ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI
Nhìn từ góc độ hành chính, lâu nay người ta hay xếp Thanh - Nghệ – Tĩnh cũng thuộc Trung Bộ, và coi là Bắc Trung Bộ. Có nhà địa lí học nói rằng, trên một ý nghĩa nào đó, châu thổ sông Mã, sông Cả chỉ là sự “nối dài” của châu thổ Bắc Bộ. Điều đó có cơ sở về mặt văn hoá. Từ trước, sau công nguyên, Thanh – Nghệ Tĩnh đã thuộc không gian văn hoá Đông Sơn, trước đó nữa, có những di tích có tính chất của văn hoá Phùng Nguyên, nếu phải nhìn xa hơn thì cồn sò hến Đa Bút, cồn Cổ Ngựa và các di chỉ hang động xứ Thanhlà thuộc về không gian văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn. Cả giới địa học và dân tộc học, văn hoá học đều coi miền núi Thanh - Nghệ Tĩnh đã là sự nối dài cùng một dải của sơn hệ Tây Bắc Bắc Bộ. Cố nhiên, Thanh - Nghệ Tĩnh đã là không gian văn hoá Việt cổ (Lạc Việt) cũng với cách nghĩ như vậy. Do vậy, vùng văn hoá Trung Bộ là thuộc vùng đất thuộc lãnh thổ các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận và Thành phố Đà Nẵng.
Nói đến miền Trung, như một tổng thể hệ thống nằm trong tổng thể hệ thống Việt Nam, người ta thường chú ý đến các đặc điểm sau:
Thứ nhất, địa hình miền Trung hẹp theo chiều ngang Đông Tây, trước mặt là biển Đông, sau lưng là dãy Trường Sơn.
Thứ hai, địa hình miền Trung Bộ chia cắt theo chiều dọc Bắc Nam bởi các đèo là những dãy núi đồi tách từ Trường Sơn đâm ngang ra biển. Nếu tính từ Tam Điệp, đèo Ba Dội thuộc xứ Thanh thì cứ một đèo, một đèo lại một đèo lặp đi lặp lại qua đềo Hoàng Mai, đềo Ngang, đèo Hải Vân, đèo Cù Mông…
Dưới chân đèo là các sông lớn nhỏ đều chảy ngang theo chiều Tây Đông ra biển, sông ngắn, nước biếc xanh, ít phù sa, châu thổ hẹp, nhiều cửa sông sâu tạo thành các vịnh, cảng. Vận động tạo sơn còn “ném” ra biển xa các đảo và quần đảo như Hoàng Sa, Trường Sa, đảo Hòn Gió (Quảng Bình), Cồn Cỏ (Quảng Trị), Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Hòn Tre (Khánh Hoà),…tạo ra những bình phong ngăn chặn bớt sóng gió biển Đông.
Suốt dải đất miền Trung, đường bờ biển Việt Nam “ưỡn” cong, “lồi” ra phía sau biển Đông. Sát bờ biển, từ Quảng Nam trở vô Nam có các dải cồn cát chạy dọc dài Bắc Nam ghi dấu những đường biển cũ. Giữa các dải cồn cát là một vùng trũng nổi phân bố xóm làng và ruộng lúa ngày nay. Chân cồn là những bàu nước ngọt.
Thứ ba là khí hậu, miền Trung lại có mùa mưa lệch pha với hai đầu Bắc Nam của đất nước, lại gặp gió Tây rất khô nóng thổi từ Lào qua (gió Lào) tạo ra sự khô rang cho miền Trung.
Mặt khác, với Đại Việt, từ năm 1059, vùng Quảng Bình thuộc về nhà Lý, năm 1336, Châu Ô, Châu Lý (tức vùng Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế ngày nay) thuộc về nhà Trần, năm 1470, vùng đất từ núi Thạch Bi (nay thuộc Phú Yên) trở ra thuộc nhà Lê. Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ xứ Thuận Hoá. Từ đó, Nguyễn Hoàng bắt đầu “kinh doanh dải đất” (chữ dùng của GS. Đinh Gia Khánh) miền Trung. Nói khác đi là sự nghiệp khai phá miền Trung được đẩy lên một bước mới. Rồi hai trăm năm chiến tranh giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài, miền Trung trở thành lãnh địa được các chúa Nguyễn tạo ra với ý thức đối kháng với Đàng Ngoài. Kinh đô của vương triều này là vùng đất Phú Xuân.
Phong trào nông dân khởi nghĩa thế kỉ XVIII làm lung lay chế độ phong kiến. Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi vua ở Phú Xuân, đất nước được thống nhất trên cơ bản. Năm 1802, dựa vào thế lực của phương Tây, Nguyễn Ánh chiến thắng vương triều Tây Sơn, cai quản một đất nước thống nhất. Từ 1802 đến 1945, nhà Nguyễn đặt kinh đô ở Huế. Như vậy là miền Trung đã có một thời ít nhất với ba vương triều: các chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn, có xứ Huế là thủ phủ của xứ Đàng Trong, kinh đô của cả nước. Trải qua tiến trình lịch sử, vùng Trung Bộ là trạm trung chuyển, đất đứng chân để người Việt tiến về phía Nam mở cõi, lại là vùng biên viễn của Đại Việt, nơi diễn ra sự giao lưu trực tiếp giữa người Việt và người Chăm. Chính những đặc điểm tự nhiên, xã hội, lịch sử này của Trung Bộ sẽ tạo cho vùng văn hoá Trung Bộ những đặc điểm riêng so với các vùng văn hoá Việt Nam.
ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA
Do vị thế địa chính trị, địa văn hoá đặc biệt của xứ Huế nên xứ Huế đã như một tiểu vùng có gương mặt văn hoá khá độc đáo, vì thế chúng tôi xin trình bày những đặc điểm chung của vùng Trung Bộ và nhìn nhận riêng vùng văn hoá Huế.
