1. Tôn giáo
Nhà nước Việt Nam đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 38 tổ chức, hệ phái tôn giáo và 01 pháp môn tu hành thuộc 13 tôn giáo, với trên 24 triệu tín đồ (chiếm khoảng 27% dân số cả nước), 83.000 chức sắc, 250.000 chức việc, 46 trường đào tạo chức sắc tôn giáo (tương đương từ bậc trung cấp đến trên đại học), 25 ngàn cơ sở thờ tự.
Ở Việt Nam hiện có 06 tôn giáo lớn: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hoà Hảo.
* Phật giáo: Đạo Phật được truyền vào Việt Nam từ những năm đầu Công nguyên. Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, Phật giáo Việt Nam có bước phát triển mới cùng với nền độc lập của dân tộc. Thời Lý - Trần (từ đầu thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XIV) là thời kỳ cực thịnh của Phật giáo ở Việt Nam. Vua Trần Nhân Tông là người sáng lập ra Thiền phái Trúc lâm Yên tử mang bản sắc Việt Nam với tinh thần sáng tạo, dung hợp và nhập thế. Phật giáo Nam Tông truyền vào phía Nam của Việt Nam từ thế kỷ IV sau Công nguyên. Tín đồ Phật giáo Nam Tông chủ yếu là đồng bào Khơ-me, tập trung ở đồng bằng sông Cửu Long nên gọi là Phật giáo Nam Tông Khơ-me. Phật giáo hiện nay ở Việt Nam có khoảng hơn 11 triệu tín đồ, trên 17.000 cơ sở thờ tự, gần 47.000 chức sắc, 4 Học viện Phật giáo, 9 lớp Cao đẳng Phật học, 31 trường Trung cấp...
* Công giáo: Nhiều nhà nghiên cứu sử học Công giáo lấy năm 1.533 là thời mốc đánh dấu việc truyền đạo Công giáo vào Việt Nam. Từ năm 1.533 đến năm 1.614, chủ yếu là các giáo sĩ dòng Phan-xi-cô thuộc Bồ Đào Nha và dòng Đa minh thuộc Tây Ban Nha đi theo những thuyền buôn vào Việt Nam. Từ năm 1.615 đến năm 1.665, các giáo sĩ dòng Tên thuộc Bồ Đào Nha từ Ma Cao (Trung Quốc) vào Việt Nam hoạt động ở cả Đàng Trong (nam sông Gianh), Đàng Ngoài (Bắc sông Gianh). Hiện nay, Công giáo có khoảng 6,5 triệu tín đồ; 42 Giám mục, khoảng 4.000 linh mục, hơn 100 dòng tu, tu hội, tu đoàn với hơn 17.000 tu sỹ; có 26 giáo phận, 07 Đại Chủng viện.
* Tin Lành: Đạo Tin lành có mặt tại Việt Nam muộn hơn so với các tôn giáo du nhập từ bên ngoài, vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, do tổ chức Liên hiệp Phúc âm Truyền giáo (The Christian and Missionary Alliance-CMA) truyền vào. Năm 1911 được xem là thời mốc xác nhận việc truyền đạo Tin lành vào Việt Nam. Hiện đạo Tin Lành có khoảng 1,5 triệu tín đồ thuộc 10 tổ chức, hệ phái; khoảng 3.000 chức sắc; gần 400 cơ sở thờ tự; 1 Viện Thánh kinh thần học và 1 trường Kinh thánh.
* Đạo Hồi: Ở Việt Nam, tín đồ đạo Hồi chủ yếu là người Chăm. Theo tư liệu lịch sử, người Chăm đã biết đến đạo Hồi từ thế kỷ X - XI. Có hai khối người Chăm theo đạo Hồi: một là, khối người Chăm theo đạo Hồi ở Ninh Thuận, Bình Thuận là khối Hồi giáo cũ hay còn gọi là Chăm Bà-ni; hai là, khối người Chăm theo đạo Hồi ở Châu Đốc (An Giang), Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng Nai là khối đạo Hồi mới hay còn gọi là Chăm Islam. Hiện nay Đạo Hồi ở Việt Nam có khoảng trên 80.000 tín đồ, 89 cơ sở thờ tự, 1.062 chức sắc, chức việc, 7 tổ chức Hồi giáo được Nhà nước công nhận.
* Đạo Cao Đài: Là một tôn giáo bản địa. Giữa tháng 11/1926 (ngày 15/10 năm Bính Dần), những chức sắc đầu tiên của đạo Cao đài tổ chức lễ khai đạo tại chùa Gò Kén - Tây Ninh chính thức cho ra mắt đạo Cao đài. Hiện nay, đạo Cao Đài có khoảng 2,5 triệu tín đồ thuộc 10 hệ phái, 1 pháp môn tu hành, trên 10.000 chức sắc, hơn 1.200 cơ sở thờ tự hoạt động ở 37 tỉnh, thành phố.
* Phật giáo Hòa Hảo: Là một tôn giáo bản địa do ông Huỳnh Phú Sổ làm lễ khai đạo vào ngày 18/5 năm Kỷ Mão (ngày 4/7/1939) tại làng Hòa Hảo, tỉnh An Giang. Hiện nay Phật giáo Hòa Hảo có khoảng 1,3 triệu tín đồ, trong đó có 2.528 chức việc, 94 chùa ở 20 tỉnh, thành phố.
Các tôn giáo khác ở Việt Nam gồm Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, Cộng đồng Tôn giáo Baha’i Việt Nam, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Minh Sư đạo, Minh Lý đạo, Bàlamôn với tổng số gần 1.3 triệu tín đồ; ngoài ra, còn có khoảng 20 tổ chức Cao đài độc lập, khoảng 40 nhóm, hệ phái Tin lành…
Sinh hoạt tôn giáo của các tín đồ: Ở Việt Nam, 95% dân số có đời sống tín ngưỡng. Hàng năm có khoảng 8.500 lễ hội tôn giáo hoặc tín ngưỡng cấp quốc gia và địa phương được tổ chức.
