Trúc Lâm Phương Nam nằm cách trung tâm thành phố khoảng 15km, tọa lạc tại xã Mỹ Khánh, huyện Phong Điền. Cảnh quan và bản sắc văn hóa kiến trúc thời Lý – Trần ở ngôi chùa rộng nhất miền Tây sẽ làm đem đến cho bạn những cảm giác bình yên khi đặt chân tới.
Bảo tàng Cần Thơ tọa lạc ngay số 1 Đại Lộ Hòa Bình, phường Tân An, quận Ninh Kiều. Với quy mô rộng, Bảo tàng trưng bày rất nhiều hiện vật cổ về đất nước, con người Cần Thơ cũng như vùng đồng bằng sông Cửu Long qua nhiều thời kỳ khác nhau.
Nhắc đến Cần Thơ không thể không nhắc đến Bánh tét lá Cẩm. Bánh mang hương vị gia truyền Việt, đậm nét văn hóa Việt. Bánh tét được làm từ gạo nếp thơm trắng hảo hạng hòa quyện vào nước lá Cẩm được trồng tại vùng đất nơi đây. Bánh có vỏ ngoài màu tím sẫm của nước lá Cẩm trông thật bắt mắt người nhìn, độ dẻo thơm ngọt ngào của gạo nếp thật sự khiến người ta hài lòng. Và phải nói đến nhân bánh, nhân bánh có 4 loại nhân bánh: nhân thập cẩm, nhân mỡ, nhân đậu ngọt và cuối cùng là nhân chuối ngọt. Nhân bánh đa dạng phù hợp với nhiều thực khách ăn kiêng hoặc thích ăn mỡ.
Ai đã về Cần Thơ chắc chắn phải thử ngay món nem nướng Cái Răng Được coi là đặc sản Cần thơ, Món ăn đặc sản này tuyệt nhiên không làm phụ lòng thực khách vì quá ngon. Nem nướng cái răng vừa dai dai vừa giòn giòn, có vị ngọt của thịt, có hương thơm từ gia vị được tẩm ướp theo công thức gia truyền, thêm nữa là vị béo béo bùi bùi. Cắn ngập răng một miếng Nem nướng nóng là không thể cưỡng lại được vị ngon của loại đặc sản nổi tiếng Cần thơ này.
Để làm được ốc nướng tiêu xanh thì phải chọn đúng loại ốc bươu sông có ở Cần thơ. Ốc phải đặt độ to nhất định ăn mới đã miệng. Ốc chỉ đơn giản là làm sạch và đem nướng qua cho ốc mở miệng sau đó cho gia vị vào ốc. Nhưng lại cầu kỳ ở chỗ dùng tiêu xanh để nướng thì tiêu phải xanh như thế nào, nguyên liệu gia vị có công thức ra sao cho vừa thơm ngon béo béo lại thêm vị cay cay tê tê và độ chín vừa phải không bị quá chín thì lại là bí quyết của người dân Cần Thơ.
Nếu có ghé qua Cần Thơ, bạn nhất định phải thử món đặc sản nức tiếng Ốc nướng tiêu xanh này nhé.
Từ điển tiếng Việt của người Việt Nam rất phong phú, đó là người ta thường đặt tên cho món ăn qua hình thức của nó. Bánh Cống Cần Thơ cũng vậy, bánh được gọi là bánh Cống vì họ thấy giông giống cái cống. Bánh được làm từ bột gạo và bột bắp ngô. Nhân bên trong sẽ là thịt heo bằm trộn trứng gà và 1 con tôm to nằm ở giữa. Bánh được chiên giòn tan, sau đó ăn cùng với rau thơm chấm mắm chua ngọt.
Phải nói đây là một món ăn mà ăn vào rồi là không thể cưỡng lại được bởi độ giòn rụm, thơm thịt heo trứng và độ ngọt của thịt tôm chiên.
Nếu ghé qua Cần Thơ bạn nhất định không được quên thưởng thức món ăn ngon tuyệt này nhé.
Bánh đúc có nguồn gốc từ miền Bắc, nhưng sau đó lại tru du vào các tỉnh miền Trung. Người dân nơi đây thật là sáng tạo, họ đã sáng tạo bánh đúc đơn thuần của miền Bắc trở thành món ăn mang nét đặc trưng nơi quê hương họ sống khiến cho nơi đây trở nên nổi tiếng hơn với món đặc sản này. Bánh đúc nơi đây không chỉ còn là bột gạo xay nhuyễn mà là gạo ngon để chờ trong kho một thời gian dài mới được sử dụng, khi nấu bánh còn kết hợp thêm đặc sản nước cốt dừa miền Trung.
Và không thể thiếu đó là lớp thịt tôm băm nhuyễn trộn cùng thịt lợn băm, sau đó xào lên với mỡ hành, mộc nhĩ. Thêm các gia vị vừa phải, vậy là người dân nơi đây đã sáng tạo ra món đặc sản mới Cần Thơ.
Lẩu Bần nổi tiếng bởi đặc trưng của món lẩu này là vị chua chua thanh thanh của trái Bần. Trái Bần là biểu tượng của vùng quê “hương đồng gió nội”. Khi quây quần ăn món lẩu này cùng người thân, người ta càng yêu quý cái gọi là quê hương đất nước hơn bao giờ hết.
Chuối là loại quả dân dã Việt Nam, nhưng nay đã 3 lần được Thế giới vinh danh trong các lễ hội ẩm thực, đó chính là món Chuối nếp nướng. Vỏ bánh dai dai thơm mùi gạo nếp, bên trong là chuối nếp quyện với nước cốt dừa thơm thơm béo ngậy. Bánh sau khi được nướng lên, mùi hương tỏa đi khắp nơi khiến người ta chỉ ngửi thôi cũng thèm lắm rồi.
