Ẩm thực là một trong những phần không thể thiếu của một nền văn hoá. Đối với văn hoá ẩm thực Việt Nam cũng vậy, những món ăn đều được truyền từ thế hệ này cho đến thế hệ khác. Giữ gìn phát huy những món ăn truyền thống là một trong những phương pháp bảo tồn văn hoá ẩm thực Việt Nam.
Do đất nước được chia ra thành ba miền, nên ẩm thực Việt Nam từ đó cũng được chia theo vùng miền: Bắc - Trung - Nam cũng tạo ra những nét đặc trưng riêng. Văn hoá ẩm thực khác nhau cũng đã góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng trong ẩm thực Việt Nam. Mỗi một vùng miền sẽ có một khẩu vị cho vào món ăn khác nhau, các chế biến, tên gọi của món ăn từ đó cũng sẽ khác.
Mỗi một lần nhắc về văn hoá ẩm thực Việt Nam thì nó lại là chủ đề luôn được thảo luận một cách sôi nổi. Không chỉ dừng lại ở những món ăn, công thức chế biến và những nguyên liệu thực phẩm mà hơn hết nó còn chứa đựng một nét văn hoá tự nhiên được hình thành trong cuộc sống. Những món ăn Việt Nam đều được hài hoà về màu sắc cho đến hương vị khiến cho tổng thể món ăn hợp lý, tăng thêm phần hấp dẫn khó lòng cưỡng lại, đặc biệt nhất là đối với những người du lịch Việt Nam.
* Triết lý âm dương trong ẩm thực Việt Nam
Việt Nam ảnh hưởng nhiều về văn hóa Trung Hoa, vì thế ảnh hưởng của ẩm thực Trung Quốc đến Việt Nam là không còn xa lạ. Theo đó, triết lý Phật giáo được thể hiện rõ nét trong ẩm thực Việt Nam qua ngũ hành.
Ngũ hành trong âm dương được liên tưởng đến 5 hương vị cơ bản cay (kim), chua (mộc), mặn (thủy), ngọt (thổ) và đắng (hỏa) để tạo nên sự đặc sắc. Và mỗi món ăn trong ẩm thực Việt Nam phải hòa quyện giữa các yếu tố đó. Chính vậy, đó là lý do vì sao hầu hết các món ăn Việt Nam đều có kết cấu tương phản nhau.
Với sự hòa quyện tinh tế của các loại rau thơm, rau tươi, thịt và cách sử dụng gia vị có chọn lọc, món ăn Việt Nam không những không giống bất kỳ món ăn nào ở Đông Nam Á mà còn được coi là một trong những nền ẩm thực lành mạnh nhất trên thế giới.
Sự cân bằng này có nghĩa là hầu hết các món ăn truyền thống của Việt Nam sử dụng nhiều loại thảo mộc và gia vị để mang lại hương vị khác biệt cho các thành phần chính của món ăn.
Việt Nam ở trong vùng nhiệt đới thuộc Bắc bán cầu, tọa độ Việt Nam có điểm cực Bắc (Đồng Văn – Hà Giang) ở khoảng 23,24 Bắc vĩ độ, điểm cực Nam (mũi Cà Mau , An Xuyên) ở khoảng 8.33 Bắc vĩ độ, điểm cực Tây (A Pa Chải – Lai Châu) ở khoảng 102.16 Đông kinh độ, và ở điểm cực Đông (Mũi Nạy – giữa Tuy Hòa và Nha Trang) ở khoảng 109.44 Đông kinh độ.
Với tổng diện tích là 331.700km. Phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam – Quảng Tây và một phần tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), phía Tây giáp Lào và Campuchia, phía Đông và Đông Nam giáp biển Thái Bình Dương. 75% lãnh thổ là núi và cao nguyên, 25 % còn lại là bình nguyên và sông ngòi. Chiều dài lãnh thổ Việt Nam từ Đồng Văn đến mũi Cà Mau khoảng 1.650km. Chiều ngang rộng nhất là khoảng cách từ Lai Châu sang Móng Cái (khoảng 600 km). Chiều ngang hẹp nhất là ở Đồng Hới (Quảng Bình). Với những đặc thù về vị trí cộng với sự thuận lợi về giao thông đường bộ, đường biển, đường sông, hàng không, nước ta có nhiều lợi thế để phát triển, giao thương giữa các nước trong khu vực và trên thế giới.
Với những điều kiện khá thuận lợi, nguồn nguyên liệu và các món ăn vô cùng phong phú và đặc sắc đã thể hiện bản sắc văn hóa của người Việt Nam theo chiều dài lịch sử dân tộc, theo đó văn hóa ẩm thực cũng có những đặc trưng riêng biệt.
- Tính hòa đồng – đa dạng
Người Việt dễ dàng tiếp thu văn hóa ẩm thực của các dân tộc khác, vùng miền khác để từ đó chế biến thành những món ăn mang nét riêng văn hóa ẩm thực riêng phù hợp với khẩu vị và sở thích riêng của mình, đây chính là điểm nổi bật của ẩm thực của nước ta từ Bắc đến Nam.
Xét về nguồn thực phẩm, nước ta có rất nhiều loại cây trồng, vật nuôi rất phong phú, từ Bắc vào Nam địa phương nào cũng quanh năm bốn mùa xanh tốt rau quả cây trái tạo ra các đặc sản địa phương.
- Ít mỡ động vật
Do đặc thù về vị trí địa lý nên khí hậu ẩm và mưa nhiều. Việt Nam nằm trong vùng Á Châu gió mùa vì vậy nguồn lương thực, thực phẩm phong phú và đa dạng, thiên về sử dụng các nguyên liệu thực vật. Chính vì vậy mà các món ăn Việt Nam chủ yếu làm từ rau, quả, củ nên sử dụng ít mỡ động vật, không dùng nhiều thịt như các nước phương Tây, cũng không dùng nhiều dầu, mỡ như món ăn của người Trung Quốc.
- Đậm đà hương vị đặc trưng
Khi chế biến thức ăn người Việt Nam thường dùng nước mắm để nêm và kết hợp với rất nhiều loại gia vị khác nhau để tạo nên hương vị đặc trưng của món ăn, do đó các món ăn thường rất đậm đà. Mỗi món khác nhau đều có nước chấm tương ứng phù hợp với hương vị.
+ Các loại Mắm
Các loại mắm là sản phẩm của quá trình lên men thủy phân các protein trong thủy sản thành các axit amin của men protease trong điều kiện yếm khí; sản phẩm luôn có vị ngọt của axit amin, nổi vị mặn và mùi đặc trưng của từng loại mắm. Các loại mắm gồm: Mắm cái, Mắm nhuyễn, Mắm nước (nước mắm),
+ Tương
Tương là sản phẩm của quá trình lên men một số loại hạt: gạo nếp, đậu tương, ngô… cùng với nước sạch, muối. Những địa phương làm tương nổi tiếng là Bần và phố Hiến (Hưng Yên), Cự Đà (Hà Tây), Nam Đàn (Nghệ An). Tương dùng để làm nước chấm và để nấu một số món ăn. Một số sản phẩm khác có dạng sệt, dùng để chấm hoặc sử dụng như một thứ gia vị cũng được gọi là tương: tương ớt, tương me.
+ Nước chấm
Nước chấm là cách gọi thông thường các loại gia vị mặn có trạng thái lỏng hoặc đặc, sánh dùng để cân bằng vị cho món ăn. Nước chấm có nhiều loại, mỗi loại được dùng với những món ăn nhất định như một loại xốt.
Trong bữa ăn người Việt, nước chấm được dùng chung từ bữa ăn gia đình, bữa ăn ở nông thôn, thành thị đến các bữa tiệc. Bát nước chấm được coi là biểu tượng của tính cộng đồng trong lối sống người Việt.