Tín đồ tôn giáo hoàn toàn tự do trong việc thực hiện các nghi lễ tôn giáo, bày tỏ và thực hành đức tin tôn giáo của mình. Chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo được tự do trong việc thực hành các hoạt động tôn giáo theo giáo luật. Việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc được thực hiện theo quy định của giáo hội. Các tổ chức tôn giáo đã được công nhận tư cách pháp nhân trong những năm qua đều có sự phát triển về số lượng cơ sở giáo hội, về tín đồ, chức sắc nhà tu hành, về việc xây dựng mới hoặc tu bổ các cơ sở thờ tự, bảo đảm kinh sách, các hoạt động tôn giáo theo hiến chương, điều lệ và giáo lý, giáo luật. Các chức sắc, nhà tu hành được tham gia học tập, đào tạo ở trong nước và nước ngoài hoặc tham gia các sinh hoạt tôn giáo ở nước ngoài. Nhiều tổ chức tôn giáo nước ngoài đã vào giao lưu với các tổ chức tôn giáo Việt Nam.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc năm 2008 và 2014 tại Việt Nam. Việt Nam cũng đã đăng cai tổ chức thành công nhiều sự kiện tôn giáo như: Hội nghị Thượng đỉnh Phật giáo Thế giới lần thứ VI vào năm 2010 tại Hà Nội; Năm Thánh 2011 của Giáo hội Công giáo; Kỷ niệm 100 năm đạo Tin Lành vào Việt Nam, năm 2011 đã có nhiều hoạt động kỷ niệm lớn được tổ chức tại Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh với sự tham gia của nhiều chức sắc, tín đồ Tin lành trên cả nước và nước ngoài; Hội nghị liên Hội đồng Giám mục Á châu được tổ chức tháng 12/2012 với sự tham dự của nhiều Giám mục các nước ở châu Á và đại diện Tòa thánh Va-ti-căng.
Các ấn phẩm tôn giáo: Việc in kinh sách và xuất bản các ấn phẩm khác liên quan đến tôn giáo được duy trì thường xuyên, bảo đảm phục vụ yêu cầu hoạt động tôn giáo tại Việt Nam. Hầu hết các tổ chức tôn giáo đã có báo, tạp chí, bản tin như: Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Báo Giác ngộ của Phật giáo; Tập san Hiệp thông, Báo Người Công giáo Việt Nam, Báo Công giáo và Dân tộc của Công giáo; Tạp văn Hương sen của Phật giáo Hòa Hảo; Bản tin Mục vụ và Bản tin Thông công của Tin lành…
Giai đoạn từ năm 2006 - 2015, Nhà Xuất bản Tôn giáo đã cấp phép xuất bản khoảng 8.700 xuất bản phẩm, trong đó có gần 5.000 đầu sách với hơn 14.000 bản in. Trung bình mỗi năm có hơn 1.000 ấn phẩm liên quan đến tôn giáo được cấp phép xuất bản, với nhiều ngôn ngữ khác nhau như Anh, Pháp và tiếng dân tộc Khơ-me, Ê-đê, Gia-rai, Ba-na…
2. Tín ngưỡng
Căn cứ khoản 1 Điều 2 Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016 thì tín ngưỡng được hiểu là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng.
Theo Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, thì tín ngưỡng là một hình thức văn hóa tinh thần của con người và các cộng đồng người theo các mức độ khác nhau và có truyền thống lâu đời. Ở Việt Nam từ thời kỳ Hùng Vương dựng nước, tín ngưỡng đã có vai trò của nó trong việc cố kết cộng đồng, thờ cúng, tôn vinh những thủ lĩnh hay những người có công với cộng đồng.
Ở Việt Nam từ tín ngưỡng được quen sử dụng là một từ Hán Việt. Theo Từ điển Từ nguyên thì tín ngưỡng được giải thích là “tín phục tôn kính”. Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh định nghĩa: “Tín ngưỡng: lòng ngưỡng mộ mê tín đối với một tôn giáo hoặc một chủ nghĩa”. Như vậy, bản thân từ tín ngưỡng theo các từ điển thì chỉ sự tin tưởng và tôn kính nói chung.
- Đối tượng thiêng/ tính thiêng trong các loại hình tín ngưỡng ở Việt Nam không phải là một hay hai vị thần chủ tối cao mà là tập thể các thần linh với đủ cả hai giới tính: nam thần và nữ thần; vật linh (có thần tính/ vật thiêng), thậm chí cả thần cây cối (cây thiêng lâu năm có thần ngự bên trong (mộc tinh), như: thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề; có thần rừng, thần biển và thần nước… Vì thế đối tượng thiêng của các loại hình tín ngưỡng ở Việt Nam là vô cùng phong phú và đa dạng.
- Các loại hình tín ngưỡng ở Việt Nam không có tổ chức thống nhất từ trung ương đến cơ sở như các tôn giáo có tổ chức, mà chỉ có những người, nhóm người có vai trò trực tiếp dẫn dắt các hoạt động thực hành nghi lễ và các cộng đồng người tin theo với những quy mô lớn nhỏ khác nhau. Ví dụ, với thờ cúng tổ tiên ở cấp độ gia đình có chủ gia đình (nam giới) dẫn dắt cả gia đình.
- Các loại hình tín ngưỡng ở Việt Nam không có giáo lý, giáo luật như các tôn giáo lớn trên thế giới (Kitô giáo, Phật giáo, Islam giáo) mà chỉ có một số loại văn tự dùng để thực hành trong nghi lễ, như: văn khấn, chúc văn, bản văn chầu…
- Thực hành nghi lễ trong các loại hình tín ngưỡng cũng vì thế mà rất phong phú và đa dạng: có Khấn lễ, lễ tế, lên đồng, hầu bóng…
Nói đến tâm thức tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt Nam, các nhà nghiên cứu đều nhìn nhận đó là một tâm thức tôn giáo đa/ phiếm thần. Các yếu tố về môi trường địa lý, văn hóa lịch sử, truyền thống đạo đức,... đã hình thành nên tôn giáo, tín ngưỡng đặc trưng của người Việt Nam
- Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
+ Cho đến nay, thờ cúng tổ tiên vẫn đã và đang là những hình thức tín ngưỡng phổ biến nhất ở Việt Nam, vẫn hiện hữu trong tâm thức của mỗi người, mỗi gia đình và trở thành một trong những nhu cầu tinh thần không thể thiếu nhằm gắn kết các thành viên theo quan hệ huyết thống trong mỗi gia đình, dòng họ.
- Tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc
+ Lịch sử Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm và chống thiên tai. Con người Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước, trọng đạo lý “uống nước, nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây” nên tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam thấm đượm tinh thần ấy.
+ Tín ngưỡng thờ Anh hùng dân tộc phù hợp với lợi ích của nhân dân lao động, có vai trò to lớn trong đời sống tinh thần của nhân dân, phản ánh về nhu cầu đoàn kết cộng đồng, giáo dục truyền thống yêu nước, đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta.
- Tín ngưỡng thờ Thành hoàng
+ Thờ cúng Thành hoàng là một tín ngưỡng phổ biến trong đời sống tín ngưỡng tôn giáo của người Việt, phản ánh tâm thức tôn giáo của cộng đồng làng xã Việt Nam. Thần thành hoàng từ một vị thần được cộng đồng cư dân tại các làng mạc thờ cúng, về sau đã được các triều đại phong kiến sắc phong, ban cấp điển chế tế tự, trở thành hoạt động nghi lễ chính thống của nhà nước tại các địa phương.