Bánh Hỏi heo quay hay còn gọi là Bánh Hỏi mặt võng vì bánh được làm từ bột gạo, được tạo hình như những mắt xích giống cái võng. Bánh Hỏi heo quay là một loại bánh đã có truyền thống từ rất lâu đời. Vỏ bánh mềm mềm dai dai, cuộn với thịt heo được tẩm ướp gia vị một cách công phu kèm thêm các loại rau sống và dưa chuột. Cắn một miếng Bánh Hỏi heo quay mềm dai đặm vị đảm bảo thực khách sẽ không thể rời món ăn đặc sản Cần Thơ này.
Thực ra bánh tằm bì tức là bánh có hình con tằm được ăn kèm với bì nên có tên như vậy. Bánh được làm từ bột gạo nếp, bột tẻ và bột năng, bánh cần phải được trộn với tỉ lệ chuẩn thì mới dẻo ngon.
Sợi mì dẻo dẻo được quyện với lớp mỡ óng ánh, thêm nước cốt dừa béo thơm kết hợp với sợi bì dai dai, nước mắm chấm thì sóng sánh. Món ăn ngon đã lưỡi này sẽ khiến người ta ăn rồi sẽ muốn ăn tiếp.
Ba khía rang me là món ăn đặc sản của Cần thơ, đây là món ăn mà người ta chỉ nhìn thôi cũng đã thèm lắm rồi. Ba khía nhìn giống cua, khi được chế biến và tẩm ướp và rang với lớp nước me sền sệt thì đây lại là món ăn cực kỳ khác biệt và tuyệt vời.
Nét đặc sắc trong ẩm thực Cần Thơ đầu tiên được thể hiện qua cách sử dụng các nguyên liệu. Nguyên liệu chế biến các món ăn ở Cần Thơ gần như là dân dã, tự nhiên, những loài rau dại, nhưng thứ trái mọc dọc bên các dòng sông hay dàn rau tự trồng sau vườn. Nếu bạn có dịp ghé Cần Thơ, bạn sẽ thấy ở đây mỗi căn nhà, mỗi khu vườn đều đầy ắp các loại rau. Khi chế biến một món ăn nào đó, bạn chỉ việc ra vườn, chọn những nguyên liệu cần sử dụng và bắt đầu nấu nướng.
Cái phong cách này của người Cần Thơ nói riêng và người miền Tây nói chung tạo cho du khách cảm giác như là họ đang đến gần hơn với thiên nhiên, được hòa mình vào cuộc sống bình dị nhưng không kém phần đẹp đẽ và thơ mộng của người dân nơi đây.
Khi bạn thưởng thức lẩu mắm miền tây, những loại rau ăn kèm hoàn toàn được hái ngoài tự nhiên, không phân bón, không thuốc trừ sâu. Những loại rau này sống và lớn lên nhờ vào những hạt phù sa sau những lần nước lên. Chúng cứ thế xanh mơn mởn và giữ đúng hương vị.
Nhờ vào những nguyên liệu tự nhiên và dân dã, những món ăn của thành phố Cần Thơ luôn hấp dẫn thực khách. Trải nghiệm vừa chọn nguyên liệu ngoài vườn vừa tự tay chế biến món ngon dưới sự hướng dẫn của những người đầu bếp nơi đây quả thật là một hoạt động thú vị.
Bên cạnh việc sử dụng các loại nguyên liệu tự nhiên, dân dã, ẩm thực Cần Thơ còn thu hút thực khách bởi cách chế biến mới lạ. Đó là từ những công thức truyền thống của ẩm thực Việt Nam, người Cần Thơ dựa trên nền tảng, biến tấu, chế biến các món ăn bằng những nguyên liệu thân thuộc của vùng đất mà họ sinh sống.
Món ăn được sáng tạo bởi phương pháp ấy phải kể đến đó là phở cá. Nơi vùng sông nước miền Tây, cá là một sản vật trời ban vô cùng phong phú và tươi ngon, bởi thế, thay vì sử dụng thịt gà hay thịt bò cho món phở như của người miền Bắc thì người Cần Thơ lại sử dụng cá lóc.
Ngoài ra, cùng một món ăn tương tự như ở những nơi khác nhưng ở Cần Thơ, các thực khách thưởng thức sẽ phải trầm trồ bởi hương vị mới lạ nhưng không kém phần thơm ngon. Đó là món Vịt nấu chao Thành Giao, Bánh hỏi heo quay Phong Điền, trâu luộc cơm mẻ, cá lóc hấp hèm và nhiều món ăn khác nữa.
Để hiểu được những nét đặc sắc trong văn hóa ẩm thực của Cần Thơ, các bạn không chỉ khám phá thêm được nhiều công thức nấu ăn kỳ lạ mà còn nắm được nguyên lý phối hợp nguyên liệu trong ẩm thực đấy nhé. Bạn có thể hiểu rằng, người Cần Thơ phải am hiểu ẩm thực lắm, phải trải qua nhiều thử nghiệm lắm, họ mới cho ra đời được một món ăn vừa hợp khẩu vị của mọi người mà lại có thể chế biến bằng các nguyên liệu địa phương có sẵn.
Với những nét đặc sắc trong ẩm thực, thành phố Cần Thơ hứa hẹn sẽ mang đến cho các bạn nhiều trải nghiệm ẩm thực hấp dẫn, làm say đắm lòng người như chính câu thơ “Cần Thơ gạo trắng nước trong – Ai đi đến đó lòng không muốn về”.