+ Đặc điểm chung của vùng văn hoá Trung Bộ:
Khác với Nam Bộ được khai phá muộn hơn, khác với Bắc bộ là địa bàn tụ cư và khai thác lâu đời của người Việt, vùng Trung Bộ một thời kì dài thuọc các tiểu quốc của vương quốc Chămpa trước khi người Việt vào nơi này. Nền văn hoá Chămpa một thời rạng rỡ như một ánh hào quang hắt lên mặt nước trong buổi chiều tà. Vì vậy, đặc điểm thứ nhất của vùng văn hoá Trung Bộ phải là một vùng đất chứa nhiều dấu tích văn hoá Chămpa.
Dọc miền Trung, nhiều di sản văn hoá hữu thể còn tồn tại trên mặt đất. Đó là các tháp Chăm phơi sương gió cùng năm tháng. Lịch sử đi qua bao nỗi thăng trầm, cuộc đời phải trải qua con dâu bể, tháp Chăm vẫn sừng sững như một dấu tích không thể phai mờ. Ở Huế theo tác giả Trần Đại Vinh còn tháp đôi Liễu, Cốc Thượng, tháp Núi Rùa. Ở Quảng Nam, Đà Nẵng tại Mỹ Sơn đã có 7 tháp “đại diện tiêu biểu cho tất cả các giai đoạn và phong cách nghệ thuật kiến trúc Chămpa”, tại Bằng An có 1 tháp tại Đồng Dương có một tháp, tại Chiên Đàn có 3 tháp, tại Khương Mỹ có 3 tháp… Có thể nói, khó có vùng văn hoá nào ở nước ta lại có nhiều tháp Chăm như ở Trung Bộ.
Ngoài các tháp, di vật văn hoá Chămpa còn trên mặt đất, trong lòng đất khá nhiều. Đó là các tượng bà Pô Nagar, tuợng chó, đặc biệt là tượng linga, yoni, các phù điêu, trụ đá, bia đá…
Cùng các di sản văn hoá hữu thể, vùng Trung Bộ còn khá nhiều các di sản văn hoá vô thể của văn hoá Chămpa. Đó là các tín ngưỡng dân gian của người Chăm như thờ bà mẹ xứ sở, thờ cá voi, thờ thần biển…
Mặt khác, Trung Bộ là vùng đất được người Việt khai phá theo kiểu tiệm tiến. Sự cộng cư với người Chăm, thái độ ứng xử với những vốn văn hoá hiện diện trên mặt đất tàng ẩn dưới lòng đất theo bản chất hiền hoà của người Việttạo cho sự giao lưu văn hoá ở đâycó những điểm khác biệt. Trước hết, người Việt tiếp nhận những di sản văn hoá của người Chăm, Việt hoá biến thành di tích văn hoá của mình. Tháp Chăm, đền Chăm khi người Chăm ra đi thì người Việt thờ cúng, sử dụng. Chẳng hạn như tháp Bà ở Nha Trang vốn là một ngôi tháp của người Chăm, được người Việt sử dụng, coi như nơi thờ tự linh thiêng của tín ngưỡng thờ Mẫu- một tín ngưỡng của người Việt.
Tiêu biểu cho quá trình tiếp biến văn hoá ở Trung Bộ của người Việt là tiếp thu tín ngưỡng bà mẹ xứ sở (Po Yan Ina Nagar) của người Chăm. Với tín ngưỡng thờ Mẫu ẩn trong tâm thức, khi vào Trung Bộ, người Việt gặp tín ngưỡng này của người Chăm, họ đã tiếp thu các nữ thần Chăm và chuyển hoá thành các nữ thần Việt. Nữ thần Mưjưk của người Chăm được biến thành bà Chúa Ngọc. Câu chuyện mà Phan Thanh Giả ghi trên bia kí ở sau Tháp Bà là câu chuyện đã Việt hoá sự tích một nữ thần Chăm tại điện Hòn Chén, thánh mẫu Vân Hương (tức thánh mẫu Liễu Hạnh) được đưa vào điện thần cùng với bà chúa Ngọc. Nói khác đi là, sự tiếp biến văn hoá đã khiến diện mạo tín ngưỡng của người Việt ở Trung Bộ thay đổi so với người Việt ở Bắc Bộ.
So với thiên nhiên Bắc Bộ và Nam Bộ, Trung Bộ là vùng đệm, mang tính chất trung gian. Vì thế, sự phản ánh thiên nhiên đa dạng của một vùng đất là đặc điểm thứ ba của vùng văn hoá này. Yếu tố sông, biển, đồng bằng, đầm phá, núi non đều ánh xạ vào trong các thành tố văn hoá, từ diện mạo đến các phương diện khác. Với Trung Bộ, làng làm nông nghiệp tồn tại đan xen với làng của ngư dân. Bên cạnh lễ cúng đình của làng nông nghiệp là lễ cúng cá ông của làng làm nghề đánh cá. Điều này là lẽ đương nhiên, bởi lẽ đồng bằng Trung Bộ thường là đồng bằng nhỏ hẹp, sát biển.
Trong văn hoá đời thường, bữa ăn của cư dân Việt Trung Bộ đã bắt đầu có sự thay đổi, nghiêng về các hải sản, đồ biển. Nói cách khác, yếu tố biển đã đậm đà hơn trong cơ cấu bữa ăn của cư dân ở nơi đây. Mặt khác, người dân Việt Trung Bộ do tính chất khí hậu, nói rộng hơn là điều kiện tự nhiên chi phối nên sử dụng nhiều chất cay trong bữa ăn.
Tóm lại, vùng văn hoá Trung Bộ có những đặc điểm riêng của mình khi đặt trong tương quan với các vùng văn hoá khác.
+ Tiểu vùng văn hoá xứ Huế:
Thiên nhiên đã tạo cho xứ Huế một diện mạo riêng. Đó là một vùng Huế núi đồi mà nhà Nguyễn cùng sức muôn dân đã tạo ra một khu lăng tẩm đế vương. Đó là một vùng Huế cồn bãi đôi bờ Hương Giang cùng các nhánh sông Bạch Yến, An Cựu, Kim Long (nay đã bị lấp nhiều). Đi lại cũng là một vùng Huế đầm phá với phá Tam Giang, Hà Trung, Cầu Hai. Nói khác đi, xứ Huế là một vùng thiên nhiên đa dạng: có rừng, biển, núi lại có cả đồng bằng. Mặt khác lịch sử lại đem đến cho vùng đất này một số phận đặc biệt. Từ chỗ là phên giậu của Đại Việt, nơi địa đầu giao lưu với Chămpa đến chỗ thành thành dinh của nhà Nguyễn. Chính những điều kiện tự nhiên và biến đổi lịch sử ấy in dấu vào đời sống văn hoá vật chất lẫn tinh thần của xứ Huế, tạo cho nó một gương mặt riêng.