- Tổng hòa nhiều chất, nhiều vị
Các món ăn Việt Nam thường bao gồm nhiều loại thực phẩm như thịt, tôm, cua cùng với các loại rau, đậu, gạo. Ngoài ra còn có sự tổng hợp của nhiều vị như chua, cay, mặn, ngọt, bùi béo…
Nguồn gia vị nước ta rất dồi dào phong phú từ Bắc vào Nam, từ đồng bằng đến đồi núi. Các loại gia vị có nguồn gốc Phương Tây, nguồn gốc châu Á Người Việt sử dụng chủ yếu gia vị thực vật ở dạng nguyên liệu tươi hoặc khô để phối hợp với từng loại thực phẩm để tạo thành các món ăn riêng phù hợp với tập quán, khí hậu, sản phẩm của từng địa phương. Đây được coi là nghệ thuật sử dụng gia vị của người Việt.
Người Việt còn dùng các loại gia vị chế biến khác như: mắm, tương, nước chấm với các cách độc đáo tạo nên sản phẩm văn hóa ẩm thực đậm đà bản sắc của Việt Nam từ cách chế biến, cách dùng và hương vị đặc trưng.
- Ngon và lành
Cụm từ ngon lành đã gói ghém được tinh thần ăn của người Việt. Ẩm thực Việt Nam là sự kết hợp giữa các món, các vị lại để tạo nên nét đặc trưng riêng. Những thực phẩm mát như thịt vịt, ốc thường được chế biến kèm với các gia vị ấm nóng như gừng, rau răm… Đó là cách cân bằng âm dương rất thú vị, chỉ có người Việt Nam mới có…
Các loại món ăn Việt Nam đa dạng phong phú, nó bao gồm các món ăn truyền thống thuần Việt và các món ăn có sự ảnh hưởng, giao thoa và tiếp biến từ các nền văn hóa ẩm thực khác.
Các món ăn Việt Nam được chia thành: món ăn đặc sản, món ăn bình dân, món ăn cao cấp, món ăn cung đình, món ăn truyền thống và món ăn có nguồn gốc từ nước ngoài.
- Sử dụng đũa
Đũa là dụng cụ bằng tre, gỗ có nhiều loại khác nhau. Loại đũa to gọi là đũa cả, thường dùng để xới cơm, hoặc dùng để nấu cơm đối ở khu vực nông thôn. Đũa nhỏ và dài dùng để đảo trộn thức ăn gọi là đũa xào. Loại đũa dài 25-30cm thường dùng cho cá nhân khi ăn được gọi là đũa. Khi dùng dụng cụ ăn, người Việt rất coi trọng yếu tố thẩm mỹ, vệ sinh “nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm”.
Văn hóa sử dụng đôi đũa trong bữa ăn của Việt Nam rất phong phú được sử dụng nhiều trong thực tế cuộc sống. Đũa luôn dùng hai chiếc và gọi là đôi đũa, không gọi là “hai”, “nhị”. Đũa gắn liền với việc ăn, với cuộc sống hàng ngày, đã trở thành biểu tượng cuộc sống. Phải so đũa trước khi ăn phải xếp đầu to với đầu to, đầu nhỏ với đầu nhỏ và đôi đũa phải bằng nhau không so le, không ăn đũa vênh khi ăn.
- Tính cộng đồng
Tính cộng đồng thể hiện rất rõ trong ẩm thực Việt Nam, bao giờ trong bữa cơm cũng có bát nước mắm chấm chung, hoặc múc riêng ra từng bát nhỏ từ bát chung ấy.
- Hiếu khách
Tại các gia đình Việt Nam cứ có khách đến là mời vào nhà, là vồn vã mời uống nước hỏi thăm sức khoẻ, con cái. Khách quen dù chỉ một lần gặp hay chục năm mới gặp nhau đến lúc gần đến giờ ăn hay đúng lúc đang ăn đều được mời dùng bữa. Bạn bè lâu ngày không gặp nhau, cũng mời nhau đến nhà ăn cơm với lời mời khiêm tốn “ăn bữa cơm rau” nhưng thực tế lại chuẩn bị bữa ăn rất nhiều món, chủ nhà luôn gắp cho khách, mời khách ăn nữa, uống nữa. Những gia đình nghèo thường xuyên “thắt lưng, buộc bụng” đành phải “nhịn miệng đãi khách” là việc phổ biến từ xưa và còn tồn tại ở các làng quê Việt Nam ngày nay.
- Tính dọn thành mâm:
Mâm là quan niệm cơ bản về cách phục vụ bữa ăn. Các món ăn được bày trên mâm và các thành viên dùng chung: liễn cơm, bát canh, đĩa cá, đĩa thịt, bát nước chấm. Khi ăn, mỗi người gắp, múc thức ăn ra bát nhỏ của riêng mình. Vào bữa, người có địa vị thấp hơn phải chờ và mời người có địa vị cao hơn, người dưới hoặc chủ nhà phải tiếp, gắp, rót thức ăn cho người trên hoặc khách để thể hiện sự kính trọng, tôn trọng, quý mến, sự chăm sóc. Con cháu không bao giờ được ăn trước ông bà, cha mẹ. Con cháu trước khi ăn phải mời và ăn xong trước khi đứng lên cũng phải mời và xin phép. Ngoài ra, trong bữa ăn người Việt Nam còn có rất nhiều quy định hoặc khuyên răn thể hiện gia phong.
Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa sắc tộc, là sự hợp nhất của 54 dân tộc khác nhau, cũng chính vì vậy đã làm cho Văn hóa ẩm thực của Người Việt đa dạng phong phú và có những nét đặc trưng riêng biệt. Bất cứ du khách nào đến Việt Nam khi trải nghiệm về ẩm thực cũng thấy sự thú vị và hài lòng bởi những nét đặc trưng của Văn hóa ẩm thực Việt.
3. Ẩm thực các dân tộc
Với 54 dân tộc sống trên nhiều vùng địa lý đa dạng khắp toàn quốc, ẩm thực của mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều có bản sắc riêng biệt. Rất nhiều món trong số đó ít được biết đến tại các dân tộc khác, như các món thịt lợn sống trộn phèo non của các dân tộc Tây Nguyên. Tuy nhiên, nhiều món ăn đã trở thành đặc sản trên đất nước Việt Nam và được nhiều người biết đến, như mắm bò hóc miền Nam, bánh cuốn trứng (Cao Bằng, Lạng Sơn), bánh coóng phù (bánh trôi dân tộc Tày, xuất xứ từ bánh trôi tàu của người Hoa), lợn sữa và vịt quay mắc mật (quả mặt), khâu nhục Lạng Sơn (ảnh hưởng từ Quảng Đông, Trung Quốc), phở chua, cháo nhộng ong, phở cốn sủi, thắng cố, các món xôi nếp nương của người Mường, thịt chua Thanh Sơn (Phú Thọ)...
4. Ẩm thực thể hiện văn hóa tinh thần người Việt:
Văn hóa tinh thần của người Việt trong ẩm thực chính là sự thể hiện nét đẹp trong văn hóa giao tiếp, là sự cư xử giữa người với người trong bữa ăn, làm vui lòng nhau qua thái độ ứng xử lịch lãm, có giáo dục. Việc ăn uống đều có những phép tắc, lề lối riêng, từ bản thân, đến trong gia đình, rồi các mối quan hệ ngoài xã hội.
Bản thân mỗi người phải biết giữ gìn, thận trọng trong khi ăn, cũng như đề cao danh dự của mình: “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, hay “ăn phải nhai, nói phải nghĩ.
Trong gia đình: ăn chung mâm, ưu tiên thức ăn ngon cho người lớn tuổi, trẻ nhỏ”kính trên nhường dưới”, thể hiện sự kính trọng, tình cảm yêu thương. Bữa cơm hàng ngày được xem là bữa cơm xum họp gia đình, mọi người quây quần bên nhau, cùng nhau vui vầy sau một ngày làm việc mệt nhọc.
