Dân tộc ta, ngót năm ngàn năm lịch sử, có cùng chung một gốc, cùng chung một tiếng nói. Từ Bắc chí Nam, ngoại trừ một số dân thiểu số còn dùng thổ âm và một số địa phương dùng phương ngữ hay phát âm có đôi chút sai biệt, còn chúng ta đều nói, nghe và hiểu một thứ tiếng, đó là tiếng Việt.
Tiếng Việt, còn gọi tiếng Việt Nam hay Việt ngữ, là ngôn ngữ của người Việt (người Kinh) và là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam. Đây là tiếng mẹ đẻ của khoảng 85% dân cư Việt Nam, cùng với hơn bốn triệu người Việt hải ngoại. Tiếng Việt còn là ngôn ngữ thứ hai của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam.
Mặc dù tiếng Việt có một số từ vựng vay mượn từ tiếng Hán và trước đây dùng chữ Nôm — một hệ chữ dựa trên chữ Hán — để viết nhưng tiếng Việt được coi là một trong số các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Á có số người nói nhiều nhất (nhiều hơn một số lần so với các ngôn ngữ khác cùng hệ cộng lại). Ngày nay, tiếng Việt dùng bảng chữ cái Latinh, gọi là chữ Quốc ngữ, cùng các dấu thanh để viết.
Tiếng Việt được chính thức ghi nhận trong hiến pháp là ngôn ngữ quốc gia của Việt Nam, bao gồm cách phát âm tiếng Việt và chữ Quốc ngữ để viết.
Nguồn gốc hình thành tiếng Việt:
Tiếng Việt là ngôn ngữ có nguồn gốc bản địa, xuất thân từ nền văn minh nông nghiệp, tại nơi mà ngày nay là khu vực phía bắc lưu vực sông Hồng và sông Mã của Việt Nam.
Căn cứ vào nhiều tài liệu được công bố, có thể kết luận: Tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc nhóm Việt-Mường, tiểu chi Việt Chứt, nằm trong khối Việt Katu, thuộc khu vực phía đông của ngành Mon-Khmer, họ Nam Á.
Trong nhóm Việt-Mường, ngoài tiếng Việt và tiếng Mường (Mường Sơn La, Mường Thanh Hoá, Mường Nghệ An) còn có tiếng Nguồn cũng được coi là ngôn ngữ bà con gần nhất với tiếng Việt.
Trong tiểu chi Việt Chứt, ngoài nhóm Việt-Mường còn có nhóm Pọng Chứt gồm các ngôn ngữ Chứt, Pọng (bao gồm Mày, Rục, Sách, Mã Liềng, Arem) ở vùng núi các tỉnh phía nam khu IV và các tiếng như Ahơ (Phon Soung), Maleng (Pakadan), Thà Vựng ở Lào. Đây là những bà con xa hơn của tiếng Việt.
Theo GS.TS Nguyễn Thiện Giáp - Ủy viên Hội đồng chức danh giáo sư ngành Ngôn ngữ học, Proto Việt Chứt, tức cái ngôn ngữ mẹ, chung cho cả nhóm Việt-Mường và Pọng Chứt, không tách trực tiếp từ proto Mon-Khmer mà tách ra từ khối proto Việt Katu. Thời gian chia tách này xảy ra cách đây trên 4000 năm, địa bàn cư trú ban đầu của cư dân nói tiếng proto Việt Chứt là vùng kéo dài từ khu vực miền núi Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị sang đến Trung Lào. Từ đó, một bộ phận cư dân đã vượt Trường Sơn, tràn ra miền Bắc, cư trú ở các vùng cao Nghệ–Tĩnh, Thanh Hoá, Hoà Bình, Sơn La, Vĩnh Phú.
