Truyền thống được định nghĩa là những phong tục tập quán, lễ nghi, lối sống, suy nghĩ mà con người đã hình thành và đúc kết từ thuở khai thiên lập địa. Truyền thống được truyền từ đời này sang đời khác, thông qua những hoạt động, cử chỉ và lời nói diễn ra trong cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên, bên cạnh những truyền thống tốt đẹp vẫn còn nhiều hủ tục lạc hậu cần được loại bỏ để cuộc sống trở nên văn minh, đời sống người dân cũng theo đó được nâng cao hơn. Vì vậy, chúng ta nên truyền bá những đức tính tốt đẹp rộng rãi, để mỗi công dân Việt Nam đều trở thành người tốt, cùng nhau xây dựng một quốc gia dân giàu – nước mạnh.
Từ bao đời nay, lịch sử Việt Nam luôn tôn vinh và phát huy những điều tốt đẹp xuất phát từ cuộc sống bình dị hằng ngày. Trong đó có thể kể tới sự hiếu học, tinh thần bao dung, nhân hậu với những người xung quanh. Năm điều Bác Hồ dạy có câu: “Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”, đây là một trong những bài học đầu tiên của các “mầm non đất nước” khi bắt đầu bước chân vào lớp một. Phần nào đó, chúng đã được dạy tinh thần gìn giữ, phát huy nét đẹp và truyền thống tinh hoa của dân tộc.
Lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành từ rất sớm, bắt nguồn từ tình cảm yêu mến, gắn bó tha thiết với quê hương, xứ sở, từ lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Tình yêu nước một cách tự nhiên của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng dần phát triển thành chủ nghĩa yêu nước, trở thành động lực tinh thần to lớn trong mỗi giai đoạn dựng nước và giữ nước. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có sự thống nhất chặt chẽ giữa ý thức bảo vệ chủ quyền non sông đất nước, tinh thần độc lập dân tộc với ý chí tự chủ, tự lực, tự cường, quyết tâm bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, không chịu khuất phục trước các thế lực ngoại xâm. Trong hệ giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, yêu nước là giá trị nổi bật và cơ bản nhất, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Nhìn lại lịch sử, dân tộc Việt Nam đã phải trải qua hàng nghìn năm chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Chính lòng yêu nước đã làm nên sức mạnh nội sinh, là nguồn lực không bao giờ cạn, bảo đảm cho sự trường tồn của đất nước qua mọi thăng trầm của lịch sử. Nhiều tấm gương sáng ngời, biểu tượng cao đẹp của lòng yêu nước, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng đã được lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ghi nhận.
V.I.Lênin từng nói “Lòng yêu nước là một trong những tình cảm sâu sắc nhất được củng cố hàng trăm năm, hàng nghìn năm tồn tại của các tổ quốc biệt lập”. Lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành từ đó và đã trở thành điểm cốt lõi của bản sắc văn hóa Việt Nam, là sợ dây bền chặt gắn bó, cố kết con người Việt Nam tạo thành sức mạnh chống giặc ngoại xâm, giữ gìn bảo vệ non sông bờ cõi, đó chính là nét đặc trưng của truyền thống dân tộc Việt Nam. Chính nhờ sức mạnh diệu kỳ ấy mà dưới ách đô hộ hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc, dân tộc ta đã không bị khuất phục, không bị đồng hóa mà liên tiếp dựng cờ khởi nghĩa chống quân xâm lược. Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã mở ra thời kỳ độc lập thật sự cho dân tộc, với tinh thần bất khuất và ý chí kiên cường ông cha ta đã nhiều lần đánh thắng những kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn nhiều lần như: nhà Tiền Lê, nhà Lý chống quân xâm lược Tống, nhà Trần ba lần chống quân Mông – Nguyên,… thông qua các cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm, lòng yêu nước đã trở thành sợ dây kết nối toàn dân tộc, gắn bó cộng đồng để cùng nhau bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ nền độc lập của dân tộc, không chịu khuất phục trước quân thù. Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh có đoạn “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Lịch sử thành văn của dân tộc Việt Nam rất hiếm hoi, nhưng không vì thế mà các vua Hùng, Hai Bà Trưng, Bà Triệu, các triều đại: Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần… bị lãng quên trong mỗi người dân Việt Nam. Trái lại, càng ít sử liệu thì những quá khứ hào hùng ấy càng bám sâu vào tâm trí của các thế hệ người Việt Nam và được truyền từ đời này sang đời khác. Trong mỗi thời kỳ lịch sử, lòng yêu nước luôn có những biểu hiện riêng, do điều kiện lịch sử cụ thể và hệ tư tưởng quy định nhưng mục đích duy nhất là bảo vệ và gìn giữ bờ cõi non sông đất nước, bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, để giáo dục lòng yêu nước cho thế hệ trẻ, chúng ta không chỉ ghi lại những trang sử hào hùng của dân tộc để biết những chuyện đời xưa một cách máy móc, mà thông qua những sự kiện, hiện tượng lịch sử để làm nổi bậc thêm phẩm chất, đạo đức, tình cảm của dân tộc Việt Nam. Giáo dục lòng yêu nước như một vũ khí sắc bén trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước trong giai đoạn hiện nay. Giáo dục cho thế hệ trẻ lòng yêu nước cũng chính là giáo dục thái độ đúng đắn đối với các bậc ông cha đã đi trước. Giáo dục lòng yêu nước là một hoạt động mang tính nguyên lý, đạo đức của người Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, các thời đại. Lòng yêu nước cũng là những nguyên lý đạo đức tìm ẩn trong tâm trí sâu xa của mọi người dân Việt Nam, khiến cho họ tự nhiên phản ứng đúng với lẽ phải, đúng với quyền lợi và danh dự của dân tộc, khi đụng chạm đến sự cố nào đó. Lòng yêu nước không có sẵn khi dân tộc xuất hiện, đó là tất cả những giá trị tinh thần được hình thành và phát triển cùng với lịch sử của dân tộc. Ngày nay giáo dục lòng yêu nước là phải giáo dục niềm tự hào chính đáng về dân tộc và truyền thống dân tộc, giáo dục lòng trung thành và đức hy sinh vì Đảng, vì Tổ quốc, dân tộc và Nhân dân.
V.I.Lênin đã từng cảnh báo: “quên quá khứ là phản bội”, nhân thức sâu sắc đều đó, chúng ta luôn coi trọng việc đưa tuổi trẻ quay về với lịch sử dân tộc, với những gì cao đẹp và hào hùng của ông cha ta, đó là quá khứ của một dân tộc anh hùng với những chiến công hiển hách, những trang sử chói ngời ấy sẽ không bao giờ phai theo thời gian. Nó sẽ được sống mãi trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Phải làm cho quá khứ ấy được khơi dậy trong lòng mỗi người – Chúng ta khơi dậy lịch sử, quay lại quá khứ không phải để tự mãn về những gì ông cha ta đã làm được, không phải để khoét sâu thêm mâu thuẫn và thù hằn dân tộc, mà chính qua đó để giáo dục cho thế hệ trẻ biết được thế nào là lòng yêu nước, tình yêu Tổ quốc. Nếu chúng ta không hiểu đúng về quá khứ, cội nguồn của dân tộc thì khó có thể có lòng yêu nước, một tình yêu Tổ quốc đúng nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sống vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”[1]. Biểu hiện cao nhất của lòng yêu nước là có ý thức rõ ràng, sâu sắc về nền độc lập dân tộc, coi độc lập dân tộc là thiêng liêng bất khả xâm phạm. Yêu nước là phải giữ gìn nền độc lập, tự do của dân tộc./.
PGS. TS. Lưu Ngọc Tố Tâm
Học viện Chính trị Khu vực II
-Nguồn: tuyengiao.vn-
Thấm nhuần sâu sắc rằng, lòng yêu nước là một giá trị truyền thống quý báu của dân tộc, được sinh dưỡng bởi những cư dân một nước nông nghiệp luôn gắn bó, cố kết, đùm bọc, che chở và giúp đỡ lẫn nhau để chống lại thiên tai, địch họa và cả dịch bệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta".
LÒNG YÊU NƯỚC LÀ TRUYỀN THỐNG QUÝ BÁU
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên khi đất nước đang đắm chìm trong đêm dài nô lệ. Yêu nước, thương dân, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Sức mạnh truyền thống yêu nước đã hun đúc quyết tâm cứu nước, cứu dân và thôi thúc Người bôn ba tìm đường giải phóng đất nước; cũng chính là cơ sở dẫn Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với con đường cứu nước trong thời đại mới: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản”... Sau này, trong bài viết Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba"…Từ khi ra đi tìm đường cứu nước cho đến khi từ biệt chúng ta trở về với thế giới người hiền, Người luôn khát khao và phấn đấu cho mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người; xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân chủ và giàu mạnh, nhân dân Việt Nam được ấm no, tự do và hạnh phúc. Cuộc đời cách mạng đầy gian truân song rất đỗi vinh quang của Người xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân và cũng vì nước vì dân mà tận tâm, tận lực phấn đấu.
Thấm nhuần sâu sắc rằng, lòng yêu nước là một giá trị truyền thống quý báu của dân tộc, được sinh dưỡng bởi những cư dân một nước nông nghiệp luôn gắn bó, cố kết, đùm bọc, che chở và giúp đỡ lẫn nhau để chống lại thiên tai, địch họa và cả dịch bệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” và "chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước". Trong tất cả những con dân đất Việt đó, chỉ “trừ một bọn rất ít đại Việt gian, đồng bào ta ai cũng có lòng yêu nước”…
Vì thế, trên những chặng đường cách mạng, Người luôn khơi dậy và phát huy nguồn sức mạnh của lòng yêu nước đó để lãnh đạo nhân dân ta từng bước giành thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Không phải ngẫu nhiên, vấn đề tập hợp lực lượng cách mạng trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng lại được ghi rõ: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v.) để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản c.m thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản c.m (Đảng Lập hiến,v.v.) thì phải đánh đổ”; đồng thời, nhấn mạnh “trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”. Sau đó, vấn đề tập hợp lực lượng được thể hiện trong việc thành lập và phát huy vai trò của Mặt trận Việt Minh, nhằm đoàn kết mọi người dân Việt Nam yêu nước trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi để cùng tranh đấu vì độc lập, tự do đã góp phần to lớn vào thành công của Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, sáng lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ…
Tư tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh chính là yêu Tổ quốc và nhân dân, coi việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc, thực dân và ngoại bang, giải phóng dân tộc, mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân là lòng yêu nước chân chính, sâu sắc và triệt để. Vì thế, khi thấu hiểu rằng “tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm”, Người đã khơi dậy lòng yêu nước của mỗi người dân Việt Nam, coi đó là “chìa khóa vàng” để xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tổ chức họ, lãnh đạo họ thực hiện mục tiêu giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân.