- Tín ngưỡng thờ nữ thần và mẫu thần
+ Tín ngưỡng thờ nữ thần là hiện tượng phổ biến ở Việt Nam và trên thế giới. Đối với người Việt hiện tượng này có phần trội hơn cả. Thờ nữ thần ở Người Việt có nguồn gốc từ xa xưa trong xã hội nguyên thủy – thời kỳ mẫu hệ kéo dài trong lịch sử phát triển xã hội ở Việt Nam
+ Có thể nói ngay rằng mặc dù ở Việt Nam có rất nhiều nữ thần được thờ, nhưng không phải nữ thần nào cũng được tôn lên ngôi vị danh xưng là Mẫu và được triều đình phong kiến cũng như dân gian xưng tụng, ngợi ca bởi quyền năng và vai trò của các Mẫu. Với nhiều danh xưng khác nhau, như: Mẫu Sơn, Quốc Mẫu, Vương Mẫu, Thánh Mẫu, Mẫu Nghi Thiên Hạ… Thờ Mẫu ở Việt Nam trở thành một loại hình khá đặc biệt với những hình thức thực hành nghi lễ riêng biệt.
(Nguồn: Tài liệu kiến thức cơ bản về tín ngưỡng ở Việt Nam của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam)
Chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân thực hiện quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng; coi trọng chính sách đoàn kết và hòa hợp giữa các tôn giáo, đảm bảo sự bình đẳng, không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng, bảo hộ hoạt động của các tổ chức tôn giáo bằng pháp luật; các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo được phát huy. Quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo của công dân Việt Nam được quy định trong Hiến pháp và được bảo đảm trên thực tế. Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi) của nước CHXHCN Việt Nam (điều 24) ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân đã được cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp quy khác như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Đất đai, Luật Giáo dục, Bộ luật Hình sự sửa đổi (có hiệu lực từ ngày 01/7/2016).
3. Sự giống và khác nhau giữa tôn giáo, tín ngưỡng và mê tín dị đoan trong đời sống tâm linh
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống riêng. Tuy nhiên, cho đến nay, một bộ phận dân cư không nhỏ vẫn chưa phân biệt được sự giống nhau và khác nhau giữa tôn giáo với tín ngưỡng, giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan. Trong bài viết này, xin được đề cập một số nội dung giống nhau và khác nhau, mối quan hệ giữa tôn giáo với tín ngưỡng; giữa tôn giáo, tín ngưỡng với mê tín dị đoan.
* Các khái niệm về tín ngưỡng, tôn giáo, mê tín dị đoan.
Theo Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định:
- “Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng”. “Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thờ cúng tổ tiên, các biểu tượng linh thiêng; tưởng niệm và tôn vinh người có công với đất nước, với cộng đồng; các lễ nghi dân gian tiêu biểu cho những giá trị lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội”.
- “Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức”. “Hoạt động tôn giáo là hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo và quản lý tổ chức của tôn giáo”.
- Còn khái niệm về Mê tín, dị đoan thì phụ thuộc vào cách nhìn nhận của từng người, từng tôn giáo khác nhau. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu về vấn đề này cho rằng mê tín dị đoan là tin vào những điều mơ hồ, không thấy, không hiểu, tin một cách mù quáng, mê muội, không phù hợp với lẽ tự nhiên làm hại đến đời sống vật chất và tinh thần, thậm chí dẫn đến hậu quả xấu cho cá nhân, gia đình cộng đồng.
* Sự giống, khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng
- Sự giống nhau
Một là, những người có tôn giáo (Phật giáo, Công giáo, Tin lành,…) và có sinh hoạt tín ngưỡng dân gian (tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Mẫu,…) đều tin vào những điều mà tôn giáo đó và các loại hình tín ngưỡng đó truyền dạy, mặc dù họ không nhìn thấy, không được nghe bằng chính giọng nói của các đấng linh thiêng đó.
Hai là, giữa tôn giáo và tín ngưỡng đều hướng con người đến tính thiện; có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa con người với nhau, giữa cá nhân với xã hội, với cộng đồng, giải quyết tốt các mối quan hệ trong gia đình trên cơ sở giáo lý tôn giáo và noi theo tấm gương sáng của những đấng, bậc được tôn thờ trong các tôn giáo, các loại hình tín ngưỡng đó.
- Sự khác nhau
Một là, nếu tôn giáo phải có đủ 4 yếu tố cấu thành, đó là: giáo chủ, giáo lý, giáo luật và tín đồ, thì các loại hình tín ngưỡng dân gian không có 4 yếu tố đó. Trong đó: Giáo chủ là người sáng lập ra tôn giáo đó như: Thích ca Mâu ni sáng lập ra đạo Phật, đức chúa Giê su sáng lập ra đạo Công giáo, nhà tiên tri Muhammad sáng lập ra đạo Hồi… Giáo lý là những lời dạy của đức Giáo chủ đối với tín đồ. Giáo luật là những điều luật do Giáo hội soạn thảo và ban hành để duy trì nếp sống đạo trong tôn giáo đó; tín đồ là những người tự nguyện theo tôn giáo đó.
Hai là, nếu đối với tín đồ tôn giáo, một người, trong một thời điểm cụ thể, chỉ có thể có một tôn giáo còn đối với tín ngưỡng thì một người có thể đồng thời sinh hoạt ở nhiều tín ngưỡng khác nhau. Chẳng hạn, một người vừa có tín ngưỡng thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ nhưng ngày mùng Một và Rằm âm lịch hàng tháng họ còn ra đình, đền, miếu để lễ thần, lễ thánh, lễ mẫu, hay ra chùa lễ Phật…
Ba là, nếu các tôn giáo đều có hệ thống kinh điển đầy đủ và rất đồ sộ như: những bộ Kinh, Luật, Luận của Phật giáo; hay là bộ “Kinh thánh” và “Giáo luật” của đạo Công giáo, là bộ kinh “Qur’an” của Hồi giáo… thì các cuốn “Gia phả” của các dòng họ và những bài hát chầu văn, những bài văn tế, bài cúng trong hoạt động tín ngưỡng không phải là kinh điển.