Nếu bộ phận cư dân proto Việt Chứt ở lại quê hương cũ, vẫn giữ nguyên quan hệ tiếp xúc với cư dân Katu, Bana, Khmer thì bộ phận cư dân proto Việt Chứt di cư ra Bắc lại có những quan hệ tiếp xúc mới với những cư dân nói ngôn ngữ thuộc họ Thái-Kađai (như tổ tiên của người Tày, người Nùng,...). Sự tiếp xúc với Thái-Kađai rất sâu đậm, tạo ra một sự hoà nhập về nhiều mặt trong huyết thống, trong văn hoá vật chất cũng như tinh thần. Sự diễn biến mạnh mẽ của tiếng Việt, tiếng Mường theo hướng từ bỏ nhiều nét Mon-Khmer vốn có trong nguồn gốc của mình để chuyển thành những ngôn ngữ hoàn toàn âm tiết tính như ngày nay cũng bắt nguồn từ sự tiếp xúc với loại hình họ Thái-Kađai. Tiếp theo đó, một bộ phận cư dân Việt-Mường phía Bắc đã rời bỏ đồi núi, toả về đồng bằng, sinh sôi, phát triển mạnh ở vùng châu thổ sông Hồng. Đó là tiền đề cho việc hình thành cái nối của vùng Kinh sau này.
Sự tiếp xúc với người Hán, tiếng Hán, văn hoá Hán đã xảy ra trước khi người Hán xâm lược, nhưng để lại dấu ấn sâu đậm vẫn là sự tiếp xúc trực tiếp trong suốt 1000 năm Bắc thuộc. Ảnh hưởng của tiếng Hán, nền văn hoá Hán không toả ra đồng đều trên lãnh thổ bị chiếm đóng. Ảnh hưởng đó ở vùng phía bắc sâu đậm hơn ở vùng phía nam, ở vùng đồng bằng sâu đậm hơn ở vùng núi. Chính vì vậy, sự khác biệt vốn đã có giữa nhóm Pọng Chứt và nhóm Việt Mường ngày càng rõ nét và cuối cùng đã phân hoá thành hai nhóm ngôn ngữ các đây từ 2000 đến 2500 năm. Trong nội bộ nhóm Việt-Mường về sau lại phân hoá thành tiếng Việt ở miền châu thổ sông Hồng và tiếng Mường ở miền thượng du Hoà Bình, Sơn La, Phú Thọ. Sự phân hoá này diễn ra cách đây từ 1000 đến 1500 năm.
Từ năm 938, Việt Nam giành được độc lập tự chủ. Mối quan hệ với tiếng Hán không còn là quan hệ trực tiếp như trước nữa. Mặc dù nhà nước phong kiến Việt Nam vẫn duy trì việc sử dụng chữ Hán, coi chữ Hán là văn tự chính thức, việc tổ chức học hành, thi cử bằng chữ Hán ngày càng có quy mô, nhưng tiếng Hán không còn là sinh ngữ như trước nữa. Từ đây tiếng Việt diễn biến theo quy luật nội tại, nó còn bắt cả kho từ ngữ gốc Hán diễn biến theo quy luật của mình.
Khi nước nhà giành được độc lập, người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm để ghi lại tiếng nói. Đây là một loại chữ được tạo ra theo nguyên tắc và trên cơ sở của tiếng Hán. Bên cạnh nền văn hiến dân tộc viết bằng chữ Hán, theo truyền thống Hán, còn có một nền văn hiến dân tộc viết bằng chữ Nôm ngày càng phát triển.
Cũng từ đó, vai trò của tiếng Việt ngày càng phát triển mạnh mẽ. Mặc dù nó không được coi là ngôn ngữ chính thức dùng ở công văn, giấy tờ, học hành, thi cử, nhưng trong thực tế, nó vẫn trở thành ngôn ngữ có uy thế nhất trong toàn bộ lãnh thổ. Tác dụng của tiếng Việt bắt đầu toả ra mạnh mẽ đối với các vùng ngôn ngữ thiểu số. Lúc đầu chỉ là ở phía bắc, về sau, với đà nam tiến ồ ạt, liên tục của người Việt, ảnh hưởng đó ngày càng lan rộng. Bước đầu, nó lan truyền đến địa bàn khu IV, hình thành phương ngữ khu IV. Sau đó tiếng Việt lại nam tiến, tạo điều kiện hình thành một phương ngữ mới là tiếng miền Nam. Hai phương ngữ mới này có hoàn cảnh hình thành khác nhau, do đó có những đặc trưng khác nhau.
