Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể (15 Di Sản)
Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể (15 Di Sản)
Nhã nhạc là âm nhạc cung đình thời phong kiến, được trình diễn trong các dịp triều hội, tế lễ hoặc các sự kiện trọng đại (lễ đăng quang của nhà vua, tiếp đón sứ thần…).
Được phát triển từ thế kỷ XIII ở Việt Nam, đến thời nhà Nguyễn, nhã nhạc cung đình Huế phát triển rực rỡ và đạt đến trình độ hoàn chỉnh nhất.
Đặc trưng của Nhạc cung đình là tính bao trùm đối với tất cả các bộ môn âm nhạc khác, từ Lễ nhạc (dùng vào các cuộc tế lễ lớn nhỏ của cung đình, trong các chùa miếu), nhạc thính phòng, sân khấu, kể cả các vũ điệu, mà mỗi bộ môn đều có những nghệ sĩ thượng thặng chuyên sáng tạo và biểu diễn. Các quy định về quy mô dàn nhạc, cách thức diễn xướng, nội dung bài bản... của Nhã nhạc đều rất chặt chẽ, phản ánh tính quy củ qua các định chế thẩm mỹ rất cao, có khả năng phản ánh tư tưởng, quan niệm triết lý của chế độ quân chủ đương thời.
Ngày 7/11/2003, nhã nhạc cung đình Huế được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Theo đánh giá của UNESCO, trong các thể loại nhạc cổ truyền ở Việt Nam, nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia.
Nhã nhạc cung đình Huế là di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO công nhận và là nét đẹp văn hóa nghệ thuật đáng tự hào của Việt Nam. Đây còn là một trong những yếu tố hấp dẫn thu hút du khách thập phương đến với thành phố Huế mộng mơ. Âm hưởng tao nhã cùng điệu thức cao sang, quý phái của Nhã nhạc cung đình Huế là điều khiến du khách muôn phương luôn nhớ về khi đã một lần thưởng thức. Đây còn là di sản văn hóa phi vật thể đáng tự hào và là loại hình âm nhạc nghệ thuật độc đáo của Việt Nam.
Nhã nhạc cung đình là thể loại nhạc có từ thời phong kiến được biểu diễn phục vụ trong cung đình vào những dịp lễ như: Đại triều, Thường triều, Tế giao, Tế miếu… Nhạc có lời hát tao nhã cùng điệu thức cao sang, quý phái góp phần tạo sự trang trọng cho các buổi lễ. Đây còn là biểu tượng của vương quyền và sự trường tồn, hưng thịnh của triều đại. Chính vì thế Nhã nhạc cung đình Huế rất được các triều đại phong kiến Việt Nam coi trọng.
Nhã nhạc cung đình Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu nhân loại vào 7/11/2003 và lễ đón bằng công nhận được tổ chức tại thủ đô Paris nước Pháp vào ngày 31/1/2004.
Đây là vinh dự và niềm tự hào to lớn cho Huế cũng như dân tộc Việt Nam. Đồng thời, sự vinh danh này còn góp phần tạo nên sức hút, nét hấp dẫn rất riêng cho ngành du lịch của thành phố Huế cổ kính và thơ mộng.
Theo sử sách ghi lại, Nhã nhạc cung đình Huế có quá trình hình thành và phát triển theo từng giai đoạn qua các triều đại Lý - Trần. Các thế hệ kế thừa tiếp tục gìn giữ, bổ sung sáng tạo và phát triển loại hình nghệ thuật này ngày càng phong phú, tinh tế đạt đỉnh cao vào triều đại Nhà Nguyễn.
Ngày nay, Nhã nhạc cung đình Huế với các hình thức như dàn nhạc, ca chương, bài bản, vũ khúc được diễn xướng trong nhiều dịp như: Festival Huế, lễ hội Phật giáo, lễ hội dân gian, âm nhạc thính phòng…
Nhã nhạc còn được trình diễn trong các nghi thức ngoại giao, biểu diễn phục vụ khách du lịch và dân địa phương trong các dịp đại lễ và tết cổ truyền… Chính vì thế, Nhã nhạc ngày nay vẫn có điều kiện và không gian diễn tấu phong phú. Giá trị nghệ thuật vẫn được giữ gìn, trường tồn và tiếp tục phát huy.