KHƠI DẬY VÀ PHÁT HUY LÒNG YÊU NƯỚC CỦA MỖI NGƯỜI DÂN
Lòng yêu nước, tinh thần yêu nước của mỗi người dân Việt Nam chính là nền tảng, cơ sở cho sự thống nhất trong khác biệt để Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tập hợp lực lượng, tạo thành sức mạnh tổng hợp của một dân tộc, đất không rộng, người không đông, tiềm lực kinh tế, quân sự không lớn, song đã đoàn kết, đồng lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng đấu tranh giải phóng dân tộc thoát khỏi ách nô lệ thực dân, đế quốc, giành độc lập, tự do; tiếp tục tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Vì thế, khi nước nhà đã giành được độc lập, song hiểm nguy từ nạn "giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm" vẫn đe dọa nền độc lập, tự do mà nhân dân ta đã giành được sau hơn 80 năm trời nô lệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng: “Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”; đồng thời khơi dậy tinh thần yêu nước của mọi người dân, mọi giai tầng trong xã hội trong các bức thư gửi cho các cụ phụ lão: “Xưa nay, những người yêu nước không vì tuổi già mà chịu ngồi không” (Thư gửi các cụ phụ lão); cho các em nhỏ: “Các em phải thương yêu nước ta” (Thư gửi thiếu nhi Việt Nam đêm Trung thu đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa); cho một Việt kiều: “Tôi vẫn nghe ông là người yêu nước thương nòi, vậy dịp này rất thuận tiện cho ông tỏ lòng trung thành với Tổ quốc” (tháng 9/1945); cho các giám mục và đồng bào công giáo Vinh, Hà Tĩnh, Quảng Bình: “Các vị là những người chân chính yêu nước, đồng thời cũng là những chân chính tín đồ của đức Giêsu” và bao dung, vị tha với những người trót lầm đường, lạc lối: “Ai cũng có lòng yêu nước, chẳng qua có lúc vì lợi nhỏ mà quên nghĩa lớn. Nói lẽ phải họ tự nghe”... để quy tụ, tập hợp và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở của lòng yêu nước chân chính, tiến hành sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc.
Trân trọng giá trị truyền thống quý báu của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc tuyên truyền về lòng yêu nước, tinh thần yêu nước cho mọi người dân, trong mọi thời điểm là một trong những nhiệm vụ quan trọng, góp phần vào thành công của sự nghiệp cách mạng. Theo Người, lòng yêu nước, tinh thần yêu nước không chỉ dừng ở nhận thức mà chính là phải thể hiện ở hành động. Cho nên, để đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn, Người yêu cầu các cấp, các ngành “phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”, vì “đành biết rằng từ đây đi đến cuộc toàn thắng, chúng ta còn phải kinh qua nhiều nỗi khó khăn. Nhưng chúng ta giàu lòng yêu nước, thì chúng ta quyết cứu được nước”…
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Người, trong những năm tháng đấu tranh gian lao ấy, tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ, tự cường của mọi người dân Việt Nam đã được phát huy cao độ, tạo nên sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm nổi bật tinh thần, ý chí và trí tuệ con người Việt Nam. Đó chính là sức mạnh của lòng yêu nước được hun đúc suốt hàng ngàn năm lịch sử; không chỉ được bồi đắp mà còn phát triển lên một tầm cao mới, gắn với tinh thần quốc tế trong sáng. Đó chính là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước chân chính hòa quyện với chủ nghĩa quốc tế cao cả trên tinh thần đoàn kết, giúp đỡ, ủng hộ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội; là lòng nồng nàn yêu nước gắn với sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa của các đồng chí, bạn bè và nhân dân lao động các nước; là phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đấu tranh để “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” trong thời đại Hồ Chí Minh lịch sử. Đó cũng chính là hiển hiện của những tấm gương yêu nước, anh hùng mà khiêm nhường của biết bao quần chúng ở mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi; của đội ngũ cán bộ, đảng viên trên mọi lĩnh vực công tác ở cả tiền tuyến và hậu phương,v.v.. đã kết thành "một làn sóng mạnh mẽ", tạo thành sức mạnh tổng hợp, vô song, làm nên những chiến công của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, đưa đất nước ta tới hòa bình, độc lập, thống nhất, kiên định ục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Vì thế, có thể nói, những giá trị tinh hoa truyền thống như tình yêu quê hương, đất nước, yêu thương giống nòi, phụng sự Tổ quốc, tinh thần sẵn sàng hy sinh vì dân, vì nước,v.v.. đến Hồ Chí Minh, thời đại Hồ Chí Minh đã được nâng lên một tầm cao. Yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung và hình thức mới, mang bản chất giai cấp, hòa quyện chặt chẽ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại mà cơ sở tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin, là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là yêu nước chân chính gắn với tinh thần quốc tế vô sản, "khác hẳn tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế”… và chính Người là một mẫu mực của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần yêu nước Việt Nam hiện đại đúng như Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là hình ảnh của sự gặp nhau giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản”.
TIẾP TỤC NHÂN NGUỒN SỨC MẠNH CỦA LÒNG YÊU NƯỚC
Đất nước đang tiến hành đổi mới và hội nhập sâu rộng trong bối cảnh toàn cầu hóa. Hơn bao giờ hết, lòng yêu nước, tinh thần yêu nước của mỗi người gắn liền với trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Càng khó khăn, thử thách, truyền thống yêu nước, tinh thần yêu nước của mỗi người dân Việt Nam được hun đúc từ bao đời, trở thành sức mạnh Việt Nam, biểu tượng Việt Nam càng được tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ, tỏa sáng trên tinh thần: “Yêu nước thì việc gì có lợi cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức làm cho kỳ được. Điều gì có hại cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức trừ cho kỳ hết”, để luôn chủ động, quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa…
Để đất nước vững bước trên hành trình đã chọn và nhất là để phát huy tinh thần yêu nước của mỗi cá nhân, mỗi tập thể, cấp ủy, chính quyền và các ban, ngành chức năng cùng cả hệ thống chính trị cần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về lòng yêu nước, về lý tưởng cách mạng và sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; cụ thể hóa thành các chính sách và các phong trào thi đua yêu nước cụ thể, thiết thực. Theo đó, công tác tư tưởng không chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền và kêu gọi lòng yêu nước của mỗi người mà cao hơn, quan trọng hơn là phải hướng dẫn lòng yêu nước, chỉ dẫn các hành động yêu nước đúng đắn thông qua công tác tuyên truyền, bồi dưỡng, phát triển các nhân tố mới, điển hình tiên tiến trong các phong trào thi đua yêu nước tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị. Cùng với đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng phải phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu, năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm trong thực thi công vụ, thực hiện công tác chuyên môn gắn với các phong trào thi đua yêu nước, để làm gương cho quần chúng.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống phải góp phần làm cho mỗi người Việt Nam, trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên… nhận thức rõ yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh và thực hành yêu nước là một trong những nhân tố quan trọng góp phần làm nên thắng lợi của sự nghiệp cách mạng 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lòng yêu nước ấy, tinh thần yêu nước ấy rất cụ thể và sinh động, hiển hiện trong mỗi việc làm hằng ngày của mỗi người tại mỗi cơ quan, đơn vị, gia đình và trong cộng đồng. Đó chính là ý thức chấp hành pháp luật, là tinh thần là cần, kiệm, liêm, chính, nỗ lực góp sức dựng xây quê hương, đất nước, kiên quyết chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu; là lối sống giản dị, chan chứa tình yêu thương con người, không vô cảm trước khó khăn của đồng chí, đồng bào, sẻ chia và cùng chung sức giúp đỡ lẫn nhau khi gặp nguy nan, thử thách.
Lòng yêu nước, tinh thần yêu nước phải trở thành động cơ để trước hết gắn kết mọi người dân Việt Nam trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Yêu nước đồng nghĩa với yêu đồng bào và cao hơn chính là trân trọng truyền thống lịch sử cách mạng, gắn bó và bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng; trung thành với sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì thế, cần thầm nhuần sâu sắc và chú trọng xây dựng lòng yêu nước, đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước; đồng thời, chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách... theo tinh thần các văn kiện Đại hội của Đảng, nhất là văn kiện Đại hội của Đảng trong hơn 30 năm đổi mới, hội nhập quốc tế và tiếp tục được thể hiện trong Nghị quyết 33-NQ/TW về "Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước".
Thực tế cho thấy, từ trong các phong trào thi đua yêu nước thiết thực, rộng khắp ở mọi cấp, mọi ngành, khắp các địa phương trong cả nước đã xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu của các tầng lớp nhân dân, trong đó có các đoàn viên, thanh niên, các sinh viên thủ khoa, các doanh nhân giỏi, các chiến sĩ thi đua... trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. Gần đây nhất, những tấm gương của đội ngũ y, bác sĩ, chiến sĩ quân đội trong cuộc chiến chống dịch bệnh, sự chung tay góp sức của cả hệ thống chính trị và mỗi người dân cả nước trong cuộc chiến chống "giặc dịch Covid-19" để "không để một ai bị bỏ lại phía sau" chính là biểu hiện sinh động nhất của tình thần nghĩa yêu nước Việt Nam. Đó cũng chính là trái ngọt của việc phát huy sức mạnh tinh thần yêu nước Việt Nam, là kết quả việc thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” trở thành nhu cầu tự thân, nền nếp tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị. Và hơn bao giờ hết, càng đối diện với khó khăn, thử thách từ thiên tai, địch họa và dịch bệnh, mỗi người dân Việt Nam càng phát huy và tỏa sáng tinh thần yêu nước, chung sức, đồng lòng xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, phát triển bền vững.
Cùng với đó, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân, đổi mới và đa dạng hóa các phong trào thi đua yêu nước với nhiều hình thức, nội dung phong phú trên tất cả các lĩnh vực của đời sống: Lao động, sản xuất, học tập, chiến đấu, phụng sự Tổ quốc và nhân dân, để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà nòng cốt là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Tiếp tục bồi đắp tinh thần yêu nước và nâng cao giác ngộ chính trị của nhân dân, làm cho nhân dân tuyệt đối tin tưởng ở vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, để mỗi người thực hành tinh thần yêu nước đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh; để càng khó khăn, thử thách, lòng yêu nước, tinh thần yêu nước của mỗi người càng cần phải được đặt đúng chỗ, được phát huy mà không bị hoang mang, dao động, không để kẻ xấu và các thế lực thù địch lợi dụng vào các hoạt động biểu tình, tung tin xấu độc trên mạng xã hội…
Đặc biệt, đối với thế hệ trẻ - lực lượng kế cận, rường cột của nước nhà, việc giáo dục lòng yêu nước phải thầm nhuần yêu cầu “cốt nhất là phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương nòi. Phải dạy cho họ có chí tự lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ”, để mỗi người trở thành người công dân có tài và có đức, kiên định và tiếp tục sự nghiệp cách mạng của cha anh, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hội nhập và phát triển bền vững trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
Những nét đặc sắc trong tư tưởng yêu nước và tấm gương mẫu mực của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lòng yêu nước, hết lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân không chỉ có ý nghĩa lịch sử sâu sắc mà còn có ý nghĩa thời đại to lớn; là tấm gương sáng, bài học quý để mỗi người Việt Nam, mỗi cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện và noi theo./.
Chắc hẳn bạn đã từng nghe đến những tấm gương anh dũng hi sinh trong các cuộc chiến khốc liệt như anh hùng Phan Đình Giót, anh hùng Bế Văn Đàn,… Những vị ấy đã không quản ngại khó khăn, cống hiến cả tinh thần lẫn thể xác vì nền độc lập và hòa bình của dân tộc. Truyền thống bất khuất chống giặc ngoại xâm ấy đến ngày nay vẫn được thể hiện rất rõ ràng. Trong khi đất liền đã độc lập và giành được hòa bình thì ngoài khơi xa kia vẫn còn những người lính hải đảo không quản ngày đêm chiến đấu vì từng mét đất, từng hòn sỏi của biển đảo quê hương. Chúng ta cần đồng lòng gìn giữ mảnh đất thiêng liêng, nơi những người anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống, tất cả đều vì vận mệnh của dân tộc.
Người Việt Nam, suốt chiều dài lịch sử, không ngừng đương đầu với sự xâm lược của các triều đại phong kiến Trung Hoa; để giữ vững sự tồn tại và nền độc lập của mình. Những người phụ nữ Việt Nam, những thiếu nhi Việt Nam vẫn có chỗ ngồi vinh quang về sự chiến đấu chống lại ngoại xâm của họ, vẫn được cả giống nòi họ nhắc nhở đến các gương sáng mà con cháu họ về sau vẫn còn noi theo. Không những chỉ đương đầu với phong kiến Trung Hoa, người Việt còn đương đầu với bao kẻ láng giềng khó chịu, quyết định một mất một còn với họ như là phong kiến Chiêm Thành, Ai Lao, Cao Miên và còn hứng chịu kẻ thù kéo đến từ trên sóng nước Đại dương, ồ ạt tấn công bằng các súng ống tối tân vũ bão.