Bốn là, nếu các tôn giáo đều có các giáo sĩ hành đạo chuyên nghiệp, theo nghề suốt đời như: các tăng sĩ của Phật giáo, các Linh mục của đạo Công giáo, các Mục Sư của đạo Tin lành… đều là những người làm việc chuyên nghiệp và hành đạo suốt đời (có thể có một vài ngoại lệ, nhưng số này chiếm tỷ lệ rất ít), thì trong các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian không có ai làm việc này một cách chuyên nghiệp, chỉ khi nào có những hoạt động tín ngưỡng thì những ông Đám của làng mới ra làm việc (ai có khả năng, điều kiện, uy tín thì được làng mời), sau đó lại trở về nhà làm những công việc khác, và như vậy không phải là người làm việc thờ Thánh chuyên nghiệp.
* Sự giống, khác nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan
- Sự giống nhau
Một là, giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan đều tin vào những điều mà mắt không trông rõ, tai mình không nghe thấy đối với đấng thiêng liêng mà mình thờ cúng.
Hai là, những tín điều của tín ngưỡng dân gian và mê tín dị đoan đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với cộng đồng, điều chỉnh hành vi ứng xử trong gia đình trên cơ sở những tín điều mà người ta tin theo của những đấng bậc và những đối tượng tôn thờ trong các loại hình tín ngưỡng và trong mê tín dị đoan.
- Sự khác nhau
Một là, về mục đích: nếu sinh hoạt tín ngưỡng có mục đích là thể hiện nhu cầu của đời sống tinh thần, đời sống tâm linh thì người hoạt động mê tín dị đoan lấy mục đích kiếm tiền, trục lợi là chính; người hoạt động trong lĩnh vực mê tín dị đoan chỉ làm việc với khách hàng khi có tiền.
Hai là, nếu trong lĩnh vực sinh hoạt tín ngưỡng không có ai làm việc chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, thì những người hoạt động mê tín dị đoan hầu hết là hoạt động bán chuyên nghiệp hoặc chuyên nghiệp. Nhiều người sống và gây dựng cơ nghiệp bằng nghề này.
Ba là, nếu sinh hoạt tín ngưỡng có cơ sở thờ tự riêng (đình, đền, miếu, từ đường,…) thì những người hoạt động mê tín dị đoan thường phải lợi dụng một không gian nào đó của những cơ sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian để hành nghề hoặc hành nghề tại tư gia.
Bốn là, nếu những người có sinh hoạt tín ngưỡng thường sinh hoạt định kỳ tại cơ sở thờ tự (ngày mùng Một, ngày Rằm Âm lịch hàng tháng ra đình, đền làm lễ…; hàng năm đến ngày giỗ bố mẹ ông bà, phải làm giỗ,…) thì những người hoạt động mê tín dị đoan hoạt động không định kỳ, vì người đi xem bói chỉ gặp thầy bói khi trong nhà có việc bất thường xảy ra (mất của, ốm đau, tai nạn…).
Năm là, nếu sinh hoạt tín ngưỡng được pháp luật bảo vệ, được xã hội thừa nhận thì hoạt động mê tín dị đoan bị xã hội lên án, không đồng tình, thậm chí là những hoạt động vi phạm pháp luật.
* Mối quan hệ giữa tôn giáo, tín ngưỡng và mê tín dị đoan.
Như trên đã trình bày, giữa tôn giáo và tín ngưỡng; giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan có một số điểm khác biệt nhưng cũng có một số điểm tương đồng, có những mối quan hệ nhất định.
Một trong các yếu tố để phục vụ việc truyền đạo là các nhà truyền giáo của các tôn giáo phải dựa vào tín ngưỡng bản địa để tuyên truyền và thể hiện đức tin tôn giáo của mình. Về phía cộng đồng có đời sống tín ngưỡng cũng học hỏi được một số điểm phù hợp của một số tôn giáo về nghi thức hành lễ, về phẩm phục, về cách bài trí nơi thờ tự.…
Đối với hoạt động mê tín dị đoan, do không có cơ sở thờ tự chính thức, những người hành nghề thường mượn cơ sở thờ tự của tôn giáo (chủ yếu là của Phật giáo) và cơ sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian để hành nghề. Cũng do hành nghề tại các cơ sở thờ tự tôn giáo và tín ngưỡng dân gian mà trong một mức độ nào đó “độ tin cậy” của họ đối với khách hàng có thể được nâng cao, họ sẽ dễ dàng tiếp cận được với số đông khách hàng, và như vậy, nguồn lợi mà họ thu được sẽ nhiều hơn.
Tóm lại, tôn giáo, tín ngưỡng dân gian và mê tín dị đoan có những điểm giống và khác nhau nhưng chúng có mối quan hệ qua lại với nhau. Mối quan hệ này được tạo ra bởi những người trực tiếp hoạt động trên những lĩnh vực đó. Phân biệt được sự giống nhau, khác nhau và mối quan hệ giữa chúng để có cách ứng xử cho phù hợp là điều vô cùng cần thiết, cụ thể: Trong công tác công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, việc phân biệt biệt rõ giữa tín ngưỡng, tôn giáo và mê tín dị đoan sẽ góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý; từ đó đưa ra được những chính sách phù hợp phát huy mặt tích cực và khắc phục mặt tiêu cực của của tôn giáo, tín ngưỡng. Đối với quần chúng nhân dân nói chung: biết trân trọng, bảo vệ, phát huy những giá trị thiêng liêng, bản chất tốt đẹp, nhân văn của tôn giáo và tín ngưỡng dân gian; nhận diện rõ các hoạt động mê tín dị đoan; nâng cao tinh thần cảnh giác, không tin, không nghe theo lời bói toán vô căn cứ; kịp thời phát hiện, đấu tranh, xử lý, bài trừ mê tín, dị đoan và những ảnh hưởng tiêu cực của nó đến mọi mặt đời sống xã hội, xây dựng đời sống tâm linh lành mạnh, thuần túy.
-nguồn: Tác giả: Phòng QLTNTG, snv.dienbien.gov.vn-
4. Từ chủ trương, chính sách đến thực tiễn đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc, đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Ở Việt Nam, từ khi Đảng ta lãnh đạo cách mạng đã luôn thực hiện nhất quán chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết các tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
* TỪ CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH
Trong bối cảnh đất nước mới giành được độc lập, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ, ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ quan điểm mang tính nguyên tắc trong chính sách tôn giáo của Việt Nam “Tôi đề nghị Chính phủ tuyên bố tín ngưỡng, tự do và lương-giáo đoàn kết”.