Nếu có dịp đến Huế, bạn đừng bỏ qua cơ hội thưởng thức, cảm nhận về Nhã nhạc cung đình qua những tiết mục đặc sắc bên cạnh việc khám phá nét đẹp cố đô và các món ăn đặc sản.
4. Kế thừa và bảo tồn
Nhã Nhạc Huế - di sản văn hoá âm nhạc “cổ điển bác học Việt Nam” cũng đã từng bị đe dọa nghiêm trọng khi xảy ra biến cố sụp đổ của triều đại nhà Nguyễn và tiếp theo là hơn 30 năm chiến tranh liên miên. Nói như vậy đúng về mặt khách quan, còn về mặt chủ quan, thực ra, vào cuối thời Nguyễn, chỉ còn duy trì 2 loại dàn nhạc là Đại nhạc (gồm trống, kèn, mõ, bồng, xập xõa) và tTiểu nhạc (trống bản, đàn tỳ bà, đàn nhị, đàn tam, ống địch, tam âm, phách tiền). Ngoài ra, từ Đồng Khánh đến Khải Định, Bảo Đại đều chuộng các dàn kèn đồng, Quân nhạc phương Tây, làm cho vai trò của Nhã Nhạc càng mờ nhạt thêm.
Sau năm 1945, Nhã Nhạc không còn vai trò với xã hội và có nguy cơ mai một dần. Ngày nay, các tài liệu lịch sử về Nhã nhạc không còn nhiều, không biết ở đâu và phân rải khắp nơi, không có một cơ sở lưu trữ bài bản và hệ thống, nhiều nghệ nhân, người am hiểu kỹ thuật diễn xướng Nhã Nhạc cũng đã qua đời.
Từ năm 1992, nhà hát Nghệ thuật Cung đình Huế thuộc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế ra đời, chuẩn bị các cơ sở phục vụ cho công tác bảo tồn âm nhạc cung đình Huế. Tháng 3/1994 UNESCO đã phối hợp với Bộ Văn hóa Thông tin, UBND tỉnh, Trung tâm BTDTCĐ Huế tổ chức Hội nghị Quốc tế về bảo vệ và giữ gìn phục hồi văn hóa phi vật thể vùng đất Huế. Tiếp theo là các dự án đào tạo được Bộ Văn hóa Thông tin, các Quỹ của UNESCO, Chính phủ Nhật Bản... tài trợ cho các lớp nhạc công, diễn viên ca múa cung đình. Những năm sau đó, Chính phủ, Bộ Văn hóa Thông tin và lãnh đạo của tỉnh Thừa Thiên Huế đã có nhiều chủ trương, quyết định để bảo tồn loại hình văn hóa độc đáo này.
Trong công cuộc bảo tồn, Nhà Hát Truyền Thống Cung Đình Huế đã được thành lập (trực thuộc Trung tâm BTDTCĐ Huế) bước đầu đã bảo tồn được một số bản nhạc như: 10 bản Ngự (Phẩm tuyết, Nguyên tiêu, Hồ quảng, Liên hoàn, Bình bán, Tây mai, Kim tiền, Xung phong, Long hổ, Tẩu mã), Long đăng, Long ngâm, Tiểu khúc...; các bản nhạc trong dàn Đại nhạc (Tam luân Cửu chuyển, Thái bình Cổ nhạc, Đăng đàn cung, Phú lục, Tẩu mã, Bông, Mã vũ, Mang, Đăng đàn đơn, Đăng đàn kép)… cùng sự góp sức của đoàn Nghệ thuật Truyền thống Huế thuộc Sở Văn hóa Thông tin và Câu lạc bộ Phú Xuân cũng góp phần tích cực vào việc bảo tồn di sản Nhã nhạc.
Song song với việc bảo tồn phục hồi các tác phẩm kể trên, Nhà Hát Nghệ Thuật Cung Đình Huế đã tiến hành biểu diễn phục vụ khách đến Huế tham quan, nghiên cứu, tuyên truyền sang các nước như: Hàn Quốc, Lào, Pháp, Bỉ, Áo,... dàn dựng các chương trình nghệ thuật Festival Huế 2000, 2002….
