ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI
Nam Bộ hôm nay là địa bàn thuộc lãnh thổ của các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa- Vũng Tàu thuộc miền Đông Nam Bộ và các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, Cần Thơ, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau thuộc miền Tây Nam Bộ và thành phố Hồ Chí Minh.
Phần đất được coi là Đông Nam Bộ có diện tích khoảng 26000km2 bao gồm phần đất đồi núi thấp (phần rìa của cao nguyên đất đỏ) và phần thềm phù sa cổ thuộc lưu vực sông Đồng Nai.
Phần đất được coi là Tây Nam Bộ có diện tích khoảng hơn 4000km2, chủ yếu là đồng bằng sông Cửu Long cùng một vài dãy núi thấp ở miền Tây An Giang, Kiên Giang.
Về vị trí địa lí, Nam Bộ là vùng đất nằm ở cuối cùng đất nước về phía Nam, trọn vẹn trong lưu vực của hai dòng sông Đồng Nai và Cửu Long, mà lại là phần hạ lưu của hai dòng sông. Trong khi đó, Nam Bộ lại gần biển Đông. Nói khác đi, đây là vùng đất cửa sông giáp biển. Vị thế địa- văn hoá này của Nam Bộ tạo cho nó có những đặc điểm văn hoá riêng.
Mặt khác, khí hậu của Nam Bộ khác hẳn khí hậu Bắc Bộ ở chỗ Nam Bộ chỉ có hai mùa: mùa khô và mùa mưa, sáu tháng mùa mưa, sáu tháng mùa khô tạo cho vòng quay thiên nhiên, mùa vụ có phần khác biệt so với đồng bằng Bắc Bộ.
Nói tới Nam Bộ là người ta nói đến cánh đồng tít tắp chân trời, một khung cảnh thiên nhiên khoáng đạt và vùng đất với chằng chịt kênh rạch. GS. Lê Bá Thảo đã tính Nam Bộ có tới 5700km đường kênh rạch. Sông nước ở hạ lưu chảy chậm, mang lượng phù sa lớn khác với sông nước miền Trung Bộ.
Tiến trình lịch sử của Nam Bộ có những nét khác biệt so với các địa phương khác. Nếu như Trung Bộ, Bắc Bộ là những vùng lịch sử phát triển liên tục thì Nam Bộ trong sự phát triển lịch sử lại trải qua sự đứt gãy. Sau sự biến mất của nền văn hoá Óc Eo vào cuối thế kỉ VI, vùng Nam Bộ rơi vào tình trạng hoang vu hiểm trở.
Vào thế kỉ thức VIII, Châu Đạt Quan, sứ thần của nhà Nguyên Mông đi ngang qua vùng đất này để bang giao với vương quốc Ăngco đã viết trong Chân Lạp phong thổ kí của ông như sau: “Bắt đầu từ vùng Chân Bồ (tức vùng Vũng Tàu đến Gò Công ngày nay) khắp nơi rậm rạp các dải rừng thấp xen kẽ với những dòng sông chảy dài hàng trăm dặm, các loại cây cổ thụ um tùm đan kết với các loại cây dây mây chằng chịt…\
Khắp nơi vang tiếng chim hót, tiếng thú kêu…
Trên các dải đồng hoang, hàng trăm ngàn trâu rừng tụ họp thành bầy, đàn…” Cuối thế kỉ XVIII, khi miêu tả vùng đồng bằng sông Cửu Long, Lê Quý Đôn còn viết trong Phủ biên tạp lục như sau: “Ở phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Lôi Lạp¸ cửa Đại, cửa Tiểu đi vào, toàn là rừng núi hàng ngàn dặm”. Chính vì vậy, khi cư dân Việt vào đây khai phá, họ đứng trước sự hoang vu hiểm trở của vùng đất chưa có dấu chân người như lời của một bài ca dao Nam Bộ: “ Chèo ghe sợ sấu cắn chưn. Xuống bưng sợ đỉa lên rừng sợ ma”.
Người Việt đến khai phá vùng đất này vào khoảng thế kỉ XVI. Nói cách khác, với người Việt, Nam Bộ là vùng đất mới. Năm 1679, hai võ tướng của nhà Minh là Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch, do nhà Minh sụp đổ, đã mang bộ tướng, gia quyến chạy sang Đàng Trong và được chúa Nguyễn cho vào ở đất Biên Hoà và Mỹ Tho ngày nay. Cuối thế kỉ XVII, Mạc Cửu đem người Trung Quốc vào lập nghiệp ở đất Hà Tiên hiện tại, rồi quy phục chúa Nguyễn.
Người Khơme có vẻ đến vùng này khai phá sớm hơn, nhưng “sớm nhất cũng chỉ từ khoảng thế kỉ XIII, tức sau khi vương quốc Ăngco tan vỡ, và nếu đúng như vậy thì người Khơme đến khai thác vùng này cũng chỉ sớm hơn người Việt 2-3 thế kỉ” (Văn hoá và phân vùng văn hoá Việt Nam, Ngô Đức Thịnh chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.1993, trang 285). Trong số những lưu dân mới đến vùng đồng bằng sông Cửu Long có cả người Chăm. Người Chăm đến vùng An Giang, Tây Ninh muộn hơn các tộc người trước đó, mãi đến đầu thế kỉ XIX, họ mới định cư tại đây.
Tại các vùng ven đồng bằng ở Đông Nam Bộ, phần cuối của dãy Trường Sơn đổ về phía Nam, những tộc người như Mạ, Xtiêng, Chơro, Mơnông cư trú ở các vùng đồi ở đây là cư dân bản địa.
Như vậy, đồng bằng Nam Bộ về mặt cư dân có các tộc người Việt, Khơme, Chăm, Hoa, Mạ, Xtiêng, Chơro, Mơnông. Nhìn diện mạo tộc người ở đây, chúng ta dễ dàng nhận ra được ít nhất là các khía cạnh sau:
– Các tộc người khai phá Nam Bộ như Việt, Khơme, Chăm, Hoa đều là lưu dân khai phá đất mới. Họ đã xa vùng đất cội nguồn cả về không gin lẫn thời gian.
– Sống cùng một địa bàn cư trú nhưng trên nét lớn các tộc người này sống với nhau một cách hoà hợp, thân ái, không có chiến tranh giữa các sắc tộc trong lịch sử.
– Tộc người chủ thể có vai trò quyết định sự phát triển của vùng đất là người Việt.