Thể chế quan điểm đó, ngày 14/6/1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 234/SL, gồm 5 chương, 16 điều, văn bản pháp quy đầu tiên, quy định trách nhiệm của Chính phủ trong việc đảm bảo quyền tự do tôn giáo của người dân và trách nhiệm, nghĩa vụ của chức sắc tôn giáo và tín đồ về hoạt động tôn giáo tại Việt Nam. Trong đó nhấn mạnh, “Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân. Không ai được xâm phạm đến quyền tự do ấy. Mọi người Việt Nam đều có quyền tự do theo một tôn giáo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các nhà tu hành được tự do giảng đạo tại các cơ quan tôn giáo như nhà thờ, chùa, thánh thất, trường giáo lý... Khi truyền bá tôn giáo, các nhà tu hành có nhiệm vụ giáo dục cho các tín đồ lòng yêu nước, nghĩa vụ của người công dân, ý thức tôn trọng chính quyền nhân dân và pháp luật của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa...”.
Quan điểm tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng, Nhà nước ta thể hiện trên nguyên tắc Hiến định, được quy định trong các bản Hiến pháp từ năm 1946 đến Hiến pháp sửa đổi năm 2013. Thể hiện quan điểm xuyên suốt nhất quán về công tác tôn giáo, Đảng ta khẳng định, “tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng với dân tộc”, đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc là yêu cầu quan trọng của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng của nhân dân ngay trong thực tiễn, trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới từ 1990 đến nay, Đảng đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết.
Nghị quyết số 25/NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác tôn giáo trong tình hình mới, đã ghi rõ “Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
20 năm qua, Nhà nước ta ban hành trên 30 văn bản pháp quy quy định về các hoạt động, tín ngưỡng, tôn giáo, sửa đổi các điều luật quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, như: Pháp lệnh 21/2004/PL-UBTVQH11 quy định về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định số 22/2005/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị 1940/CT-TTg về nhà đất liên quan đến tôn giáo.
Hiến pháp năm 2013, Điều 24 quy định: 1). Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2). Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3). Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.
Với mục tiêu cao nhất là phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đáp ứng, giải quyết nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng của mọi người, Quốc hội khóa XIV đã ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và Chính phủ đã ban hành Nghị định số 162/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.
Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta cũng đã khẳng định: Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảm bảo cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định của pháp luật và Hiến chương, điều lệ được nhà nước công nhận...
* ĐẾN THỰC TIỄN ĐỜI SỐNG
Những chủ trương và chính sách, pháp luật nêu trên đã góp phần giải quyết nhiều vấn đề mà thực tiễn công tác tín ngưỡng, tôn giáo đòi hỏi, như điều kiện để tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo; điều kiện công nhận tổ chức tôn giáo; thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc; thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo... Đồng thời, quy định rõ trình tự, thủ tục, thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã, phường, thị trấn trong việc giải quyết kiến nghị của cá nhân, tổ chức tôn giáo, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, hạn chế và loại bỏ sự nhũng nhiễu, chậm trễ, tắc trách của công chức trong việc thực thi công vụ, tạo hành lang pháp lý, ổn định, thuận lợi cho các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người ngày càng tốt hơn.
Thực tế cũng cho thấy, gần 20 năm qua (2003-2022), số lượng chức sắc, chức việc, cơ sở thờ tự của các tôn giáo gia tăng đáng kể, phản ánh nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng của người dân, khẳng định chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người.
Qua thống kê cho thấy, năm 2003 cả nước có 6 tôn giáo 15 tổ chức, với 17 triệu tín đồ, khoảng 20 nghìn cơ sở thờ tự; 34 nghìn chức sắc, 78 nghìn chức việc. Đến năm 2022, nhà nước ta đã công nhận 43 tổ chức, thuộc 16 tôn giáo khác nhau, với khoảng 27 triệu tín đồ, trên 53 nghìn chức sắc, khoảng 135 nghìn chức việc; trên 29 nghìn cơ sở thờ tự...
Hàng năm, có trên 8.000 lễ hội về tín ngưỡng, tôn giáo, với hàng vạn tín đồ tham gia và trong 10 năm thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp hàng trăm hécta đất để xây dựng cơ sở thờ tự.
Chỉ tính năm 2022, chính quyền các cấp đã cấp phép xây dựng, sửa chữa, cải tạo cho 152 cơ sở thờ tự tôn giáo. Có 183 điểm nhóm được cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung; 646 người được phong phẩm, suy cử làm chức sắc; 3.238 người được bổ nhiệm, bầu cử, suy cử làm chức việc; 424 chức việc các tôn giáo được thuyên chuyển...
Đó là bằng chứng sinh động trong việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, là nguyên tắc nhất quán xuyên suốt của Đảng, Nhà nước Việt Nam, vì cuộc sống tinh thần của hàng triệu tín đồ các tôn giáo, thể hiện đầy đủ bản chất nhà nước dân chủ, pháp quyền.
Thực tế, những chủ trương, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo không những khẳng định ở Hiến pháp, pháp luật, mà còn được thể hiện sinh động trong cuộc sống hàng ngày, vì đây là một trong những quyền cơ bản của người dân. Hầu hết các tổ chức tôn giáo đều có xu hướng đồng hành cùng dân tộc, đồng thời là nhân tố bồi đắp, gìn giữ văn hóa Việt Nam ngày càng đa dạng, phong phú.
Việc thể chế chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước, đã khẳng định vai trò của nhà nước pháp quyền luôn tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, với mục tiêu “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, đảm bảo Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong đời sống xã hội, tôn trọng và bảo đảm quyền công dân, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được xác định là quyền cơ bản của mọi người “không ban ơn - xin cho”. Các tôn giáo và những người có tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, nhà nước không thiên vị một tôn giáo nào về mặt pháp luật, điều đó thể hiện tính nghiêm túc trong việc chấp pháp.
Thể chế chính sách tôn giáo của Đảng khẳng định rõ mối quan hệ của nhà nước pháp quyền và tôn giáo là một thực tế khách quan, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, luôn tồn tại trong đời sống xã hội, do đó không thể tách rời sự hướng dẫn, quản lý của nhà nước.
Điều này nhằm đảm bảo các hoạt động hướng tới vì lợi ích thỏa mãn nhu cầu tinh thần lành mạnh, chính đáng, không kỳ thị vì lý do tôn giáo; hạn chế, xóa bỏ các hoạt động mê tín, lệch lạc ảnh hưởng giá trị đạo đức và thuần phong mỹ tục tốt đẹp của dân tộc; tạo hành lang pháp lý ổn định để các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo không tách rời pháp luật.
Việc quy định trách nhiệm của chính quyền trong hướng dẫn, giải quyết kiến nghị của tổ chức, cá nhân tôn giáo nhằm đảm bảo sự minh bạch, công khai trong thực thi công vụ và được cá nhân, tổ chức tôn giáo giám sát khi thực hiện, đồng thời giúp cho công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo được thuận lợi. Luật pháp đã quy định chính quyền các cấp có thời hạn trả lời các hồ sơ, kiến nghị của tổ chức, cá nhân tôn giáo theo cơ chế một cửa, công khai, minh bạch, tiết kiệm chi phí, giảm thời gian đi lại, hạn chế phiền hà...