Bảo tồn, kế thừa và phát huy, không phải chỉ là dàn Nhã Nhạc theo hệ thống mà bảo tồn di sản văn hóa âm nhạc cung đình luôn gắn với việc phát huy giá trị di tích cố đô, bởi lẽ hai hoạt động này luôn đan xen, hòa quyện để làm nên vẻ đẹp viên mãn của di sản Nhã Nhạc Cung Đình Huế - âm nhạc cung đình Việt Nam.
2. Không gian văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên (2005)
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên trải rộng trên địa bàn năm tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng.
Cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của người dân Tây Nguyên, như một phần không thể thiếu trong suốt vòng đời mỗi con người và trong hầu như tất cả các sự kiện quan trọng của cộng đồng: từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh, lễ cưới xin, lễ tiễn đưa người chết, lễ đâm trâu trong ngày bỏ mả cho đến lễ cúng máng nước, lễ mừng lúa mới, lễ đóng cửa kho, lễ mừng nhà Rông mới…
Ngày 25/11/2005, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã chính thức được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên là một trong những di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại đã được UNESCO công nhận. Tại Lâm Đồng, với sự phát triển của du lịch, nét văn hóa truyền thống này càng có cơ hội phát triển hơn nữa, tạo nên sức hút mãnh liệt với những du khách yêu thích văn hóa truyền thống.
Đôi nét về Lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên
1. Cồng chiêng là gì?
Cồng chiêng là loại nhạc cụ đặc trưng của một số dân tộc thiểu số, có tên tiếng anh là goong. Tiền thân của cồng chiêng là đàn đá, chiêng đá, cồng chiêng ra đời cùng với thời kỳ đồ đồng lên ngôi.
Ngay từ khi ra đời, trong tất cả các lễ hội của người Việt xưa đều vang lên những tiếng cồng trầm đục, vừa trầm lắng vừa hào hùng, vọng khắp núi rừng. Cồng chiêng còn là sự kết nối giữa các thế hệ, những hoa văn trên cồng chiêng luôn có sự biến đổi theo từng thời kỳ, phản ánh văn hóa truyền thống một cách rõ nét. Cho đến tận ngày nay, dù cồng chiêng đã không còn phổ biến nhưng vẫn là nét văn hóa phi vật thể được nhà nước và rất nhiều tổ chức bảo tồn, nhằm giữ gìn những giá trị quá khứ, qua đó phản ánh đời sống của các thế hệ cha ông cho con cháu ngàn đời học tập và phát huy.
2. Lễ hội cồng chiêng là gì?
Để hiểu rõ hơn về lễ hội cồng chiêng, bạn cần biết được cồng chiêng là gì? Lễ hội cồng chiêng không chỉ là một biểu tượng văn hóa sâu sắc mà còn là di sản văn hóa vô giá của các dân tộc thiểu số trên cao nguyên Tây Nguyên, một vùng đất đa dạng về dân tộc và văn hóa được trải dài trên 5 tỉnh là Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng.
Tại lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên, không chỉ có âm nhạc đặc trưng từ những chiếc cồng, chiêng được chơi bởi những người nghệ sĩ tài ba, mà còn là sự kết hợp phong phú của các lễ hội truyền thống có sử dụng những nhạc cụ này.
Đó được xem là một bức tranh văn hóa đa dạng với sự thể hiện của nhiều dân tộc như Ê đê, Ba Na, Mạ, Lặc, Xê Đăng, Gia Rai… Mỗi bài nhạc cồng, chiêng không chỉ đơn thuần là một giai điệu, mà còn chứa đựng một sự linh thiêng, phục vụ cho các nghi lễ tôn giáo hay các dịp đặc biệt trong đời sống cộng đồng của người dân Tây Nguyên.
Những giai điệu cồng chiêng không chỉ đơn thuần là âm nhạc, mà còn là tiếng gọi của quá khứ, là ký ức về một truyền thống lâu đời đậm chất văn hóa. Nơi mà mỗi bài hát, mỗi điệu nhảy đều là một phần không thể thiếu trong cuộc sống và nhận thức của các dân tộc thiểu số trên vùng cao nguyên Tây Nguyên.