Người Việt trong suốt quá trình tranh đấu liên tục đã biết giữ mình để được tồn tại qua những giai đoạn vô cùng gian lao, trước những kẻ thù nguy hiểm, mạnh mẽ hơn mình gấp bội. Chúng ta đã từng nói đến những kẻ thù khá quan trọng không ngừng đe dọa dân tộc duy nhất trên địa cầu này đã từng chiến đấu, và đã chiến thắng những kẻ xâm lược có khuôn mặt lớn lao nhất ở trong lịch sử loài người.
Ngay từ buổi đầu, khi còn sống trong tình trạng bộ lạc lẻ loi, người Việt đã từng đánh tan quân đội hùng mạnh của đời bạo Tần bằng những chiến thuật du kích tinh diệu. Và suốt thời kỳ lập quốc gian nan khổ nhọc đầu tiên, mặc dầu chưa thành hẳn một quốc gia thống nhất, người Việt đã từng bị các triều đại phong kiến Trung Hoa đô hộ cả suốt ngàn năm; vậy mà cuối cùng vẫn chỗi dậy được, đánh tan cả bọn thống trị và tự củng cố lấy thành một lực lượng độc lập hơn bao giờ hết. Nếu người ta biết rằng dân tộc Hán có một khả năng đồng hòa mãnh liệt chừng nào thì ta càng ý niệm đầy đủ hơn về cái khả năng đồng hòa siêu đẳng của người Việt Nam. Bởi lẽ suốt cả ngàn năm chinh phục, dân tộc to lớn và có trình độ sinh hoạt cao hơn, vẫn không làm cho phai mờ được cá tính của dân tộc Việt, tuy rằng bé hơn, nhỏ hơn không biết bao lần.
Lịch sử người Việt còn cho thấy rằng các triều đại cũ của họ dù có khác nhau, dù có chống nhau, nhưng vẫn nhất trí ở trên căn bản dân tộc. Nghĩa là họ vẫn gặp nhau trên cái ý chí bảo tồn nòi giống, mở mang lãnh thổ không ngừng. Vua chúa đời Đinh nhận định nguy cơ của sự xâm lược do các vua chúa Chiêm Thành gây nên, nhưng biết rằng không thể nào đối phó kịp thời, đành đem công sức ra đắp con đường chiến lược đến tận biên giới nước Chiêm để tạo phương tiện cho các đời sau nối chí của mình.
Sự lo xa ấy, cũng như mọi sự lo xa, là dấu hiệu của văn minh. Người Việt quả là dân tộc thấy trước con đường của mình, và đọc lịch sử của họ chúng ta không ngăn được mối xúc động và sự thán phục. Nếu người ta nghĩ đến giặc Mông Cổ và cái đế quốc Thát Đát mênh mông chừng nào, có lẽ người ta mới thấy được sức chiến đấu lạ lùng của người VIệt Nam –duy nhất trên địa cầu này- đã đánh bại quân Mộng Cổ xâm lăng. Đó là đoàn quân xâm lược vô cùng dũng mãnh, đã thôn tính biết bao nhiêu dân tộc lớn lao, đã đặt Trung Hoa dưới ách nô lệ bạo tàn, đã chiếm Tây Hạ, Tây Bá Lợi Á, xâm lăng Trung Âu, uy hiếp Áo, Đức… Vậy mà đoàn quân bách thắng của họ, khi vào biên giới Việt Nam, đã bị đánh cho thảm bại liên tiếp ba lần.
Ba lần chiến thắng vinh quang của dân tộc Việt để chống cự lại kẻ thù số một của loài người trong lúc ấy, đã đặt Việt Nam vào những dân tộc oanh liệt hàng đầu.
Và về sau này, gần một trăm năm đô hộ, dưới ách thống trị của thực dân Pháp được xem như là đế quốc hoàn chỉnh vào bậc nhất nhì ở trên thế giới, người Việt vẫn lại bền gan chiến đấu, và họ đã từng đánh cho kẻ thù tan tác nhiều phen khiến cho những viên đại tướng có uy danh nhất của thực dân Pháp vẫn còn giữ những kỷ niệm hãi hùng của sự chiến bại.
Người ta có thể kết luận được rằng dân Việt là một dân tộc tự cường, bất khuất đến một mức độ khá cao, và tinh thần ấy giúp họ trở thành một kẻ nhỏ nhất mà lại mạnh nhất, bị chèn ép nhiều bậc nhất nhưng lại quật khởi oai hùng bậc nhất.
Người ta sẽ không bao giờ hiểu hết được sức mạnh ấy, và sự cao lớn của tinh thần ấy nếu không đi vào bề sâu lịch sử của giống nòi Việt, nếu chỉ quan sát hời hợt sinh hoạt bình thường của họ. Với một nhận định theo lối hình thức Tây Phương, người ta không sao hiểu được giá trị đích thực của họ.
Nếu người ta quay trở về khơi điểm để thấy người Việt từ lúc vùng dậy ban đầu với những vũ khí thô sơ, những gậy tầm vông và những giáo mác, thì người ta sẽ hiểu rõ hơn nữa sức năng tiềm tàng nơi họ phi thường đến như thế nào. Những kẻ thù vốn tự hào là hùng mạnh nhất của dân tộc Việt không thể nhìn thấy điều ấy. Làm sao mà nhìn thấy được, khi cái ý chí bất khuất của dân tộc ấy bắt nguồn từ trong lịch sử ngàn xưa, thấm sâu ở trong xương thủy của họ, chan hòa ở trong huyết mạch của họ, bàng bạc trong niềm kiêu hãnh vô biên của một giống nòi không chịu sống trong tủi nhục, luôn luôn có sự gắn bó mãnh liệt vào mảnh đất của quê hương, vào di sản của dân tộc, di sản dçau thương mà rất kiêu hùng ! Kẻ thù của dân tộc Việt chỉ bắt đầu thấy được sức mạnh ấy khi bọn họ đã thất bại, và thật là quá muộn. Còn dân tộc Việt đã biết rõ sự chiến thắng của mình từ khi chiến đầu, trước khi chiến đấu, dù phải đối phó với kẻ thù nào. Bởi vì người Việt hiểu rằng ở sau lưng họ không chỉ là một khoảng trống, không chỉ là những kỷ niệm nhạt mờ, hỗn độn, mà sau đấy có một lịch sử lâu đài của những nổ lực vinh quang.
Do đó khi ông Lê Lai thay áo cho ông Lê Lợi để tìm cái chết hy sinh, không phải là một hành động của kẻ tuyệt vọng, cũng như khi Trần Hưng Đạo chỉ vào dòng sông Bạch Đằng cương quyết không quay trở về nếu không chiến thắng, đều không phải là những sự bảo đảm liều lĩnh của một tâm lý phiêu lưu. Những thái độ lịch sử ấy đều chung trong niềm tin tưởng nhất trí ở lẽ quyết thắng của dân tộc họ, nếu ta nhớ lại câu thơ xưa của Lý Thường Kiệt :
Như hà nghịch lỗ tai xâm phạm ?
Như đẳng hành khan thủ bại hư !
Mà một người Việt dịch là :
Cớ sao giặc dám hoành hành ?
Rồi đây bây sẽ tan tành cho coi !
Thì ta càng rõ sâu xa niềm tin tưởng ấy ở cái khả năng vô lượng của giống nòi họ. Trong những thời đại lớn lao, dân tộc ấy lại đúc kết nên những anh hùng tuyệt đẹp, những người không chỉ giỏi về thao lược ở chốn chiến trường mà còn là những văn tài lỗi lạc. Tôi thấy bốn câu thơ ngắn của Lý Thường Kiệt – mà ông mạo xưng là của thần linh báo mộng – đã phản chiếu cái ý thức đầy đủ của một dân tộc nhận thức được giá trị mình cùng cái khả năng độc lập của mình, đồng thời đó cũng là một đường lối sơ khái về sự tuyên truyền chiến tranh nằm trong ý thức tự vệ, hay gọi đó là phương thuật tác động tâm lý quân đội đầu tiên ở trong loài người. Chính những nhà tướng Việt Nam thời xưa dung hòa cả văn lẫn võ, và dưới áo giáp họ là những nhà thi sĩ dồi dào bản lĩnh- Hịch Tướng sĩ văn của Trần Hưng Đạo, Bình ngô Đại cáo của Nguyễn Trãi, thơ Phạm Ngũ Lão, thơ Trần Quang Khải, khả năng ưu tú của họ thật là toàn diện. Và chỉ có những thời dça5i suy đồi trong xã hộ’i Viết mới có một sự cách biệt rõ rệt giữa văn và võ, để chỉ có những văn nhân hèn yếu và những võ tướng vũ phu.
Qua lịch sử oai hùng của người Việt, chúng ta nhận thấy họ có khả năng chiến thắng những đoàn quân xâm lược khủng khiếp nhất của loài người là nhờ ở cái ý sống huyền diệu của họ, ý sống ấy vốn âm thầm nhưng mà mênh mông như biển Nam Hải, trùng trùng điệp điệp như dãy Trường Sơn. Ý sống ấy làm cho người dân Việt chấp nhận được sự hy sinh một cách dễ dàng, dễ dàng như là hơi thở, một khi họ nhìn thấy được thực sự chính nghĩa của viê(c mình làm. Chính cái ý chí vô biên vô tận về một đời sống độc lập đã khiến cho dân tộc ấy, dù bị bao nhiêu cơn lốc phũ phàng ở trong lịch sử, vẫn cứ tồn tại, điềm nhiên, kiêu hãnh trong sự khiêm tốn cố hữu của mình. Nhờ sức sống ấy, cộng với tinh thần thông minh đặc biệt của giống nòi họ mà người Việt nam có những sáng kiến rất cao về mặt chiến lược, chiến thuật, về sự kiến trúc, về điệu thi ca, về các kỹ thuật canh tác hằng ngày. Nếu ta biết rằng nhà Tống ngày xưa bắt chước tổ chức quân đội theo kiểu nhà Lý, nếu ta nghiên cứu nghệ thuật xây thành Cổ Loa, kỹ thuật đắp đê từ thời Phù Đổng Thiên Vương đến các chiến lược tinh diệu của Trần Hưng Đạo, hay cái súng trường chế tạo bằng tay của ông Cao Thắng rồi đem liên hệ với điệu lục bát đơn giản mà rất phong phú, với các truyện dài, tiểu thuyết toàn bằng văn vần của họ, thì ta mới ý hội được nền văn minh ấy có những sắc thái đặc biệt ra sao, độc đáo thế nào.
Đồng thời ta sẽ hiểu thêm sức mạnh của nến văn minh tinh thần Việt Nam, nếu ta biết được quá trình xây dựng lãnh thổ của họ lâu dài, nhiều khê và hoàn thiện đến mức nào.
Xét trên lịch sử, dân tộc Việt nam không hề chịu đứng y nghuyên trên mảnh đất mình, mà đã di động không ngừng, như một đoàn quân tiến bước, và từ miền Bắc chuyển mãi về Nam, họ đã đem cái khối lượng dân tộc của mình va chạm đắc thắng với dân tộc khác, mãi cho đến khi biển cả dừng chân họ lại ở mũi Cà mau.