Đảng, Nhà nước ta chủ trương xóa bỏ mặc cảm, định kiến, không phân biệt đối xử về thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, tôn trọng ý kiến khác nhau, không trái với lợi ích đất nước, lợi ích dân tộc, đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, vì sự ổn định, phát triển của đất nước. Thực hiện các chủ trương của Đảng và sự hướng dẫn, quản lý của Nhà nước, hoạt động của các tôn giáo đã có nhiều đóng góp tích cực trong đời sống xã hội, vận động đồng bào có đạo chấp hành chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định “vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định pháp luật và Hiến chương điều lệ được nhà nước công nhận”.
Theo thống kê, 3 năm 2018-2020, Ban Tôn giáo Chính phủ tổ chức 148 hội nghị tuyên truyền phổ biến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 162/NĐ-CP (quy định một số điều và biện pháp thi hành Luật) cho cán bộ trong hệ thống chính trị với 26.278 lượt người tham gia; 132 hội nghị cho chức sắc, chức việc, nhà tu hành với 27.793 lượt người tham gia; tích cực chủ động phối hợp với các bộ, ngành chức năng Trung ương đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền về tôn giáo.
Các tôn giáo đều xây dựng đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc như: “Hộ quốc an dân” của Phật giáo; “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc” của Công giáo, “Sống phúc âm phụng sự Thiên chúa, phụng sự Tổ quốc và dân tộc” của Tin Lành; hoặc “Nước vinh đạo sáng” của Cao Đài... Những đường hướng này phù hợp với giáo lý, với truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Trong những năm qua bằng các hoạt động giao lưu với các tổ chức tôn giáo đồng đạo trên thế giới như trao đổi đoàn ra nước ngoài học tập, dự hội nghị, hội thảo, tham gia các diễn đàn tôn giáo thế giới và khu vực; đăng cai, phối hợp tổ chức các hội nghị, diễn đàn tôn giáo trong khuôn khổ Liên hợp quốc, ASEAN, quốc tế... đã góp phần tăng cường vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và thúc đẩy ngoại giao nhân dân.
Tại các diễn đàn song phương, đa phương, các tổ chức tôn giáo Việt Nam đã thể hiện rõ tinh thần yêu chuộng hòa bình và lòng tự hào dân tộc, tích cực ủng hộ và đóng góp sáng kiến vào các tuyên bố chung, góp phần xây dựng thế giới hòa bình, giảm xung đột, bạo lực và chiến tranh vì lý do tôn giáo, sắc tộc. Vận động các tôn giáo đồng đạo trên thế giới ủng hộ Việt Nam xây dựng, phát triển đất nước, khẳng định truyền thống đoàn kết, yêu nước của đồng bào tôn giáo luôn được vun bồi, phát huy và tỏa sáng trong lòng dân tộc Việt Nam.
Nhiều hoạt động tôn giáo đã góp phần giới thiệu đất nước, hình ảnh con người, lịch sử, văn hóa của Việt Nam đến với bạn bè thế giới như: Giáo hội Tin Lành đã tổ chức thành công lễ kỷ niệm 500 năm cải chánh đạo Tin Lành; Giáo hội Công giáo tổ chức Tổng hội Dòng Đa minh thế giới với đại biểu của hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia; Đại Hội đồng giám mục châu Á; Giáo hội Phật giáo tổ chức Đại lễ Phật đản Vesak Liên hợp quốc với 570 đoàn quốc tế, 1.650 đại biểu đến từ 112 quốc gia và vùng lãnh thổ...
Những hoạt động nêu trên đã khẳng định chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quy tụ kiều bào có tín ngưỡng, tôn giáo trong nước và ngoài nước đoàn kết để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đấu tranh phản bác thế lực, luận điệu xấu tuyên tuyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách tôn giáo của Việt Nam.
Các tổ chức tôn giáo đóng vai trò quan trọng góp phần đưa chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống. Thông qua các sinh hoạt tôn giáo, chức sắc, chức việc các tôn giáo đã hướng dẫn tín đồ cách làm giàu, vươn lên thoát nghèo, đời sống vật chất từng bước được cải thiện, nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức tự lực, tự cường, chung sức, đồng lòng cùng với Đảng, Nhà nước xây dựng quê hương, đất nước.
Năm 2015, lãnh đạo của 40 tổ chức tôn giáo thuộc 14 tôn giáo tại Việt Nam đã cùng Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường ký kết Chương trình phối hợp bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu (giai đoạn 2015-2020).
Các tôn giáo đã xây dựng được 1.014 mô hình về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu giảm nhẹ rủi ro thiên tai... phù hợp với điều kiện cụ thể của từng tôn giáo, đem lại hiệu quả thiết thực.
Từ trong các phong trào thi đua yêu nước đó, đã xuất hiện ngày càng nhiều gương người tốt, việc tốt, tấm gương điển hình tiên tiến, xuất sắc trong lao động sản xuất, phát triển kinh tế, giúp nhau xóa đói, giảm nghèo và lan tỏa trong đời sống xã hội, góp phần làm phong phú bản sắc văn hóa dân tộc, đạo đức truyền thống nhân văn của con người Việt Nam, góp phần ngăn ngừa suy thoái đạo đức, lối sống thực dụng, vô cảm.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác tôn giáo vẫn còn tiềm ẩn phức tạp. Thực tiễn cho thấy, với xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng, các tôn giáo trên thế giới gia tăng, thúc đẩy việc truyền giáo phát triển tín đồ sang các quốc gia khác nên các hoạt động tôn giáo không ngừng biến đổi, tác động trực tiếp đến tình hình tôn giáo ở Việt Nam.
Thế lực thù địch bên ngoài vẫn âm mưu lợi dụng tôn giáo để gây rối an ninh trật tự, móc nối với số phần tử cực đoan trong tôn giáo, định kiến với Đảng, Nhà nước và chế độ, xuyên tạc chủ trương, chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát tán trên không gian mạng, vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, vi phạm dân chủ, nhân quyền. Cách nhìn nhận như vậy là thiếu khách quan.