Sự hình thành chữ quốc ngữ gắn liền với sự truyền giáo của các giáo sĩ phương Tây. Chữ quốc ngữ là một thứ chữ được xây dựng theo nguyên tắc ghi âm bằng chữ Latin. Loại chữ này được dùng phổ biến từ rất lâu ở châu Âu. Đến thế kỉ XVII, một số giáo sĩ phương Tây đem nguyên tắc ấy dùng vào việc ghi âm tiếng Việt, tạo ra một thứ chữ thuận lợi hơn đối với mục đích truyền đạo. Mấy thế kỉ tiếp theo, chữ quốc ngữ chỉ được dùng hạn chế trong những kinh bổn đạo Thiên Chúa.
Sự áp đặt chế độ thuộc địa Pháp đưa đến việc bãi bỏ việc học, việc thi cử, việc dùng chữ Hán; đưa đến sự thắng lợi của chữ quốc ngữ. Buổi đầu nhân dân lạnh nhạt với chữ quốc ngữ, mặc dù một số trí trức "Tây học" đã ra sức cổ động cho nó. Thái độ lạnh nhạt ấy thay đổi từ khi hình thành các phong trào đấu tranh văn hoá có ý nghĩa chính trị như phong trào Đông Kinh nghĩa thục ở đầu thế kỉ XX. Những người lãnh đạo phong trào đưa việc dùng chữ quốc ngữ lên hàng đầu trong sáu biện pháp của bản sách lược gọi là Văn minh tân học sách (1907) và lên tiếng kêu gọi đồng bào vì tương lai của đất nước mà nên dùng thứ chữ tiện lợi ấy. Những tài liệu văn hoá bằng chữ quốc ngữ do phong trào này phát hành đã được phổ biến khá rộng. Mặt khác, sự tiếp xúc với tiếng Pháp, với nền văn hoá Pháp đã dẫn đến sự hình thành nền báo chí Việt Nam bằng chữ quốc ngữ, nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, sự đổi mới trong thơ ca, những tiếp thu về từ vựng, ngữ pháp.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đưa lại “địa vị ngôn ngữ chính thức của quốc gia” cho tiếng Việt. Từ đó, tiếng Việt đã phát triển nhanh chóng, toàn diện, có ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả các ngôn ngữ thiểu số ở Việt Nam.
Sau năm 1975, sự phổ biến của các phương tiện truyền thanh và truyền hình trên toàn quốc đã làm tiếng Việt được chuẩn hóa một phần nào. Nhiều từ thuần Việt được sử dụng phổ biến thay cho từ Hán Việt, cũng như với sự tiến triển của internet và toàn cầu hóa, ảnh hưởng của tiếng Anh ngày càng lớn trên báo chí và đội ngũ phóng viên, nhiều từ nước ngoài được đưa vào tiếng Việt thiếu chọn lọc, viết nguyên bản theo ngôn ngữ nước ngoài...
Việc sáng tạo ra chữ viết chính là một trong những thành tựu văn hóa lớn nhất của loài người. Mặc dù có thể sở hữu chung gốc gác nhưng lịch sử chữ viết của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc có đặc trưng riêng. Đối với Việt Nam, lịch sử ghi nhận có 3 loại văn tự được dùng để ghi chép tiếng Việt là chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Mỗi loại chữ viết có thể được coi là biểu trưng cho một thời kỳ của lịch sử dân tộc, bởi nó có bối cảnh lịch sử hình thành, nhằm mục đích khác nhau và thể hiện bản sắc văn hóa riêng.
Chữ Hán vốn dĩ không phải là văn tự bắt nguồn từ Việt Nam mà được du nhập vào nước ta thông qua con đường giao lưu văn hóa. Khoảng thời gian từ thế kỷ VII – XI chữ Hán được sử dụng rộng rãi trở thành công cụ giao tiếp chính tại Việt Nam lúc bấy giờ. Chính vì thế mà các tác phẩm sử học và văn học trong giai đoạn này đều được viết bằng dạng chữ này. Thậm chí tính tới hiện tại, Việt Nam còn lưu trữ khá nhiều các cổ vật, bia khắc còn lưu lại dấu ấn Hán ngữ.
Sau hơn 1000 năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, ý thức tự chủ tự cường muốn có chữ viết riêng của dân tộc ta lên cao. Vì vậy mà chữ Nôm được hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu bày tỏ quan điểm ý kiến cá nhân bằng ngôn ngữ của dân tộc mình.