Trong sự di động thường xuyên ở trong quá trình phát triển lịch sử, người Việt đã xây dựng được dân tộc và hoàn thành được lãnh thổ. Lãnh thổ Việt Nam là một thành tích vĩ đại của sự chiến đấu trường kỳ, đó là một kiến trúc rất kỳ công phải hàng vạn triệu con người xây dựng hàng bao thế kỷ, đó là tác phẩm tuyệt vời phải được cấu tạo bằng biết bao nhiêu hứng thú cũng như hy sinh.
Có lẽ một số người Việt Nam khi nhìn thấy Kim Tự Tháp, thấy đền Ang Ko, hay là Vạn Lý Trường Thành, bỗng sinh tấc lòng phiền muộn hay mối mặc cảm tự ti vì thấy dân tộc của mình thiếu những công trình xây dựng qui mô. Họ quên hẳn rằng dân tộc của họ có thừa nghị lực thông minh, cũng như tài năng tuyệt xảo để làm những công trình ấy, nhưng phải dồn hết tâm lực vào đầu mũi giáo, lưỡi cày trong cuộc chiến đấu tự tồn quá sức gian nan. Dân tộc của họ chưa có những phút rỗi rãi dư thừa, chưa có tháng năm yên ổn kéo dài trong cảnh thái bình thịnh trị, để mà đúc chữ, gò câu, xây đền, tạc tượng.
Đó là dân tộc chỉ biết có đi chứ không đứng lại bao giờ, dân tộc chỉ quen làm lụng chứ không hề thích nghỉ ngơi, dân tộc chiến đấu để mà xây dựng không ngừng.
Nhờ vậy, người Việt có một giang sơn tuy chẳng so bì được cái bề rộng, bề dài với biết bao nhiêu là dân tộc khác, nhưng lại có đủ khả năng sinh sản, dồi dào sức chứa tài nguyên. Nếu so với biết bao nhiêu lãnh thổ của biết bao nhiêu dân tộc trên địa cầu này, ta thấy đất nước Việt nam đã khéo tự hoàn thành lấy, và tự khắc phục được nhiều nhược điểm : họ có trên hai ngàn cây số biển dồi dào sức cá, có cả núi rừng trùng điệp phong phú quặng mõ, gỗ cây, có cả đồng ruộng mênh mông chất đất phì nhiêu, và những dòng sông, thác nước tràn trề sinh lực. Quan sát lãnh thổ của họ, chúng ta còn hiểu vì sao mà người dân Việt không ngừng tiến bước về Nam, bởi vì mảnh đất miền Nam có đủ khả năng để mà bổ túc cho sự thiếu sót của mảnh đất đai miền Bắc, và cái sở trường ở nơi mảnh đất miến Bắc đã bồi dưỡng cho sở đoản của mảnh đất ở niềm Nam. Sự gắn bó của hia miền đất phong phú ấy về mặt kỹ nghệ, canh nông, tạo nên cái thế quân binh quan trọng ở trong năng lực lãnh thổ, bởi vì thiếu một trong hai miền ấy, đất nước Việt Nam không thể phồn thịnh lâu dài. Do đó người Việt vẫn quen nhìn hai miền ấy như hai bó lúa, mà dải cát dài miền Trung là chiếc đòn gánh lịch sử, một thứ xương sống mãnh liệt làm bằng một dãy Trường Sơn lâm sản dồi dào. Đi sâu vào lãnh thổ ấy, người ta còn nhận thấy được điều nầy : lãnh thổ của người dân Việt đã hợp nhất được hai nền của người dân việt đã hợp nhất được hai nền văn minh lớn nhất của Đông nam Á cũng như của cả nhân loại, là nền văn minh Ấn Độ cộng với văn minh Trung Hoa, dựa vào sinh hoạt căn bản của người Anh Đô nê diên để làm nền tảng. Trên lãnh thổ ấy có cả lịch sử tiêu trầm của những dân tộc, có sự va chạm giữa các văn minh, để đưa đến sự chiến thắng quyết định của dân tộc Việt.
Ở Việt Nam, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng là một đặc trưng gốc rễ của làng xã, được hình thành từ rất sớm trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Trong quá trình đó, người dân Việt Nam luôn tương trợ, hợp tác, giúp đỡ nhau, tạo nên sức mạnh tinh thần và vật chất để chiến thắng mọi kẻ thù. Cùng với quá trình phát triển của đất nước, sự đoàn kết, đùm bọc là yếu tố tinh thần nổi bật, khắc sâu qua các thế hệ.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, với ý chí sắt đá và sự đồng lòng của dân tộc, thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân đã phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc trong 9 năm kháng chiến, làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy khó khăn, gian khổ, với khát vọng cháy bỏng “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn dân đoàn kết một lòng vượt qua mọi thử thách, hy sinh, gian khổ để làm nên đỉnh cao thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Thời kỳ xây dựng, phát triển đất nước, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn thể dân tộc Việt Nam luôn đoàn kết thực hiện mục tiêu chung của đất nước. Với vai trò hạt nhân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã không ngừng nỗ lực, góp phần củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược của Đảng.
Đoàn kết là một giá trị văn hóa truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, được hình thành và phát triển trong lịch sử đấu tranh lâu dài dựng nước và giữ nước. Đoàn kết, yêu nước nồng nàn, cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao động và sống thích ứng là những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của dân tộc Việt Nam. Trong quá trình dựng nước, giữ nước và xây dựng đất nước từ xưa cho đến nay đã hình thành một cộng đồng dân tộc Việt Nam gắn bó keo sơn. Từ lòng yêu nước nồng nàn, sự đoàn kết muôn người như một đã tạo nên sức mạnh vô địch, giúp dân tộc ta đánh thắng các cuộc xâm lược của những đội quân hùng mạnh nhất, giữ gìn độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi ra đời tới nay là lịch sử dựng nước và giữ nước. Dựng nước và giữ nước luôn luôn gắn chặt với nhau. Phải xây dựng được đất nước hùng mạnh về mọi mặt mới có điều kiện, khả năng giữ nước, đồng thời phải giữ được nước mới có điều kiện để xây dựng đất nước. Trong quá trình hình thành và phát triển của lịch sử dân tộc đã hình thành và phát triển giá trị văn hóa đoàn kết. Đó là thành quả văn hóa của dân tộc ta trong lịch sử mấy ngàn năm tồn tại và phát triển. Lịch sử dân tộc ta đã chứng minh rằng, đoàn kết là một giá trị văn hóa truyền thống tạo nên sức mạnh vô địch, đưa nước ta, dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vẻ vang.
Đoàn kết - một giá trị văn hóa truyền thống trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta
Trở về thời đại các vua Hùng dựng nước, qua kết quả của các nghiên cứu cho thấy sự phát triển của đồ đồng đã chấm dứt thời kỳ tồn tại hàng vạn năm của công xã nguyên thủy trước đó, thời kỳ mà người Việt cổ sống còn phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên để đi vào thời kỳ mới - thời kỳ người Việt cổ bắt đầu có ý thức với cuộc sống, với cộng đồng, với sản xuất. Việc người Việt cổ biết trồng trọt, chăn nuôi, biết dùng súc vật để kéo cày, biết làm lúa nước, làm thủy lợi, cùng với việc xuất hiện một số ngành nghề mới (thủ công, trồng dâu nuôi tằm, luyện đồng, rèn sắt...) đã tạo ra tiền đề ổn định, gia tăng sự gắn kết cộng đồng, nhờ đó cũng kéo theo cả sự phát triển của văn hóa. Văn hóa phát triển sẽ hình thành những giá trị văn hóa mới, trong đó đoàn kết là một giá trị văn hóa được hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Thời kỳ An Dương Vương dựng nước Âu Lạc và lập đô tại Cổ Loa, miền đồng bằng của đất nước thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và văn hóa, cho thấy cư dân Âu Lạc tỏ rõ ý chí mạnh mẽ, tự tin vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Kế tục sự phát triển của nước Văn Lang, cư dân Âu Lạc đã cố kết xây dựng đất nước với nền văn hóa Đông Sơn phát triển rực rỡ. Thời gian này có bước tiến mới của Âu Lạc trong kỹ thuật quốc phòng, người Âu Lạc đã chế tạo được loại nỏ bắn nhiều phát một lần, với mũi tên bằng đồng có ba cạnh sắc. Thành Cổ Loa được xây dựng mà đến nay được coi là “tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ”. Đây là công trình thể hiện sự sáng tạo độc đáo của cư dân Âu Lạc trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Nhà Tần và sau đó Triệu Đà đã nhiều lần đưa quân đánh phá Âu Lạc nhưng đều thất bại. Điều đó chứng tỏ tinh thần đoàn kết, ý thức tự chủ của cư dân Âu Lạc đã phát triển trên cơ sở nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ.
Có thể nói, sức mạnh của nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc với cơ sở đoàn kết đã tạo cho cộng đồng người Việt có sức mạnh để chiến thắng giặc ngoại xâm và chinh phục thiên nhiên suốt quá trình dựng nước và giữ nước trong buổi bình minh lịch sử.
Thời kỳ Bắc thuộc trên một ngàn năm, dù bị áp đặt ách thống trị và bóc lột tàn bạo, nhưng nhân dân ta đã đoàn kết, kiên cường đấu tranh với kẻ thống trị để giữ vững bản sắc văn hóa, để giữ gìn tiếng nói, phong tục tập quán của mình, đồng thời hoàn thiện và nâng cao nền văn hóa, văn minh của người Việt, củng cố tinh thần tự lực tự cường, tăng thêm ý chí đấu tranh giành độc lập tự chủ. Đây là giá trị to lớn nhất để chuẩn bị cho công cuộc giành quyền tự chủ. Chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Ngô Quyền đã đánh bại ý chí xâm lược của nhà Nam Hán, kết thúc hoàn toàn thời kỳ bị phong kiến phương Bắc đô hộ, kéo dài trên một ngàn năm.
Dù bị phong kiến phương Bắc thống trị và âm mưu đồng hóa trên một ngàn năm, nhưng nhân dân ta đã vùng lên và giành lại được quyền độc lập, tự chủ. Đó chính là nhờ có ý chí độc lập tự do, lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết của cư dân người Việt sớm được khẳng định trên cơ sở những thành tựu vật chất và tinh thần ngày càng phát triển trong quá trình dựng nước và giữ nước trước đó. Truyền thống đó lại được nuôi dưỡng bởi nền văn hóa, văn minh của người Việt định hình và phát triển trong thời kỳ Văn Lang - Âu lạc. Mặc dù âm mưu đồng hóa thâm độc, nhưng nền văn hóa của cư dân người Việt chẳng những không bị mai một, mà còn được bổ sung, làm phong phú thêm, làm tăng sức mạnh, hun đúc sức sống mãnh liệt của cộng đồng người Việt. Đây cũng là điều kiện hết sức quan trọng để đất nước vươn lên giữ vững nền tự chủ, dựng nước thịnh trị trong thời kỳ văn hóa - văn minh Đại Việt về sau này. Sau khi giành được độc lập, tự chủ, truyền thống đoàn kết trong công cuộc dựng nước và giữ nước tiếp tục được phát huy cao độ. Sử sách cho thấy, sau mỗi thắng lợi của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ độc lập chủ quyền của các triều đại phong kiến Việt Nam, vị thế của dân tộc ta ngày càng được củng cố và phát triển.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và trong hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã được phát huy cao độ với quyết tâm “dù có hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng kiên quyết giành cho được độc lập”, hơn 20 triệu người dân Việt Nam đã nhất tề đứng dậy giành chính quyền làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vĩ đại, đem lại nền độc lập cho dân tộc và quyền tự do cho nhân dân.