3. Lịch sử của lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên
Cồng chiêng Tây Nguyên được xem là kế thừa của một truyền thống văn hóa và lịch sử lâu đời. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng cồng chiêng có nguồn gốc từ đàn đá. Trước khi văn hóa đồng xuất hiện, người xưa đã sử dụng các công cụ âm nhạc làm từ đá như cồng đá, chiêng đá…
Sau đó, trong thời đại đồ đồng, chiếc chiêng đồng mới được ra đời. Từ thời kỳ sơ khai, cồng chiêng đã được sử dụng để kỷ niệm việc bắt đầu vụ mùa, khi người dân xuống cày đồng. Cồng chiêng cũng biểu thị cho lòng tin tưởng, là cầu nối với thế giới siêu nhiên.
4. Tìm hiểu ý nghĩa lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên
Âm thanh của cồng chiêng Tây Nguyên không chỉ đơn thuần là tiếng nhạc mừng, mà còn là cách mà con người kết nối với thiên nhiên. Khi những giai điệu vang lên, chúng mang trong mình sự sâu lắng, sức mạnh, hoà quyện với tiếng suối, tiếng gió, và cả tiếng thở của con người. Chính điều này tạo nên một bức tranh âm nhạc sống động, gắn kết chặt chẽ với đất trời và cộng đồng người dân Tây Nguyên suốt hàng ngàn năm qua. Âm nhạc cồng chiêng đa dạng với nhiều giai điệu khác nhau, tùy thuộc vào dân tộc và người chơi. Mỗi dịp lễ hội, vở diễn cồng chiêng được thực hiện với những điệu nhạc phù hợp với tính chất và bản sắc của sự kiện. Những giai điệu này không chỉ đơn thuần là âm nhạc mà còn là tiếng nói của cuộc sống hàng ngày, thể hiện tâm hồn, tình cảm của người dân. Đồng thời, âm thanh của cồng chiêng còn được xem như sợi dây kết nối với thế giới tâm linh, nhằm gửi gắm những lời cầu nguyện, những khát vọng tinh thần của con người đến với thế giới siêu nhiên, cầu mong cho sức khỏe và sự bình an trong cuộc sống.
Ngoài ra, có một giả thuyết cho rằng văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên có nguồn gốc từ văn minh Đông Sơn, một nền văn minh sử dụng đồng thau xuất hiện tại Đông Nam Á. Trong văn hóa cồng chiêng ở Tây Nguyên, điểm đặc trưng rõ nét nhất so với các khu vực khác chính là tính cộng đồng cao. Điều này phản ánh ở việc mỗi nhạc công chỉ chơi một chiếc cồng. Mỗi thành viên trong dàn nhạc nhớ rõ từng tiết tấu của mỗi bài nhạc chiêng trong từng nghi lễ và hòa nhập hoàn hảo với các nhạc công khác.
Tùy thuộc vào từng nhóm dân tộc, cồng chiêng có thể được đánh bằng dùi hoặc bằng tay. Mỗi bộ cồng chiêng có từ 2 đến 13 chiếc, với đường kính dao động từ 25 đến 120 cm. Việc sử dụng cồng chiêng theo nhóm cũng thể hiện sự đa dạng và phong phú trong cách tiếp cận với âm nhạc của các dân tộc. Từ đó tạo ra những điểm nhấn đặc biệt và đa sắc màu cho văn hóa âm nhạc của Tây Nguyên.
Lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên là nét đặc trưng được tổ chức chủ yếu bởi các dân tộc đa dạng như Gia Rai, Ê Đê Kpah, Ba Na, Xơ Đăng, Brâu, Cơ Ho… Mặc dù cồng chiêng thường được coi là nhạc cụ dành cho nam giới, nhưng tại một số dân tộc, cả nam lẫn nữ đều tham gia việc chơi cồng. Đặc biệt, ở dân tộc Ê Đê, chỉ có phụ nữ mới được phép chơi cồng chiêng.