Được xây dựng trên cơ sở đường nét, thành tố và phương thức cấu tạo của chữ Hán đọc theo âm Hán – Việt, chữ Nôm là sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố biểu ý và biểu âm. Tổ tiên ta vì chưa biết tới ký tự Latinh nên đã sử dụng các ký tự vuông chữ Hán (cải tiến) để ghi âm lại tiếng mẹ đẻ của mình; về sau sáng tạo hơn bằng cách ghép hai chữ Hán tạo thành một chữ mới, một ý nghĩa mới.
Sự xuất hiện của chữ Nôm đã đặt nền móng cho nền văn học nước nhà được phát triển, giai đoạn này hàng loạt các tác phẩm chữ Nôm được ra đời phải kể đến như: Chừa rượu (Nguyễn Khuyến), Trần tình (Nguyễn Trãi), Miếng trầu (Hồ Xuân Hương),… Tuy nhiên, giai cấp phong kiến vẫn rất sùng bái và tin dùng chữ Hán nên đã tác động nhằm kìm hãm tiếng nói, chữ viết của dân tộc. Tuy nhiên, bạn không thể tưởng tượng được trong giai đoạn này tiếng Việt có bao nhiêu từ. Theo tài liệu để lại ở thế kỷ 17 chữ Nôm chúng ta có hơn 80.000 chữ, ghi lại 14.519 âm tiết tiếng Việt.
Giai đoạn từ thế kỳ XIX – XX, chữ Quốc ngữ trở nên thông dụng và bắt đầu phổ biến tại Việt Nam; chữ Hán và chữ Nôm cũng kết thúc giai đoạn phồn thịnh của mình.
Chữ Quốc Ngữ ngày nay của Việt Nam do các nhà truyền giáo Dòng Tên xây dựng vào những năm đầu của thế kỷ XVII với mục đích truyền giáo vào Việt Nam.
Vậy trong giai đoạn này tiếng Việt có bao nhiêu chữ cái? Bảng chữ cái tiếng Việt là tập hợp các ký hiệu theo chữ Latin được sử dụng nhằm mục đích tạo thành chữ có nghĩa và ghi chép lại cách phát âm của người Việt dưới dạng văn bản.
Ban đầu họ xây dựng bảng chữ cái tiếng Việt bao gồm 29 chữ cái và thứ tự bảng chữ cái như sau: A, Ă, Â, B, C, D, Đ, E, Ê, G, H, I, K, L, M, N, O, Ô, Ơ, P, Q, R, S, T, U, Ư, V, X, Y.
Qua nhiều lần sửa đổi và cải tiến, đến những năm thuộc thế kỷ XIX chữ Quốc Ngữ ngày càng thông dụng và trở thành văn tự chính thức của Việt Nam cho tới thời điểm hiện nay.
Sự kết hợp và Việt hóa dần chữ viết, chữ Việt tiếng Việt ngày nay là một quá trình phát triển dài lâu của cả dân tộc theo chiều dài xuyên suốt của lịch sử xã hội Việt Nam.
Trên đây là những thông tin khái quát nhất về nguồn gốc tiếng Việt mà chúng tôi tổng hợp. Hy vọng có thể cung cấp góc nhìn khách quan nhất trong việc tìm hiểu, khám phá sự phong phú và giàu đẹp của tiếng Việt.
Trong số 6.700 ngôn ngữ đang được sử dụng trên thế giới, chỉ có gần 4.000 ngôn ngữ được truyền lại cho các thế hệ tiếp nối. Vì vậy, nhiều ngôn ngữ bị lãng quên và ngôn ngữ một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng không tránh khỏi quy luật ấy. Sự mất mát sẽ diễn ra ngày càng nhanh hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa, nếu không có giải pháp tích cực để bảo tồn.
Nhà thơ người Khmer Thạch Đà Ni, Chi hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bạc Liêu, cho biết không chỉ ở Bạc Liêu mà ở nhiều tỉnh miền Tây Nam Bộ, khi các cây bút trẻ thế hệ 7x, 8x có nhiều cơ hội học tập và giao lưu thì việc sử dụng tiếng phổ thông trong sáng tác ngày càng nhiều và thành thạo hơn so với tiếng dân tộc mình.