Trong kháng chiến chống Pháp, với ý chí quyết tâm sắt đá và sự đồng lòng của toàn dân tộc: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc…” đã phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân vừa kháng chiến, vừa kiến quốc trong suốt 9 năm chống thực dân Pháp lâu dài, gian khổ, để cuối cùng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Đặc biệt trong công cuộc chống Mỹ cứu nước trường kỳ, gian khổ, với khát vọng cháy bỏng của toàn thể dân tộc Việt Nam: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” đã được phát huy, lôi cuốn đông đảo mọi tầng lớp nhân dân hăng hái thi đua vừa chiến đấu vừa lao động sản xuất. Nhờ đó, dân tộc Việt Nam đã huy động cao độ sức mạnh chính trị, tinh thần, nhân lực, vật lực để “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, và cuối cùng với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 thắng lợi, đã kết thúc vẻ vang sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta.
Trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là từ khi đổi mới đến nay, tinh thần đoàn kết của dân tộc ta tiếp tục được phát huy với nhiều hình thức tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đoàn kết cùng nhau giải quyết những khó khăn về đời sống, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, bảo đảm quốc phòng - an ninh, khơi dậy khát vọng phát triển, phát huy ý chí, sức mạnh văn hóa và con người Việt Nam. Đảng ta đã lãnh đạo cả hệ thống chính trị tập trung tuyên truyền, vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân, tạo sự thống nhất và đồng thuận trong xã hội; triển khai sâu rộng và nâng cao chất lượng các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, phát huy tinh thần thi đua sáng tạo và huy động các nguồn lực trong xã hội, tham gia thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Đặc biệt năm 2020, sự bùng phát của đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng và tiếp tục có diễn biến phức tạp, khó lường. Tình hình chính trị, kinh tế thế giới và khu vực có nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp. Biến đổi khí hậu, thiên tai, lũ lụt, sạt lở, giông lốc, dịch bệnh diễn ra ở nhiều nơi. Trong bối cảnh hết sức khó khăn, hưởng ứng lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời ban hành các nghị quyết, kết luận, chỉ thị với phương châm “chống dịch như chống giặc”; quyết tâm thực hiện “mục tiêu kép”: Vừa quyết liệt phòng, chống dịch hiệu quả; Vừa tập trung phục hồi phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, kiểm soát dịch bệnh là ưu tiên hàng đầu, quan trọng nhằm bảo vệ sức khỏe nhân dân, ổn định xã hội... Có thể thấy, về cơ bản, các giải pháp điều hành chính sách kinh tế vĩ mô đã được thực thi đúng hướng và phù hợp, được nhân dân cả nước đồng tình ủng hộ, cộng đồng thế giới đánh giá cao.
Kết quả phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 cho thấy sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị và sự đoàn kết, chung sức, đồng lòng, nỗ lực vượt bậc, quyết liệt, kịp thời của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân vừa tập trung phòng, chống dịch bệnh, vừa duy trì, phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta đã vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra, góp phần cho cả giai đoạn 2016 - 2020 đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực, tạo nhiều dấu ấn nổi bật. Kết quả đó còn cho thấy chúng ta đã phát huy giá trị văn hoá dân tộc, nhất là giá trị văn hóa truyền thống đoàn kết, tập hợp được sức mạnh con người Việt Nam, sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng và phát huy mạnh mẽ thế trận lòng dân, làm cho đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín lớn như ngày nay. Đó là cơ sở quan trọng cho đất nước ta có thể lập nên những kỳ tích phát triển mới.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc luôn là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành và chỉ đạo thực hiện có hiệu quả nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Các cấp ủy Đảng đã quan tâm đến sự nghiệp đại đoàn kết. Chính quyền các cấp đã thật sự có chuyển biến trong nhận thức và hành động về quan hệ với nhân dân. Nhiều dự án về phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của Nhà nước được ban hành nhằm chăm lo đời sống cho nhân dân đã thực hiện có kết quả. Quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội được thể chế hóa, đã từng bước được phát huy. Sự đổi mới hệ thống chính trị, việc tăng cường dân chủ hóa đời sống xã hội đã góp phần quan trọng vào việc động viên nhân dân hăng hái tham gia các sinh hoạt chính trị của đất nước, đẩy mạnh sản xuất, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. Đó là những nhân tố rất quan trọng, góp phần tích cực bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội và thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Lịch sử đã chứng minh, đoàn kết là một giá trị văn hóa truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta. Tinh thần đoàn kết toàn dân đã tạo thành sức mạnh vật chất vô cùng to lớn và mạnh mẽ, tạo động lực thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của dân tộc. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đại đoàn kết toàn dân tộc chính là nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh vô địch để nhân dân tiến hành cách mạng thắng lợi. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó là công cuộc cải biến xã hội sâu sắc tạo điều kiện giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đảng ta đã chỉ đạo tiếp tục thể chế hóa phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” thành những chính sách, quy chế, quy định cụ thể ở từng loại hình cơ sở để nhân dân phát huy tinh thần đoàn kết, quyền làm chủ trên thực tế, thực hiện tốt trách nhiệm, nghĩa vụ đối với Nhà nước và cộng đồng xã hội. Đồng thời, chú trọng xây dựng, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách và các hình thức tổ chức cho phù hợp với những diễn biến mới của tình hình để tạo sự đồng thuận cao trong xã hội, để nhân dân được phát huy đầy đủ quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, có điều kiện phát triển tài năng, sức sáng tạo, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh làm giàu chính đáng, mang lại lợi ích cho bản thân và cho đất nước.
Phát huy giá trị văn hóa truyền thống đoàn kết toàn dân tộc để có được sức mạnh vô địch đã trở thành một trong những bài học kinh nghiệm lớn, là phương thức và cũng là điều kiện bảo đảm thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, bài học kinh nghiệm này còn nguyên giá trị và cần tiếp tục phát huy nhằm khơi dậy ý chí, khát vọng phát triển tạo sức mạnh to lớn của toàn dân tộc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để phát huy giá trị văn hóa truyền thống đoàn kết toàn dân tộc phải thường xuyên tăng cường củng cố, thắt chặt mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của người dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Quyền dân chủ của người dân phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện. Phải làm cho nhân dân hiểu, thấm nhuần mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, biến thành ý chí và hành động của toàn dân và đi vào cuộc sống. Đảng phải không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để tập hợp các tầng lớp nhân dân trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo thành sức mạnh to lớn vững chắc trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
-Nguồn: Tổng hợp-
Nhân nghĩa được tạo cấu thành bởi hai thành tố "nhân" và "nghĩa". "Nhân" lòng trắc ẩn, suy nghĩ đến cảm giác của người khác khi hành động. Nếu người khác không thích thì tuyệt đối không làm. "Nghĩa" tức là làm chính nghĩa, là đúng. Không nói dối, không lừa lọc, làm đúng những gì mình nói. Ghép nhân nghĩa có thể ra là quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong cộng đồng, lòng thương người và sự đối xử với người theo lẽ phải, là tình cảm, thái độ, việc làm đúng đắn, phù hợp với đạo lí của dân tộc Việt Nam.
Lòng nhân nghĩa gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước, được coi là sức mạnh tinh thần để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lăng. “Chí nhân, đại nghĩa” là nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo mà dân tộc ta bao đời đeo đuổi để tạo dựng nền văn hiến mang đậm đà bản chất truvền thống của con người Việt Nam. Nhân nghĩa là lòng thương người, đối xử với người theo lẽ phải, cư xử đúng chừng mực với mọi người; sẵn sàng đồng cảm, chia sẻ, thấu hiểu và giúp đỡ người khác khi người ta gặp khó khăn. Chúng ta dễ dàng nhận thấy trong xã hội hiện nay có rất nhiều mảnh đời chịu bất hạnh, đau thương, khổ cực, việc chúng ta sống tử tế, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ những người đó làm xoa dịu, giảm bớt nỗi đau của họ, xã hội cũng sẽ phát triển đẹp đẽ, vững mạnh hơn.
2. Biểu hiện về lối sống nhân nghĩa
Lối sống nhân nghĩa được biểu hiện dưới nhiều hình thức, cách thức đa dạng khác nhau như:
- Sống có lòng nhân nghĩa được thể hiện ở chỗ biết quý trọng đạo nghĩa và giữ gìn chữ tín. Luôn là người sống nhân ái, biết yêu thương, tương trợ, giúp đỡ người khác trong hoạn nạn, lúc khó khăn không đắn đo tính toán, biết tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong lao động, trong cuộc sống hàng ngày với mong muốn mọi người cùng hạnh phúc ấm no.
- Người nhân nghĩa luôn sống vị tha cao thượng, không cố chấp với người khác, có lỗi lầm biết hối cải, đối xử khoan hồng với kẻ có tội. Người sống nhân nghĩa luôn được người khác kính trọng, tin tưởng và yêu mến.
- Nhân ái, sự thương yêu được thể hiện ở việc giúp đỡ người khac trong hoạn nạn, lúc khó khăn không đắn đo tính toán; nhường nhịn đùm bọc nhau lúc sa cơ lỡ bước.
- Nhân ái là tương trợ giúp đỡ nhau trong lao động, trong cuộc sống hằng ngày; vị tha bao dung độ lượng.
3. Đôi nét về tư tưởng nhân nghĩa trong Nho giáo
Một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam không thể không kể đến chính là đức tính cần cù lao động. Việt Nam xưa phát triển nghề nông, Việt Nam nay vẫn không ngừng nhân rộng và phát triển các mô hình canh tác xoay quanh nông nghiệp. Bên cạnh đó, Việt Nam ngày càng có nhiều startup trẻ và thành công đi theo lĩnh vực số hóa, phát triển nền công nghiệp 4.0. Chúng ta đã có những tấm gương chăm chỉ lao động, sáng tạo và đã đạt được thành quả tương xứng như ông Nguyễn Bá Diệp, người đồng sáng lập kiêm phó Chủ tịch của MoMo – ứng dụng thanh toán qua ví điện tử hàng đầu Việt Nam. Hay anh Nguyễn Đức Huy, “chàng nông dân 4.0”, Giám đốc HTX Thủy canh Việt, người đã góp phần đưa công nghệ ứng dụng vào canh tác trồng cây nông nghiệp phổ biến với bạn bè các nước Đông Nam Á.
Bên cạnh yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa,… dân tộc Việt Nam còn có truyền thống hiếu học quý báu, hình thành từ ngàn xưa và được gìn giữ, phát triển đến ngày nay. Vậy, truyền thống hiếu học là gì và làm thế nào để chúng ta phát huy được tư tưởng đáng tự hào này của ông cha ta
1. Truyền thống hiếu học là gì?
Trước tiên, truyền thống hiếu học là tư tưởng coi việc học như trách nhiệm hàng đầu, không ngừng tích lũy, học hỏi, vượt qua khó khăn để có được kiến thức, được áp dụng qua nhiều thế hệ.
Điều này còn đề cao việc tự học: học kiến thức từ sách vở và từ đời sống theo nguyên tắc “học đi đôi với hành”.
Một người ham học sẽ luôn cố gắng áp dụng những lý thuyết mình đã học ở trường, ở sách vở vào trong thực tiễn cuộc sống hoặc sẵn sàng trải nghiệm điều mới để có thể học thêm kiến thức thực tế không có trong sách vở, từ đó rút ra bài học cho riêng mình.
2. Tinh thần ham học hỏi của dân tộc Việt Nam thời xưa
Truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam ta được hình thành từ rất lâu đời. Từ xa xưa, học tập và tiếp thu kiến thức đã được khuyến khích ở trong các điều khoản của “lệ làng, phép nước”. Các vị vua thời bấy giờ đã ra những chính sách tuyển chọn và thi cử như Thi Hương, Thi Hội và Thi Đình rất khắt khe với mục đích tìm ra người học rộng, tài cao để đưa vào các vị trí quan trọng trong triều đình.