5. Thời gian tổ chức lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên
Lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên không được diễn ra theo một thời gian nhất định mà thường diễn ra từ tháng 3 đến cuối tháng 12 hàng năm. Mỗi năm, lễ hội được tổ chức tại các thời điểm khác nhau và luân phiên trong 5 tỉnh của vùng này, bao gồm Đắk Lắk, Lâm Đồng, Kon Tum, Đắk Nông và Gia Lai.
Đắk Lắk là tỉnh trung tâm văn hóa, chính trị và xã hội của Tây Nguyên. Do đó mà nơi đây thường được coi là địa điểm quan trọng và thường xuyên được chọn để tổ chức lễ hội cồng chiêng.
Trong số các địa điểm tổ chức thì lễ hội cồng chiêng tại huyện Buôn Đôn, thành phố Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk là nổi tiếng nhất với sự rực rỡ, đa dạng, đặc sắc, và đã được nhiều người đánh giá cao là một trong những lễ hội lớn và cuốn hút nhất.
Lễ hội cồng chiêng không chỉ là dịp để bạn có thể tận hưởng những nét âm nhạc độc đáo mà còn là cơ hội để khám phá và tận hưởng bản sắc và văn hóa đa dạng của vùng đất Tây Nguyên.
6. Cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận
Lễ hội cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO chính thức công nhận là một Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại vào ngày 25 tháng 11 năm 2005. Trong buổi công bố giải thưởng, ông Koichiro Matsuura – Tổng Giám đốc của UNESCO đã chia sẻ những cảm nhận và suy nghĩ của mình về cồng chiêng Tây Nguyên như sau:“Tôi đã được trải nghiệm âm nhạc cồng chiêng đặc biệt của Việt Nam và đã được chứng kiến sự độc đáo của những nhạc cụ trong dàn nhạc cồng chiêng của các dân tộc Tây Nguyên. Đây là một di sản văn hóa truyền thống độc đáo của Việt Nam, tuyệt vời và rất đặc sắc. Việc công nhận Văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên là Kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại là hoàn toàn xứng đáng.”
Sự thừa nhận của UNESCO đối với cồng chiêng Tây Nguyên không chỉ là một sự vinh danh mà còn là một sự khích lệ vô cùng quý báu cho nỗ lực bảo tồn và phát triển không gian văn hóa cồng chiêng. Góp phần thúc đẩy sự nhận thức và tôn trọng đối với văn hóa đa dạng và phong phú của của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam.
Cồng chiêng có rất nhiều giai điệu, phụ thuộc vào dân tộc, vào người chơi. Với mỗi sự kiện khác nhau, các vở diễn sẽ được thực hiện để phù hợp với tính chất sự kiện. Mỗi giai điệu này đều gắn với đời sống hàng ngày của người dân, nói lên tiếng lòng, tâm tư, tình cảm của đồng bào các dân tộc thiểu số. Thanh âm của cồng chiêng cũng được coi là sợi dây kết nối với thần linh, để gửi gắm những cầu nguyện, những mong mỏi của con người đến với thế giới tâm linh.
-Nguồn: Tổng hợp-
Quan họ là những làn điệu dân ca của vùng Đồng bằng Bắc Bộ, tập trung chủ yếu ở vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh và Bắc Giang). Đây là hình thức hát đối đáp giữa nam và nữ để biểu lộ tâm tình, ca tụng tình yêu thông qua những câu ca mộc mạc, đằm thắm.
Quan họ được thực hành trong các hoạt động văn hóa, xã hội của cộng đồng; được cộng đồng lưu giữ, trao truyền qua nhiều thế hệ, trở thành bản sắc của địa phương và lan tỏa trở thành không gian văn hóa đặc thù.
Ngày 30/9/2009, dân ca quan họ Bắc Ninh chính thức được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Ca trù (hay còn gọi là hát ả đào) có vị trí đặc biệt trong kho tàng âm nhạc truyền thống của Việt Nam, gắn liền với lễ hội, phong tục, tín ngưỡng, văn chương, tư tưởng và triết lý sống của người Việt.
Loại hình nghệ thuật này rất phổ biến trong đời sống sinh hoạt văn hóa ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX trở về trước. Trong lịch sử, ca trù thường được trình diễn ở các đình làng, đền thờ thần, nhà thờ tổ nghề, ca quán và dinh thự của quan lại, trí thức… Bởi vậy, ca trù có nhiều hình thức thể hiện như: hát thờ, hát thi, hát tế tiên sư…
Ngày 1/10/2009, ca trù đã được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại.
Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc (Hà Nội) gắn với truyền thuyết về một cậu bé được mẹ sinh ra một cách kỳ lạ ở làng Phù Đổng.
Hội Gióng ở đền Phù Đổng (xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm - nơi Thánh Gióng sinh ra) diễn ra từ ngày 7/9 tháng tư Âm lịch. Hội Gióng ở đền Sóc (xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn nơi Thánh hóa, cưỡi ngựa về trời) diễn ra từ ngày 6/8 tháng Giêng Âm lịch.
Ngày 16/11/2010, Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc chính thức được ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Theo truyền thuyết, Hùng Vương là con của cha Lạc Long Quân (giống Rồng) và mẹ Âu Cơ (giống Tiên), đã có công dựng nên nhà nước Văn Lang cổ đại. Đối với cộng đồng dân cư xung quanh khu vực Đền Hùng (Phú Thọ), Hùng Vương còn là thần tổ gắn với nghề nông, dạy dân cày ruộng, cấy lúa, ban linh khí cho đất đai, nhà cửa, cây trồng, vật nuôi sinh sôi nảy nở, mùa màng bội thu.
Từ hàng nghìn năm qua, người Việt Nam đã sáng tạo, thực hành, vun đắp và lưu truyền Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương để thể hiện sự biết ơn với vị thủy tổ. Biểu hiện tiêu biểu nhất cho Tín ngưỡng thờ cúng Hùng vương ở Phú Thọ là lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, được thực hiện vào ngày 10 tháng 3 Âm lịch hằng năm tại Khu di tích lịch sử Đền Hùng.
Ngày 6/12/2012, tín ngưỡng thờ cúng Hùng vương được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Đờn ca tài tử là loại hình nghệ thuật dân gian đặc trưng của vùng Nam Bộ, hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ XIX trên cơ sở của nhạc lễ, nhã nhạc cung đình Huế và văn học dân gian.
Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ không ngừng được sáng tạo nhờ tính ngẫu hứng và sự biến hóa theo cảm xúc của người thực hành trên cơ sở của 20 bài gốc (bài Tổ) và 72 bản nhạc cổ.
Ngày 5/12/2013, Đờn ca tài tử Nam Bộ chính thức được ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh là hai lối hát dân ca không có nhạc đệm, do cộng đồng hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh sáng tạo, lưu truyền trong quá trình lao động sản xuất và gắn bó chặt chẽ với đời sống sinh hoạt của cộng đồng dân cư xứ Nghệ, thường được thực hành trong cuộc sống: lúc ru con, khi làm ruộng, chèo thuyền, lúc dệt vải, xay lúa… Bởi vậy, những lối hát này được gọi tên theo các hình thức lao động và sinh hoạt như: Ví phường vải, Ví phường đan, Ví phường nón, Ví phường củi, Ví trèo non, Ví đò đưa, Giặm ru, Giặm kể, Giặm khuyên…
Ngày 27/11/2014, Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh chính thức được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Nghi lễ và trò chơi kéo co được thực hành rộng rãi trong văn hóa trồng lúa ở nhiều nước Đông Á với ý nghĩa cầu cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu hay những tiên đoán liên quan đến sự thành công hay thất bại của nỗ lực trồng cấy.
Tại Việt Nam, nghi lễ và trò chơi kéo co tập trung ở vùng trung du, Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ với trung tâm là các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và thành phố Hà Nội. Bên cạnh đó, di sản còn được thực hành thường xuyên bởi các tộc người ở miền núi phía Bắc như người Tày, người Thái và người Giáy (Lào Cai) - vốn là những cư dân trồng lúa sớm trong lịch sử.
Ngày 2/12/2015, Nghi lễ và trò chơi kéo co ở Việt Nam, Campuchia, Hàn Quốc và Philippines chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt là sự hỗn dung tôn giáo bản địa của người Việt và một số yếu tố của tôn giáo du nhập như Đạo giáo, Phật giáo.
Từ thế kỷ XVI, việc thực hành tín ngưỡng này trở thành một sinh hoạt văn hóa có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội và tâm thức người dân Việt Nam.
