Đắk Lắk là nơi có đông dân tộc sinh sống nhất với 47 dân tộc gồm người Kinh, Ê Đê, M'Nông, Gia Rai, Ba Na, Xơ Đăng, Chăm, Lào Khmer,... Trong đó, dân tộc Kinh chiếm số lượng đông nhất, 70%. Các dân tộc thiểu số như Ê Đê, M'nông, Thái, Tày, Nùng... chiếm gần 30%.
Đặc biệt là văn hoá truyền thống của các dân tộc Ê Đê, M'Nông, Gia Rai… với những lễ hội cồng chiêng, đâm trâu, đua voi mùa xuân; kiến trúc nhà sàn, nhà rông; các nhạc cụ lâu đời nổi tiếng như các bộ cồng chiêng, đàn đá, đàn T'rưng; các bản trường ca Tây Nguyên... là những sản phẩm văn hoá vật thể và phi vật thể quý giá, trong đó “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” đã được tổ chức UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Tất cả các truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc tạo nên sự đa dạng, phong phú về văn hóa của Đắk Lắk.
Ngày nay, đến Đắk Lắk hầu như ai cũng ngạc nhiên trước một hiện thực văn hóa dân gian vô cùng sống động, phong phú, đa dạng của các dân tộc sống trên cao nguyên này. Các nền văn hóa dân gian ấy thống nhất trong sự đa dạng và đa dạng trong sự thống nhất, tạo thành một bức tranh văn hóa dân gian Đắk Lắk với những mảng màu khác nhau, nhưng lại kết hợp khá hài hòa tạo nên một nét độc đáo, tinh tế của một phong cách Đắk Lắk, để rồi hình thành ba dòng văn hóa giàu bản sắc: Văn hóa bản địa các dân tộc bản địa Tây Nguyên - Trường Sơn; văn hóa của các dân tộc thiểu số phía Bắc; văn hóa dân tộc Kinh (người Việt), mang đủ sắc thái ba miền Bắc - Trung - Nam.
Cả ba dòng văn hóa ấy tiêu biểu cho nền văn hóa Việt Nam đang hiện diện và ngày càng phát triển, giao thoa, đan xen, bồi đắp cho nhau, tạo thành nền văn hóa Đắk Lắk phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc. Do đó, văn hóa cộng đồng ở Đắk Lắk là sự hội tụ của văn hóa nhà dài (Ê Đê, M'nông) với văn hóa nhà rông (Jrai, Ba Na, Xê Đăng) cùng nền văn hóa nhà sàn của các dân tộc thiểu số phía Bắc và văn hóa đình làng của người Việt. Nơi đây vừa có luật tục buôn, vừa có hương ước làng, bản, thể hiện sự gắn bó cộng đồng trong việc xây dựng và phát triển đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội, gìn giữ bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc.
Bên cạnh nền văn hóa cộng đồng là nền văn hóa cồng chiêng khá độc đáo của các dân tộc thiểu số Đắk Lắk, với sự hội nhập của dàn chiêng K'nah (Ê Đê), Goong la, Goong pế, Goong lú (M'nông), Arap (Xê Đăng, Jrai) và các dàn chiêng Vân Kiều, Mường, Thái... rộn rã trầm hùng, ngân vang, tạo thành một bản hợp xướng giàu âm điệu của núi rừng Tây Nguyên. Đặc biệt, ở Đắk Lắk, cồng chiêng của các dân tộc Tây Nguyên đã được thiêng hóa. Nó là công cụ duy nhất để con người thông tin với các vị thần linh trong trời đất, là âm nhạc không thể thiếu được trong đời sống cộng đồng, trong sinh hoạt văn hóa, trong nghi lễ và lễ hội của các buôn làng.
Nhằm bảo tồn, phát huy giá trị nền văn hóa cồng chiêng, năm 1993, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTT&DL) Đắk Lắk đã tổ chức tổng điều tra cồng chiêng trong toàn tỉnh, bước đầu thống kê được 5.397 bộ cồng chiêng; đến nay chỉ còn gần 4.000 bộ cồng chiêng khác nhau. Đồng thời, hằng năm Sở VHTT&DL tỉnh đã tổ chức ngày hội văn hóa cồng chiêng từ tỉnh đến cơ sở, qua đó nâng cao lòng tự hào dân tộc và động viên đồng bào tham gia gìn giữ nền văn hóa cồng chiêng độc đáo của dân tộc mình. Đặc biệt, ngày 25-11-2005, tổ chức UNESCO đã công nhận Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là "Kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại", càng làm cho văn hóa cồng chiêng của Đắk Lắk, Tây Nguyên được tôn vinh và có giá trị trong cuộc sống cộng đồng.
Ngoài ra, còn có thể kể đến hàng trăm làn điệu dân ca (lời nói vần) và trên 100 loại nhạc cụ khác nhau. Mỗi loại nhạc cụ đều có những nét độc đáo, hấp dẫn riêng. Chính vì vậy mà âm nhạc của các dân tộc thiểu số Đắk Lắk cũng như Tây Nguyên rất phong phú, đa dạng, giàu bản sắc, có khả năng phát triển thâm nhập đời sống văn hóa đương đại và rất dễ dàng lôi cuốn được các tầng lớp nhân dân yêu thích nghệ thuật âm nhạc dân tộc.
Đến Đắk Lắk, chúng ta sẽ được tham dự các nghi lễ nông nghiệp (ăn cơm mới, cúng hồn lúa, cầu mưa, cúng bến nước, ăn trâu - mừng được mùa...), nghi lễ vòng đời người (đặt tên, thổi lỗ tai, trưởng thành, cúng sức khỏe, kết nghĩa anh em, lễ cưới, lễ bỏ mả...) khá độc đáo và sinh động của các dân tộc bản địa. Lễ hội mùa xuân của các dân tộc thiểu số phía Bắc, lễ hội truyền thống của người Việt, đó là những lễ hội vô cùng quan trọng trong đời sống cộng đồng của mỗi dân tộc. Nó mang trong mình sức sống và ước mơ lý tưởng nhằm cầu mong cho mỗi gia đình và cả cộng đồng ngày càng phát triển phồn thịnh.
Về dự lễ hội, chúng ta sẽ được thưởng thức những lời ca, điệu múa của các dân tộc cùng hương vị rượu cần ngọt ngào, nồng ấm và nghe các già làng kể sử thi (khan): Đam San, Xing Nhã, Dam Di, Khinh Dú, Đăm Tiông, Đăm Trao, Đăm Rao... của dân tộc Ê Đê và sử thi (Ót N'rông): Đẻ Tiăng, Bông - Rong và Tiăng, Ndu thăm Tiăng, Nước lụt, đánh cá hồ Lau Lách, Tiăng bán tượng rỗ... của dân tộc M'nông cùng các sử thi nổi tiếng của nhiều dân tộc khác đang sinh sống ở Đắk Lắk như sử thi Mo Mường, sử thi của người Thái...
Còn rất nhiều loại hình văn hóa khác như: Nghệ thuật tạo hình, kiến trúc, thủ công, mỹ nghệ, trang trí hoa văn, múa, văn hóa ẩm thực, trang phục, giao tiếp, luật tục, phong tục tập quán... trong quá trình giao lưu văn hóa giữa các dân tộc với nhau, nó đều được hoàn thiện hơn, vừa có cái nét riêng của từng dân tộc, vừa có cái chung của cả cộng đồng. Cùng với nền văn hóa của các dân tộc thiểu số phía Bắc và văn hóa người Việt, văn hóa các dân tộc bản địa Tây Nguyên nói chung và Đắk Lắk nói riêng còn mang nhiều dấu tích của thời kỳ thị tộc, bộ lạc.
Ở đây, việc quản lý buôn làng theo chế độ mẫu hệ với luật tục cộng đồng khá nghiêm ngặt. Mỗi buôn đều do chủ đất, chủ bến nước cai quản. Các thành viên phải chấp hành theo những quy định của luật tục và sống hòa mình vào cuộc sống của cộng đồng buôn làng. Trong một xã hội như vậy, lại gắn bó với thiên nhiên hùng vĩ, nên con người ở đây rất giàu trí tưởng tượng, giàu ước mơ, ý chí bất khuất, kiên cường, tâm hồn lạc quan và phóng khoáng.
Đó là những tiền đề tất yếu làm cho văn hóa các dân tộc bản địa Đắk Lắk nảy sinh, tồn tại và lưu truyền từ đời này sang đời khác, trở thành truyền thống. Nó chính là bức tranh sinh động về xã hội các tộc người bản địa qua các thời kỳ lịch sử. Trong quá trình giao lưu, tiếp biến, giao thoa văn hóa, các dân tộc bản địa Đắk Lắk cũng như Tây Nguyên cùng các dân tộc thiểu số phía Bắc và người Việt vẫn giữ được những nét đặc trưng văn hóa riêng của mình, gia nhập vào cái chung của văn hóa Đắk Lắk, tạo cho vùng đất này có một nền văn hóa phong phú, đa dạng, giàu bản sắc.
Đặc sản
Gà nướng Bản Đôn là món đặc sản truyền thống Đắk Lắk nổi tiếng, trở thành biểu tượng của nền ẩm thực thành phố Buôn Ma Thuột. Gà nướng Bản Đôn được làm từ những con gà chắc thịt được nuôi thả rông. Để tạo được hương vị riêng và trở thành đặc sản của Đắk Lắk, người dân Bản Đôn đã có bí quyết chế biến riêng.
Những con gà được nướng chỉ nặng hơn 1kg, được làm sạch sẽ, tẩm ướp gia vị rồi đem nướng trên than củi. Để ăn gà nướng Bản Đôn chuẩn vị thì phải chấm với muối ớt hoặc muối sả. Dù là loại muối nào cũng phải được giã với ớt rừng xanh. Loại ớt này ăn giòn thơm, rất hấp dẫn. Nếu ăn gà nướng kèm với những thanh cơm lam chín dẻo mềm thì càng ngon hơn.
Một trong số những món đặc sản truyền thống Đắk Lắk không thể bỏ qua trong danh sách này chính là bơ sáp. Đây là một trong những loại trái cây sạch được nhiều người ưa thích và rất tốt cho sức khỏe. Nói đến bơ sáp thì nhiều vùng cũng có, nhưng bơ sáp Đắk Lắk lại đặc biệt hơn, bơ đặc sản của Đắk Lắk dẻo quánh, đặc ruột, ít sượng, không bị sơ, ít đắng và cầm nặng tay hơn các loại bơ khác, bơ có vị béo thơm đặc trưng mà không loại bơ nào sánh được. Bơ sáp có thể ăn kèm với đá, thêm chút sữa đặc sẽ khiến món ăn trở nên bắt vị, thơm béo, gây “nghiện” thực khách.
Cơm được cuộn nấu trong ống tre nén chặt bằng lá chuối đem vùi trong lửa. Cơm khi chín sẽ thơm ngon mang vị thanh ngọt của tre hòa nguyện với vị ngọt của hạt gạo, làm say lòng bất cứ ai nếu thưởng thức. Cơm sẽ thường được thổi chung với một ít nước cốt dừa. Vị cơm chín ngọt ngọt, nước cốt dừa hơi ngậy kết hợp với mùi ống nứa non khiến bạn cảm giác hương vị vừa lạ vừa quen. Cơm hơi xém một chút thì càng đậm hương vị hơn nữa.
Rượu cần là một trong những đặc sản nổi tiếng của vùng đất Tây Nguyên. Sở dĩ gọi là rượu cần, vì khi uống, người ta dùng một cái ống gọi là “cần” để hút lên. Đối với người dân Đắk Lắk, rượu cần là sản phẩm văn hóa đặc trưng của mỗi gia đình. Rượu cần có độ nồng nhẹ, vị cay nhẹ, mùi thơm của gạo và lá rừng. Không chỉ vậy, rượu cần còn có một số lợi ích cho sức khỏe của bạn.
Cá bống thác là một loại cá đặc biệt sống ở vùng thác đổ khác với những loài cá bống sống ở ao, hồ miền xuôi. Với điều kiện sống ở thác nước đổ nên cá bống ở đây thân trắng, thịt săn chắc bằng ngón tay. Cá được làm sạch rồi ướp muối, cho vào chảo chiên vàng, sau đó cho riềng vào, đợi mùi thơm lừng của cá và riềng tỏa ra khắp nơi thì cho các gia vị như hành tiêu, ớt, đường và bột ngọt sao cho vừa ăn. Món ăn này rất bắt miệng khi ăn cơm nóng đấy nhé!
Đến Đắk Lắk, bạn sẽ được thưởng thức những món ăn mang đậm hương vị núi rừng, tiêu biểu nhất là thịt nai rừng. Người dân ở đây cho nai ăn những nguyên liệu tự nhiên nên thịt khá thơm và dai, ít gân, mỡ màu trắng ngà, mềm. Đặc biệt, món thịt nai khô dai dai, cay cay còn nguyên mùi khói được nhiều người tấm tắc khen ngợi. Miếng nai ở bên ngoài khô nhưng bên trong vẫn giữ được màu hồng nhạt tự nhiên. Bạn có thể nướng sơ qua trên củi hoặc vùi trong tro bếp để thịt nóng rồi xé thành miếng nhỏ, chấm cùng muối tiêu rừng trộn lá é là đúng gu ăn uống của người Đắk Lắk.
Cà phê phân chồn là loại cà phê trứ danh của Đắk Lắk. Được coi là thứ đặc sản quý giá của vùng cao nguyên này, một vùng đất vốn nổi tiếng trong và ngoài nước về quy mô cũng như năng suất sản xuất cà phê. Bạn có thể thưởng thức một ly café tại Đắk Lắk hoặc có thể mua về làm quà tặng đầy ý nghĩa.
Mật ong hoa cà phê được nhiều người ưa chuộng do có nguồn gốc hoàn toàn từ thiên nhiên. Những chú ong sẽ lấy hết mật của hoa về để xây tổ cho mình. Chính vì thế, hương vị của loại mật này vô cùng đặc biệt và hương vị sẽ phụ thuộc nhiều vào từng loại cà phê của mỗi vùng. Đặc trưng của loại mật này là có màu vàng nhạt, sánh, mùi ngọt và thơm nhẹ.
Dù được gọi là lẩu nhưng thực chất nó giống một món canh từ nhiều loại rau nấu cùng một ít thịt. Có khoảng hơn 10 loại rau được nấu chung với nhau. Chủ yếu trong đó là những loại được tìm thấy khi người bản địa đi làm nương rẫy. Những loại rau tuy đơn giản nhưng khi kết hợp với nhau sẽ đem đến hương vị thơm ngon, mới lạ đấy nhé.
Ở Việt Nam có 2 vùng nhiều cá lăng nhất là vùng núi Tây Bắc và Tây Nguyên. Cá lăng với phần thịt rất săn chắc, khi ăn đem lại hương vị ngọt thanh nên rất được lòng thực khách. Người ta thường chế biến cá lăng thành món chả, cá lăng om chuối, cá lăng hấp, cá lăng xào tỏi hay cá lăng nấu cháo… món nào cũng thơm cũng ngon. Nhưng thú vị nhất vẫn là lẩu cá lăng nấu canh chua, món ngon bổ dưỡng, được nhiều người lựa chọn trong mùa hè.
Địa điểm du lịch
Là hồ nước ngọt có diện tích lớn nhất khu vực Tây Nguyên và lớn thứ 2 cả nước (sau hồ Ba Bể), hồ Lắk là một trong những địa điểm du lịch Đắk Lắk không thể bỏ qua. Được bao bọc bởi các cánh rừng nguyên sinh và dãy Chư Yang Sin ở thượng nguồn, nơi này luôn đầy ắp nước quanh năm và đẹp như một bức tranh thủy mặc giữa lòng Tây Nguyên.
Cách trung tâm Buôn Mê Thuột khoảng 56 km, bạn sẽ mất 1 giờ di chuyển bằng xe máy/ô tô để đến được đây. Khi đặt chân đến hồ Lắk, bạn sẽ cảm thấy cực kỳ xứng đáng bởi khung cảnh thiên nhiên nơi này thơ mộng và trong trẻo đến lạ. Không chỉ có rừng cây, xung quanh hồ là những cánh đồng lúa nước của người M’nông, bản làng và biệt điện Bảo Đại nằm trên ngọn đồi gần kề.
Khi tham quan tại đây, bạn phải thử ngay hoạt động chèo thuyền khám phá hồ, xem múa cồng chiêng, thưởng thức ẩm thực, hái cacao, tự tay nấu và uống rượu cần. Trong đó, các món ăn làm từ cá thác lác và bống là đặc sản nhất định phải thử tại đây. Đặc biệt, các khách sạn gần hồ Lắk cực xinh xắn nên bạn sẽ có những trải nghiệm lưu trú ổn áp tại đây.
Buôn Đôn (hay còn được gọi là bản Đôn) là điểm du lịch Đắk Lắk quen thuộc nhất với hầu hết mọi người, dù đã đặt chân đến đây hay chưa. Đây là một ngôi làng nhỏ nằm trên hòn đảo nổi giữa dòng sông Sêrêpốk, cách trung tâm thành phố gân 40km. Đến với tọa độ này, bạn sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mộc mạc diệu kỳ của núi rừng bạt ngàn cực thơ mộng.
Nơi này còn nổi tiếng với những ngôi nhà rông theo kiến trúc truyền thống Tây Nguyên cổ của người Ê đê và M’Nông cùng văn hóa cồng chiêng đặc sắc. Một điều bạn phải làm khi đến Buôn Đôn chính là ghé thăm những chú voi. Hiện tại, buôn Đôn đã không còn cho phép khách du lịch cưỡi voi nên bạn có thể ngắm nhìn, chơi cùng và tắm cho voi nhé.
Xung quanh Buôn Đôn còn có nhiều địa điểm tham quan hấp dẫn Đắk Lắk như cầu treo trên sông Sêrêpốk, hồ Dakmil, mộ vua voi Khunjunop… Thời điểm đẹp nhất để vi vu Buôn Đôn là tháng 12 - tháng 3 năm sau khi thời tiết dễ chịu nhất và cũng là mùa lễ hội truyền thống tại đây (lễ hội đua voi, lễ hội cà phê…).
Thêm một địa điểm du lịch Đắk Lắk dành cho hội mê khám phá thiên nhiên, chính là vườn quốc gia Yok Đôn. Cách nội đô Buôn Ma Thuột khoảng 40km, tọa độ này là một trong những khu bảo tồn có quy mô lớn nhất Việt Nam.
Với diện tích “khủng” lên đến hơn 115.000 ha, Yok Đôn trải rộng trên địa phận 2 tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. Tại vườn quốc gia có đến 90% diện tích rừng nguyên sinh, trong đó, rừng khộp là chủ yếu. Đây cũng là khu rừng duy nhất tại Việt Nam còn bảo tồn loại rừng đặc biệt này.
Được bao bọc bởi 2 ngọn núi Reheng, Yok Đôn cùng nhiều sông suối, thác nước, địa hình tại vườn quốc gia Yok Đôn tương đối bằng phẳng. Vì vậy, bạn có thể trekking, cưỡi voi, đi thuyền độc mộc hay đạp xe khám phá khắp nơi.
Dù là một tọa độ mới nhưng bảo tàng Thế giới Cà Phê đã trở thành một trong các địa điểm du lịch Đắk Lắk không thể bỏ qua. Nằm tại “thủ phủ cà phê” Buôn Ma Thuột, bảo tàng gồm 5 tòa nhà có hình khối uốn cong được lấy cảm hứng từ mái nhà rông truyền thống Tây Nguyên và nhà dài của người Ê đê.
Các khối nhà này được kết nối với nhau một cách ngẫu hứng tạo thành không gian “sống” và những trải nghiệm dành cho mọi giác quan. Toàn bộ công trình nằm trên khuôn viên rộng hơn 13.000 m2 với rất nhiều mảng xanh thiên nhiên. Đặc biệt, cánh đồng cỏ hồng tại đây cũng là điểm check-in quen thuộc của nhiều bạn trẻ.
Cách trung tâm thành phố khoảng 10km, Troh Bư là một khu vườn thực vật được xây dựng từ năm 1995. Sau nay, nơi này được cải tạo và trở thành khu bảo tồn loài hoa lan rừng Tây Nguyên. Vì vậy, ngay khi đặt chân đến đây, bạn sẽ cảm nhận ngay mùi hương dịu dàng của các giống lan cũng như sự trong lành của tiết trời miền núi.
Với diện tích hơn 20.000m2, khu vườn rộng rãi này được chia thành nhiều khu riêng biệt như vườn hoa, vườn lan, khu bảo tồn động vật… Để không bỏ lỡ mùa lan đẹp nhất, bạn nên đến đây vào những tháng mùa khô nhé. Ngoài ra, với vị trí gần kề với Buôn Đôn, bạn có thể kết hợp tham quan Buôn Đôn và vườn Troh Bư trong 1 ngày của lịch trình khám phá Đắk Lắk.
Bộ đôi thác Dray Sáp - Dray Nur là 2 dòng thác đẹp nhất Tây Nguyên và đều nằm trên dòng Sê rê Pốk hùng vĩ. Với độ cao hơn 50m, Dray Sap đẹp tựa như một bức tranh thủy mặc với suối nước tuôn trào trắng xóa được ôm trọn bởi các cánh rừng nguyên sinh và hang đá nham thạch với hình khối cực độc đáo.
Thác Dray Nur nối liền Dray Sap nhờ một chiếc cầu treo bắt qua dòng Sê rê Pốk. Nằm tại độ cao khoảng 30m, dòng nước của thác Dray Nur cũng chảy mạnh tương tự Dray Sap. Xung quanh Dray Nur là những tán cây cổ thụ với bộ rễ lạ mắt và nhiều thảm cỏ nhỏ.
Cùng với Yok Đôn, Chư Yang Sin là vườn quốc gia nổi tiếng nhất nhì xứ cà phê. Với diện tích lên đến 589 km2, Chư Yang Sin trải rộng trên địa phần nhiều xã và cách trung tâm thành phố hơn 60km. Bạn có thể di chuyển bằng xe máy từ Buôn Mê Thuột tới thị trấn Liên Sơn, sau đó, men theo đường mòn tầm 20km là tới vườn quốc gia.
Đặt chân đến Chư Yang Sin, bạn sẽ ngỡ ngàng trước khung cảnh thiên nhiên nguyên sơ và cực kỳ đa dạng tại đây. Với 9 kiểu rừng khác nhau, nơi đây là một trong những cánh rừng nguyên sinh lâu đời nhất Việt Nam. Tại đây, có tất cả hơn 950 loài thực vật và 487 loài động vật tạo nên hệ sinh thái đặc sắc. Trong đó, có rất nhiều loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam.
Bên cạnh khám phá rừng, bạn còn có nhiều hoạt động để tham gia khi vi vu vườn quốc gia Chư Yang Sin như cắm trại giữa rừng, tắm thác hay trekking và chinh phục đỉnh Chư Yang Sin cao hơn 2500m. Đặc biệt, nơi này còn là nơi sinh sống của 25 dân tộc thiểu số nên bạn cũng có thể khám phá thêm văn hóa trong quá trình tham quan nữa đấy.
Nhắc đến Top địa điểm du lịch DakLak nổi tiếng, đầu tiên chúng ta phải kể đến Khu du lịch Suối Ong. Tại đây, bạn có thể hòa mình vào không gian núi rừng hùng vĩ, tận hưởng nguồn nước mát lành từ những con suối uốn quanh, lắng nghe hơi thở của núi rừng. Ngoài ra, Khu du lịch Suối Ong còn xây dựng một khu nhà với những bức tranh 3D cực kỳ độc đáo, là điểm nhấn mới lạ đồng thời cũng là background chụp ảnh siêu xịn để bạn check-in khi ghé thăm nơi đây.
Buôn Ako Dhong còn có tên gọi khác là Cô Thôn, bản làng của người dân tộc Ê Đê. Tại đây, bạn sẽ được ngắm nhìn những ngôi nhà sàn đơn sơ nhưng ấm cúng, được hòa mình vào cuộc sống của người dân địa phương, được nghe những lời ca, điệu nhạc, được nếm thử loại rượu thơm lừng. Đặc biệt nếu đến bản Ako Dhong vào các dịp lễ hội thì bạn còn được hòa mình vào không khí tưng bừng và tìm hiểu nhiều tập tục độc đáo của cộng đồng người Ê Đê.
Tháp Chàm Yang Prong là một tòa tháp Chăm cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 100km. Theo nghiên cứu từ các nhà sử học thì công trình này đã được người Chăm xây dựng vào thế kỉ 13, dưới thời cai trị của vua Jaya Simhavarman III. Tòa tháp Chăm này được xây dựng với lối kiến trúc độc đáo, mang lại cho chúng ta rất nhiều hiểu biết về lịch sử, văn hóa và tín ngưỡng của cộng đồng người Chăm từ xa xưa.