Với người Việt, như đã trình bày ở trên, họ là những lớp cư dân từ miền Bắc, miền Trung vốn có nguồn gốc xã hội khác nhau. Một số là các tù nhân, tội đồ bị nhà nước phong kiến đưa vào khai hoang ở các đồn điền tại đây. Một số người lại là giang hồ, dân nghèo đi biệt xứ tha phương, tìm đến đây như tìm một chân trời yên ả, dễ thở hơn so với vùng đất họ từng cư trú.
Một số người lại là những quan lại, binh lính được đưa vào đây để khai phá vùng đất mới rồi họ ở lại. Dù khởi nguyên, gốc gác họ thuộc nguồn nào, hành trang mà họ mang theo không chỉ có vật dụng, tư liệu sản xuất, vợ con…mà còn là vốn văn hoá ẩn trong tiềm thức. Vốn văn hoá này của vùng châu thổ Bắc Bộ, được làm giàu ở “khu năm rằng rặc khúc ruột miền Trung” và được đêm vào châu thổ sông Cửu Long.
Nét đáng lưu ý khi xem xét môi trường xã hội ở đây là làng Việt Nam Bộ có những nét khu biệt khi đặt trong tương quan với làng Việt Nam Bộ. Có thể thấy một cách sơ khởi những nét đặc thù ấy như sau: Trước hết tuổi đời làng Việt Nam Bộ còn ngắn, chừng 400 năm là cùng. Khác với làng Việt Bắc Bộ vốn có gốc gác là các công xã nông thôn, làng Việt Nam Bộ là làng khai phá.
Cư dân từ nhiều nguồn, nhiều phương trời hội tụ lại, vì thế làng Việt Nam Bộ sẽ không có chất kết dính chặt chẽ, quan hệ dòng họ sẽ khác với chính nó ở đồng bằng Bắc Bộ. Mặt khác, sự cư trú của cư dân Nam Bộ không thành một đơn vị biệt lập với rặng tre quanh làng như đồng bằng Bắc Bộ mà cư trú theo tuyến, theo kiểu toả tia dọc theo hai bên bờ kinh rạch, trục lộ giao thông.
Cuối cùng, quan hệ sở hữu ruộng đất trong làng Việt Nam Bộ có sự phân cực rất cao. Tỉ lệ giữa một số người có trong tay nhiều đất với đa số rất nhiều người có trong tay ít đất khác chênh lệch.
Tiến trình lịch sử Nam Bộ lại có đặc điểm riêng. Quá trình khai phá nơi này, từ cuối thế kỉ XVI cho đến năm 1862, thực ra so với lịch sử chưa được là bao. Làng xã, cũng như nhiều phương diện khác nhau chưa ổn định thì năm 1862 Nam Bộ lại là nơi đầu tiên chịu ảnh hưởng thống trị của thực dân Pháp với tư cách là vùng thuộc địa của người Pháp.
Cuộc tiếp xúc giữa hai nền văn hoá Việt- Pháp diễn ra ở Nam Bộ trong một hoàn cảnh đặc biệt. Nền vă hoá Pháp, vốn có nhiều nét khác biệt so với nền văn hoá Việt cũng như của các tộc người khác ở đây. Nam Bộ trở thành thuộc địa của Pháp tới năm 1945. Từ năm 1945 đến năm 1975, Nam Bộ bước vào cuộc kháng chiến chống ngoại xâm hết Pháp rồi lại Mĩ.
Sau năm 1975, đất nước thống nhất, Nam Bộ trở thành nơi đi trước về sau, như lời chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong sự nghiệp giải phóng dân tộc là như thế.
Với tất cả những đặc điểm có tính chất tiêu biểu về tự nhiên, lịch sử, xã hội như vậy, văn hoá Nam Bộ tất sẽ có những đặc điểm riêng.
ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA
Nói đến nền văn hoá Nam Bộ là nói đến văn hoá của các tộc người ở đây. Ngoại trừ các tộc người sống ở ven đồng bằng miền đông, các tộc người Việt, Khơme, Chăm, Hoa đều không phải là cư dân bản địa ở đây. Vì vậy, văn hoá của họ là văn hoá ở vùng đất mới.
Gần như là một quy luật, văn hoá của lưu dân vùng đất mới dù là của tộc người nào cũng đều là sự kết hợp giữa truyền thống văn hoá trong tiềm thức, trong dòng máu và điều kiện tự nhiên, lịch sử của vùng đất mới, nó phát triển trong điều kiện cách xa vùng đất cội nguồn cả về không gian và thời gian.
Nói khác đi là, những loài cây quen thuộc của vùng đất cũ được đem cấy trồng ở vùng đất mới. Cho nên, văn hoá ở vùng đất này, vừa có nét giống, lại vừa có nét khác với nền văn hoá ở vùng đất cội nguồn, của cùng một tộc người.
Đặc điểm thứ hai của vùng văn hoá Nam Bộ là quá trình giao lưu văn hoá diễn ra với một tốc độ mau lẹ. Thực ra, nếu xét một cách nghiêm ngặt về lịch sử, vùng đất này mới có tuổi đời chừng 300 năm. Thế nhưng trong một khoảng thời gian rất ngắn ấy, văn hoá Nam Bộ đã định hình rõ những đặc trưng vùng của mình. Nhiều nhân tố tạo ra điều này, nhưng không thể không thừa nhận tác động của quá trình tiếp biến văn hoá. Sự tiếp biến xảy ra trước hết giữa các tộc người cùng sinh sống trong một địa bàn.
Xin đơn cử người Việt cùng chung sống với người Khơme, người Việt đã tiếp thu chiếc bếp cà ràn dùng cho việc nấu ăn trên đất ẩm, dùng nồi gốm chrăng để kho cá, nấu cơm, dùng cà om để đựng nước uống, nước mắm. Hoặc nhiều món ăn của người Việt hiện tại thực ra là tiếp thu của người Khơme như món canh chua, món bún Bạc Liêu… Rõ nhất của quá trình tiếp biến này là hiện tượng sử dụng song ngữ, đa ngữ trong vùng. Vốn từ của các dân tộc được vay mượn như người Việt vay mượn vốn từ của người Hoa, Khơme và ngược lại. Thậm chí những câu nói, câu hát bình dân có sự pha tạp giữa các ngôn ngữ khác nhau.
Trong giai đoạn từ 1858 đến 1945 quá trình tiếp biến văn hoá còn diễn ra với tốc độ mau lẹ hơn trước. Sự giao lưu văn hoá Việt – Pháp dù là cưỡng bức nó vẫn xảy ra, chữ Quốc ngữ được ươm mầm và phát triển ở Nam Bộ. Báo chí bằng chữ Quốc ngữ cũng ra đời đầu tiên ở Nam Bộ, các kiểu dáng kiến trúc phương Tây được du nhập vào Sài Gòn.
Điều đáng chú ý là người Việt đã rất nhanh chóng tiếp thu những yếu tố văn hoá này. Chẳng hạn, ở cuối thế kỉ XIX, bằng tấm lòng yêu nước, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã không cho con mình học chữ tân trào – chữ Quốc ngữ thì ở nửa đầu XX, con gái nhà thơ, nữ sĩ Sương Nguyệt Anh cũng như nhiều tri thức Nam Bộ đã nhận ra giá trị của chữ Quốc ngữ và báo chí bằng chữ Quốc ngữ, nên đã làm chủ bút tờ báo Nữ giới chung, dùng nó làm tiếng chuông thức tỉnh nữ giới.
Chính vì sớm tiếp nhận văn hoá phương Tây, văn hoá mĩ, nên văn hoá Nam Bộ sẽ có những đặc điểm mà vùng khác không có. Nói cách khác, quá trình tiếp biến văn hoá diễn ra ở Nam Bộ với một tốc độ mau lẹ đã khiến cho vùng Nam Bộ có những đặc điểm này.
Mặt khác, Nam Bộ là vùng có nhiều tôn giáo tín ngưỡng cùng đan xen tồn tại. Nói khác đi là diện mạo tôn giáo tín ngưỡng Nam Bộ khá đa dạng và phức tạp. Ngoài các tôn giáo lớn ở ngoài du nhập vào như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, Nam Bộ còn là quê hương của tôn giáo tín ngưỡng địa phương như Cao đài, Hoà hảo, như các ông đạo, các tín ngưỡng dân gian như thờ Tổ tiên, Thổ thần, thờ Thàng hoàng, thờ Mẫu, thờ Neaktà, Arăk…
Bản thân từng tôn giáo ở Nam Bộ cũng khá đa dạng. Bên cạnh Phật giáo Tiểu thừa lại có Phật giáo Đại thừa. Với các tín ngưỡng dân gian, điều kiện lịch sử tự nhiên vùng đất mới đã khiến nó có những nét khác biệt , tuy rằng chúng đi ra từ một nguồn cội là đồng bằng Bắc Bộ. Xin đơn cử tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ đã có những nét khác biệt, điện thần phong phú hơn, nghi lễ thờ cúng cũng có sự khác biệt. Hiện tượng các ông đạo như đạo Ngồi, đạo Nằm, đạo đi Chậm, đạo Câm, đạo Dừa,… có thể coi như một hình tượng riêng biệt của tôn giáo tín ngưỡng Nam Bộ. Các ông đạo có thể có nguồn gốc khác nhau, có người có chút ít điền sản, có người lại không có tấc đất cắm dùi.
Biểu hiện đạo của từng ông không giống nhau, có ông chỉ ngồi, có ông chỉ nằm, có ông nói những câu khó hiểu,… nhưng các ông đều có sự thống nhất. Đó là từ cuộc sống bình thường của người nông dân, họ chuyển qua cuộc sống của các ông đạo với những biểu hiện không bình thường. Trong khi đó, những người nông dân xung quanh không lấy các biểu hiện không bình thường đó để đùa cợt hay báng bổ, ngược lại họ cho đó là bình thường. Một số nhà nghiên cứu đã đề cập đến hiện tượng này và họ cho rằng có một sự hẫng hụt tâm lí của người dân trong vùngvà một thứ chủ nghĩa tiên tri tồn tại ở Nam Bộ.
Khiá cạnh đáng lưu ý của tôn giáo tín ngưỡng Nam Bộ là sự phát triển của các phong trào tôn giáo cứu thế như Bửu Sơn Kì Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Thiên địa hội. Sự ra đời của các phong trào tôn giáo cứu thế này gắn liền với phong trào nổi dậy của người dân trong vùng chống phong kiến và đế quốc. Người dân đã gửi gắm lòng mong ước về sự xuất hiện của người cầm đầu, người lãnh đạo, có thể lãnh đạo họ chống áp bức, chống ngoại lai, chống Pháp. Vì vậy, tôn giáo tín ngường Nam Bộ có sự phức tạp hơn so với các vùng văn hoá khác. Chính điều này là đặc điểm thứ ba của vùng văn hoá Nam Bộ.
Trong ứng xử với thiên nhiên, các tộc người ở Nam Bộ cũng có những nét khác biệt so với vùng văn hoá khác. Dù là người Việt, Khơme, Chăm hay Hoa khi tới vùng này sinh sống, họ đều đứng trước một thiên nhiên vừa có phần lạ lẫm, vừa có phần huyền bí. Ứng xử với thiên nhiên của người Việt có thể coi là thái độ tiêu biểu nhất. Khác với đồng bằng sông Hồng, Nam Bộ dù có tới 4900km kênh đào, dù có hai dòng sông lớn vẫn không hề có một km đê nào. Dựa theo chế độ thuỷ triều, hệ thống thuỷ lợi đưa nước ngọt từ sông lớn vào sông nhỏ, vào kênh rạch rồi lên mương, lên vườn.
Nghĩa là một thái độ ứng xử hoàn toàn khác với Bắc Bộ. Thái độ ứng xử với thiên nhiên còn thể hiện qua việc ăn và mặc. PGS, TS. Ngô Đức Thịnh từng nhận xét: “món ăn Nam Bộ là sản phẩm độc đáo của vùng đất mới, là kết quả của sự giao tiếp với nhiều dân tộc, với các làng văn hoá Đông Tây”. Cội nguồn của vấn đề vẫn là một thái độ ứng xử với thiên nhiên.
Trước hết, cơ cấu bữa ăn người Việt Nam Bộ có sự thay đổi. Nếu ở đồng bằng Bắc Bộ mô hình bữa ăn đó là cơm + rau + cá thì ở Nam Bộ, tương quan giữa các thành phần có sự thay đổi. Nguồn tài nguyên thuỷ sản ở Nam Bộ đạt tới sự sung túc, phong phú hơn tất cả mọi vùng trên đất nước ta.
Vì thế, sử dụng nguồn đạm thuỷ sản trong bữa ăn người Việt có chú trọng hơn. Các món ăn chế biến từ thuỷ sản cũng nhiều về số lượng, phong phú về chất lượng so với các nơi khác. Và người Việt sử dụng các món ăn từ hải sản cũng nhiều hơn hơn so với cư dân Bắc Bộ.
Mặt khác, thiên hướng trong cơ cấu bữa ăn của người Việt là nghiêng về chọn món ăn có tác dụng giải nhiệt. Dừa và các món ăn được chế biến từ dừa chiếm vị thế quan trọng trong các món ăn chính là bắt nguồn từ khía cạnh này. Các loại nước giải khát như nước dừa, nước quả được ưa thích. Trà dùng để giải khát, chứ không để thưởng thức như ở Bắc Bộ. Vì vậy, sự thay đổi trong thái độ ứng xử với thiên nhiên của người Việt cũng như các tộc người khác ở đây là một đặc điểm của văn hoá vùng Nam Bộ.
Đặc điểm cuối cùng không thể không nhắc tới là sự phát triển của dòng văn hoá bác học, nhất là của người Việt ở đây.
Từ giữa thế kỉ XVIII, Gia Định đã có những trường học nổi tiếng như trường Hoà Hưng của nhà giáo ưu tú Võ Trường Toản. Người thầy giáo lớn của Nam Bộ đã đào tạo được nhiều người tài danh như Ngô Tòng Châu, Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh. Năm Gia Long thứ 12 (1813), khoa thi Hương đầu tiên được tổ chức tại Gia Định, năm 1862, khoa thi Hương cuối cùng được tổ chức tại An Giang. Như vậy, trong 49 năm, trường thi Gia Định có 22 khoa thi, tuyển chọn được 296 cử nhân, trong đó có những người ra kinh thi tiến sĩ và được lấy đỗ năm người.
Như vậy, đội ngũ tri thức nho học đã xuất hiện ở Nam Bộ. Một số văn đàn, thi xã đã xuất hiện như Tao đàn Chiêu Anh Các, Bình Dương thi xã, Bạch Mai thi xã. Nửa sau thế kỉ XIX, các tác giả Nam Bộ đã đóng góp quan trọng bằng văn chương vào cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Hồ Huân Nghiệp. Sau khi chiếm đóng Nam Kì, người Pháp bãi bỏ chế độ giáo dục bằng chữ Hán, mở các trường học Pháp Việt ở Sài Gòn, sau đó ở các tỉnh, các huyện khác.
Chữ Quốc ngữ, chữ Pháp thay thế chữ Nôm, chữ Hán trong nhà trường. Chữ Quốc ngữ rất nhanh chóng trở thành công cụ truyền tải văn hoá Nam Bộ thay cho chữ Nôm. Tầng lớp tri thức mới xuất hiện ở Nam Bộ, và chính họ thúc đẩy quá trình thay đổi chữ viết của văn hoá Nam Bộ, Việt Nam những năm này. Đó là việc dùng chữ Quốc ngữ để làm báo như Sương Nguyệt Anh (báo Nữ giới chung), Lê Hoàng Mưu (báo Lục tỉnh tân văn),…, dùng chữ Quốc ngữ để sưu tầm, nghiên cứu như Trương Vĩnh Ký, để sáng tác như Trương Duy Toàn, Hồ Biểu Chánh, Lê Hoàng Mưu, Nguyễn Văn Vĩnh… Có thể nói, văn học viết bằng chữ Quốc ngữ đã đi những bước ban đầu với những tác giả này.
Nói cách khác, phải ghi công cho tầng lớp tri thức mới này ở Nam Bộ. Hơn nữa, trong số họ không phải không có người có ý thức dân tộc, dùng văn chương báo chí như một thứ vũ khí để thức tỉnh dân tộc, đứng lên đấu tranh đòi giải phóng đất nước. Những bài báo của Sương Nguyệt Ánh trên báo Nữ giới chung, Nguyễn Dư Hoài in ở Nông cổ mín đàm chính là minh chứng cho điều ấy.
Cũng vào đầu thế kỉ XX, những trường trung cấp kĩ thuật, trường dạy nghề đã được người Pháp mở ở Sài Gòn. Khoảng những năm 40 của thế kỉ XX, người Pháp có tổ chức ở Sài Gòn một số cơ sở nghiên cứu khoa học và văn hoá, sau Hà Nội,ốài Gòn là một trung tâm lớn.
Từ năm 1954 đến năm 1975, Nam Bộ lại vào giai đoạn giao lưu văn hoá với văn hoá Mỹ. Trong 21 năm ấy, một số trường đại học, một số cơ sở nghiên cứu khoa học đã được xây dựng ở Sài Gòn và Cần Thơ. Tầng lớp tri thức trong giai đoạn này đã góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của đất nước.
Từ sau năm 1975, Nam Bộ lại là một vùng đang phát triển về mọi mặt, văn hoá phát triển khá nhanh với sự xuất hiện của hàng loạt các trường đại học, các cơ quan nghiên cứu,… Dòng văn hoá bác học ở Nam Bộ từ khi người Việt vào đây lập nghiệp cho đến nay quả là một nhân tố quan trọng trong tiến trình văn hoá của vùng và góp phần rất đáng kể vào diễn trình lịch sử của văn hoá Việt Nam.
Tóm lại, văn hoá Nam Bộ có nhiều nét riêng so với vùng khác. Vùng đất vừa có bề dày trong diễn trình lịch sử của văn hoá Việt Nam, lại là vùng đất giàu sức trẻ của cả các tộc người ở đây. Vị thế địa chính trị, địa văn hoá của Nam Bộ khiến nó trở thành trung tâm mà quá trình tiếp biến văn hoá diễn ra nhanh chóng cả về bề mặt lẫn bề sâu, cả về lượng và chất, tạo cho vùng văn hoá Nam Bộ có những đặc thù riêng và trở thành một gương mặt riêng khó lẫn trong diện mạo các vùng văn hoá ở nước ta.
Di sản văn hóa Óc Eo - Ba Thê, An Giang
Quần thể di tích này là một địa điểm khảo cổ học có phạm vi phân bố rộng, chứa đựng một khối lượng lớn di tồn văn hóa cổ của cư dân văn hóa Óc Eo xưa. Kết quả của các chương trình khai quật khảo cổ học cho thấy Óc Eo-Ba Thê mang tầm vóc của một đô thị cổ xưa, là một trong những thành phố ra đời sớm nhất ở Đông Nam Á. Nhiều loại hình di tích được phát hiện như kiến trúc đền thờ tôn giáo, khu cư trú, mộ táng, công xưởng thủ công, hào thành, kênh cổ… phân bố trên một phạm vi rộng khoảng 500ha. Cùng với đó là nhiều bộ sưu tập hiện vật có số lượng khổng lồ và đa dạng, phong phú về loại hình-chất liệu, phản ánh chân thực về đời sống của cư dân cổ xưa, đặc biệt là những hiện vật mang tính thương mại quốc tế tới từ nhiều quốc gia cổ đại phía tây. Theo đại diện của Ban Quản lý Di tích, những thành tựu của khảo cổ học đã minh chứng Óc Eo-Ba Thê có vị thế là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tôn giáo của Vương quốc Phù Nam. Giá trị của di sản văn hóa Óc Eo vô cùng to lớn, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú cho nền văn hóa Việt Nam. Trong thời gian tới, địa phương mong muốn tiếp tục nhận được sự hỗ trợ, đồng hành của các nhà khoa học, các nhà quản lý từ Trung ương tới địa phương và các tỉnh, thành phố để tiếp tục phát huy giá trị di sản văn hóa Óc Eo, đặc biệt là nỗ lực để đưa Khu di tích khảo cổ học Óc Eo - Ba Thê trở thành di sản văn hóa thế giới. Phát biểu khi tới khảo sát tại Khu di tích khảo cổ học Óc Eo, đồng chí Trần Thanh Lâm nhấn mạnh, khu di tích khảo cổ Óc Eo -Ba Thê là quần thể di tích quốc gia đặc biệt- nơi luôn có sức hút đối với các nhà khoa học trong và ngoài nước khi nghiên cứu về lịch sử - văn hóa của vùng đồng bằng hạ lưu sông Mêkông cũng như với lịch sử Đông Nam Á cổ đại. Với giá trị to lớn về mặt khảo cổ học, về lịch sử, văn hóa, An Giang cần có kế hoạch cũng như các giải pháp tổng thể trong quản lý, bảo tồn, tôn tạo để phát huy giá trị di tích Óc Eo-Ba Thê đặc biệt là hướng đến một tầm vóc di sản văn hóa của nhân loại. Địa phương cũng cần tăng cường công tác tuyên truyền để người dân hiểu rõ được những giá trị của di sản văn hóa Óc Eo, hiểu thêm các quy định trong Luật Di sản văn hóa quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với di sản văn hóa, để bà con tích cực tham gia, hỗ trợ, tạo điều kiện cho đơn vị quản lý trong việc bảo vệ, phát huy giá trị di tích, nhất là hiến tặng hiện vật văn hóa Óc Eo. Bên cạnh đó, địa phương cũng nghiên cứu để kết nối với các điểm đến quan trọng trong tỉnh và vùng đồng bằng Sông Cửu Long để hình thành các sản phẩm du lịch đặc thù về lịch sử-văn hóa; làm thế nào để vừa bảo tồn di sản của tiền nhân, vừa biến nó thành những điều kiện phát triển kinh tế bền vững.
Trong kho tàng âm nhạc truyền thống của dân tộc Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nghệ thuật Chầm riêng Chà Pây đây là một loại hình nghệ thuật trình diễn độc xướng, đàn và hát dân gian, có nguồn gốc từ rất lâu đời từng được phát triển mạnh mẽ trong cộng đồng người Khmer ở Trà Vinh vào những thập niên đầu thế kỷ XX, nhưng hiện nay, Nghệ thuật Chầm riêng Chà pây đang bị mai một dần. Theo tiếng Khmer, "Chầm riêng" có nghĩa là hát, "Chà pây" là tên gọi của một loại đàn, được dùng để đệm sau mỗi đoạn hát. Cả cụm từ “Chầm riêng Chà Pây” có nghĩa là "đàn ca" hay "ca kể chuyện". Ngoài ra, loại nhạc cụ này còn được dùng trong nhạc lễ, nhạc cưới và cúng tế thần (gọi là "Chà pây đơn vênh") hoặc được sử dụng để đệm cho hát múa “À day” đối đáp (song ca nam nữ đối đáp). Khi chơi, nghệ nhân thường dựa vào các tích truyện để ứng tác thành những đoạn thơ, chủ yếu thể thơ 4 câu, mỗi câu 7 chữ để hát. Cũng có khi Chầm riêng Chà pây không dựa vào tích truyện nào mà chỉ hát lên những khổ thơ do người nghệ nhân ứng tác tại chỗ, mô tả hiện thực cuộc sống hay thể hiện tâm trạng, mong ước của con người, mang nhiều ý nghĩa giáo dục. Chính vì vậy, ngoài một số bài bản cơ bản, nghệ thuật này phát triển rất đa dạng về nội dung và phong cách thể hiện, có thể trình diễn ở rất nhiều không gian khác nhau, ở mọi nơi, mọi lúc.
Một số bài bản cơ bản gồm: Phát chây, Phát chây cớt, Som phôn, Som phôn cớt, Ang kô reach chơn prây srây và Ang kô reach chơn prây rốs. Chà pây là một loại nhạc khí có nguồn gốc lâu đời từ Ấn Độ. Hộp đàn có nhiều kiểu dáng: thang cân, tứ giác, hình lá bồ đề, hình trái cây, gần giống đàn đáy của người Việt, nhưng thùng đàn to hơn và cần đàn dài hơn, có khi tới 120cm, với 12 phím đàn theo hệ thang âm ngũ cung. Cấu tạo của cần đàn dài như vậy đòi hỏi người chơi phải có kỹ thuật điêu luyện. Chà pây có âm trầm, ấm, sâu lắng, hợp với thể loại âm nhạc tự sự, tình cảm êm đềm.
Trước khi biểu diễn, nghệ nhân Chầm riêng Chà pây thực hiện nghi thức cúng Tổ. Trong nhà nghệ nhân không lập ban thờ tổ nghề, nhưng trước khi thực hành, nghệ nhân bao giờ cũng theo truyền thống, làm lễ cúng Tổ nghề - người đã sáng tạo ra loại hình nghệ thuật này và đã truyền dạy lại cho mình để tỏ lòng biết ơn và cầu linh hồn các Tổ nghề phù hộ cho minh trình diễn tốt. Lễ cúng thực hiện trong nhà, gồm 03 mâm để đầy các vật cúng gồm: cây bông, một đoạn thân cây chuối để trầu cau, đàn cây, nhang, một mảnh vải trắng, 01 cuộn chỉ đỏ, 01 chén gạo, 01 nải chuối, 01 đĩa thịt heo luộc, 01 đĩa trà, bánh, trái cây, bình trà và 02 chai rượu.
Chầm riêng Chà pây là loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian độc đáo của người Khmer ở Trà Vinh, thể hiện sự sáng tạo của con người và có khả năng thích ứng với hoàn cảnh đương đại. Tuy nhiên, do đặc tính truyền miệng mà số lượng nghệ nhân Chầm riêng Chà pây từ trước tới nay không nhiều. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, thế hệ trẻ hiện nay có nhiều loại hình vui chơi, giải trí để lựa chọn, đôi khi có tư tưởng coi thường hoặc không thích học/thưởng thức nghệ thuật truyền thống, nhất là với loại hình nghệ thuật đòi hỏi cao như Chầm riêng Chà pây. Những nguyên nhân trên dẫn đến nguy cơ mai một cao, thậm chí mất hẳn loại hình nghệ thuật này - Theo kết quả điều tra gần đây của Bảo tàng Trà Vinh, trong tỉnh hiện chỉ còn duy nhất nghệ nhân Thạch Mâu (sinh năm 1934) ở ấp Chông Bát, xã Tân Hiệp, huyện Trà Cú là người nắm giữ và có khả năng trình diễn, ứng tác trong Nghệ thuật Chầm riêng Chà pây và một người con trai của ông có theo học nhưng trình độ còn khá hạn chế. Để bảo tồn và phát huy giá trị của loại hình nghệ thuật này, các cơ quan chức năng ở địa phương đã có kế hoạch phối hợp với ngành giáo dục ở địa phương tăng cường công tác giáo dục thẩm mỹ và khuyến khích tình yêu nghệ thuật dân tộc nói chung, Nghệ thuật Chầm riêng Chà pây nói riêng cho học sinh trong trường phổ thông ở tỉnh Trà Vinh; có kế hoạch đầu tư kinh phí tuyển chọn những người có năng khiếu để nghệ nhân truyền dạy; tổ chức những cuộc thi tìm hiểu về loại hình nghệ thuật độc đáo này để nâng cao hiểu biết và ý thức trách nhiệm trong việc duy trì, bảo tồn và phát huy giá trị...
Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc sắc của loại hình nghệ thuật này, năm 2013, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã quyết định đưa Nghệ thuật Chầm riêng Chà pây vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, loại hình Nghệ thuật trình diễn dân gian.
Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ là loại hình nghệ thuật dân gian đặc trưng của Việt Nam, được hình thành và phát triển từ cuối thế kỉ 19. Đờn ca tài tử Nam bộ xuất xứ từ nhạc lễ, nhã nhạc cung đình Huế và văn học dân gian; chữ “tài tử” có nghĩa là người chơi nhạc có biệt tài, giỏi về cổ nhạc; lúc đầu chỉ có đờn, sau xuất hiện thêm hình thức ca nên gọi là đờn ca. Đờn ca tài tử là loại hình diễn tấu có ban nhạc chơi 4 loại nhạc cụ (gọi là tứ tuyệt), gồm: đàn kìm, đàn cò, đàn tranh và đàn bầu; sau này có cách tân bằng cách thay thế đàn bầu (độc huyền cầm) bằng cây guitar phím lõm. Những người tham gia đờn ca tài tử thường là bạn bè, chòm xóm tập trung lại để cùng chia sẻ thú vui tao nhã, nên thường không câu nệ về trang phục.
Đờn ca tài tử đã ăn sâu vào máu thịt của người dân Nam bộ. Tiếng đờn, tiếng ca được cất lên từ các sân khấu khác nhau, trong các lễ hội linh đình, trang trọng đến những không gian bình dân, dưới những gốc dừa hay trên những con đò… một cách rất ngẫu hứng. Tiếng đàn thể hiện tính cách, tâm tư của con người và thấm sâu vào cốt cách của nông dân Nam bộ.
Trong Đờn ca tài tử ta thấy tình yêu quê hương, đất nước; tình yêu đôi lứa; tình phụ tử, mẫu tử thiêng liêng; tình bạn tri kỷ gắn bó; tình anh, em máu mủ ruột rà…; giữa ca từ và nhạc điệu, giữa người ca và người đờn như hòa quyện vào nhau.
Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ đã đáp ứng được các tiêu chí của UNESCO như: được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giáo dục chính thức và không chính thức tại khắp 21 tỉnh phía Nam; liên tục được tái tạo thông qua trao đổi văn hóa với các dân tộc khác nhau, thể hiện sự hoà hợp và tôn trọng lẫn nhau giữa các dân tộc.
Sau khi được UNESCO công nhận, loại hình nghệ thuật này tiếp tục lan tỏa trong đời sống đương đại. Các địa phương ở Nam Bộ từ cấp xã, phường, thị trấn đến cấp tỉnh, thành đang có nhiều cố gắng để bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Nhiều câu lạc bộ, nhóm sinh hoạt đờn ca tài tử được thành lập. Các cuộc thi, liên hoan đờn ca tài tử thường xuyên được tổ chức. Festival Đờn ca tài tử hiện được tổ chức luân phiên ở 21 tỉnh thành phía Nam, là sân chơi cho các tỉnh, thành giao lưu, trao đổi và học hỏi. Đờn ca tài tử còn gắn liền với phát triển du lịch, hầu hết các khu du lịch, khu sinh thái… đều có sinh hoạt Đờn ca tài tử.
Ở Nam Bộ có những gia đình không những 1 thế hệ mà đến 3, 4 thế hệ đều tham gia sinh hoạt thể loại âm nhạc này, đây là nơi nuôi dưỡng bộ môn nghệ thuật Đờn ca tài tử từ đời này sang đời khác.
Năm 2016, để góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bộ tem “Đờn ca tài tử - di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại” được phát hành, giới thiệu nét đặc trưng văn hóa dân gian vùng sông nước Tây Nam bộ.
Cùng với Chol Chnam Thmay, Sene Dolta, Ok Om Bok là một trong ba lễ hội truyền thống của đồng bào Khmer, được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Đây được coi là lễ hội mang đậm màu sắc văn hóa của đồng bào Khmer, được tiến hành ở các phum sóc, trong từng ngôi chùa và hiện nay đã mở rộng trên quy mô toàn tỉnh.
Lễ hội Ok Om Bok còn có tên khác là lễ hội Cúng Trăng, được tiến hành vào ngày 14 và 15, rằm tháng Mười âm lịch. Theo quan niệm của người Khmer, Mặt Trăng là vị thần có quyền năng chi phối mùa màng trong canh tác nông nghiệp. Sau khi thu hoạch những sản phẩm đầu tiên của mùa vụ, người ta tiến hành nghi thức cúng tế để tạ ơn Thần Mặt Trăng đã cho một vụ mùa bội thu, giúp cho phum sóc có cuộc sống ấm no. Chính vì thế, Lễ hội Ok Om Bok được xem là điểm nhất độc đáo trong phát triển du lịch văn hóa của tỉnh Trà Vinh.
Năm nay, Lễ hội Ok Om Bok được tỉnh tổ chức với quy mô cấp khu vực. Tuần lễ Văn hóa, Du lịch - Liên hoan ẩm thực Nam Bộ, gắn với Lễ hội Ok Om Bok năm 2022 sẽ diễn ra từ trong 7 ngày (từ ngày 2/11 đến ngày 8/11/2022) với nhiều hoạt động nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, quảng bá, giới thiệu đến bạn bè trong và ngoài tỉnh về tiềm năng, lợi thế của tỉnh, hướng tới thu hút đầu tư trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là văn hóa - du lịch.
Điểm nhấn thu hút đông đảo khách du lịch trong và ngoài tỉnh về tham dự là ngày hội Đua ghe ngo. Năm nay, trong hai ngày 13 – 14 tháng Mười âm lịch, tại sông Long Bình chảy qua trung tâm thành phố Trà Vinh, sẽ diễn ra lễ hội Đua ghe ngo. Từ trưa, khi nước thủy triều lên cao, cuộc đua ghe ngo chính thức bắt đầu. Ghe ngo là phương tiện di chuyển truyền thống trên sông nước của người dân Khmer Nam bộ, có dạng hình rắn thần Nagar, trên mỗi ghe ngo có từ 40 – 50 tay bơi chuyên nghiệp đến từ các địa phương sẽ cùng nhau tham gia tranh tài. Trong nền nhạc ngũ âm truyền thống, là tiếng hò reo cổ vũ của hàng chục ngàn người dự hội vây kín hai bên bờ sông Long Bình. Đua ghe ngo không chỉ là môn thể thao sôi động phục vụ hàng chục ngàn người xem, mà đây còn là nghi thức truyền thống tạ ơn Thần Nước sau chu kỳ gieo cấy – thu hoạch, vừa tiễn đưa Thần Nước về với biển cả ở thời điểm mùa mưa kết thúc, chuyển sang mùa khô trong chu kỳ một năm.
Bên cạnh đó, trong suốt thời gian diễn ra lễ hội, tại khu di tích danh thắng Ao Bà Om là địa điểm thu hút đông đảo người dân các tỉnh, thành trong cả nước về tham quan thắng cảnh và du lịch, du khách được trải nghiệm các hoạt động mang đậm màu sắc văn hóa của cư dân địa phương.
Sau một chuỗi các hoạt động hấp dẫn của phần hội, Nghi thức Lễ Cúng trăng chính thức bắt đầu khi màn đêm buông xuống, cũng là lúc Mặt trăng vừa lên cao, một số vị bô lão được cử ra thay mặt cho 143 ngôi chùa Phật giáo Nam tông và toàn thể đồng bào Khmer trong tỉnh tiến hành nghi thức Cúng Trăng.
Cúng trăng là một lễ hội dân gian truyền thống của đồng bào Khmer Nam Bộ, phản ánh, lưu giữ và truyền thừa những giá trị tích cực của tín ngưỡng văn hóa truyền thống gắn chặt cuộc đời mỗi con người, mỗi gia đình và cả phum sóc với ruộng đồng, mùa vụ và thiên nhiên. Chính vì thế, vật phẩm được bày cúng trang trọng để dâng lên tại ơn các vị Thần Mặt Trăng, Thần Nước, Thần Đất Đai,.. đều là những sản phẩm nông nghiệp vừa thu hoạch của bà con phum sóc như khoai, chuối, dừa, mía... Đặc biệt, cốm dẹp được coi là vật phẩm thiêng liêng nhất không thể thiếu trong ngày Lễ Cúng trăng. Bởi, theo quan niệm của người Khmer: “Ok Om Bok” có nghĩa là “Đút cốm dẹp bằng cách bốc bằng tay”, nên lễ hội này còn có tên gọi khác là lễ hội Đút cốm dẹp.
Sau khi nghi thức cúng trăng kết thúc là đến lúc người dân được hòa mình vào không khí nhộn nhịp của hội thả hoa đăng. Những chiếc hoa đăng lớn được đưa lên xe, phía trước có đội múa và dàn nhạc ngũ âm mở đường, phía sau xe là sư sãi và bà con phum sóc cầm đèn nhỏ đi bộ diễu hành dọc theo bốn bờ Ao Bà Om, hình thành một đám rước tráng lệ với những âm thanh, màu sắc sặc sỡ, tươi vui làm náo nức lòng người. Kết thúc diễu hành, toàn bộ hoa đăng đều được thả xuống mặt nước Ao Bà Om, tạo ra không khí lung linh, huyền ảo suốt đêm lễ hội. Nghi lễ kết thúc, đồng bào Khmer và du khách sẽ được thưởng thức món ăn truyền thống cốm dẹp và nhiều đặc sản nổi tiếng xứ Trà, họ cùng nhau hát múa mừng lễ hội Ok Om Bok, mừng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc.
Từ một lễ hội của đồng bào dân tộc Khmer, ngày nay, Ok Om Bok đã trở thành một hoạt động văn hóa chung của cộng đồng, góp phần bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống và củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Với các giá trị văn hóa đặc sắc đó, Lễ hội Ok Om Bok của đồng bào Khmer Nam bộ, trong đó có lễ hội Ok Om Bok Trà Vinh đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia.
Lễ hội Ok Om Bok ngày nay đã trở thành một lễ hội mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong đời sống tinh thần của đồng bào Khmer ở các tỉnh Nam bộ. Việc Lễ hội Ok Om Bok được duy trì hằng năm đã góp phần bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hóa truyền thống của đồng bào Khmer và quảng bá bản sắc ấy với du khách gần xa. Đây còn là cơ hội để tỉnh quảng bá và giới thiệu hình ảnh về vùng đất và con người Trà Vinh đến với bạn bè, du khách trong và ngoài nước.
Huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp không chỉ được biết đến như là quê hương của những cánh đồng lúa mênh mông, những vườn cây trù phú, mà nơi đây còn là “cái nôi” của nghề dệt chiếu truyền thống nổi tiếng khắp nơi – làng chiếu Định Yên. Năm 2013, nghề dệt chiếu ở xã Định Yên, huyện Lấp Vò, Đồng Tháp được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
Du lịch Đồng Tháp, muốn ghé thăm làng chiếu bạn có thể dễ dàng tìm đường đến xã Định Yên. Huyện Lấp Vò, gối đầu lên Bắc Vàm Cống giáp với tỉnh An Giang; cách TP Sa Đéc (trung tâm tỉnh Đồng Tháp) khoảng 40 km dọc theo quốc lộ 80. Từ cổng chào phía quốc lộ 80, bạn hỏi đường chạy hướng vào xã Định Yên chừng 2 km là đã thấy những bó lác nhuộm đủ màu đỏ, xanh, vàng, tím… được phơi lề đường.
Làng chiếu Định Yên được hình thành cách đây hàng trăm năm. Nằm cạnh sông Hậu, vùng đất này có nhiều cồn, bãi bồi để phát triển tốt các loại nguyên liệu là cây bố và lác để làm ra sản phẩm. Những người bản địa cố cựu cũng không biết làng nghề có tự bao giờ.
Theo các nhà nghiên cứu thì cư dân làng chiếu Định Yên có gốc gác từ đồng bằng ven biển Bắc Bộ (Thái Bình, Nam Định). Khi vào phương Nam, lưu dân đã mang theo nghề dệt chiếu truyền thống. Hiện nay nghề dệt chiếu tập trung chủ yếu ở 02 xã Định An và Định Yên, nhất là Định Yên – nơi mà 70% hộ dân theo nghề làm chiếu, tập trung ở các ấp: An Lợi A, An Lợi B, An Khương và An Bình.
Qua bàn tay khéo léo của mình, hàng năm các hộ dân nơi đây đã sản xuất ra hàng triệu sản phẩm chiếu có hoa văn rực rỡ, mịn màng và bền chắc được thị trường trong và ngoài nước ưa chuộng. Đến làng chiếu, du khách sẽ ngỡ ngàng và thích thú với không khí lao động nhộn nhịp đầy sinh khí của người dân nơi đây như cuốn hút, níu kéo bước chân du khách. Nơi này lúc nào cũng đầy màu sắc, từ trong nhà ra ngoài ngõ với những sợi lác xanh, đỏ, vàng, trắng, tím v.v.. cùng với tiếng cười nói xôn xao của những chàng trai, cô gái hoà với tiếng cộc cạch của chiếc máy dệt vang xa từ đầu ngõ.
Bạn sẽ cảm nhận được sự ấm áp, gần gũi của những người dân nơi đây, ở họ luôn toả ra sự cởi mở với niềm say mê công việc truyền thống mà cha ông bao đời đã truyền lại. Nghề dệt chiếu đòi hỏi sự điêu luyện, tinh xảo và những bí quyết riêng để tạo ra những sản phẩm chiếu bền, đẹp. Để hoàn thành một chiếc chiếu với hình ảnh, màu sắc sắc sảo và ít phai, phải mất khá nhiều công đoạn. Theo một người làm lâu năm tại ấp An Bình, để làm được chiếu đòi hỏi người thợ phải lựa các sợi lác đều, không to quá cũng không được nhuyễn quá. Những sợi lác mang đi phơi nắng từ 30 phút đến một tiếng trước khi nhuộm đủ loại màu xanh, đỏ, tím, vàng… trong nước đun sôi. Để màu nhuộm chính xác, khó phai thì phải nấu phẩm màu lên, nhúng từng chùm lác nhỏ vào, tùy theo độ đậm nhạt mà có thể nhúng 2-3 lần trở lên. Sau đó, lác tiếp tục được mang phơi nắng thêm một buổi rồi mới mang vào dệt. Khi dệt xong, người thợ mang chiếu đi cắt bìa, may vải và phơi nắng. Trong các loại chiếu thì chiếu hoa và chiếu vảy ốc là khó dệt nhất bởi nó đòi hỏi sự phân bố, bắt chữ sao cho đẹp và tinh xảo.
Để dệt một chiếc thường cần có 02 người, ngày nay, với những loại máy dệt hiện đại, chỉ cần 01 người để xỏ lác là đủ. Chiếu Định Yên gồm có các loại chiếu trắng, chiếu in hình hoa văn, chiếu con cò, chiếu cưới trang trí lộng lẫy. Sản phẩm chiếu đủ loại, đa dạng về màu sắc, hoa văn; từ chiếu trắng thường đến chiếu bông (vảy ốc, trà niên, con cờ…) với giá cả phải chăng, phù hợp với mọi đối tượng tiêu dùng. Trước đây, làng chiếu Định Yên được biết đến nhiều nhất là Chợ chiếu (chợ ma), do chợ nhóm vào ban đêm, kéo dài khoảng 02 giờ đồng hồ rồi tan chợ. Thời điểm bắt đầu nhóm chợ không ổn định. Giờ họp chợ đêm sau được quy định ở đêm trước và thay đổi luôn nhưng người mua, kẻ bán bao giờ cũng nắm được giờ giấc.
Đây là một nét văn hoá truyền thống đặc sắc của người Định Yên, tuy là chợ nhưng chợ chiếu không giống với bất kỳ loại chợ nào khác trên cả nước. Lý giải nguyên nhân chợ chiếu chỉ bán ban đêm, ông Trần Văn Nghiệp, ngụ ấp An Lợi A có hơn 50 năm trong nghề cho biết. Trước đây do ban ngày bà con bận bịu việc đồng áng hoặc miệt mài dệt chiếu nên đến tối mới rảnh rỗi và có chiếu bán.
Thương thuyền ghe lái cũng ban ngày buôn bán nơi khác, tối về buông sào neo lại để mua. Do vậy, chợ chiếu thường họp vào ban đêm trong làn khói đuốc mỏng manh và hơi gió lành lạnh trên sông. Trong sân chùa cổ kính, dưới ánh đèn dầu leo lắt, những người họp chợ đi qua đi lại, lặng lẽ mờ ảo như những bóng ma… Vì thế, chợ chiếu Định Yên còn được gọi là chợ ma hay chợ âm phủ.
Tuy nhiên, hiện nay, theo nhu cầu của thị trường, việc dệt chiếu và hình thức mua bán đã có phần thay đổi. Đến Định Yên hôm nay, chúng ta sẽ không còn thấy không khí nhộn nhịp của “chợ ma” ngày nào, nguyên nhân chủ yếu là do hệ thống giao thông nông thôn đã được đầu tư khá hoàn chỉnh, các phương tiện chuyên chở có thể đi sâu vào tận thôn, xóm để thu mua trực tiếp sản phẩm một cách nhanh chóng và tiện lợi. Nghề dệt chiếu tạo ra nguồn thu nhập chính cho nhiều hộ gia đình, giải quyết việc làm, giúp ổn định về mặt kinh tế, góp phần nâng cao đời sống của bà con nông thôn. Tuy thăng trầm, vất vả nhưng người dân Định Yên với nghề cha truyền con nối vẫn một lòng nuôi dưỡng, theo đuổi để nghề dệt chiếu. Thử một lần về thăm làng chiếu Định Yên, chiêm ngưỡng sắc màu rực rỡ nơi sông nước này nhé!