Mặc dù hiện nay, ở miền Tây Nam Bộ, những người làm văn học nghệ thuật vẫn đang duy trì song song hai hình thức sáng tác bằng tiếng phổ thông và tiếng dân tộc, nhưng dường như môi trường sáng tác của văn học dân tộc thiểu số đang hẹp dần, trong phạm vi gia đình hoặc sinh hoạt cộng đồng là chính. Điều đó sẽ gây ra nhiều hệ lụy.
"Từ chỗ không biết, họ sẽ không thể nghiên cứu sâu về văn học nghệ thuật hoặc văn hóa của mình được. Bởi vì văn hóa của mỗi dân tộc chỉ cảm được khi đọc bằng ngôn ngữ của dân tộc đó. Cũng có một số người thuộc thế hệ 7x, 8x biết chữ Khmer, nghiên cứu sâu về văn hóa nhưng lại không thành thạo trong việc thể hiện tác phẩm bằng chữ Việt, nên tác phẩm ấy không đi xa hơn ngoài vùng hoặc ngoài gia đình của họ được" - theo nhà thơ Thạch Đà Ni.
Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số không chỉ bị yếu thế mà còn bị thay đổi trong quá trình giao lưu với ngôn ngữ các dân tộc khác. Hay nói cách khác, đó là sự xâm nhập của ngôn ngữ dân tộc đa số vào ngôn ngữ dân tộc thiểu số. Như đồng bào Ơ Đu ở Tương Dương, Nghệ An, hiện nay sử dụng tiếng Thái, tiếng Khơ Mú làm ngôn ngữ chính trong giao tiếp, dẫn đến phong tục, tập quán, tín ngưỡng chịu ảnh hưởng nặng nề văn hóa Thái hay Khơ Mú.
GS.TS Trần Trí Dõi, Giám đốc Trung tâm “Nghiên cứu phát triển các dân tộc thiểu số và miền núi”, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, cho biết: Trong 53 dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay thì người Ơ Đu đã gần như mất tiếng nói. Sự mất dần ngôn ngữ của một số dân tộc thiểu số là một xu thế không thể ngăn cản được: "Ví dụ như bây giờ, nếu như dạy ngôn ngữ cho một người Rục thì họ có thể giao tiếp được trong cộng đồng của họ. Nhưng khi mình dạy cho họ học tiếng Việt, để họ phát triển bình đẳng với người Việt, thì khi quay về họ sẽ có tâm lý ít sử dụng tiếng mẹ đẻ của mình. Một dân tộc nhỏ, ở cạnh một dân tộc thiểu số khác lớn hơn, ví dụ như người Ơ Đu sinh sống cạnh người Thái, thì khi nào già họ mới nghĩ rằng mình cần giữ lại tiếng Ơ Đu, còn khi trẻ thì họ vẫn nói tiếng Thái - nói tiếng có thể lấy vợ lấy chồng...".
Các nhà nghiên cứu cho rằng những dân tộc có dân số dưới 1 triệu người thì việc giữ gìn văn hóa truyền thống sẽ gặp rất nhiều khó khăn, trong đó biểu hiện rõ rệt nhất là không nói được tiếng mẹ đẻ. Rất nhiều dân tộc hiện nay chỉ có người già nói được tiếng mẹ đẻ, người trung niên nói ít hơn, còn thanh niên, trẻ em thì hầu như không nói hoặc chỉ nói trong hoàn cảnh hết sức hạn chế.
Nếu việc sử dụng ngôn ngữ không đồng đều ở các nhóm tuổi và có xu hướng giảm dần giữa các thế hệ thì ngôn ngữ dân tộc ấy có nguy cơ biến mất rất cao. Nguy cơ thứ hai là dân tộc ấy không sử dụng chữ viết để hình thành ngôn ngữ văn học hoặc không có chữ viết của mình, như các dân tộc Xinh Mun, Khơ Mú, La Ha. Điều đó đồng nghĩa với việc ngôn ngữ sẽ dừng lại ở khẩu ngữ, mượn nhiều từ tiếng Việt và không được phát triển theo những hình thức cao hơn.
PGS. TS Tạ Văn Thông, Viện Từ điển học và Bách khoa thư, cho biết: "Nếu chữ viết không được dùng thì nó không tạo thành ngôn ngữ văn học. Có chữ viết thì mới tạo thành ngôn ngữ chuẩn, tức ngôn ngữ văn học. Ngôn ngữ văn học khác khẩu ngữ. Chúng ta nói chuyện với nhau thì từ ngữ hạn chế, còn ngôn ngữ văn học thì vốn từ sang trọng hơn, câu cú triết lý, hình tượng hơn.
Các ngôn ngữ ở Việt Nam hiện chủ yếu dừng lại ở khẩu ngữ mà không có ngôn ngữ văn học đi kèm. Tóm lại, nó không được phát triển lên. Thứ hai, nếu không có ngôn ngữ văn học thì những người sáng tác ra trường ca, cổ tích, luật tục, tục ngữ, thành ngữ không có điều kiện ghi lại cho thế hệ sau. Phần lớn những người già kể cho con cháu nghe theo đường truyền miệng, tam sao thất bản, và khi họ mất sẽ đem theo tất cả xuống mồ".
Ngôn ngữ là một yếu tố quan trọng, làm nên bản sắc văn hóa của một dân tộc. Song song với việc phổ cập ngôn ngữ, chữ viết phổ thông thì cần khuyến khích đồng bào các dân tộc thiểu số sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Bên cạnh đó, cần sưu tầm, biên dịch và phổ biến những giá trị văn học nghệ thuật để góp phần bảo tồn ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số.
-nguồn: Phương Thúy /VOV-Trung tâm Tin-
Nước ta là một quốc gia đa dân tộc và đa ngôn ngữ. Ngoài tiếng Việt được sử dụng làm ngôn ngữ chung thì với 53 dân tộc thiểu số cũng đều có ngôn ngữ của riêng dân tộc mình. Tuy nhiên, do những điều kiện khác nhau mà có những ngôn ngữ được gìn giữ, bảo tồn, có những ngôn ngữ đã mai một và cũng có những ngôn ngữ đang có nguy cơ biến mất.
Những nghiên cứu của các nhà khoa học Viện Hàn lâm khoa học xã hội và Khoa Ngôn ngữ học (Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) cho thấy một số ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở nước ta có nguy cơ “biến mất” cao như tiếng Arem, Mã Liềng, Rục, Cơ Lao, Pa Dí, Thu Lao, Cuối, Pu Péo…
Đây hầu hết là các dân tộc có dân số rất ít hoặc ít người (từ vài trăm đến khoảng 1.000 người), đời sống xã hội rất khó khăn, không có năng lực tự bảo tồn và gìn giữ ngôn ngữ, tiếng nói của dân tộc mình.
Nghiên cứu cho thấy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến nguy cơ mai một ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số.
Đó là dân số ít, số người biết, thường xuyên sử dụng ngôn ngữ dân tộc không nhiều, nếu không nói là rất ít; không có chữ viết, hoặc không được sử dụng thường xuyên, liên tục; việc sinh sống quá biệt lập hoặc giao thoa trong khu vực mà dân tộc thiểu số khác có dân số đông hơn, điều kiện kinh tế-xã hội phát triển hơn cũng rất dễ kéo theo nguy cơ làm mai một ngôn ngữ; vấn đề truyền dạy không được quan tâm, chú trọng; sự hỗ trợ của các cơ quan chuyên môn, chính quyền địa phương chưa thật sự mang lại hiệu quả…
Theo Tiến sĩ Nguyễn Văn Hiệp, Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học (Viện Hàn lâm khoa học xã hội), vấn đề bảo tồn, gìn giữ ngôn ngữ các dân tộc thiểu số từ lâu đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 ghi rõ: "Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình" (Điều 5, Chương I).
Dưới Hiến pháp là rất nhiều văn bản nghị quyết, luật, quy định, hướng dẫn… và thành lập nhiều cơ quan, cơ sở nghiên cứu, đào tạo… cho mục tiêu nghiên cứu, bảo tồn và phát huy ngôn ngữ các dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta coi ngôn ngữ các dân tộc là một trong các thành tố làm nên bản sắc văn hóa dân tộc; bảo tồn, giữ gìn ngôn ngữ dân tộc là góp phần bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta.
Chủ trương và những quyết sách đúng đắn, đã mang lại cho một số ngôn ngữ dân tộc thiểu số những cơ hội không thể tốt hơn. Ở một số dân tộc thiểu số có số dân đông, cư trú tập trung, ngôn ngữ dân tộc đó được sử dụng làm ngôn ngữ thứ hai trong trường học. Học sinh được truyền dạy bởi giáo viên và ngôn ngữ đó được sử dụng song song trong các hoạt động của nhà trường.