Do đó, ngày 14/4/2023, khi tiếp, làm việc với ông MacKaper - Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, lãnh đạo Bộ Nội vụ đã đề nghị Đại sứ có nhìn nhận tổng thể về chính sách và thực tiễn hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay; một số vụ việc xảy ra ở địa phương thời gian qua, không phải là phổ quát, do nhận thức của một số cán bộ chưa hiểu rõ chính sách, pháp luật. Chủ trương, quan điểm, chính sách pháp luật nhất quán của Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tôn giáo của mọi người, kể cả những người bị tước quyền công dân vẫn có quyền được bày tỏ niềm tin tôn giáo của mình... Nhà nước kiên quyết xử lý đúng quy định của pháp luật đối với cá nhân, tổ chức có hành vi phân biệt đối xử, kỳ thị, cản trở người khác theo hoặc không theo tôn giáo, xúc phạm niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo...
Có thể khẳng định, thành tựu về thực hiện chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và thực tiễn đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam ngày càng sôi động đã củng cố niềm tin của chức sắc, tôn giáo và đồng bào có đạo với Đảng, Nhà nước ta, tăng cường khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, phát huy dân chủ ở cơ sở, tạo không khí phấn khởi tin tưởng trong các tầng lớp nhân dân nói chung và chức sắc tôn giáo, đồng bào có đạo nói riêng, phát huy sức mạnh tổng hợp, thực hiện thắng lợi nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.
TS. VŨ CHIẾN THẮNG
Thứ trưởng Bộ Nội vụ
-nguồn: tuyengiao.vn-
5. Phản bác sự nhìn nhận sai lệch về tình hình tôn giáo ở Việt Nam
Hiện nay, cùng với xu thế hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, vấn đề dân chủ, nhân quyền, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đang có nhiều quan điểm khác nhau. Theo đó, một số nước tự cho cho mình “cái quyền” là “người bảo vệ dân chủ, nhân quyền”, dùng nhiều chiêu bài để đưa ra nhận xét về tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo kiểu quy chụp, thiếu khách quan, thậm chí vu cáo nhằm can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, trong đó có Việt Nam. Đây là thủ đoạn không mới nhưng rất nguy hiểm cần kiên quyết đấu tranh bác bỏ.
* Sự đánh giá thiếu khách quan
Trong số các nước tự cho mình “cái quyền nhận xét” về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở các nước, trong đó có Việt Nam, Hoa Kỳ là quốc gia ban hành nhiều đạo luật quy định các chế tài chống lại các nước mà họ cho là “vi phạm tự do tôn giáo”. Nhiều chính khách Hoa Kỳ và một số tổ chức phi chính phủ thiếu thiện chí khi tiếp xúc với cơ quan chức năng của Việt Nam luôn đặt vấn đề “cải thiện quyền con người”, đòi “tự do tôn giáo”, xin “phục hồi các tổ chức tôn giáo cũ” và đưa ra quan điểm, nhận định thiếu khách quan, xuyên tạc chính sách, pháp luật tôn giáo của Việt Nam. Họ cho rằng: Việt Nam chưa tiếp cận luật pháp quốc tế về “quyền con người”; chính quyền cơ sở gây khó khăn trong việc chấp thuận đăng ký điểm nhóm sinh hoạt tôn giáo, v.v. Mới đây, ngày 15/5/2023, Ủy ban tự do Tôn giáo quốc tế Mỹ công bố Báo cáo thường niên về tình hình tôn giáo thế giới năm 2022 đã tiếp tục kiến nghị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa Việt Nam trở lại danh sách “Các nước cần đặc biệt quan tâm về tôn giáo” (CPC). Như thường lệ, Ủy ban này vẫn đưa ra những nhận định thiếu khách quan dựa trên những thông tin chưa được kiểm chứng và không chính xác về tình hình thực tế tại Việt Nam.
Đồng điệu với những nhận định thiếu khách quan đó, các thế lực thù địch vẫn ngày đêm lợi dụng, xuyên tạc trắng trợn về chính sách, pháp luật và tình hình tôn giáo tại Việt Nam. Chúng móc nối số phần tử cơ hội bất mãn chế độ và số chức sắc cực đoan trong các tôn giáo để kích động các hoạt động tôn giáo thoát ly khỏi sự quản lý của Nhà nước; tuyên truyền phủ nhận các văn bản pháp luật về tôn giáo của Nhà nước ta; tâng bốc, ca ngợi “quyền” tự do tôn giáo của các nước tư bản. Chúng tổ chức các cuộc “hội luận”, “họp báo”, soạn thảo và tán phát các tài liệu có nội dung bịa đặt để tuyên truyền, xuyên tạc Đảng và Nhà nước Việt Nam “đàn áp tôn giáo”, Việt Nam “không có tự do tôn giáo”. Lợi dụng những vấn đề phức tạp trong xã hội, như: thu hồi đất đai, đền bù, giải tỏa; vấn đề ô nhiễm môi trường,... để lôi kéo, kích động những người nhẹ dạ, cả tin, đặc biệt là một bộ phận tín đồ “cuồng đạo” tham gia tuần hành và khuếch tán các hoạt động chống phá trên mạng xã hội, v.v. Những hành động, việc làm đó đã tác động xấu đến xã hội, gây chia rẽ nội bộ trong tổ chức tôn giáo và gây mất đoàn kết tôn giáo, v.v.
Để thấy rõ sự xuyên tạc, vu khống tình hình tôn giáo ở Việt Nam, chúng ta hãy cùng nhìn nhận một số vấn đề thực tiễn sau:
- Sự đa dạng về tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, với nhiều hình thức tôn giáo khác nhau, từ các hình thức tôn giáo sơ khai như: Tô tem giáo, Ma thuật giáo, Saman giáo đến các tôn giáo của thời hiện đại, có tổ chức chặt chẽ như: Công giáo, Phật giáo, đạo Tin Lành, Hồi giáo,… cùng tồn tại và bình đẳng với nhau, không có tôn giáo nào giữ vai trò chủ đạo, không phân biệt những tôn giáo có nguồn gốc du nhập từ bên ngoài hay những tôn giáo nội sinh. Cùng với sự đa dạng về tôn giáo, tại Việt Nam còn có sự đa dạng các loại hình tổ chức tôn giáo; trong đó, có những tôn giáo chỉ có một tổ chức duy nhất (Phật giáo, Công giáo) và cũng có những tôn giáo có rất nhiều tổ chức khác nhau (đạo Tin Lành, đạo Cao Đài), v.v.