Nói tới xứ Huế là nói tới một hệ kinh thành còn giữ được tương đối hoàn chỉnh với hoàng thành, tử cấm thành, điện Thái Hoà, Long An, Ngọ Môn… đồng thời cũng nói tới hệ lăng tẩm với những lăng Gia Long, Minh Mạng, Triệu Trị, Tự Đức… và cũng nói tới một hệ chùa- đền như tháp Thiên Mụ, điện Hòn Chén, chùa Từ Đàm, Tuý Vân, Diệu Đế. Tất cả những di sản văn hoá vật thể này thể hiện một phong cách kiến trúc của xứ Huế vừa đa dạng vừa giàu có, thích ứng một cách kì lạ với thiên nhiên thơ mộng ở đây.
Cùng với các di sản văn hoá hữu thể, văn hoá vô thể xứ Huế là một kho tàng phong phú và quý giá. Trước hết là nghệ thuật biểu diễn: nền nhạc cung đình Huế, những điệu hò, điệu hát lí, hát trò, hát sắc bùa, những bài ca trên sông nước Hương Giang. Nét độc đáo của dân ca xứ Huế là âm sắc, ngữ âm địa phương không lẫn với vùng nào trên đất nước ta. Đồng thời ảnh hưởng của dân ca, âm nhạc Chămpa đối với dân ca xứ Huế là điều không thể phủ nhận.
Sau nữa, lễ hội dân gian xứ Huế vừa giống vừa khác với lễ hội dân gian ở đồng bằng Bắc Bộ, ở lễ hội dân gian gắn với tục thờ cúng cá voi, sự tiếp thu tín ngưỡng thờ cá voi của người Chăm rất rõ nét. Lễ hội điện Hòn Chén mang tính chất chung của lễ hội gắn với tục thờ Mẫu nhưng lại có nét riêng do việc người Việt tiếp nhận tục thờ nữ thần bà mẹ xứ sở của người Chăm.
Trong văn hoá đời thường, không thể không nhắc đến cách ăn, cách mặc của người Huế. PGS. Nguyễn Từ Chi rất chú ý đến tính chất vùng ngoại vi, trên biên của xứ Huế nên đã tìm ra được sự gắn bó giữa món ăn Mường với món ăn Việt trên đất Huế. Bếp ăn truyền thống của xứ Huế khá phong phú vì đã sử dụng một cách tổng hợp các sản vật của vùng đất có cả núi rừng lẫn đồng bằng và sông biển. Trang phục xứ Huế cũng có một phong cách riêng, chiếc áo dài, chiếc nón Bài Thơ, màu tím Huế đã trở thành một biểu tượng rất Huế mà ít vùng văn hoá nào có được.
Đặc biệt cần thấy rằng, nếu không tính từ thời chúa Nguyễn, chỉ tính riêng thời nhà Nguyễn 1802- 1945, Huế còn là trung tâm thu hút nhân tài của mọi miền đất nước cũng như là trung tâm giáo dục của cả Nguyễn, trung tâm sinh hoạt văn hoá, văn học. Những văn đàn, những thi xã như thi xã Mạc Vân, thi xã Hương Bình, Xóm Vĩ Dạ… là kết quả cũng là biểu hiện của trung tâm văn hoá này. Cũng do là một trung tâm văn hoá, nhiều trí thức, văn sĩ, nhà thơ đã gắn bó với xứ Huế, trưởng thành từ Huế trong thời nhà Nguyễn.
Tựu trung, xứ Huế là một tiểu vùng văn hoá nằm trong vùng văn hoá Trung Bộ nhưng có một sắc thái riêng tiêu biểu cho văn hoá Việt Nam thế kỉ XIX.
Di sản nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc đền tháp
Di tích đền tháp Champa được xây dựng dọc khắp các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Đối tượng được thờ phụng trong đền tháp là các vị thần của Ấn Độ giáo như Brahma, Visnu, Siva, bò thần Nadin và các biểu tượng Linga - Yoni. Ngoài ra, còn có các nữ thần, các thần linh, linh vật và Anh hùng dân tộc khi chết đi được người Chăm phong thần. Về kiến trúc tôn giáo, có 2 trung tâm thánh địa lớn là Thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam) và Thánh địa Cát Tiên (Lâm Đồng). Tại Ninh Thuận và Bình Thuận, người Chăm còn tiến hành cúng kính hằng năm trên đền tháp Po Klaong Garay, Po Ramê (Ninh Thuận), đền tháp Po Dam và Po Sah Anaih (Bình Thuận).
Các đền tháp ở Ninh Thuận và Bình Thuận được tôn vinh là di sản văn hóa sống. Đền tháp Hòa Lai và Po Klaong Garay đã được Thủ tướng Chính phủ trao Bằng xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt vào năm 2016. Những đền tháp Chăm có giá trị về lịch sử, nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc được đặt ngang hàng với Angkor Wat của Campuchia, Wat Phu của Lào và Borobudur của Indonesia. Phát huy giá trị di sản văn hóa Chăm, các đền tháp đã được chọn làm điểm đến, khai thác giới thiệu với du khách trong và ngoài nước nhằm phát triển du lịch cho địa phương. Hơn thế nữa, di tích đền tháp là điểm tham quan du lịch văn hóa tâm linh hấp dẫn, tạo cầu nối, liên kết phát triển du lịch xuyên quốc gia.
Di sản văn hóa tôn giáo
Người Chăm tiếp nhận nhiều tôn giáo, hình thành bản sắc văn hóa độc đáo và đa dạng. Trong đó, có cộng đồng Chăm Bàlamôn, cộng đồng Chăm Bàni và cộng đồng Chăm Islam.
Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, dân số người Chăm là 178.948 người. Trong đó, người Chăm theo tôn giáo Bàlamôn là 64.547 người. Tại Ninh Thuận, cộng đồng người Chăm Bàlamôn sinh sống thành 15 palei (tương đương với đơn vị thôn/làng). Hoạt động kinh tế chủ yếu của người Chăm là làm nông nghiệp trồng lúa nước và chăn nuôi. Trong sinh hoạt văn hóa, người Chăm Bàlamôn còn bảo tồn nhiều lễ hội truyền thống, tập tục cúng tổ tiên. Hằng năm, các chức sắc như Po Adhia (Cả sư, trụ trì đền tháp), bà Pajau (bà bóng), ông Kadhar (thầy kéo đàn kanyi và hát thánh ca) và ông Camanei (ông Từ, người quản lý y trang và thực hành nghi thức tắm tượng thần) tiến hành mở cửa tháp để các tín đồ mang lễ vật lên tháp dâng cúng thần linh.
Bên cạnh việc thờ phụng thần linh trên đền tháp, người Chăm Bàlamôn còn tổ chức nhiều tập quán tín ngưỡng liên quan đến lễ nghi nông nghiệp. Trong đó, có tín ngưỡng thờ Thần Lúa, được người Chăm coi trọng như là người mẹ của sự sung túc và hạnh phúc. Tín ngưỡng thờ thần lúa không chỉ xuất hiện trong văn hóa các tộc người ở Việt Nam, mà còn xuất hiện trong các quốc gia Đông Nam Á có nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước.
Cộng đồng Chăm Bàni sinh sống ở Ninh Thuận và Bình Thuận. Mỗi làng xây dựng một thánh đường (Sang magik) cho các tín đồ đến sinh hoạt và hành lễ. Đối tượng thờ phụng chính của người Chăm Bàni là Allah phát âm tiếng Chăm thành Awluah. Song song với việc thờ phụng đấng tối cao Awluah, người Chăm Bàni còn tập quán cúng kính tổ tiên (Éw muk kei) và các Yang thuộc hệ thống thần linh trên đền tháp. Đây là đặc điểm riêng chỉ người Chăm Bàni ở Ninh Thuận và Bình Thuận còn thực hành trong đời sống tín ngưỡng. Mỗi một dòng tộc cử ra một đại diện đứng vào hàng ngũ chức sắc Acar để tu hành, học tiếng Ả Rập qua quyển kinh Koran, tham gia hành lễ trong thánh đường và chăm lo việc hôn nhân, tang ma cho dòng tộc.
Chức sắc Acar chia ra nhiều cấp bậc từ thấp lên cao, bao gồm: Acar, Madin, Katip, Imam và Po Gru là người đứng đầu trong hàng giáo phẩm. Po Gru có vai trò tối cao quản lý và chỉ đạo toàn bộ các hoạt động liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo của người Chăm Bàni. Mỗi thánh đường có một vị Po Gru điều hành, khi Po Gru qua đời thì mới tôn chức Po Gru khác lên thay thế. Ngoài sinh hoạt tôn giáo tại thánh đường, người Chăm Bàni còn tổ chức lễ hội đầu năm mới (Rija Nagar) và các lễ múa trong hệ thống lễ Rija. Mặc dù, cộng đồng Chăm Bàni không tự nhận mình là người Hồi giáo nhưng vẫn thực hành việc thờ phụng đấng tối cao Awluah, lưu truyền quyển kinh Koran viết bằng tiếng Ả Rập và hành lễ chay tịnh vào tháng Ramâwan (Ramadan) như các tín đồ Hồi giáo trên thế giới. Bản sắc đó nói lên tính đặc thù riêng của người Chăm trong việc tiếp biến văn hóa Hồi giáo ở Đông Nam Á.
Cộng đồng Chăm Islam sinh sống tập trung nhiều ở các tỉnh An Giang, Tây Ninh, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Ninh Thuận. Riêng tại NinhThuận, tôn giáo Islam chỉ phát triển từ những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ XX. Hiện nay, ở Ninh Thuận đã có 4 thánh đường (Masjid) được đặt tên theo thứ tự số Thánh đường Hồi giáo 101, 102, 103 và 104. Người Chăm Islam có mối quan hệ mật thiết với cộng đồng Islam quốc tế. Đặc biệt là các nước ở Trung Đông, Indonesia và Malaysia.
Sự đa dạng về văn hóa và tôn giáo trong cộng đồng người Chăm ở Việt Nam là phương tiện thuận lợi để gắn kết về mặt kinh tế, văn hóa và giáo dục với cộng đồng ASEAN. Người Chăm Islam tiếp cận được với giáo dục tại Indonesia, Malaysia, Ả Rập thông qua con đường du học. Sau thời gian học tập, các du học sinh có cơ hội tìm việc làm tại các quốc gia Trung Đông, Đông Nam Á hay làm việc tại các công ty nước ngoài đóng tại Việt Nam, làm việc cho các đại sứ quán các nước có cùng chung tôn giáo Islam. Vì vậy, chính cộng đồng Islam sẽ kết nối với cộng đồng ASEAN trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và giáo dục. Đồng thời, cộng đồng Chăm Islam ở Việt Nam là trung tâm điểm để các nước ASEAN tìm đến tham quan, thúc đẩy hoạt động du lịch ở các địa phương phát triển.
Ngoài các di sản trên, người Chăm còn có hệ thống di sản lễ hội trên các đền tháp và các lễ nghi dòng tộc. Nổi bật nhất là Lễ hội Katê, Lễ hội Ramâwan và Lễ hội Rija Nagar. Khai thác và phát huy các giá trị văn hóa Chăm để làm cầu nối nhằm gắn kết với cộng đồng ASEAN là một con đường ngắn và thuận lợi nhất để hội nhập và phát triển.
Tương tự như miền Nam, người miền Trung xem hoa mai như biểu tượng ngày Tết. Mặc dù sắc vàng hoa mai không ngập tràn khắp mọi nẻo đường như khu vực Đông Nam Bộ, lục tỉnh Nam Kỳ. Thế nhưng, bạn vẫn dễ dàng bắt gặp các hàng mai nở rực rỡ trên từng con phố.