Người thi đỗ các kỳ thi tiến sĩ còn được khắc tên lên bia đá, để đời sau tưởng niệm, nhớ mãi. Đối với các khu vực nhỏ như làng, xã, việc ủng hộ tinh thần hiếu học thể hiện qua phong tục “rước trạng về làng”. Người thi đỗ đầu các khoa thi sẽ được làng, xã tổ chức đón rước về làng vinh quy bái tổ, vinh danh trạng nguyên trước nhân dân. “Lệ làng và phép nước” bổ sung cho nhau, cùng khuyến khích việc học và bồi đắp truyền thống hiếu học của nhân dân Việt Nam từ rất lâu về trước.
Vì lẽ đó, Việt Nam thời xưa đã có rất nhiều tấm gương hiếu học tiêu biểu: Mạc Đĩnh Chi – một người học trò nghèo, đã vượt qua gia cảnh khó khăn, ra sức học tập, đỗ đạt trở thành trạng nguyên, vang danh bốn bể.
Hay Nguyễn Trãi – người được UNESCO vinh danh là “Danh nhân thế giới”. Ông không chỉ là một nhà chính trị, công thần trong triều đình nhà Hậu Lê mà còn là một nhà văn đóng góp rất nhiều cho kho tàng văn học. Một trong những tuyệt tác của ông là “Bình Ngô Đại Cáo” được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước ta. Có thể nói, Nguyễn Trãi có thể viết nên áng văn đầy uyên bác, chứa đựng tư tưởng thời đại ở Bình Ngô Đại Cáo là nhờ có sự am hiểu sâu rộng về lịch sử, địa lý, văn hóa và xã hội của đất nước. Để có được những kiến thức ấy, chắc chắn rằng Nguyễn Trãi có tinh thần tự học cao, nắm vững kiến thức trong sách vở và cả kiến thức đúc kết từ quan sát, trải nghiệm.
Truyền thống hiếu học được xây dựng và phát triển mạnh mẽ từ thời xưa, khi hệ thống giáo dục chưa phân thành từng cấp độ rõ ràng, tiêu chuẩn. Vậy thì, thế hệ hiện đại của chúng ta ngày nay – khi đã có nền giáo dục hiện đại, tiên tiến đã bảo tồn và phát huy truyền thống ấy như thế nào?
3. Truyền thống hiếu học ngày nay
Trong thời hiện đại, người Việt Nam ta luôn cố gắng gìn giữ và phát huy truyền thống hiếu học của ông cha ta như thuở trước. Điều này thể hiện qua sự cầu tiến, luôn cố gắng mở rộng kiến thức của bản thân, tiến lên phía trước và sẵn sàng tiếp thu cái mới để cải tiến cái cũ. Nhiều người Việt đã chứng minh điều đó bằng việc đạt được các giải thưởng lớn về học thuật, văn hóa, cùng với các phát minh, sáng chế và công trình nghiên cứu được quốc tế công nhận và đánh giá cao.
Đại diện cho điều này là việc đội tuyển toán Quốc tế của Việt Nam đã đạt được rất nhiều huy chương vàng trong các kỳ thi toán Olympic quốc tế (IMO); là bộ Kit xét nghiệm COVID nhanh do Việt Nam sản xuất đã được WHO công nhận; hay là cô giáo Hà Ánh Phượng – người được vinh danh trong danh sách 10 giáo viên toàn cầu – đã áp dụng những kiến thức mình tự học để tạo ra phương pháp dạy tiếng Anh mới mẻ cho các em vùng cao.
Có thể nói, việc liên tục cải tiến và đổi mới, nắm bắt công nghệ mới chính là chìa khóa để có thể thích ứng nhanh và làm chủ cuộc sống hiện đại ngày nay. Vì vậy, truyền thống hiếu học luôn được dân tộc Việt Nam phát huy và gìn giữ để luôn tiến về phía trước và cải thiện, làm chủ cuộc sống.
4. Bảo tồn và phát huy truyền thống hiếu học
Tinh thần ham học hỏi và tiếp thu kiến thức của người Việt Nam đã được hình thành từ ngàn xưa và chắc chắn sẽ được gìn giữ và phát huy đến mai sau. Nhằm phát huy truyền thống quý báu này, người Việt Nam thời nay cần không ngừng học hỏi, phá vỡ giới hạn của bản thân và tiếp thu tinh hoa của các nước khác để có thể nâng tầm tri thức của Việt Nam sánh ngang với thế giới.
Để có thể làm được điều này , việc đầu tiên cần trang bị là tiếng Anh – ngôn ngữ toàn cầu. Đây chính là công cụ không thể thiếu để người Việt có thể bước ra thế giới để hòa nhập, học tập và mở rộng kiến thức ở môi trường quốc tế. Thông qua đó, chúng ta không chỉ góp phần củng cố giá trị của truyền thống hiếu học, mà còn chung tay đưa Việt Nam ngày càng vững mạnh và phát triển trên tầm quốc tế.
Từ xưa đến nay, nghề giáo được coi là biểu tượng thiêng liêng, một nghề cao cả trong các nghề. Được coi là “khuôn vàng thước ngọc” của đạo đức, nhân cách để học trò học, noi theo thầy mà trở thành người có đức, có nhân, có tài để đứng ra giúp nước.
1. Tôn sư trọng đạo là gì?
"Tôn sư" trong đó "tôn" là tôn trọng, kính trọng và đề cao; "sư" là thầy dạy học, dạy người, dạy chữ. Vậy tôn sư là người học trò phải biết tôn trọng, kính trọng và đề cao vai trò của người thầy trong quá trình học tập vào trong cuộc sống. Tuy nhiên, tôn sư" không đồng nghĩa với là thầy luôn luôn đúng, vì điều đó còn tùy thuộc vào sức khỏe, trạng thái tâm lý của thầy giáo, sự thay đổi của điều kiện ngoại cảnh mà đã tác động đến hoạt động giáo dục.
"Trọng đạo" trong đó "trọng" là coi trọng, tôn trọng, đạo là đạo lí, con đường làm người, đạo đức, đạo lí truyền thống tốt đẹp của con người. Vậy trọng đạo là người học trò phải biết tôn trọng, lễ phép, kính trọng người thầy vì người thầy đã giảng dạy, truyền dạy cho chúng ta biết thế nào là đạo nghĩa, đạo đức, đạo học làm người và những tri thức khác về mọi mặt của đời sống tự nhiên, đời sống xã hội. Ngoài ra, trọng đạo cũng có nghĩa là trọng chân lý, xét trong tình huống giáo dục cụ thể chân lý là của cùng một chủ thể thầy dạy đưa ra, nhưng cũng có khi là chân lý được học trò đúc kết, tích lũy trong hoạt động sống nói chung. Vì thế, trong giáo dục, học trò vẫn có thể tranh luận với thầy, phản biện lại thầy về kiến thức chân lý mà vẫn giữ nguyên đạo lý và sự tôn sư.
Như thế, sự "tôn sư" đi liền với "trọng đạo" không tách rời nhau mà luôn ở trong cùng một khái niệm. Ngày nay, "tôn sư trọng đạo" vẫn mang ý nghĩa tôn vinh người thầy và nghề dạy học, nhưng giáo dục ngày nay cơ bản đã khác xưa, mối quan hệ thầy trò cũng cũng phải vận động sao cho phù hợp với thời cuộc". Tuy nhiên, cho dù là sự vận động như thế nào đi chăng nữa thì vai trò của người thầy cũng không thể thay thế được. Người Trung Quốc có câu: "Một gánh sách không bằng một người thầy giỏi". Mặt khác, sự "tôn sư" ở đây còn được hiểu là kính trọng thầy về kiến thức và đạo đức, nhưng cũng còn ý nghĩa khác nữa là quý mến thầy trong cách hiểu về tình người. Tóm lại, có thể hiểu đơn giản tôn sư trọng đạo là tôn trọng, kính yêu và biết ơn đối với những người làm thầy giáo, cô giáo (đặc biệt là những thầy cô giáo đã dạy mình) ở mọi lúc mọi nơi, coi trọng những điều thầy dạy, coi trọng và làm theo đạo lí mà thầy đã dạy mình.
Tôn sư trọng đạo là một truyền thống quý báu của dân tộc, chúng ta cần phát huy và giữ gìn truyền thống ấy. Đây là một nét đẹp trong tâm hồn mỗi người, làm cho các mối quan hệ ngày càng trở nên gắn bó.
2. Biểu hiện thể hiện sự tôn sư trọng đạo
Tôn sư trọng đạo được thể hiện rõ nhất thông qua các hành động, lời nói, cử chỉ và thái độ đối với thầy giáo, cô giáo. Chỉ cần thông qua tác phong nói chuyện của học sinh đối với thầy cô là có thể nhìn rõ được đạo đức này trong mỗi người.
Thứ nhất, học sinh có thái độ và hành động làm vui lòng thầy cô. Tôn sư trọng đạo chính là đạo đức cần thiết có đối với tất cả mọi người. Chúng ta cần thể hiện một thái độ kính trọng, mến yêu bởi lẽ các thầy cô giáo đã dạy dỗ mình nên người. Bên cạnh đó, mỗi học sinh cũng cần phải lễ phép khi giao tiếp, không tỏ thái độ thiếu tôn trọng hoặc có các hành vi, cử chỉ không đúng chuẩn mực với thầy cô. Đồng thời, các bạn cũng phải luôn nỗ lực hết mình, ghi nhớ những lời thầy cô dạy để trở thành những công dân có ích cho xã hội. Đặc biệt là các em học sinh, sinh viên cần phải chăm ngoan, nghe lời thầy cô, cố gắng học tập và rèn luyện để đạt được kết quả cao trong học tập.Có như thế mới có thể báo đáp ân nghĩa với sự dạy dỗ của thầy cô.
Thứ hai, ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 là ngày lễ truyền thống của dân tộc Việt Nam, đây là ngày để tôn vinh công lao dạy dỗ của các thầy giáo, cô giáo. Đồng thời cũng là dịp để mọi người bày tỏ lòng biết ơn, sự kính trọng của mình đối với thầy cô giáo đã dạy mình. Vào ngày này, các em học sinh và sinh viên trên khắp cả nước lại nô nức mua những bó hoa, món quà,... để dành tặng cho thầy cô. Xã hội luôn có sự quan tâm đặc biệt đến các nhà giáo. Bên cạnh những biểu hiện bên trên, tôn sư trọng đạo còn được thể hiện rõ nhất thông qua sự quan tâm của xã hội đối với các nhà giáo. Có thể khẳng định rằng, trong xã hội hầu hết mọi người luôn dành tình cảm kính mến và tôn trọng đối với các giáo viên. Sự quan tâm đối với nền giáo dục, đời sống vật chất và tinh thần của giáo viên sẽ giúp cho các học sinh phát triển tốt. Đặc biệt, Nhà nước còn luôn có sự quan đặc biệt đối với các nhà giáo thông qua những chính sách như tăng ngân sách cho giáo dục, tăng lương và phụ cấp. Đồng thời, còn tu bổ, xây dựng hệ thống trường lớp tạo ra môi trường thuận lợi cho quá trình giảng dạy, học tập và rèn luyện.
3. Ý nghĩa của tôn sư trọng đạo
Từ xưa đến nay, tôn sư trọng đạo là phẩm chất đạo đức rất được coi trọng, nhằm đền đáp công lao to lớn của những người thầy thầm lặng đã truyền đạt kiến thức để giáo dục con người. Ông cha ta từ thời xa xưa vẫn thường dạy “Nhất tự vi sư bán tự vi sư”, tức là một chữ cũng là thầy nửa chữ cũng là thầy. Như vậy, vai trò của người thầy đã sớm được ghi nhận trong xã hội từ rất lâu về trước.