Ngoài ra, một số ngôn ngữ của các dân tộc đông người như Khmer, Ê Đê, Gia Rai, Ba Na, Chăm, H’Mông, Thái, Xê Đăng, Tày, Hà Nhì, Hrê, Cà Tu... cũng được lựa chọn sử dụng trên các đài tiếng nói, đài truyền hình, phát thanh Trung ương và địa phương. Một số cũng đã được sử dụng để in các tác phẩm văn học, văn nghệ; để biên soạn các từ điển đối chiếu song ngữ, các sách miêu tả ngữ pháp, các sách giáo khoa...
Đó là hiệu quả của chính sách đối với các dân tộc thiểu số có dân số đông, đời sống xã hội tương đối phát triển. Còn đối với ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số rất ít người, hiện đang có nguy cơ “biến mất” lại là câu chuyện hoàn toàn khác. Người Arem, Mã Liềng, Rục, Cơ Lao, Pa Dí, Thu Lao, Cuối, Pu Péo cho đến nay, gần như không còn người có thể sử dụng thành thạo cả tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình.
Một số dân tộc khác không có một người trẻ nào có thể nói được tiếng của dân tộc mình chứ chưa nói đến việc đọc chữ. Cũng có một số dân tộc không có chữ viết, chỉ còn rất ít người già là còn bập bõm được đôi ba câu tiếng nói của dân tộc mình. Đối với những dân tộc như vậy, việc ngôn ngữ của họ vốn đã từng có, sẽ nhanh chóng biến mất trong dòng chảy tự nhiên.
Đối với một số ngôn ngữ của dân tộc thiểu số có điều kiện để bảo tồn thì những chủ trương, chính sách của Nhà nước thực sự có ý nghĩa. Nhiều địa phương nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống trong cả nước như Nghệ An, Đăk Lăk, Gia Lai, Lai Châu, Điện Biên, Hà Giang, Lào Cai, Sơn La, Sóc Trăng, Khánh Hòa… đã tổ chức nhiều hoạt động thiết thực, ý nghĩa nhằm khôi phục ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong những hoạt động nội sinh của mỗi dân tộc.
Tiêu biểu như tỉnh Lào Cai. Từ năm 2019 đến nay, Ban Dân tộc tỉnh đã mở 60 lớp dạy tiếng cho đồng bào dân tộc Phù Lá và Bố Y. Đã có gần 3.000 lượt người được ôn lại ngôn ngữ của dân tộc mình qua hình thức truyền khẩu. Đài Phát thanh và truyền hình tỉnh ra mắt 2 chuyên trang tiếng H’Mông và tiếng Dao cho những người có nhu cầu giao lưu, học tập thông qua ngôn ngữ này. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh cũng có nhiều nghiên cứu về ngôn ngữ dân tộc thiểu số thông qua các trang sách cổ còn lưu giữ tại bảo tàng tỉnh.
Những hoạt động nhằm bảo tồn, gìn giữ những giá trị của ngôn ngữ dân tộc được đồng bào dân tộc thiểu số hưởng ứng rất mạnh mẽ. Nhiều người già, nghệ nhân tự đứng ra mở lớp dạy tiếng, dạy chữ cho lớp trẻ chỉ để “bọn trẻ không quên tiếng mẹ đẻ của chúng”.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng chương trình dạy song ngữ bằng 8 thứ tiếng dân tộc (gồm: Thái, H’Mông, Ba Na, Gia Rai, Xơ Đăng, Chăm, Khmer, Hoa, Ê Đê) cho các trường tiểu học, phổ thông dân tộc nội trú vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Dựa trên bộ tài liệu này, hiện nay cả nước có khoảng 30 tỉnh, thành phố đang tổ chức dạy học ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong nhà trường.