Các tôn giáo ở Việt Nam đều có đóng góp tích cực cho đất nước trên nhiều phương diện của đời sống xã hội; đồng thời, là một nhân tố xã hội và văn hóa tích cực góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam phong phú, đa dạng và đặc sắc. Việt Nam là đất nước ôn hòa trong quan hệ giữa các tôn giáo; có truyền thống đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước. Việc chung sống hòa bình và bao dung giữa các tôn giáo cùng với tính nhân ái, nhân bản của con người và xã hội Việt Nam đã tạo ra một bức tranh sinh động về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam: phong phú, đan xen lẫn nhau. Ở Việt Nam ngày nay, sự đồng thuận giữa các tôn giáo và Nhà nước được thể hiện rõ ở khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó có đoàn kết các tôn giáo, tạo nguồn sức mạnh và là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đây là thực tiễn khách quan sinh động, phản bác luận điệu cho rằng: ở Việt Nam “không có tự do tôn giáo”.
- Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
Trước hết cần khẳng định: Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Bởi, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần chính đáng của một bộ phận nhân dân, đồng bào các tôn giáo là một bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam, được đảm bảo trên thực tiễn và cụ thể bằng văn bản pháp luật, như: Sắc lệnh số 234/SL, ngày 14/6/1955 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, xác định: “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là quyền lợi của nhân dân. Chính phủ luôn tôn trọng và giúp đỡ nhân dân thực hiện. Chính quyền không can thiệp vào nội bộ các tôn giáo”. Trong mỗi giai đoạn lãnh đạo cách mạng, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật, tạo hành lang pháp lý để các tôn giáo hoạt động hiệu quả, như: Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác tôn giáo; Pháp lệnh số 21/2004/PL-UBTVQH 11, ngày 18/6/2004 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa XI) về tín ngưỡng, tôn giáo; Chỉ thị số 1940/CT-TTg, ngày 31/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về nhà đất liên quan đến tôn giáo. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”; Quốc hội khóa XIV đã ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; ngày 09/3/2023, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban Tôn giáo Chính phủ đã ra mắt Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam”, v.v. Cùng với đó, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách tập trung đầu tư phát triển kinh tế ở vùng đồng bào có đạo, thể hiện sự quan tâm đặc biệt sâu sắc đến nhu cầu tín ngưỡng của tín đồ, chức sắc các tôn giáo, làm cho tín đồ và chức sắc tôn giáo yên tâm, phấn khởi tích cực thực hiện tốt cả “việc đạo, việc đời”.
- Thực tế đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam luôn tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ các tôn giáo hoạt động theo pháp luật; chưa bao giờ các tôn giáo có điều kiện phát triển như hiện nay! Số lượng tín đồ ngày càng đông, được tự do hành lễ dù ở nhà riêng hay nơi thờ tự. Nếu năm 2003, cả nước có 15 tổ chức, 06 tôn giáo, 17 triệu tín đồ với khoảng 20.000 cơ sở thờ tự, 34.000 chức sắc, 78.000 chức việc; thì đến năm 2021, Nhà nước đã công nhận 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo khác nhau, với trên 26 triệu tín đồ, 54.000 chức sắc, 135.000 chức việc, 29.000 cơ sở thờ tự. Đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng phong phú, đa dạng; nhiều lễ hội lớn trong các tôn giáo thu hút hàng vạn tín đồ tham dự, như: Giáo hội Tin lành đã tổ chức thành công Lễ kỷ niệm 500 năm cải chánh đạo Tin lành (tháng 12/2017); Giáo hội Công giáo tổ chức Tổng hội Dòng Đa minh thế giới tại Đồng Nai (tháng 7/2019), với đại biểu của hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia; Giáo hội Phật giáo tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Vesak Liên hợp quốc năm 2019 tại chùa Tam Chúc, tỉnh Hà Nam (tháng 5/2019) với sự tham dự của trên 3.000 đại biểu chính thức (trong đó có 570 đoàn quốc tế với 1.650 đại biểu đến từ 112 quốc gia và vùng lãnh thổ), v.v. Với quy mô hoạt động tôn giáo hàng vạn người, chính quyền các cấp đã hỗ trợ các tôn giáo về các phương án đảm bảo an toàn giao thông, an ninh trật tự, phòng, chống cháy nổ, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm,... để nhân dân được tự do hành lễ, thỏa mãn nhu cầu đời sống tâm linh. Điều đó đã khẳng định chính sách nhất quán của nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Bởi, nếu không có chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo thì các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo không thể tổ chức đa dạng, phong phú như trên được.
* Không để các thế lực lợi dụng tôn giáo để chống phá đất nước
Thời gian tới, các thế lực thù địch tiếp tục lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá với những thủ đoạn tinh vi và quyết liệt hơn. Do vậy, việc chủ động đấu tranh, ngăn chặn các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm, chiến lược lâu dài và là trách nhiệm của các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị; trong đó, cơ quan quản lý Nhà nước về tôn giáo đóng vai trò nòng cốt, cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về tôn giáo, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo Hiến pháp năm 2013. Thực hiện tốt chức năng Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo tại các địa bàn trọng điểm, phức tạp; kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý ngay tại cơ sở các hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật gây bức xúc trong xã hội.
2. Nắm chắc tình hình, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng: “dân chủ”, “quyền con người”, “tôn giáo” chống phá Việt Nam để có đối sách giải quyết phù hợp, hiệu quả, đúng pháp luật. Kịp thời phát hiện và ngăn chặn việc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các tôn giáo, gây rối trật tự, xâm phạm an ninh quốc gia. Chủ động làm tốt công tác tuyên truyền, vạch trần “chân tướng” các đối tượng cơ hội, các việc làm vi phạm pháp luật, giáo luật của số đối tượng cực đoan lợi dụng tôn giáo; phản bác các luận điệu vu cáo Việt Nam vi phạm “dân chủ”, “nhân quyền”, “đàn áp tôn giáo”.
3. Những biện pháp đấu tranh ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tôn giáo chống Việt Nam cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành để có sự hỗ trợ đồng bộ, hạn chế sơ hở để thế lực xấu lợi dụng chống phá.
4. Thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm, có biện pháp khắc phục những thiếu sót, tồn tại để đảm bảo thực hiện ngày càng tốt hơn quyền tự do, tín ngưỡng của nhân dân, làm cho nhân dân thực sự tin tưởng vào Đảng, Nhà nước; là chất keo kết dính giữa Nhân dân với Đảng, làm thất bại mọi âm mưu hoạt động của các thế lực thù địch.
5. Làm tốt công tác tuyên truyền đối ngoại để cộng đồng quốc tế có đầy đủ thông tin về kết quả, thành tựu nhân quyền trong lĩnh vực tôn giáo ở Việt Nam; đồng thời, thực hiện tốt hoạt động đối thoại tôn giáo, hướng dẫn các chức sắc, tín đồ hoạt động tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật.
VŨ HOÀI BẮC, Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ
- nguồn: tapchiqptd.vn-