Sinh thời, thủ tướng Phạm Đồng đã từng nói: “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý”. Khác với các nghề khác, thành phẩm của giáo dục và công lao của người thầy chính là tạo ra những người tốt cho xã hội. Bên cạnh đó, kho tàng ca dao tục ngữ của Việt Nam cũng có rất nhiều câu nói về công lao của người thầy, chẳng hạn như:
“Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”
Tôn sư trọng là truyền thống văn hóa vô cùng tốt đẹp của dân tộc từ bao đời nay. Xuất phát từ vai trò quan trọng của giáo dục, Nhà nước ta xác định rất rõ ràng rằng giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu của Việt Nam. Vì vậy, rất nhiều chính sách phát triển với lĩnh vực giáo dục được đưa ra nhằm mang đến một thế hệ mới có tri thức cao, sánh vai với các cường quốc châu lục trên thế giới. Không chỉ vậy, Nhà nước còn lấy ngày 20/11 hàng năm là ngày hội lớn toàn dân để tôn vinh các nhà giáo của Việt Nam.
Tôn sư trọng đạo còn có ý nghĩa giúp cho con người sống có nhân nghĩa và thủy chung. Sống trong đời nếu biết coi trọng đạo lý làm người nói chung và tôn sư trọng đạo nói riêng sẽ giúp cho chúng ta có khả năng tiến xa hơn trong học tập và gặt hái được thành công lớn trong sự nghiệp. "Tôn sư trọng đạo” dù ở thời xưa hay ngày và mãi mãi mai sau vẫn luôn là một nét đẹp không gì có thể thay thế được của dân tộc Việt Nam. Dù ở đâu, thời nào, người thầy vẫn giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội.
3. Dấu ấn “tôn sư trọng đạo” trong văn hóa ứng xử
Theo các công trình nghiên cứu ngôn ngữ học, từ “thầy” thuộc về lớp từ Hán cổ đã có mặt trong tiếng Việt từ trước thời Tam quốc, sau này có thêm từ “sư” cùng biểu thị sự tôn kính người thầy.
Việc “tôn sư trọng đạo” thể hiện bằng thái độ tôn quý người thầy, là một truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Sách “Kinh Lễ” nêu rõ, kính trọng thầy là nguyên tắc cơ bản của Nho giáo. Trong thiên “Học ký” (những lý luận cơ bản của việc dạy và học trong các trường học ngày xưa) có câu: “Tôn sư nhiên hậu đạo trọng” (tôn trọng thầy thì đạo được trọng). “Đạo” là những gì thầy truyền dạy, là tiêu chuẩn đạo đức cao nhất, là mục đích con người luôn phấn đấu, gìn giữ... “Tôn sư trọng đạo” là phải tôn kính thầy để thực hành đạo lý, đạo nghĩa của con người.
Truyền thống “tôn sư trọng đạo” của người Việt in dấu ấn đậm nét trong văn hóa dân gian. Vai trò, vị trí của người thầy luôn được tôn vinh trong ca dao, tục ngữ: “Không thầy đố mày nên”, “Muốn sang thì bắc cầu kiều/ Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”, “Thầy dở (thì) cũng đỡ láng giềng”... Hay những thành ngữ, tục ngữ ngợi ca sự học: “Người không học như ngọc không mài”, “Muốn hành nghề chớ nề học hỏi”, “Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học”, “Một kho vàng không bằng một nang chữ”... Hẳn nhiên, vô sư, vô sách thì chẳng thể nên người. Logic kéo theo, cho dù con học thóc vay chăng nữa, có bậc sinh thành nào mà chẳng cố. Vì sao phải cố, là vì: “Chẳng cày lấy đâu có thóc, chẳng học lấy đâu biết chữ?”. Chẳng học mà hay, chẳng cày mà có chẳng phải là điều cực kỳ vô lý sao. Chỉ có học mới thoát khỏi tối tăm, nghèo đói. Há chẳng phải “Làm thầy nuôi vợ, làm thợ nuôi miệng đó sao”. Mà đâu chỉ dừng lại ở đó, học còn là để làm người, để thành nhân: “Bất học vô thuật” (không học không biết xử sự), “Bất học diện tường” (không học như đứng trước tường), “Nhân bất học bất tri lý” (người không học không biết lý lẽ)...
Ý thức về tầm quan trọng của người thầy, nhân dân ta quan niệm: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” - một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy; có thờ thầy mới được làm thầy. Kẻ không biết kính trọng thầy thì mang tiếng ngàn đời. Câu thành ngữ “lừa thầy phản bạn” là để mắng những kẻ vong ân bội nghĩa, kẻ nào phạm phải điều này đố mà dám ngẩng mặt lên.
Và ngược lại, người thầy cũng phải ý thức phẩm chất sư phạm của mình, là tấm gương sáng cho học trò nhìn vào đó noi theo. Bởi vì bản thân một chữ “thầy” từ thuở xa xưa đã hàm sẵn cái sắc thái tôn xưng, trọng vọng.
4. Gìn giữ cho muôn đời sau
Mỗi người chúng ta ai chẳng khát khao được cắp sách đến trường. Gia đình nào chẳng muốn con em mình đến trường để được dạy dỗ nên người. Thầy cô không chỉ là người truyền dạy kiến thức mà còn bồi đắp cho mỗi tâm hồn chúng ta thêm phong phú, tốt đẹp để mỗi người chúng ta phát triển hơn về năng lực, giàu có hơn về nhân cách, giúp ích cho xã hội.
Lần giở những trang sách xưa, ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh người học trò nghèo đêm đêm bắt đom đóm làm đèn để đọc sách; hình ảnh những người vợ, người mẹ tảo tần sớm hôm lo cho chồng, cho con “nấu sử sôi kinh” hay những lớp học xưa với hình ảnh ông đồ ngồi dạy học. Nhờ công lao dạy dỗ, rèn luyện nghiêm cẩn và sự chỉ bảo tận tình của người thầy, học trò mới thành danh. Người thầy được tôn vinh bởi người thầy không chỉ là người dạy chữ thánh hiền, mà còn là người tượng trưng cho những gì chuẩn mực nhất, cao đẹp nhất.
Đã có biết bao người thầy đáng kính được lưu danh muôn đời. Đó là người thầy “vạn thế sư biểu” Chu Văn An - người dạy học cho thái tử, cũng là trung thần đã dâng “Thất trảm sớ” xin vua chém lũ gian thần rồi cáo quan về quê sống cuộc đời thanh bạch. Đó là cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu, người vừa dạy học vừa bốc thuốc chữa bệnh cho dân, một nhà thơ lớn một lòng yêu nước thương dân. Đó là các bậc thầy cao quý như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh, Nguyễn Lân... Mỗi thầy mỗi hoàn cảnh nhưng tất cả đều rất yêu nghề và hết lòng vì học sinh thân yêu. Mỗi người thầy có một phương pháp khác nhau, biểu hiện sự quan tâm, yêu thương một cách khác nhau nhưng tựu trung đều mang lại những điều tốt đẹp nhất cho học trò. Có thể nói, người thầy là chủ thể có vai trò quyết định trong việc giáo dục lớp lớp thế hệ người Việt Nam, trong việc đào tạo nguồn nhân lực quan trọng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngày nay, mặc dù khoa học kỹ thuật phát triển, nhiều yếu tố hiện đại, tiện ích có thể tham gia vào quá trình giáo dục con người nhưng chắc chắn không gì có thể thay thế được vị trí của người thầy. Bởi lẽ, dù xã hội có phát triển như thế nào đi nữa, người thầy vẫn luôn là biểu tượng cho nhân cách, chuẩn mực đạo đức và là người định hướng tri thức để học trò ham khám phá, tìm tòi; khơi lên ước mơ, hoài bão; gieo vào tâm hồn học trò những điều tốt đẹp; thổi bùng lên những khát vọng cao đẹp trong tương lai.
Lòng hiếu thảo là một trong những phẩm chất đáng trân trọng trong con người, đặc biệt là trong văn hóa truyền thống của đất nước Việt Nam. Nhưng liệu chúng ta đã hiểu rõ về ý nghĩa và biểu hiện của lòng hiếu thảo trong cuộc sống hiện đại? Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu khái niệm và các biểu hiện của lòng hiếu thảo. Bạn sẽ hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của lòng hiếu thảo trong việc xây dựng mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, đồng thời cũng nhận thức được tầm quan trọng của lòng hiếu thảo trong các mối quan hệ xã hội như gia đình, cộng đồng và xã hội.
1. Lòng hiếu thảo là gì?
"Lòng hiếu thảo" là một khái niệm trong văn hóa Á Đông, đặc biệt là trong văn hóa Việt Nam, chỉ sự tôn trọng, yêu mến, và biết ơn đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên và những người già trước đây. Đây là giá trị đạo đức quan trọng, được coi là phẩm chất tốt đẹp và đức hạnh cao trong xã hội Á Đông.
Lòng hiếu thảo thường được thể hiện qua việc con cháu biết nghe lời và tôn trọng lời dạy của cha mẹ, ông bà, tôn vinh và ghi nhớ công ơn của tổ tiên, giúp đỡ và chăm sóc cho người già, và duy trì tình cảm và quan hệ tốt đẹp với gia đình. Nó còn được xem là cơ sở của các giá trị đạo đức khác như lòng nhân ái, lòng trung thành, và sự đoàn kết trong gia đình và xã hội.
Lòng hiếu thảo được coi là một phương tiện để duy trì trật tự xã hội và thăng tiến văn minh trong văn hóa Á Đông. Nó đóng vai trò quan trọng trong đời sống cá nhân, gia đình, và xã hội, và được coi là một giá trị cốt lõi trong việc hình thành và duy trì các mối quan hệ xã hội mạnh mẽ và hài hòa.
2. Những biểu hiện của lòng hiếu thảo
Có nhiều biểu hiện của lòng hiếu thảo trong văn hóa Á Đông, đặc biệt là trong văn hóa Việt Nam. Sau đây là một số ví dụ về các biểu hiện của lòng hiếu thảo:
- Tôn trọng và nghe lời cha mẹ, ông bà: Lòng hiếu thảo thể hiện qua việc con cháu tôn trọng ý kiến, lời dạy của cha mẹ, ông bà, và tuân theo hướng dẫn của họ. Con cháu thể hiện sự biết ơn và tôn trọng công ơn sinh thành, nuôi dưỡng và dạy dỗ của cha mẹ, ông bà.
- Giúp đỡ và chăm sóc cho người già: Lòng hiếu thảo còn được thể hiện qua việc con cháu chăm sóc, giúp đỡ và tôn trọng người già trong gia đình, như việc đồng hành cùng ông bà, bố mẹ già trong cuộc sống hàng ngày, đảm bảo cho họ có cuộc sống thoải mái và hạnh phúc.
- Duy trì tình cảm và quan hệ tốt đẹp với gia đình: Lòng hiếu thảo cũng thể hiện qua việc con cháu duy trì mối quan hệ gần gũi, hài hòa và tôn trọng với các thành viên trong gia đình, bao gồm anh chị em ruột, anh chị em họ, và các người thân khác. Con cháu biết quan tâm, lắng nghe, thể hiện sự quan tâm và yêu thương đối với gia đình.
- Tôn vinh và ghi nhớ công ơn của tổ tiên: Lòng hiếu thảo còn được thể hiện qua việc con cháu tôn vinh và ghi nhớ công ơn của tổ tiên, như duy trì truyền thống, tôn giáo, lễ nghi, và các hoạt động gìn giữ và phát huy di sản của gia đình và dòng họ.
- Cư xử đúng mực và tôn trọng người khác: Lòng hiếu thảo cũng thể hiện qua việc con cháu cư xử đúng mực, tôn trọng và giúp đỡ người khác trong xã hội, từ bạn bè, hàng xóm, đồng nghiệp, đối tác kinh doanh, và những người khác trong cộng đồng.