Nhiều địa phương đã triển khai thực hiện dạy tiếng dân tộc cho học sinh trong trường phổ thông đạt kết quả tốt, như Sơn La, từ thành công bước đầu đã đặt kế hoạch mỗi năm mở khoảng 9 lớp với 400 học viên; Bình Thuận dạy tiếng Chăm cho học sinh tiểu học 4 tiết/tuần… Tỉnh Lào Cai cũng tổ chức dạy song ngữ (tiếng Việt và tiếng dân tộc thiểu số) trong một số trường học trong tỉnh…
Mặc dù đã bước đầu có kết quả khả quan, nhưng trên tổng thể hiệu quả của công tác bảo tồn, gìn giữ ngôn ngữ dân tộc thiểu số chưa được như mong muốn. Nhiều địa phương mới chỉ dừng ở việc thử nghiệm thí điểm giảng dạy song ngữ chứ chưa thực hiện phổ cập tới nhiều trường nơi có đông học sinh dân tộc thiểu số; việc in ấn, phát hành sách báo, phát thanh, truyền hình có số lượng và thời lượng quá ít; nghiên cứu khoa học về ngôn ngữ dân tộc chưa nhiều; việc truyền dạy tại cộng đồng dân tộc cũng như cơ hội, điều kiện sử dụng ngôn ngữ trong cộng đồng chưa cao.
Đây có lẽ là yếu tố cơ bản quan trọng trong việc “hồi sinh” những ngôn ngữ dân tộc thiểu số có nguy cơ mai một, bởi lẽ, nhân tố quan trọng nhất đem lại sức sống cho các ngôn ngữ là chúng được truyền dạy và có vai trò như thế nào trong đời sống xã hội.
Việc bảo tồn, gìn giữ và phát huy những giá trị ngôn ngữ dân tộc thiểu số cũng là bảo tồn, gìn giữ và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
-nguon: NGHIÊM THỊ HUỆ, Báo Nhân dân -
* Tóm tắt các giai đoạn phát triển của ngôn ngữ người Việt
Ở Việt Nam người đầu tiên nêu ra và áp dụng phân chia ngôn ngữ người Việt là giáo sư Nguyễn Tài Cẩn, ông đề nghị phân chia lịch sử 12 thế kỷ của ngôn ngữ người Việt thành 6 giai đoạn cụ thể.
1. Giai đoạn Proto Việt (tiền Việt): Có 2 ngôn ngữ là tiếng Hán và tiếng Việt, có 1 kiểu văn tự là chữ Hán. Tồn tại vào khoảng thế kỷ VIII và IX.
2. Giai đoạn tiếng Việt tiền cổ (cổ xưa): Có 2 ngôn ngữ là tiếng Việt và văn ngôn Hán; có 1 kiểu văn tự là chữ Hán. Tồn tại vào khoảng thế kỷ X, XI, XII.
3. Giai đoạn tiếng Việt cổ: Có 2 ngôn ngữ là tiếng Việt và văn ngôn Hán; có 2 văn tự là chữ Hán và chữ Nôm. Tồn tại từ thế kỷ XIII đến XVI.
4. Giai đoạn tiếng Việt trung đại: Có 2 ngôn ngữ là tiếng Việt và văn ngôn Hán; có 3 văn tự là chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Tồn tại vào khoảng thế kỷ XVII, XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX.
5. Giai đoạn tiếng Việt cận đại: Có 3 ngôn ngữ là tiếng Pháp, tiếng Việt và văn ngôn Hán; có 4 văn tự là chữ Pháp, chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc Ngữ. Tồn tại vào thời gian Pháp thuộc (1884-1945).
6. Giai đoạn tiếng Việt hiện nay: Có 1 ngôn ngữ là tiếng Việt; có 1 văn tự là chữ Quốc ngữ. Tồn tại từ năm 1945 đến nay.
GS.TS Trần Trí Dõi cho rằng, cách phân chia của GS Nguyễn Tài Cẩn có ưu thế là phản ánh rõ nét tương tác xã hội của lịch sử dân tộc. Qua cách phân chia này người ta có thể hình dung được trạng thái xã hội ngôn ngữ của cộng đồng này.
Như vậy ngôn ngữ người Việt từ trong lịch sử đến hiện tại đã trải qua rất nhiều quá trình biến đổi, tùy theo từng cách phân chia khác nhau mà các nhà khoa học chia thành từng thời kỳ khác nhau. Tuy nhiên các cách phân chia dù có tương đồng hay khác biệt, thì nó cũng đều phản ánh được vị thế, vai trò xã hội của ngôn ngữ trong lịch sử phát triển của nó, từ đó nhận biết vai trò của văn hóa ngôn ngữ trong sự phát triển xã hội của người Việt.