Ngoài xã hội: việc mời khách đến nhà thể hiện nét văn hóa giữa người với người trong xã hội. Khi có dịp tổ chức ăn uống, gia chủ thường làm những món ăn thật ngon, nấu thật nhiều để đãi khách. Chủ nhà thường gắp thức ăn mời khách, tránh việc dừng đũa trước khách, và có lời mời ăn thêm khi khách dừng bữa. Bữa cơm thiết không chỉ đơn thuần là cuộc vui mà còn thể hiện tấm lòng hiếu khách đặc trưng của người Việt.
Ẩm thực Việt Nam là một bức tranh đầy màu sắc, nêu bật lên bản sắc riêng của từng dân tộc, vùng miền nhưng chúng vẫn mang trong mình cốt cách, linh hồn Việt đồng nhất. Đậm đà vị dân tộc không thể xóa nhòa.
-Nguồn: Tổng hợp-
VĂN HÓA ẨM THỰC 3 MIỀN
Ẩm thực là nét văn hoá tự nhiên hình thành trong cuộc sống. Mỗi quốc gia, vùng miền lại có những nét đặc trưng riêng biệt tạo nên bản sắc khó trộn lẫn. Trong đó, nhắc đến ẩm thực miền Bắc, Việt Nam không khó để nhận ra hương vị thanh đạm, nhẹ nhàng cùng cách bài trí vô cùng tinh tế. Ẩm thực miền Bắc được biết đến với những món ngon thanh đạm và cách bài trí cầu kỳ, chúng ta cùng khám phá nét tinh hoa trong ẩm thực Việt.
1. Nét đặc trưng trong hương vị ẩm thực miền Bắc
Khác với hương vị đậm đà và cay nồng của miền Trung, vị tươi mát và ngọt của ẩm thực đến từ Nam bộ, ẩm thực của miền Bắc lại in đậm cốt cách của nền văn hoá lâu đời, toát lên sự tinh tế, nhẹ nhàng cũng giống như những người con đất Bắc. Trong đó, Hà Nội được xem là nơi lưu giữ tinh hoa ẩm thực Việt Nam trọn vẹn nhất.
Nét đặc trưng trong ẩm thực miền Bắc chính là cảm giác hài hòa đem lại. Các món ăn tại đây thường có hương vị dịu nhẹ. Nguyên liệu được chọn để chế biến trong các bữa cơm gia đình thường là các loại thuỷ sản nước ngọt, rau củ và chủ yếu sử dụng gia vị đi kèm là muối, mì chính, nước mắm loãng hoặc mắm tôm,... Những nguyên liệu này có thể bổ sung cho nhau về mùi vị, giúp món ăn thêm dậy mùi và màu sắc bắt mắt, đồng thời kích thích vị giác người thưởng thức.
Đối với một số người ở nơi khác đến, những lần đầu nếm mùi vị món ăn do người Bắc làm thường sẽ cảm nhận vị nhạt, nhưng lâu dần sẽ quen hơn với hương vị thanh đạm, tốt cho sức khỏe này.
Nét đặc trưng tiếp theo của ẩm thực miền Bắc là thực phẩm giữ được mùi vị vốn có của nó. Chính vì đề cao việc giữ gìn hương vị nguyên thuỷ của nguyên liệu, mà các món ăn miền Bắc luôn nhẹ nhàng, thanh đạm. Vốn gắn bó lâu đời với nền nông nghiệp, các món ăn đều được chế biến từ nguyên liệu dân dã, dễ kiếm, hương vị quê hương tràn về chính là cảm giác mà người phương xa được thưởng thức một mâm cơm do chính người Bắc thực hiện.
Các món ăn tuy dân dã, nhưng luôn đòi hỏi sự cầu kỳ trong chế biến và cách trình bày khéo léo. Sự kết hợp hài hoà giữa các loại rau, và các nguyên liệu như tôm, cua, hến,… đối với người thưởng thức tuy không quá kích thích vị giác, nhưng cũng không hề nhàm chán, mà chính là cảm giác dễ chịu, vừa miệng.
Ẩm thực miền Bắc toát lên qua những món ăn mang vị thanh đạm, nhẹ nhàng cùng cách bài trí tinh tế và cầu kỳ. Cùng Tasty khám phá các món ăn ngon của miền Bắc và đặc trưng trong chế biến nhé.
Phở được biết đến là một món ăn sáng đầy đủ dinh dưỡng với giá thành hợp lý đối với người dân, phổ biến là phở bò và phở gà. Sự đặc biệt của phở chính là nước dùng. Xương bò hoặc xương lợn cùng sá sùng và nhiều gia vị khác như quế, gừng, thảo quả,... được ninh với lửa liu riu trong nhiều tiếng để nấu thành nước phở ngọt xương và có vị thanh hòa quyện với các thứ rau mùi đi kèm, tạo nên hương vị khó quên.
Là món ăn lâu đời nhất của Hà Nội, bún chả được coi là đặc sản ẩm thực nơi đây. Sợi bún để ăn bún chả phải dai, mềm, trắng và thơm, được lấy từ làng Phú Đô. Chả ăn cùng có thể là chả viên hay chả miếng, nhưng phải được tẩm ướp vừa phải rồi nướng trên bếp than hoa, khi ăn thì ăn kèm với nước mắm chua ngọt và rau húng.
Chả cá Lã Vọng là một đặc sản được dùng là cá lăng của Hà Nội, sở dĩ chúng được làm từ cá lăng bởi vì đó là loài cá ít xương và ngọt thịt. Cá sau khi rửa sạch được tẩm ướp theo công thức, sau đó đem nướng trên than rồi đem rán lại trong chảo mỡ, dùng kèm với bún, rau mùi, đậu phộng và mắm tôm, mắm tôm.
Thiên nhiên ưu ái cho Ninh Bình cảnh sắc thiên nhiên xinh đẹp, cũng chính là điều kiện cho việc phát triển ẩm thực từ thịt dê ở đây. Thịt dê ngon hơn vì dê được nuôi trên núi đá, thức ăn đa dạng nên thịt dê cũng săn hơn so với dê thả đồi. Đặc biệt, thực đơn thịt dê của người dân Ninh Bình cũng rất đa dạng.
Là đặc sản nổi tiếng chỉ có tại biển Hạ Long - tỉnh Quảng Ninh. Mực được dùng phải là mực mai, to và vẫn còn tươi sống, được bỏ mai, bỏ râu, da, ruột, bầu mực,... đem rửa sạch, thấm khô và cho vào cối rồi giã bằng tay, mực đã được giã nhuyễn được nặn thành miếng nhỏ, đem rán trong lửa liu riu và để khô.
Cá kho làng Vũ Đại có hương vị thơm ngon rất đặc biệt, không giống với cách làm ở các nơi khác. Cá được kho phải là cá trắm đen, thịt săn, được tẩm ướp theo công thức cổ truyền và kho bằng nồi đất nung, kho liu riu khoảng 16 đến 24 tiếng thì mới hoàn thành một mẻ cá, cá lúc này đã nhừ xương nhưng thịt vẫn còn săn và tỏa hương thơm ngào ngạt.
Khi nói đến Hà Nội, cốm là thức quà mà ai cũng vô thức nghĩ đến. Mùa thu Hà Nội, những gánh cốm nhịp nhàng trên vai các bà, các mẹ trên khắp phố phường là hình ảnh thân thuộc mang lại hương vị dân dã bình yên giữa lòng phố thị. Cốm cùng người Hà Nội trải qua bao thời gian, là thứ quà quê gắn liền với tuổi thơ mà đến khi đã trưởng thành người ta vẫn bùi ngùi nhớ.
Một nét đặc trưng rất “Bắc bộ” nữa chính là quà bánh trong ẩm thực miền Bắc. Quà bánh không phải là món ăn để no, và dù rất đỗi quen thuộc, những người thưởng thức món bánh vẫn luôn mang tâm thế háo hức, bởi quà bánh miền Bắc là thức ăn lưu giữ kỷ niệm đẹp tuổi thơ, là hồn quê hương gói gọn trong vị ngọt của quà bánh.
Bánh tẻ: một thứ bánh truyền thống của vùng đồng bằng Bắc bộ, bánh có nhân gồm thịt lợn vai, nấm mộc nhĩ, hoặc đỗ, bọc trong lớp bột gạo tẻ và gói bằng lá dong. Bánh được hấp chín trước khi ăn.
Bánh đậu xanh Hải Dương: là đặc sản của Hải Dương, làm từ bột đậu xanh nguyên chất, không pha hương liệu công nghiệp. Bột làm bánh là bột ướt trộn với mỡ và đường để tạo vị ngọt thanh, béo ngậy nhưng vẫn giữ được hương thơm đậu xanh. Bánh thường được thưởng thức khi dùng trà.
Bánh phu thê Đình Bảng - Bắc Ninh: là loại bánh truyền thống của người Việt, và là món bánh không thể thiếu trong dịp cưới hỏi. Được sản xuất đầu tiên tại Đình Bảng, bánh được gói trong lá dong rồi đem luộc. Nhân bánh được làm từ đậu xanh đã đãi vỏ, hấp chín rồi đánh tơi, được nêm đường trắng, ngoài ra, nhân còn có cùi dừa, hạt sen và hương ngũ vị.
Bánh gio: là món bánh truyền thống được làm từ bột gạo nếp, ngâm qua nước tro rồi đem luộc, khi ăn có vị mát dịu, hơi nhạt và có mùi tro phảng phất. Bởi vì rất dễ ăn và hỗ trợ tiêu hóa nên nó trở thành món ăn ngày Tết.
Trong những dịp lễ Tết, sự tinh tế, khéo léo trong ẩm thực miền Bắc càng được thể hiện rõ nét hơn qua hình ảnh mâm cao cỗ đầy. Sở dĩ có truyền thống này cũng bởi vì người miền Bắc rất ưa chuộng hình thức trên mâm cơm.
Mỗi mâm phải bày biện đủ “4 bát 6 dĩa” được chế biến cầu kỳ và trình bày bắt mắt. 4 bát ở đây là 4 bát canh, thường là 1 bát chân giò nấu măng, 1 bát miến, 1 bát mọc nấm và 1 bát bóng thả; 4 dĩa trong mâm thường là 1 đĩa thịt lợn, 1 đĩa gà luộc, 1 đĩa giò lụa và 1 đĩa chả quế tượng trưng cho tứ trụ, 4 mùa, 4 phương; mâm cỗ lớn có thể bày 6 đến 8 dĩa, tượng trưng cho phát lộc và phát tài, là những điều may mắn trong ngày đầu năm.
Qua thời gian, truyền thống mâm cơm ngày Tết vẫn được người miền Bắc gìn giữ đúng bản chất mâm cơm cổ truyền. Một mâm cơm vẫn đầy đủ ý nghĩa mà nó vốn có, cũng như những món ăn và cách làm vẫn được duy trì. Các món thường có trong mâm cơm ngày Tết của người miền Bắc gồm:
Bánh chưng - là món bánh biểu trưng cho sự kết tinh của trời đất, kết hợp giữa nếp dẻo, hạt đỗ ngọt bùi, thịt mỡ béo ngậy.
Xôi gấc - với màu đỏ từ quả gấc cũng như vì ngọt đặc trưng là biểu trưng cho sự may mắn mà trời đất mang lại cho mỗi người trong năm mới.
Chè kho - là món ăn giản dị, được nấu từ đậu xanh, vừng trắng và đường cát.
Gà luộc - không chỉ người miền Bắc, mâm cỗ của người dân Việt Nam không thể vắng bóng đĩa thịt gà, gà thường được chọn là gà vườn vì vị ngọt và thịt của chúng rất chắc, khi luộc xong cũng có màu vàng rất đẹp mắt.
Giò lụa, chả lụa - được làm từ thịt lợn giã nhuyễn, gói trong lá chuối và luộc chín, khi bày lên mâm cơm chả lụa được cắt theo khoanh tròn rồi cắt nhỏ và bày lên dĩa.
Nem rán - làm từ thịt băm, vài con tôm nõn, ít nấm hương, thêm mộc nhĩ, hành hoa và chút hạt tiêu,... trộn đều rồi cuốn trong bánh đa nem và đem rán chín.
Canh măng lưỡi lợn - được nấu từ phần măng lưỡi lợn của măng khô, thịt ninh măng có thể dùng gà nhưng ngon nhất vẫn là thịt lợn.
Dưa hành - mang lại cảm giác ngon miệng khi ăn kèm với các món ăn khác và giúp đẩy nhanh tiêu hóa nên món ăn dân dã này không thể thiếu trong mâm cơm ngày Tết.
Các món ăn khác có thể kể đến trong mâm cơm ngày Tết của người miền Bắc đó là canh miến măng, canh bóng thập cẩm, gỏi nộm, bò kho,...
Ẩm thực chính là đứa con tinh thần sinh ra từ nếp sống và sinh hoạt của con người trong một nền văn hóa. Có thể nói, hương vị tươi mát, thanh đạm, cùng với cách bài trí màu sắc và những ý nghĩa của các món ăn đã làm nên một nền ẩm thực miền Bắc tinh hoa. Cũng chính nét văn hóa đặc sắc này đã phần nào thể hiện được vẻ đẹp của con người ở đây. Đối với ẩm thực, càng đi sâu vào trong hương vị chính càng cảm nhận rõ những tinh túy được chắt chiu từ ngàn xưa, tạo thành sự tinh tế trong từng món ăn mà chúng ta thưởng thức.
- Nguồn: Diệu Trần-
Miền Trung với đặc trưng khí hậu cận nhiệt đới, thời tiết khắc nghiệt quanh năm đã tạo nên những nét đặc biệt trong tính cách và đời sống văn hóa của con người ở đây. Cùng với đời sống văn hóa đa dạng này, ẩm thực của người dân miền Trung cũng mang hương vị rất độc đáo, rất riêng biệt.
Với địa hình trải dài và hẹp, miền Trung là mảnh đất chịu nhiều thiên tai, lũ lụt, khí hậu khắc nghiệt, cũng vì thế, người dân ở đây cũng cần cù lam lũ hơn, món ăn cũng chú trọng đi vào chiều sâu vào hương vị hơn, không quá cầu kỳ hay phô trương, đây cũng là đặc điểm chung duy nhất tạo nên hương vị ẩm thực miền Trung.
Trải dài từ Bắc vào Nam đồng bằng duyên hải miền Trung, khí hậu, địa hình lại dần dần khác biệt, cũng vì vậy cách chế biến, cách thưởng thức và các nguyên liệu, cũng như đặc sản mỗi vùng lại khác nhau. Không có vùng nào trùng với vùng nào, cũng chỉ có thể tìm thấy những hương vị này ở những vị trí địa lý khác, điều đó cũng vô tình tạo nên sự đa dạng của ẩm thực miền Trung.
Đối với vùng Bắc Trung bộ, đây là vùng có địa hình trải dài từ Nam Ninh Bình đến phía Bắc đèo Hải Vân, là nơi cư trú của hơn 25 dân tộc khác nhau và có khí hậu khác biệt hoàn toàn với vùng Nam Trung bộ. Ẩm thực của vùng Bắc Trung bộ có nhiều món ăn chua hơn miền Bắc, món ăn cũng cay và đậm vị hơn, màu sắc món ăn cũng rất phong phú, rực rỡ, sắc đỏ và đỏ sẫm là màu sắc thường gặp nhất trong các món ăn. Nổi bật nhất trong vùng duyên hải Bắc Trung bộ là thức ăn xứ Nghệ, xứ Thanh và xứ Huế.
Nhắc đến ẩm thực xứ Nghệ, món ăn không thể không thể nhắc đến chính là miến lươn/ cháo lươn/ súp lươn, vừa là đặc sản mà cũng là niềm tự hào của người dân ở đây; lươn được nấu phải là lươn đồng, thịt săn, người ta rọc thịt lươn bằng cật tre chứ không dùng dao để mổ, thịt lươn nấu ra vừa mềm, vừa ngọt, không quá dai mà cũng không quá nhão.
Món ăn nổi tiếng tiếp theo trong ẩm thực miền Trung là nhút Thanh Chương. Nhút Thanh Chương ngon hơn cả bởi ở đây trồng được mít ngon. Nhút là món ăn thân thuộc mà người dân xứ Nghệ hay cả du khách tìm về thưởng thức, vị giòn giòn, mặn mặn với chút cay của ớt làm bữa cơm dân dã càng ngon miệng hơn.
Tương Nam Đàn, còn được biết là “tương mảnh”, được làm từ hạt đậu nành, nếp hoặc ngô, muối và nước, khi tương đã ủ thành, nước tương có màu vàng sánh như mật ong chứ không có màu nâu giống các loại tương bình thường. Hầu như các gia đình xứ Nghệ đều dùng tương để chấm thay vì nước mắm, bát nước tương trở thành hương vị gia đình ấm cúng của người dân ở đây.
Đến với ẩm thực biển của xứ Nghệ, du khách không thể bỏ lỡ trải nghiệm khi ăn món mực nhảy, là đặc sản biển nổi tiếng tại biển Cửa Lò. Những con mực này được ngư dân bắt lên và được chế biến ngay khi còn tươi sống. Mực cửa lò có nhiều cách chế biến, có thể nướng luôn trên tán đèn măng sông, cũng có thể ăn luộc hoặc có thể ăn tái tùy khẩu vị từng người.
Là vùng địa đầu của miền Trung, ẩm thực xứ Thanh là sự pha trộn giữa sự tinh tế của miền Bắc và hương vị đậm đà của ẩm thực miền Trung.
Nhắc đến nem chua, tuy quen thuộc với người dân mọi miền, nhưng nhắc đến đầu tiên vẫn là nem chua Thanh Hóa. Nem chua ở đây được làm từ thịt nạc, bì thái chỉ cùng tiêu, ớt, tỏi và lá đinh lăng. Khi ăn, có thể cảm nhận vị thịt lên men với vị nồng của tỏi và ớt, và mùi hơi hăng của lá đinh lăng khiến nem chua Thanh Hóa trở thành thức quà khó quên.
Chả tôm, một món ăn nổi tiếng không kém của Thanh Hóa, góp phần làm nên thương hiệu cho ẩm thực miền Trung. Chả tôm được làm từ thịt tôm bóc vỏ giã nhuyễn, thịt ba chỉ xay tiêu, hành khô và bọc bởi lớp phở cuốn. Chả được nướng trên bếp than hoa, khi ăn ăn kèm rau sống và nước chấm.
Bánh cuốn xứ Thanh là món ăn mà các tín đồ ẩm thực không bỏ lỡ khi đến với mảnh đất này, cho dù món bánh cuốn có thể thưởng thức ở nhiều tỉnh thành khác. Bánh cuốn xứ Thanh có nhân làm từ tôm nõn đánh bắt từ sông Mã, thêm một ít thịt ba chỉ và hành phi phủ lên trên làm cho hương vị của món bánh cuốn thêm vị ngọt lừ, đậm đà mà không món bánh cuốn ở nơi nào có được.
Mắm cáy, một trải nghiệm độc đáo khi thưởng thức ẩm thực ở vùng đất “Tam vương, nhị chúa”, với mùi vị bình dị, dân dã nhưng món ăn này lại có thể khiến những người từng nếm thử nhung nhớ khó quên. Mắm có mùi hăng hăng, nồng nồng, được ủ từ nhiều loại hải sản. Hương vị đậm đà nằm trong lớp mắm ủ màu đỏ thẫm đẹp mắt, khi ăn với rau hay thịt luộc,… càng kích thích vị giác người ăn.
Nói đến ẩm thực miền Trung nói riêng và Việt Nam nói chung, có thể nói văn hóa ẩm thực xứ Huế là một màu sắc lâu đời về ẩm thực của Việt Nam bởi vị ngon khó quên của nó.
Món ăn Huế có hương vị đậm đà và rất rõ ràng, đầy đủ hương vị, từ chua, cay, mặn, ngọt đến đắng, cay, béo, bùi, tuy mang đầy đủ hương vị nhưng khi nấu, vị nào đều ra vị nấu, khi ăn có thể cảm nhận rõ ràng. Đặc biệt, người Huế nấu ăn khá đậm vị và rất chuộng ăn cay, vì vậy nếu có dịp đến Huế thưởng thức ẩm thực, hãy chắc chắn khả năng ăn cay của mình và dặn với đầu bếp.
Người Huế rất chú trọng về hình thức, phải hài hòa về màu sắc và trang trí để mắt nhìn thấy thích, mũi ngửi thấy thơm, lúc ấy việc thưởng thức món ăn mới trọn vẹn.
Huế vốn là cố đô thời Nguyễn, vì vậy văn hóa ẩm thực của xứ Huế được chia làm hai, ẩm thực cung đình và ẩm thực dân gian.
Ẩm thực cung đình Huế
Vốn là nơi sinh sống của hoàng tộc và rất nhiều công hầu, khanh tước,… nên miếng ăn, thức uống theo lệ “phú quý sinh lễ nghĩa” có liên quan rất lớn đến nền ẩm thực xứ Huế. Văn hóa ẩm thực này không chỉ ảnh hưởng đến tầng lớp hoàng gia và quý tộc, mà đã ảnh hưởng đến cả tầng lớp thường dân ở đây. Ẩm thực cung đình chính là ẩm thực dân gian được nâng cao, sau đó lại quay về ảnh hưởng đến ẩm thực dân gian.
Ẩm thực cung đình chính là những món ăn ngự thiện được dâng cho vua chúa. Những món ăn này đều là cao lương mỹ vị, được chế biến công phu, đáp ứng đủ điều kiện được trình bày đẹp mắt, hương vị thơm tho, tinh khiết lại rất bổ dưỡng, đây chính là ăn bằng mắt, bằng mũi và bằng tai trước khi ăn bằng miệng trong ẩm thực cung đình Huế.
Ẩm thực ngự thiện tiêu biểu nhất chính là bát trân - 8 món ăn quý hiếm cho giới vua quan, bao gồm nem công, chả phượng, da tây ngưu, bàn tay gấu, gân nai, môi đười ươi, thịt chân voi và yến sào. Đây là 8 món ăn quý nhất, nhưng không phải lúc nào cũng có trong thực đơn. Các món chè ngọt thanh bổ dưỡng, có thể kể đến như chè yến, chè long nhãn,… cũng là ngự món ăn cung đình nổi tiếng.
Ẩm thực cung đình Huế có khá nhiều luật lệ, nghi thức, từ việc cung ứng thực phẩm, chế biến, cách phục vụ, các kiểu mâm bàn , chén bát, đũa theo từng vị trí, từng buổi tiệc. Có thể nói ẩm thực ngự thiện là đỉnh cao của nghệ thuật ẩm thực Việt bởi sự tinh túy, cầu kỳ, trang nhã và thanh cao, đầy sức cuốn hút của nó.
Ẩm thực dân gian
Cơm hến và những món ăn từ hến
Hến là món ăn dân dã hết sức quen thuộc của người Việt. Tuy nhiên kể đến hến, ngon nhất vẫn là ở Huế. Một bát cơm hến có vị ngọt cơm để nguội, có thịt hến ngọt mềm, có tóp rang giòn rụm, rau sống ăn kèm cũng rất đa dạng, và tất cả được trộn cùng với hương vị đậm đà của mắm ruốc. Ngoài cơm hến, người dân còn sáng tạo ra các món mới từ hến, bún hến, cháo hến, hến xào,…
Bún bò Huế
Bún bò Huế có thể được xem là linh hồn của ẩm thực cố đô, bởi cái vị ngọt thanh mà đậm đà từ nước hầm xương. Bún có thể dùng bún sợi to hay nhỏ, nhưng khi ăn không thể thiếu rau sống và chanh, trong tô bún với nước lèo ngọt thanh, thêm một miếng chân giò và vài lát thịt bò thái mỏng chính là lựa chọn hoàn hảo nhất.
Các loại bánh
Người Huế có rất nhiều loại bánh chế biến từ bột gạo, nổi tiếng nhất là các món bánh bèo, bánh nậm, bánh lọc và bánh khoái. Tùy từng loại bánh mà có thể ăn kèm nước mắm mặn, mắm ngọt hay bánh khoái thì ăn với nước lèo, nhưng nhìn chung, thức quà bánh này là món ăn rất dễ gây nghiện.
Cơm chay
Vốn là vùng đất của Phật Giáo, ẩm thực chay ở Huế cũng rất đa dạng với hương vị đậm đà. Từ truyền thống ăn chay vào mỗi ngày đầu và ngày giữa tháng, ẩm thực chay ở Huế đã phát triển rất mạnh với nhiều món ăn độc đáo. Ẩm thực chay ở Huế chính là món ăn song hành, vừa thanh đạm, dễ tiêu nhưng hương vị vẫn rất lôi cuốn.
Các món chè
Bên cạnh các loại quà bánh, chè cũng là thức ăn chơi được người dân ở đây ưa chuộng. Hơn 20 loại chè bình dân được bán ở các quán phục vụ cho những người thích vị ngọt. Chè Huế được nấu từ các loại đậu, đậu được nấu mềm ăn với nước đường ngọt thanh, thêm vào ít nước cốt dừa tạo ra vị bùi bùi khi ăn chè, một số nơi có thể nấu kèm với lá dứa để tạo mùi thơm mát.
Mang đậm bản sắc của vùng biển, vùng đất Nam Trung bộ là vùng đất của các món ăn được chế biến từ hải sản. Những món ăn ở đồng bằng Nam Trung bộ chinh phục thực khách bởi hương vị ngọt mát từ biển với cách chế biến đa dạng. Từ nam đèo Hải Vân xuôi về dọc phía Nam, qua mỗi tỉnh văn hóa ẩm thực lại có phân hóa rõ rệt.
Là món ăn Đà Nẵng nổi tiếng lâu đời, gỏi cá Nam Ô là đặc sản rất độc đáo ở đây. Cá để chế biến thành gỏi có thể là cá mòi, cá tớp, cá cơm,… nhưng ngon nhất vẫn là cá trích. Cá được nuôi hoặc đánh bắt, cá được chế biến to cỡ lớn hơn ngón tay, được cắt đầu, đuôi bụng, tách xương rồi xẻ thân làm hai, sau đó đem ướp với gừng, riềng, tỏi băm nhuyễn và thính. Trước khi ướp, cá được đem ép lấy nước để ráo cá, nước ép từ cá được đem đun sôi rồi trộn với nước mắm Nam Ô, ớt, bột ngọt, bột năng để làm nước chấm. Khi ăn, miếng cá được quấn cùng với rau trong bánh tráng mỏng rồi chấm nước chấm, hoặc có thể quấn rau với cá rồi chấm nước để ăn tùy khẩu vị.
Cũng như hủ tiếu của người dân Nam Bộ, mì quảng là một dạng khác của phở. Mỳ là sợi bánh bột gạo, nhưng nước “nhân” không chỉ được nấu từ xương bò, xương heo mà có cả tôm, cua, thịt gà, thịt,... pha thêm nước nghệ, khi ăn có màu vàng rất đẹp mắt. Rau sống ăn kèm thường là hoa chuối, giá đỗ, rau thơm, rau ngổ,… Nước nhân chỉ chan ngập lớp rau bên dưới chứ không chan ngập bát như phở.
Nổi tiếng ở Quảng Ngãi chính là món chả cá Sa Huỳnh. Cá làm chả cá là cá nhồng, cá chuồn, cá thu,… sau khi mang về thì được làm sạch rồi nạo thịt ra khỏi xương, đem thịt xay nhuyễn với gia vị và lòng trắng trứng gà để chả thêm dai sau đó nặn thành lát rồi cho vào dĩa. Chả có thể chế biến theo nhiều cách như hấp, chiên, có thể ăn kèm với cơm hay bún nước lèo, hoặc ăn kèm khế chua, chuối chát và rau thơm.
Xưa nay rượu bàu đá của Bình Định chỉ sản xuất bằng thủ công, các dụng cụ nấu rượu đều được làm bằng sành, thủy tinh hoặc tre nên có hương vị rất đặc trưng. Rượu bàu đá không được chân cất vội vàng, phải dùng lửa liu riu để nấu mới tận dụng được hết tinh chất của gạo. Rượu được nấu chuẩn có màu trong veo, thơm nồng dịu, khi rót ra chén có sủi tăm, uống vào có cảm giác lâng lâng nhẹ nhàng.
Nước mắm Phan Thiết - một đặc sản rất nổi tiếng của vùng đất biển Bình Thuận và có mặt ở hầu hết thị trường trong nước. Nước mắm được làm chủ yếu từ cá cơm và muối hạt, loại cá cơm làm ngon nhất là cá cơm than và cá sọc tiêu. Chất lượng của nước mắm cũng được cho là phụ thuộc vào thời gian đánh bắt cá, ngon nhất là cá tháng tám. Nước mắm ủ xong trong veo màu hổ phách, tỏa ra mùi thơm phức.
Nổi tiếng là vùng đất đỏ bazan, ngoài thiên nhiên hùng vĩ, món ăn của Tây Nguyên còn gây ấn tượng với những người đến thăm bằng hương vị núi rừng không đâu có được.
Khi nhắc đến món ăn thức uống, có thể nói rượu cần là sản phẩm văn hóa vật chất nổi bật nhất của Tây Nguyên. Rượu cần là thức uống có cồn, ủ từ gạo, mì, bắp, bo bo, kê,… và được uống bằng vật giống như ống hút gọi là cần. Rượu cần được sử dụng trong các dịp lễ hội, Tết, hoặc để thết đãi khách quý. Rượu có vị ngọt đắng, khi uống có cảm giác nồng ấm chứ không quá nóng như khi uống rượu nấu từ gạo.
Độc đáo không kém rượu cần là món cơm lam, xuất phát chủ yếu từ việc người dân phải đi làm nương rẫy. Cơm được nấu từ gạo nếp, ngoài ra cũng có thể sử dụng dừa nạo, nước cốt dừa, vừng trộn với gạo, ngon nhất vẫn là khi nấu với nước suối trong mát. Gạo được cho vào ống tre, nứa,… và nướng trên bếp. Khi cơm chín, chẻ khéo léo lớp vỏ cháy đen bên ngoài sẽ thấy lớp lạt giang mỏng bọc lấy ruột cơm.
Xuất phát từ nguyên liệu là lá rừng như lá mơ, lá ổi, lá sâm, lá sung, diếp cá, húng, quế,… đều là những loại lá quen thuộc với người dân ở Tây Nguyên. Khi ăn thì cuốn các lá thành hình phễu rồi gắp thức ăn cho vào đó, thường là thịt heo ba chỉ, tôm rang, da heo,… ăn với nước chấm sền sệt được làm từ hèm rượu và trứng vịt, khử qua dầu ăn. Gỏi lá có vị chan chát, ngòn ngọt, chua chua của lá rừng và vị bùi bùi béo ngậy của thịt, tôm ăn kèm.
Với sự khác biệt về địa lí và khí hậu, những đặc trưng của ẩm thực đã phân hóa rất đa dạng từ Bắc vào Nam. Có thể nói, ẩm thực miền Trung rất đa dạng về hương vị, trong đó, nét đặc trưng nhất là sở thích đậm đà, cay nồng trong các món ăn. Có thể nói, đối với những người yêu ẩm thực, hương vị thức ăn miền Trung là những trải nghiệm vô cùng độc đáo và hấp dẫn.
- Nguồn: Diệu Trần-
Mỗi vùng miền của nước ta đều có nét ẩm thực đặc trưng. Trong khi miền Bắc chú trọng sự tinh tế và cầu kỳ trong việc chế biến, thì những món ăn của người miền Trung lại đậm đà từ chính những gia vị được nêm nếm. Ngược lại, ẩm thực miền Nam lại mang nét giản dị, chân chất riêng biệt như chính con người nơi đây.
Nhờ đất đai phù sa màu mỡ, Nam Bộ được biết đến như một vựa lúa lớn nhất của nước ta, không chỉ để cung cấp lương thực trong nước mà còn đóng góp không nhỏ vào tổng sản lượng gạo xuất khẩu.
Ngoài ra, mạng lưới sông ngòi, kênh rạch dày đặc cùng với hệ thống sông lớn đầy ắp phù sa đã tạo cho vùng Nam Bộ nguồn thủy hải sản phong phú. Đặc biệt, vùng Nam Bộ chịu ảnh hưởng rõ nét của khí hậu nhiệt đới gió mùa với nhiệt độ cao quanh năm, chỉ có 2 mùa mưa và nắng, ít chịu ảnh hưởng của thiên tai. Những đặc điểm thiên nhiên đó đã góp phần tạo nên sự phong phú trong nguồn thực phẩm để thỏa mãn sức sáng tạo của người miền Nam.
Miền nam được chia làm hai mùa khá rõ rệt, là mùa nước nổi và mùa gặt chính. Mỗi mùa mang đến những sản vật thiên nhiên riêng biệt tạo nên điểm cuốn hút cho những món ăn miền Nam.
Mỗi mùa nước nổi, người dân địa phương lại được thưởng thức những món ăn dân dã từ những nguyên liệu đặc trưng của mùa như lẩu cá linh điên điển, bún nước lèo, bông súng kho mắm,... Cá linh với từng thớ thịt mềm ngọt kết hợp với bông điên điển vị chua chua, thanh thanh và giòn giòn là sự kết hợp tuyệt vời tạo nên món lẩu cá linh điên điển của ẩm thực miền Nam vào mùa nước nổi.
Vào mùa gặt, ẩm thực miền Nam lại trở nên phong phú bởi những loại cá đồng béo ngậy hay những loại rau, bông, đọt cây được chế biến theo nhiều cách đa dạng khác nhau. Những món ăn nổi tiếng của miền Nam vào mùa gặt như cá lóc nướng trui, cá trê nướng rơm,...
Ẩm thực miền Nam là sự kết hợp của các nền văn hóa ẩm thực vùng miền và chịu ảnh hưởng của ẩm thực Khmer. Ngoài ra, các món ăn từ Trung Quốc, Campuchia hay Thái Lan cũng được biến tấu theo cách ăn của con người nơi đây khi du nhập vào Nam Bộ.
Một ví dụ điển hình như sợi bún của miền Bắc được biến tấu bánh canh của miền Nam, sợi bánh to hơn và nhiều bột hơn so với sợi bún. Một bát bánh canh cũng phong phú hơn nhiều khi ăn kèm với thịt gà, tôm, cua, mực, giò heo; nước dùng không được trong như bát phở của miền Bắc mà có màu hơi đục, vị ngọt và béo ngậy hơn.
Mỗi bát phở của người miền Bắc thường thêm sa tế, nước mắm tỏi, chanh, ớt tươi, hành lá, rau mùi và ngò gai vào tùy thuộc vào khẩu vị mỗi người. Tuy nhiên, người miền Nam lại thêm tương đen, tương ớt, chanh, ớt tươi, ngò gai, húng quế, giá và hành tây cắt mỏng vào trong bát phở của mình.
Ngoài ra, bánh tráng của miền Trung cũng được thay đổi để phù hợp khẩu vị của người miền Nam. Mỗi miếng bánh được tráng nhỏ hơn, mùi vị đa dạng hơn và được chế biến một cách cầu kỳ phục vụ cho sở thích ăn vặt của cư dân nơi đây.
Với sở thích thêm đường và nước cốt dừa vào món ăn của mình, miền Nam luôn nổi tiếng với những món chè thơm ngon, béo ngậy làm say đắm biết bao người. Không chỉ có những món chè quen thuộc như chè đậu, bánh trôi nước, chè sen, chè bắp,... dễ dàng tìm thấy ở hai miền Bắc - Trung mà chè của miền Nam còn có những món chè đặc trưng như chè khoai mì, chè chuối, chè bà ba,... ăn kèm với nước cốt dừa thơm lừng, béo ngậy.
Đa số những món ăn của con người miền Nam đều đến từ những nguyên liệu mộc mạc nhất và cách chế biến cũng không mấy cầu kỳ. Mỗi món ăn đều có hương vị nồng đậm đặc trưng tạo nên nét độc đáo cho món ăn.
Vị mặn trong món ăn của ẩm thực nơi đây đến từ sự đậm đà của nước mắm nguyên chất, chắc chắn một điều rằng bạn sẽ không thể nào quên được nếu một lần thử món kho quẹt được kho mặn đến tê lưỡi. Hay vị cay nồng đến từ những loại ớt có thể khiến bạn cay đến xé lưỡi, nước mắt rưng rưng. Không những thế còn có những món ăn mang hương vị ngọt béo đến nao lòng, chua đến nhăn mặt hoặc đắng muốn ngất lịm. Thậm chí, đối với một số món ăn phải nóng đến mức vừa thổi vừa ăn mới chuẩn vị.
Sở dĩ, những món ăn của người miền Nam được chế biến hơi quá tay như vậy bởi sự cực khổ, vất vả từ thời còn sơ khai. Ngày nay, khẩu vị của người nơi đây đã dịu đi nhiều nhưng vẫn giữ được dấu ấn ẩm thực từ ngày xưa với những món đặc trưng như mắm kho quẹt, lẩu mắm và cá lóc nướng trui.
Tuy đa dạng về mùi vị là vậy nhưng những món ăn của miền Nam vẫn nổi tiếng với vị ngọt ngây ngất của đường và béo ngậy của nước cốt dừa. Con người nơi đây rất yêu thích vị ngọt nên đường trở thành một loại gia vị phổ biến khi chế biến các món ăn. Những món chè ngọt đậm, béo ngậy nức tiếng muôn nơi như chè bắp, chè bưởi,... cũng chính vì sự háo ngọt đặc trưng đó mà chế biến ra.
Nét đặc trưng khác trong ẩm thực Nam Bộ chính là sự dân dã từ cách chế biến cũng như cách ăn. Những món ăn từ nguyên liệu có sẵn trong thiên nhiên như cá nướng trui, gà nướng đất sét, mắm kho, đuông dừa,... được chế biến và thưởng thức tại chỗ để tận hưởng được trọn vẹn nguyên vị mộc mạc của nguyên liệu.
Món ăn nổi bật của đặc trưng ẩm thực này chính là món cá nướng trui, được bắt đem nướng trui tại bờ ruộng, ăn cùng với các loại rau dại có sẵn trong vườn nhà như bông điên điển, bông súng hay đọt sen. Đó chính là sự tự nhiên, thoải mái trong cách thưởng thức hương vị của người dân nơi đây. Tuy nhiên, khi bạn đến chơi nhà, họ cũng có thể dọn lên thành một bàn tiệc lịch sự thể hiện sự hiếu khách của chủ nhà.
Ẩm thực miền Nam nổi tiếng khắp bốn phương với những cái tên mà chỉ nhắc đến thôi là đã gợi lên bao ký ức về mỹ thực.
Nhắc đến ẩm thực miền Nam không thể không nhắc đến món hủ tiếu, đặc biệt là hủ tiếu Mỹ Tho thu hút bao nhiêu thực khách khi đến với vùng đất Mỹ Tho.
Hủ tiếu nơi đây trở nên nổi tiếng nhờ hương vị đủ đầy được trau chuốt từ khâu chọn bột làm ra cọng bánh đến nồi nước lèo chế biến kỳ công. Nước lèo của hủ tiếu Mỹ Tho có vị ngọt của xương sau khi được ninh kỹ, lại thêm hương vị thịt và khô mực nướng cùng một số nguyên liệu như gan, lòng non,... và gia vị đặc trưng tạo nên một bát hủ tiếu trọn vị. Tô hủ tiếu Mỹ Tho trước đây ngoài thịt và bao tử thì đầu bếp còn chẻ đôi con tôm bày lên để trong cho bắt mắt nhưng giờ đây, một số quán thay tôm bằng những miếng sườn hoặc trứng cút.
Ngoài món hủ tiếu nổi tiếng của Mỹ Tho thì hủ tiếu Nam Vang cũng được rất nhiều người miền Nam yêu chuộng. Đây là món ăn xuất phát từ ẩm thực Campuchia, được biến tấu sau khi du nhập vào miền Nam.
Nước lèo của hủ tiếu Nam Vang lấy vị ngọt của xương heo làm cốt kết hợp với rau củ, mực khô và tôm khô tạo nên một vị ngọt thanh, đậm đà. Mỗi sợi hủ tiếu dai ngon thấm vị, quyện với nước lèo trong veo đã giữ chân bao thực khách lại với ẩm thực Nam Bộ.
Khi đến với vùng Nam Bộ, bạn không thể không thử món đặc sản trứ danh này. Vào mùa gặt, cá lóc được bắt từ các đồng ruộng và sơ chế kỹ lưỡng rồi xiên qua thanh tre, cuối cùng đem vùi trong rơm khô nướng chín mà không cần tẩm ướp gia vị. Sau khi nướng chín, người dân chỉ cần bóc lớp da bị cháy là có thể thưởng thức những thớ thịt cá ngon ngọt bên trong cùng với đọt sen giòn giòn và nước mắm tỏi ớt.
Lại một món ăn đặc biệt nữa đến từ mùa lúa chín, đó là chuột đồng nướng. Đây là một món ăn thể hiện rõ nét mộc mạc, chân chất của ẩm thực miền Nam. Nguyên liệu quen thuộc làm nên một món ăn xuất sắc nhưng chắc hẳn nó sẽ làm một vài người không dám thưởng thức khi nghe đến.
Đừng ngại nhé! Nguồn lương thực chủ yếu cả chuột đồng là lúa vì vậy nên thịt của nó rất thơm. Và để có được món chuột đồng nướng thơm ngon, mỗi chú chuột đều phải trải qua quá trình sơ chế, tẩm ướp gia vị rồi nướng trên lửa than đến khi chín vàng. Miếng thịt chuột dai dai và ngọt thịt ngon chuẩn vị khi ăn kèm với rau sống cùng nước chấm tỏi ớt cay nồng đặc trưng.
Một đặc sản khác đến từ Bến Tre có chung đặc điểm như chuột đồng nướng chính là đuông dừa. Rất nhiều đã phải khóc thét khi nhìn thấy những con đuông dừa béo tròn, núc ních nhưng một khi đã thưởng thức một lần thì không thể quên đi hương vị béo ngậy của nó.
Một món ăn mà bạn không thể bỏ qua khi ghé thăm vùng Nam Bộ chính là lẩu mắm, món ăn đặc trưng cho vị mặn mòi của vùng sông nước này.
Nước dùng được chế biến từ mắm được làm từ các loại cá đặc trưng của sông nước ăn kèm cùng các loại hải sản và rau củ thật ngon bá cháy.
Mỗi mùa nước nổi lên, lẩu cá linh chính là một món đặc sản được ưa chuộng ở vùng Nam Bộ. Một món ăn dân dã nhưng chinh phục dạ dày bao người bằng vị ngọt của cá linh, chua chua giòn giòn của bông điên điển và sự thanh mát của các loại rau ăn kèm.
Ngoài những món ăn dân dã đặc trưng thì ẩm thực miền Nam còn nổi tiếng với những loại bánh chỉ có thể tìm thấy ở nơi đây. Bánh bò chính là một trong số đó, nó hấp dẫn thực khác bởi cái tên lạ tai cũng như hương vị của mình.
Có khá nhiều lý giải cho cái tên độc đáo này, nhưng phổ biến nhất là vì hình dạng như nhũ bò, mềm xốp của bánh hoặc đến từ quá trình ủ men, bột sẽ dậy và bò lên vành tô. Sau những công đoạn khá đơn giản sẽ cho ra những chiếc bánh bò xốp, mềm, có nhiều lỗ khí và dậy thơm mùi dừa.
Bánh được gọi là “cống” bởi vì hình dạng trụ tròn của chúng, trông giống hệt như ống cống. Dù sở hữu tên gọi cũng như hình dáng dân dã nhưng bánh cống lại có hương vị đậm đà, đặc biệt và thơm ngon không thua kém bất kỳ món ăn chơi nào của Nam Bộ.
Đây vốn là món bánh có nguồn gốc từ ẩm thực Khmer, được làm từ bột gạo, đậu xanh, củ sắn với nhân tôm, thịt. Mỗi miếng bánh khi ăn sẽ có vị béo béo, bùi bùi của nhân bánh, cắn vào cảm giác giòn tan lan tỏa khắp khuôn miệng. Miếng cống sẽ càng ngon và đủ vị hơn khi ăn kèm với các loại rau sống sẵn có trong vườn nhà của người miền Nam.
Bánh xèo có nguồn gốc từ vùng đất đầy nắng và gió của miền Trung, nhưng được biến tấu theo nhiều cách khác nhau khi du nhập vào các vùng khác. Tuy nhiên, dù thay đổi như thế nào thì bánh xèo vẫn nguyên hương vị đậm đà và sức hút của chính mình. Hiện nay, bánh xèo đã trở thành một món ăn dân dã phổ biến ở rất nhiều nơi trên mọi miền đất nước.
Khi bánh xèo được du nhập vào miền Nam, nó đã được biến tấu mang đậm nét riêng và cái hồn của ẩm thực nơi đây. Bánh xèo của miền Nam được đúc với kích thước to và mỏng hơn nhiều so với bánh xèo miền Trung, đúng như sự hào sảng trong cách ăn uống của người dân.
Bánh xèo thường được ăn kèm với bánh đa nem và các loại rau sống rồi chấm thêm nước mắm tỏi ớt chua ngọt hoặc chẻo đậu phộng thơm béo, làm cho hương vị mỗi miếng bánh trở trọn vẹn. Vậy nên, chỉ cần thưởng thức hết một đĩa bánh xèo miền Nam thôi chắc cũng đủ thỏa mãn chiếc bụng đói của mỗi thực khách.
Trên đây là những đặc trưng trong ẩm thực miền Nam đã làm say đắm bao thực khách. Có thể thấy, những món ăn nổi tiếng làm lên dấu ấn trong nền ẩm thực miền Nam đều là sự kết hợp hài hòa của các nguyên liệu tự nhiên với những hương vị mạnh mẽ. Tuy phảng phất sự đơn giản nhưng đậm đà như nét sống của chính con người nơi đây. Nếu bạn đã cảm nắng nét độc đáo trong nền ẩm thực này thì đừng bỏ qua bất kỳ một cơ hội nào để thưởng thức chúng nhé.
- Nguồn: Diệu Trần-