- Thể hiện lòng biết ơn và báo đáp: Lòng hiếu thảo cũng đồng nghĩa với việc thể hiện lòng biết ơn và báo đáp đúng mực đối với những ai đã giúp đỡ mình, như đáp lại lòng tử tế của người khác bằng việc giúp đỡ họ khi cần thiết, hoặc thể hiện lòng biết ơn và cảm kích đối với những lời khuyên, sự hỗ trợ, hay những đóng góp của người khác trong cuộc sống.
- Tôn trọng đạo đức và giữ lời hứa: Lòng hiếu thảo cũng đồng nghĩa với việc con cháu giữ lời hứa, tôn trọng đạo đức và giữ gìn danh dự cá nhân cũng như danh dự của gia đình. Đây là biểu hiện của tính trung thực, đạo đức và đáng tin cậy.
- Quan tâm và hỗ trợ trong hoàn cảnh khó khăn: Lòng hiếu thảo còn thể hiện qua việc con cháu quan tâm, chia sẻ, và hỗ trợ những người thân trong gia đình trong những hoàn cảnh khó khăn, bất hạnh, hoặc bệnh tật. Đây là sự nhân ái, sự chia sẻ và sự đồng cảm đối với người thân trong gia đình.
- Bảo vệ danh dự và danh tiếng của gia đình: Lòng hiếu thảo còn được thể hiện qua việc con cháu bảo vệ danh dự và danh tiếng của gia đình, không làm những việc gây hổ thẹn, làm tổn hại đến uy tín, danh tiếng của gia đình, và luôn cư xử đúng mực, đúng đắn trong các hoạt động của bản thân.
3. Tại sao chúng ta cần phải có lòng hiếu thảo?
Lòng hiếu thảo là một giá trị quan trọng trong xã hội vì nó mang lại nhiều lợi ích đối với cá nhân và cộng đồng. Dưới đây là một số lý do vì sao chúng ta cần phải có lòng hiếu thảo:
- Gìn giữ và tôn vinh giá trị gia đình: Lòng hiếu thảo giúp chúng ta gìn giữ và tôn vinh giá trị của gia đình. Gia đình là nền tảng của xã hội, và lòng hiếu thảo giúp chúng ta có sự kết nối và gắn bó tốt hơn với người thân trong gia đình, thể hiện sự quan tâm, lòng biết ơn, và tôn trọng đối với cha mẹ, ông bà, và tổ tiên.
- Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp: Lòng hiếu thảo giúp xây dựng và duy trì mối quan hệ tốt đẹp với người khác. Việc thể hiện lòng biết ơn, cảm kích, và tôn trọng đối với người khác giúp chúng ta tạo dựng một môi trường xã hội tích cực, tăng cường sự đoàn kết và hỗ trợ giữa các thành viên trong cộng đồng.
- Phát triển phẩm chất đạo đức: Lòng hiếu thảo giúp phát triển và củng cố các phẩm chất đạo đức như trung thực, đáng tin cậy, và tôn trọng người khác. Nó khuyến khích chúng ta giữ lời hứa, thực hiện đúng trách nhiệm, và đối xử công bằng với mọi người.
- Tạo ra một cộng đồng văn minh: Lòng hiếu thảo đóng góp vào việc xây dựng một cộng đồng văn minh, nơi mọi người sống hòa thuận, tôn trọng lẫn nhau, và hỗ trợ nhau. Nó góp phần vào việc giảm bớt xung đột, căng thẳng, và xây dựng một môi trường xã hội hòa bình, đoàn kết.
4. Thể hiện lòng hiếu thảo như thế nào trong xã hội hiện đại
Trong xã hội hiện đại, có nhiều cách để thể hiện lòng hiếu thảo:
- Thăm viếng và chăm sóc người già: Thăm viếng và chăm sóc cha mẹ, ông bà, hoặc những người già trong gia đình hoặc cộng đồng là một cách đơn giản nhưng rất ý nghĩa để thể hiện lòng hiếu thảo. Chúng ta có thể dành thời gian để nghe họ chia sẻ, giúp đỡ trong công việc nhà, hoặc đơn giản là tạo điều kiện cho họ có một cuộc sống thoải mái và hạnh phúc hơn.
- Tôn trọng và chăm sóc cha mẹ: Đối với những người đã có gia đình và cha mẹ, thể hiện lòng hiếu thảo bằng cách tôn trọng và chăm sóc họ là điều rất quan trọng. Chúng ta có thể dành thời gian bên cạnh cha mẹ, lắng nghe họ chia sẻ, tôn trọng quyết định của họ, và hỗ trợ trong công việc gia đình.
- Giúp đỡ người khác: Thể hiện lòng hiếu thảo bằng cách giúp đỡ người khác trong cộng đồng, nhất là những người có hoàn cảnh khó khăn. Đó có thể là việc giúp đỡ người vô gia cư, người cao tuổi, trẻ em mồ côi, người tàn tật, hay những người gặp khó khăn trong cuộc sống. Chúng ta có thể cống hiến thời gian, tài nguyên, hoặc kỹ năng của mình để giúp đỡ những người cần giúp đỡ.
- Tôn trọng đa dạng và khác biệt: Trong xã hội hiện đại, đa dạng và khác biệt về văn hóa, tôn giáo, giới tính, và dân tộc là điều thường gặp. Thể hiện lòng hiếu thảo bằng cách tôn trọng và đón nhận sự khác biệt của người khác, không phân biệt đối xử và không kỳ thị. Chúng ta có thể dành thời gian để hiểu về những nền văn hóa khác nhau, học hỏi và tôn trọng giá trị của họ.
5. Lòng hiếu thảo - phẩm chất đứng đầu, quy định hệ giá trị
Những giá trị văn hóa truyền thống của gia đình Việt Nam là gì. Trước hết, chúng ta cần hiểu xuất xứ của những giá trị đó. Giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam được hình thành trên cơ sở mô hình gia đình đa thế hệ, được xuất hiện và tồn tại trên nền tảng xã hội nông nghiệp, các gia đình nhiều thế hệ sống quần tụ "tam đại, tứ đại đồng đường". Từ đó, mối quan hệ, sự quản lý, giáo dục giữa các thế hệ rất chặt chẽ, giữ gìn khuôn phép "tôn ti trật tự"… Đồng thời, những giá trị đó chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng Khổng giáo và Nho giáo. Theo đó, gia đình được coi là nền tảng của xã hội. Việc “tề gia” là điều kiện, bước đệm để người quân tử có khả năng “trị quốc”, “bình thiên hạ”. Không quản lý gia đình tốt thì đừng nói đến năng lực quản lý xã hội.
Thứ hai, những giá trị truyền thống đó bao gồm những chuẩn mực đạo đức, tâm lý tình cảm, hành vi ứng xử được các gia đình gìn giữ và lưu truyền qua nhiều thế hệ, được các thành viên của gia đình tiếp thu, vận dụng và xem như là phương hướng cho hoạt động của mỗi cá nhân. Những giá trị nổi bật thể hiện trong các mối quan hệ, ứng xử trong gia đình, giữa ông bà, cha mẹ với con cháu, giữa anh chị với em, giữa vợ và chồng. Trong mối quan hệ vợ chồng, đề cao sự thủy chung, tôn trọng lẫn nhau (“tôn kính như tân”). Trong mối quan hệ giữa anh chị em, đề cao sự hòa thuận, nhường nhịn giúp đỡ lẫn nhau ("Anh em như chân với tay", "Anh em như khúc ruột trên khúc ruột dưới"). Trong mối quan hệ giữa cha mẹ, ông bà với con cháu đề cao sự hy sinh, tình thương, sự chăm sóc của ông bà, cha mẹ đối với con cháu và sự hiếu thảo của con cháu đối với các thế hệ cha ông ("Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, một lòng thờ mẹ, kính cha, mới là chữ hiếu, mới là đạo con").
Lòng hiếu thảo của con cháu đối với các thế hệ trước là phẩm chất đứng đầu trong hệ thống giá trị đạo đức của con người Việt Nam, cũng quy định toàn bộ hệ giá trị truyền thống của gia đình người Việt. Phẩm chất này thể hiện ở lòng biết ơn, sự kính trọng, lễ phép và sự chăm sóc tận tình cha mẹ, ông bà khi họ còn sống và thờ phụng khi họ đã chết. Chính vì vậy, thờ cúng tổ tiên là một biểu hiện của lòng hiếu thảo - giá trị cao nhất trong hệ giá trị đạo đức của con người Việt Nam. Không chỉ có vậy, thờ cúng tổ tiên còn góp phần bảo lưu nhiều giá trị khác của gia đình Việt Nam truyền thống.
6. Cơ sở giữ gìn, phát huy những giá trị truyền thống
Thực tế hiện nay, những giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam đang có thay đổi do tác động của nhiều yếu tố, có thể thấy rõ như: bên cạnh các mô hình gia đình “truyền thống” trước đây một vợ, một chồng, một cha (hoặc mẹ), tái hôn, vợ chồng không có con, cha mẹ nuôi, gia đình đa thế hệ... thì nay đã xuất hiện những gia đình không hôn thú, những người mẹ đơn thân, cha mẹ thuê người đẻ con… Từ mô hình gia đình nhiều thế hệ, nay dần chuyển sang mô hình gia đình ít thế hệ hơn, ít nhân khẩu hơn. Thay đổi về quy mô gia đình, điều kiện sống cũng kéo theo nhiều thay đổi trong mối quan hệ, ứng xử giữa các thế hệ trong gia đình với nhau, như: thiếu đi, kém đi sự quan tâm của con, cháu với cha mẹ, ông bà; sự quan tâm dạy dỗ con, cháu cũng khó khăn hơn... Thay đổi ấy mang yếu tố khách quan, để phù hợp với điều kiện, môi trường và phong cách sống, nhiều yếu tố thay đổi theo hướng tích cực, nhưng cũng có những yếu tố mang tính tiêu cực.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình. Các nội dung trong bộ tiêu chí này là sự kết hợp giữa những giá trị văn hóa truyền thống của gia đình Việt Nam và các chế định pháp luật được quy định trong các văn bản pháp luật, như: Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Người cao tuổi, Luật Trẻ em... thể hiện trong năm (5) nhóm tiêu chí: (1). Tiêu chí ứng xử chung giữa các thành viên, là: Tôn trọng, bình đẳng, yêu thương, chia sẻ. (2). Tiêu chí ứng xử của vợ, chồng, là: Chung thủy, nghĩa tình. (3). Tiêu chí ứng xử của cha mẹ với con, ông bà với cháu, là: Gương mẫu, yêu thương. (4). Tiêu chí ứng xử của con với cha mẹ, cháu với ông bà, là: Hiếu thảo, lễ phép. (5). Tiêu chí ứng xử của anh, chị, em với nhau, là: Hòa thuận, chia sẻ.
Đây là cơ sở giữ gìn, phát huy những giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam, các cơ quan, tổ chức, đoàn thể cần mở rộng, đẩy mạnh tuyên truyền thường xuyên trên các phương tiện đại chúng, đến hội viên của mình; nhà trường và từng gia đình, nhất là các cơ quan, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, cần cụ thể hóa các hình thức và đẩy mạnh tuyên truyền. Mỗi gia đình nên in nội dung bộ tiêu chí này như một bức tranh, bức trướng treo nơi phòng khách để nhắc nhở mọi người hàng ngày. Ngoài tuyên truyền, các cơ quan, tổ chức, hội đoàn thể nên cụ thể hóa, đưa các tiêu chí này thành các tiêu chuẩn thi đua, nhất là phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa...
Mỗi gia đình thực hiện tốt nội dung ứng xử trong gia đình trong bộ tiêu chí này chính là giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống gia đình, nhưng vẫn bảo đảm tự do cá nhân, góp phần xây quê hương đất nước giàu đẹp, văn minh.
-Nguồn: Tổng hợp-