Hoa mai miền Trung có kích thước nhỏ hơn so với mai miền Nam. Thay vì trưng bày trong các chậu cây với hoa văn cầu kỳ, người miền Trung lại yêu thích sự bình dị, giản đơn hơn. Người miền Trung thường trồng hoa mai trước lối vào nhà hoặc cắm thêm vài nhánh nhỏ lên bàn thờ tổ tiên. Điều này tạo nên bầu không khí đậm đà sắc xuân nhưng lại rất đỗi gần gũi, thân thuộc.
Tuy nhiên, chỉ duy nhất cam và quýt là hai loại trái cây mà người miền Trung không trưng bày mâm ngũ quả. Bởi vì, họ tin vào quan niệm cam và quýt có ý nghĩa “cam đành quýt đoạn”, tức là “cam chịu, khổ ải”.
Mâm ngũ quả miền Trung có sự giao thoa rõ nét bởi hai nền văn hóa miền Nam - Bắc. Chính vì thế, cách trưng bày mâm ngũ quả vẫn tuân thủ theo nguyên tắc phong thủy “ngũ hành”: Phú - Quý - Thọ - Khang - Ninh. Cách bày biện của mâm ngũ quả Tết miền Trung khá đơn giản. Những quả to, nặng sẽ đặt ở dưới và quả nhỏ hơn được bày ở trên sao cho cân đối, vững chắc nhất có thể.
Ngoài ra, ở một số gia đình miền Trung trưng bày theo mâm ngũ quả miền Nam, với quan niệm “Cầu dừa đủ xài”. Năm loại hoa quả này được xem là một biểu tượng của một năm mới đầy đủ, ấm no và hạnh phúc.
Chợ Tết miền Trung thường bày bán chủ yếu các loại hoa Tết khác nhau đến từ mọi miền đất nước. Người dân thường có phong tục mua hoa mai, cúc, vạn thọ, quất,... về trưng bày, trang trí cho không gian nhà cửa thêm phần xuân sắc. Trước đêm 30 Tết, người miền Trung thường tham quan, mua sắm khắp các khu chợ để mang về cành mai thắm, mứt, kẹo, bao lì xì, trái cây,... cho ngày Tết.
Miền Trung luôn là vùng đất phải chịu khí hậu khắc nghiệt, thiên tai như: bão, lũ lụt, hạn hán kèm theo đất khô cằn. Chắc cũng vì thế mà miền Trung không được thiên nhiên “ưu ái” ban tặng các loại hoa quả đa dạng như 2 miền còn lại. Đây cũng là lý do mà người miền Trung không quá câu nệ vấn đề bày biện mâm ngũ quả ngày Tết.
Người dân thường chọn một số loại trái cây đặc trưng, phổ biến của vùng miền nhiệt đới như: Lựu, đào, dừa, sung, thanh long, táo, lê, dưa hấu,... Có thể thấy, người miền Trung không cầu kỳ trong cách bày biện mâm ngũ quả, có gì cúng đó. Theo quan niệm của họ, chỉ cần có lòng thành tâm, lòng biết ơn tổ tiên thì bất kỳ loại hoa quả nào cũng phù hợp.
Tuy nhiên, chỉ duy nhất cam và quýt là hai loại trái cây mà người miền Trung không trưng bày mâm ngũ quả. Bởi vì, họ tin vào quan niệm cam và quýt có ý nghĩa “cam đành quýt đoạn”, tức là “cam chịu, khổ ải”.
Mâm ngũ quả miền Trung có sự giao thoa rõ nét bởi hai nền văn hóa miền Nam - Bắc. Chính vì thế, cách trưng bày mâm ngũ quả vẫn tuân thủ theo nguyên tắc phong thủy “ngũ hành”: Phú - Quý - Thọ - Khang - Ninh. Cách bày biện của mâm ngũ quả Tết miền Trung khá đơn giản. Những quả to, nặng sẽ đặt ở dưới và quả nhỏ hơn được bày ở trên sao cho cân đối, vững chắc nhất có thể.
Ngoài ra, ở một số gia đình miền Trung trưng bày theo mâm ngũ quả miền Nam, với quan niệm “Cầu dừa đủ xài”. Năm loại hoa quả này được xem là một biểu tượng của một năm mới đầy đủ, ấm no và hạnh phúc.
Do ảnh hưởng từ thời tiết, khí hậu nên mâm cỗ Tết miền Trung có cách bày trí khác biệt, đặc trưng riêng. Các món ăn chia thành các đĩa nhỏ, mỗi thứ một ít và bày trí trên mâm tròn dưới tinh thần tiết kiệm, đùm bọc của con người miền Trung. Những món ăn không thể thiếu trong mâm cỗ truyền thống miền Trung, bao gồm: Bánh tét, dưa món, nem chua, tré, thịt heo,...
Bên cạnh đó, một vài gia đình miền Trung còn thêm vào các món mặn để bữa cơm đoàn viên thêm phần phong phú, hấp dẫn như: Thịt thuộc, gà luộc, cá hấp,...
Truyền thống nấu bánh tét
Nếu bánh tét là món bánh đặc trưng của miền Nam thì bánh chưng lại đại diện có Tết miền Bắc. Vậy người miền Trung thường nấu bánh gì? Câu trả lời là bánh tét nhé! Phong tục Tết miền Trung thường dâng lễ tổ tiên bằng bánh tét. Tương tự như bánh tét miền Nam, bánh chủ yếu được gói bằng lá chuối với các nguyên liệu như nếp, đậu xanh, thịt mỡ.
Bánh tét vừa có mùi thơm ngào ngạt của vị nếp mới, vừa đậm đà hương vị quê hương của thịt mỡ, lá chuối. Bánh tét được trưng bày thành kính trên bàn thờ tổ tiên như một sự tượng trưng cho sợi dây gắn kết tình thân, lòng biết ơn đến cha ông. Đồng thời, đây còn được xem là ước vọng cho một năm ấm no, hạnh phúc và bình an.
Không chỉ ở miền Bắc, miền Nam, phong tục lì xì là nét đặc trưng không thể thiếu trong văn hóa miền Trung. Những hầu bao đỏ thắm tượng trưng cho lời cầu chúc may mắn, phát đạt. Ở miền Trung, ông bà, cha mẹ thường tặng con cháu lì xì kèm theo những lời chúc ngoan ngoãn, học giỏi. Bên cạnh đó, họ còn gọi bao lì xì là “tiền mừng tuổi”.
Văn hóa biển - Duyên hải nam Trung bộ
Duyên hải Nam Trung Bộ là phần đất của tám tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận. Trên dãi đất hình chữ S, đây là phần đất “nhô ra nhiều đầu nối”, “vươn ra biển”, là nơi đón ánh bình minh đầu tiên… mà với thế đất như vậy trên thế giới thường thấy là “giao điểm động”, là nơi gặp gỡ của các luồng văn hóa, văn minh.
Trên bản đồ hàng hải của “Người Bồ Đào Nha trên bờ biển Việt Nam và Champa”, chúng ta thấy từ thế kỷ 16-17 người Bồ (gần như làm chủ giao thương Viễn Đông) đã đi lại rất nhiều trên vùng biển duyên hải Nam Trung Bộ, trong khi đó đối với vùng biển Tây Nam Bộ và vịnh Bắc Bộ gần như họ rất ít ghé. Hầu hết các “bến đỗ” trong hành trình của người Bồ trên lãnh hải Việt Nam là từ Malaysia đến Côn Đảo (Pulo Condor), Nước Mặn (Nehorman/ Quy Nhơn), Hội An (Faifo), Cù Lao Chàm (Champello) rồi sang Ma Cao, Quảng Đông (Trung Quốc)… Vài thập niên trở lại đây người ta đã phát hiện khá nhiều tàu cổ bị chìm trên biển, hầu hết là tàu buôn, chở hàng hóa, gốm sứ, có niên đại cách nay ba bốn trăm năm... Các tàu cổ được phát hiện đó chủ yếu trên vùng biển Nam Trung Bộ. Ở vùng biển Đông Nam Bộ chỉ mới phát hiện một chiếc còn chưa thấy phát hiện tàu cổ chở hàng hóa nào bị chìm trong vùng vịnh Bắc Bộ. Điều đó có thể làm người ta liên tưởng rằng vùng biển nào phát hiện được nhiều tàu đắm chứng tỏ có mật độ tàu đi lại nhiều hơn không phải là không có cơ sở.
Nam Trung Bộ vốn là phần đất của Vương quốc Champa. So với nhiều quốc gia khác ở vùng Đông Nam Á, Champa lập quốc muộn, nhưng sau đó một vài thế kỷ, Champa đã có bước phát triển rực rỡ, là một trong những vương quốc phồn thịnh của vùng Đông Nam Á đương thời. Người Chăm vốn có truyền thống đi biển. Biển đã trở thành con đường giao lưu hàng hóa và văn hóa, đưa Champa đến với thế giới bên ngoài. Từ giữa thiên niên kỷ thứ nhất, tàu thuyền của người Chăm đã vượt đại dương đến những vùng đất xa xôi. Người Chăm đã đến Ấn Độ giao thương, buôn bán và đã biết đến văn minh Ấn Độ. Sự phát triển đời sống, nhất là đời sống văn hóa tinh thần của người Chăm rõ ràng có phần từ những chuyến vượt biển với ý thức chủ động tiếp thu thành tựu văn minh rực rỡ bên ngoài. Chính sự tiếp thu đó giúp Champa trong thời gian ngắn đã có bước phát triển vượt bậc, để lại những di sản văn hóa phong phú, đa dạng có một không hai cho hậu thế, trong đó nổi bật là Thánh địa Mỹ Sơn, một trong những địa chỉ quan trọng kết nối, hình thành Con đường di sản thế giới miền Trung…
Người Việt bấy giờ thực sự chưa có truyền thống khai thác nguồn lợi biển như người Chăm. Những hải trình xa xôi trên biển đến những vùng đất mới chưa thấy nói tới đối với người Việt. Dù còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng một điều dễ thừa nhận là trong thiên niên kỷ đầu công nguyên, trong khi người Chăm đã định hình văn hóa biển thì những yếu tố văn hóa biển của người Việt còn hết sức mờ nhạt, ngay cả đối với vùng duyên hải Bắc Bộ.
Trong quá trình di cư từ vùng đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ vào Nam Trung Bộ, người Việt không chỉ “giáp mặt với biển” trong quá trình di chuyển mà dãi đất Trung Bộ nhỏ hẹp, sau lưng là núi cao rừng thẳm, như bức trường thành không lối mở, trước mặt là biển buộc họ không chỉ sống với nghề trồng tỉa trên đất mà còn biết dựa vào biển, gắn với biển và sống trên biển: đánh bắt hải sản và mở hải trình giao thương. Biển trở thành “đại lộ” giúp họ vận chuyển, trao đổi hàng hóa của xứ sở mới dồi dào tài nguyên và của cải họ sản xuất được... Nam Trung Bộ của Đàng Trong với những Đà Nẵng, Hội An, Quy Nhơn, Nước Mặn… không chỉ là nơi xuất phát của thương nhân người Việt mà còn là những địa chỉ hấp dẫn, điểm đến của thuyền buôn ngoại quốc, từ Nhật Bản, Trung Hoa đến Bồ Đào Nha, Hà Lan… suốt nhiều thế kỷ. Những cảng thị lần lượt ra đời trên đất Đàng Trong, kết nối các vùng đất khác nhau của Nam Trung Bộ với thế giới bên ngoài (dường như là nhiều hơn ra Bắc-do nội chiến hay vào Nam-vì chỉ mới được khai phá bước đầu).
Trên nền văn hóa biển của cư dân bản địa sinh sống trước đó với những tập tục, tín ngưỡng phù hợp với phong thổ bản địa, lưu dân Việt trực tiếp tiếp xúc và đã diễn ra qua trình tiếp biến văn hóa. Một mặt chính cuộc sống gắn với biển, nghề nghiệp khai thác nguồn lợi biển; mặt khác chính tầng văn hóa biển trầm tích bản địa đã sớm tạo cho cư dân Việt duyên hải Nam Trung Bộ định hình những yếu tố văn hóa biển trên cơ sở đó phát triển văn hóa biển. Văn hóa hóa biển Nam Trung Bộ định hình trong hành trình nam tiến, rõ ràng hơn thời các chúa Nguyễn, khi đất nước chia cắt Đàng Trong - Đàng Ngoài và phát triển thời các vua Nguyễn. Đây cũng là thời kỳ chúng ta thấy đã diễn ra quá trình chuyển đổi nhanh chóng và “triệt để” giữa người Chăm và người Việt trong khai thác nguồn lợi biển. Trong khi người Việt trên dãi đất Nam Trung Bộ từng bước làm chủ biển cả thì người Chăm vốn có truyền thống đi biển với một bề dày văn hóa biển lại “lùi xa vào đất liền”, biển như một địa bàn chưa từng “liên quan”. Đồng thời cũng có một “diễn biến” khác: một đời sống đậm chất văn hóa biển của lưu dân Việt dọc duyên hải Nam Trung Bộ đã đưa đến nhiều điểm khác biệt với văn hóa truyền thống bản quán. Rõ ràng Nam Trung Bộ đã có những yếu tố văn hóa biển “đến trước một bước” so với các vùng miền khác.
Nam Trung Bộ là địa bàn giàu tài nguyên du lịch, có thể nói là vùng đất có nguồn tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng bậc nhất của cả nước[1]. Đầu năm 2002, lần đầu tiên Paul Stoll đã đưa ra ý tưởng/ khái niệm “Con đường di sản thế giới miền Trung”. Đây là một chương trình du lịch có tầm quốc tế, mở ra khả năng kết nối và quảng bá thế mạnh văn hóa Việt ra thế giới bên ngoài vốn là điểm yếu của du lịch Việt Nam nói chung và du lịch miền Trung nói riêng trước đó. Con đường di sản thế giới miền Trung sau đó không chỉ là sự nối kết của các di sản thế giới như Phong Nha-Kẻ Bàng, Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn mà còn thu hút hơn trăm thành viên từ Nghệ An đến Khánh Hòa, rồi Lâm Đồng cùng hàng chục đối tác trong và ngoài nước tham gia. Và như vậy “đại lộ du lịch” miền Trung không chỉ dừng lại ở những di sản thế giới ngay cả đối với những vùng đất có di sản thế giới mà còn mở ra rất nhiều cơ hội cho những di sản văn hóa khác chưa lọt vào danh sách di sản thế giới của miền Trung cũng trở thành những địa chỉ độc đáo rất đáng để khách du lịch dừng chân. Vốn văn hóa biển lâu đời, có nhiều nét độc đáo của Nam Trung Bộ cũng vì thế có điều kiện để khai thác và giới thiệu với du khách. Văn hóa biển Nam Trung Bộ không chỉ là những yếu tố của tín ngưỡng, lễ nghi, của lễ hội nghinh Ông, lễ hội Cầu ngư, Thủy long Thần nữ… mà còn là tập tục, nếp sống, sinh hoạt, lao động sản xuất… của những vạn chài, làng chài, phố chài…
Suốt dọc duyên hải Nam Trung Bộ, từ sau Tết cho đến quá giữa năm du khách có thể được tham quan những lễ hội độc đáo, đậm chất văn hóa biển. Đà Nẵng, đô thị phát triển bậc nhất của miền Trung vẫn bảo tồn nhiều lễ hội cộng đồng của cư dân các ngành nghề, trong đó nổi bật lễ Cầu ngư ở Sơn Trà, Thanh Khê… Các loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian, các trò chơi sôi động, hấp dẫn, như hát bội, bài chòi, hát hò khoan đối đáp, đua ghe, đấu vật, đua thuyền, thi nấu cơm, làm bánh… thu hút hàng ngàn người tham dự.
Ở Quảng Nam, nổi bật với lễ hội cúng cá Ông, lễ hội Cầu Bông, bên Cửa Đại, rất gần trung tâm phố cổ Hội An đang thu hút nhiều du khách nước ngoài…
Ngãi cũng có rất nhiều lễ hội cá Ông, nhưng nổi bật, thu hút sự quan tâm có lẽ là lễ Khao lề Thế lính (không chỉ thể hiện một cách độc đáo truyền thống uống nước nhớ nguồn, khơi gợi ý thức, trách nhiệm cộng đồng mà còn giúp ích cho việc hiểu biết đời sống sinh hoạt văn hóa, quan niệm tín ngưỡng của cư dân biển đảo Nam Trung Bộ).
Lễ hội cầu ngư gắn liền hình thức diễn xướng hát Bả trảo có lẽ là hình thức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng nổi bật của ngư dân Bình Định. Nội dung bài hát Bả trạo cấu trúc chặt chẽ, tái hiện khá trọn vẹn, sâu sắc quan niệm, cuộc sống, sinh hoạt, lao động sản xuất trên biển của ngư dân Bình Định tiêu biểu cho dòng Bả trạo miền biển Nam Trung Bộ.
Ở Phú Yên, lễ hội sông nước Tam Giang, lễ hội đầm Ô Loan, lễ hội Cầu ngư… bên cạnh những nghi thức tín ngưỡng riêng có là những hoạt động đậm chất văn hóa biển địa phương, như đua thuyền, kéo co dưới nước, thả hoa đăng, múa siêu, sõng chài, sõng lưới, sõng chống sào, lắc thúng chai… hấp dẫn, thu hút hàng ngàn người tham dự…
Ở Khánh Hòa cũng có lễ hội cá Ông như các địa phương láng giềng. Nhưng điểm riêng có có lẽ là lễ hội Yến Sào (nơi diễn ra lễ hội là miếu thờ Bà Chúa đảo Yến, Hòn Nội-một chuyến đi thuyền ra Hòn Nội dự lễ Yến Sào chắc chắn là hấp dẫn đối với khách du lịch). Festival Biển Nha Trang hai năm một lần là một sản phẩm văn hóa du lịch khá thành công, nhưng cũng cần được chú y khai thác nhiều hơn những yếu tố văn hóa biển không chỉ của riêng Khánh Hòa mà của cả vùng đất Nam Trung Bộ…
Ninh Thuận nổi bật với những lễ hội của người Chăm mà ở đó người ta có thể nhận thấy dấu vết trầm tích văn hóa biển truyền thống. Bình Thuận, cực nam của Nam Trung Bộ nổi tiếng với lễ hội Nghinh Ông (thần cá voi), nghinh Ông - Quan Thánh Đế Quân, được xem là lễ hội nghinh Ông lớn nhất Việt Nam…
Chúng ta vẫn thường quan tâm, giới thiệu và tự hào về những nét đẹp truyền thống, thái độ ứng xử nhân văn của ngư dân trước biển (đối với các loại sinh vật biển, với bạn xưa lái cũ)… nhưng thử hỏi đã có địa phương nào tổ chức để khách du lịch trong nước và quốc tế được nhìn tận mắt nghi thức nghinh cúng Ông (thần cá voi), nghinh cúng Bà (Thủy Long thần nữ) trên biển? Chính những vạn chài, làng chài Nam Trung Bộ đã góp trên 20% sản lượng đánh bắt hải sản của cả nước. Phố chài Nam Trung Bộ tuy không nhiều nhưng đã thể hiện sự sinh động của quá trình đô thị hóa cũng như sự chuyển đổi văn hóa, xã hội trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa của vùng duyên hải Nam Trung Bộ mà ở đó tập tục, truyền thống không những được duy trì mà còn có sự dày công tìm tòi, phát hiện, phục dựng di sản văn hóa truyền thống đã và đang bị mai một (những hoạt động văn hóa trên đảo Lý Sơn gần đây là một ví dụ nổi bật, cần tạo cơ hội cho khách du lịch quốc tế biết đến nhiều hơn).
Những năm gần đây, một số làng tộc người miền núi được đầu tư xây dựng thành điểm du lịch sinh thái, văn hóa tộc người. Sự đầu tư những khu du lịch như thế ngoài đầu tư cơ sở vật chất còn phải ưu tiên cho cơ sở hạ tầng, rất tốn kém. Một số làng nghề thủ công truyền thống cũng đã được quan tâm tổ chức thành điểm tham quan, du lịch, nhưng gần như chưa thấy có điểm du lịch văn hóa biển nào được quan tâm đầu tư. Xác định chiến lược phát triển kinh tế biển, xây dựng nền kinh tế biển (tương xứng với tiềm năng biển) Việt Nam thế kỷ XXI không thể không quan tâm đến văn hóa biển một cách thực tế.
Có một câu hỏi có lẽ sẽ được quan tâm là trên dãi đất tám tỉnh Nam Trung Bộ liệu có sự độc đáo, riêng có nào cho từng địa bàn khả dĩ hấp dẫn khách du lịch khi hành trình đến với loại hình văn hóa biển? Ở miền Tây Nam Bộ, thế mạnh nổi bật trở thành nguồn lực độc đáo để phát triển du lịch là du lịch sinh thái miệt vườn. Nhưng du khách thấy khi đi du lịch từ Tiền Giang qua Bến Tre về Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng v.v người ta thấy đó là “nét độc đáo phổ biến” từ tên gọi cho đến cách thức tổ chức, đối tượng tham quan: đến Tiền Giang gặp tour Về với Đồng bằng sông Cửu Long; sang Bến Tre chỉ cách đó một dòng sông lại gặp Du thuyền trên sông Mékong; đến Vĩnh Long vẫn Về cùng văn minh sông nước miệt vườn; rồi sang Cần Thơ (cũng chỉ cách một con sông) lại tiếp tục là Du lịch sông nước, nhà vườn, chợ nổi… Về cách thức tổ chức và “các món” mà du khách được thưởng lãm chỉ là đi thuyền trên sông Mékong, chèo xuồng trong rạch, lên vườn ăn trái cây, tát nước (mương) bắt cá, nghe đàn ca tài tử… Một hành trình du lịch chỉ mấy ngày mà du khách không nhận được điều mới lạ từ các địa phương, cảm thấy như có sự copy lẫn nhau, chỉ cần đi một tỉnh và một điểm là đủ. Như vậy thật khó hình dung tầm vóc văn minh miệt vườn, tầm vóc văn hóa Mékong Việt Nam. Địa lý môi sinh và sắc thái văn hóa đồng nhất, có điều kiện tương đồng của Đồng bằng sông Cửu Long vừa thuận lợi nhưng cũng hết sức khó khăn cho việc tổ chức hoạt động du lịch nếu chỉ dừng lại phạm vi từng địa phương mà thiếu đi sự kết nối vùng…
Dẫn chứng từ cách làm du lịch Đồng bằng sông Cửu Long chúng tôi muốn lưu ý hai điểm. Thứ nhất, trên dãi đất kéo dài chừng 800km, văn hóa biển Nam Trung Bộ là tổng thể thống nhất với những yếu tố, biểu hiện độc đáo, khác nhau. Thứ hai, sự kết nối vùng của Con đường di sản thế giới miền Trung là một thương hiệu, một thuận lợi lớn để văn hóa biển cũng như những di sản khác trở thành sản phẩm của “Con Đường”. Nhưng các sản phẩm đó phải được quy hoạch trên một tổng thể chung ở quy mô cấp vùng, miền. Từ những nét tương đồng, văn hóa biển Nam Trung Bộ là một sản phẩm văn hóa du lịch của tám tỉnh nhưng mỗi tỉnh quan tâm đầu tư, khai thác ưu thế, nét riêng của địa phương, tạo thành chuổi địa chỉ độc đáo, hấp dẫn, riêng có trong hành trình khám phá văn hóa biển Nam Trung Bộ.
Với một dãi đất hẹp, nằm trên trục giao thông có đầy đủ “không, sắt, thủy, bộ” thuận lợi, những di sản văn hóa như dựa lưng vào non xanh, quay mặt ra biển thì biển như cửa ngõ để khám phá vùng đất này. Du lịch duyên hải-biển-đảo, hành trình khám phá văn hóa biển phải thực sự trở thành thế mạnh, nguồn lực phát triển của Nam Trung Bộ. Hành trình khám phá lịch sử Nam Trung Bộ cũng là Hành trình khám phá văn hóa biển - “slogan” đó cũng là thế mạnh du lịch, làm phong phú thêm Con đường di sản thế giới miền Trung.