Ngày 1/12/2016, di sản Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Nghệ thuật Bài Chòi Trung Bộ Việt Nam (ở các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và Đà Nẵng) ra đời từ nhu cầu liên lạc với nhau giữa các chòi canh trên nương rẫy.
Đây vừa là loại hình nghệ thuật diễn xướng mang tính sáng tạo ngẫu hứng vừa là trò chơi dân gian vui nhộn, đầy trí tuệ (kết hợp âm nhạc, thơ ca, diễn xuất, hội họa và văn học). Bài Chòi có hai hình thức chính: "Chơi Bài Chòi" và "Trình diễn Bài Chòi".
Ngày 7/12/2017, Nghệ thuật Bài Chòi Trung bộ Việt Nam chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Hát Xoan còn có tên gọi khác là Hát Lãi Lèn, Hát Đúm, Hát Thờ, Hát Cửa đình, bắt nguồn từ hình thức hát thờ các Vua Hùng.
Nghệ thuật Hát Xoan khi được trình diễn đầy đủ sẽ diễn ra theo các chặng sau: Hát Thờ (tưởng nhớ các Vua Hùng, các vị thần, những người có công với dân, với nước và tổ tiên của các dòng họ), Hát Nghi lễ (ca ngợi thiên nhiên, con người, đời sống sản xuất, sinh hoạt của cộng đồng), Hát Hội (bày tỏ khát vọng trong cuộc sống, tình yêu nam nữ với những làn điệu đậm chất trữ tình, vui nhộn, được thể hiện qua hình thức hát đối đáp giữa trai, gái làng sở tại và các đào, kép của phường Xoan…).
Ngày 24/11/2011, Hát Xoan được ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại. Và ngày 8/12/2017, Hát Xoan được UNESCO đưa ra khỏi Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp để ghi danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Hát Then là một loại hình diễn xướng dân gian tổng hợp gồm: ca, nhạc, múa và diễn trò. Thực hành Then là nghi lễ không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người Tày, Nùng, Thái, phản ánh quan niệm của họ về con người, thế giới tự nhiên và vũ trụ.
Thực hành nghi lễ then được dùng trong những sự kiện trọng đại, chúc mừng năm mới hay trong lễ cầu an, giải hạn, cầu mùa, xuống đồng, chúc phúc…
Ngày 13/12/2019, Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Nghệ thuật Xòe Thái là loại hình múa truyền thống đặc sắc, chiếm vị trí quan trọng trong đời sống của cộng đồng người Thái ở 4 tỉnh Tây Bắc của Việt Nam là: Lai Châu, Sơn La, Điện Biên, Yên Bái.
Âm nhạc cho múa Xòe cũng thể hiện quan điểm về thế giới quan, nhân sinh quan của người xưa.
Điệu xòe giúp con người quên đi những mệt nhọc của cuộc sống, các đôi trai gái có cơ hội gần nhau hơn để thể hiện tình cảm riêng tư của mình…
Trong khuôn khổ Kỳ họp lần thứ 16 của Ủy ban liên chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 13 đến 18/12/2021) tại Paris (Pháp), hồ sơ Nghệ thuật Xòe Thái đã được UNESCO ghi danh là Di sản phi vật thể đại diện của nhân loại.
Nghệ thuật làm gốm độc đáo của đồng bào Chăm tại làng Bàu Trúc (tỉnh Ninh Thuận) tồn tại từ khoảng cuối thế kỷ XII. Đến nay, Bàu Trúc được xem là một trong số rất ít những làng gốm cổ ở Đông Nam Á còn giữ lại cách sản xuất gốm thô sơ từ ngàn xưa.
Toàn bộ quy trình làm gốm của đồng bào Chăm toát lên một giá trị nghệ thuật đặc trưng, bảo lưu thuần phong mỹ tục, bản sắc văn hóa của người Chăm ở Việt Nam. Tuy nhiên, dù đã có nhiều nỗ lực bảo vệ, song nghề gốm của người Chăm đang đứng trước nguy cơ mai một.
Ngày 29/11/2022, Nghệ thuật làm gốm của người Chăm chính thức được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại.