1. Thế nào là phong tục tập quán?
Ai cũng đã từng ít nhất một lần nghe qua về phong tục, tập quán nhưng bạn có thực sự hiểu rõ về chúng? Phong tục, tập quán thường đi đôi với nhau và khiến chúng ta dễ nhầm lẫn giữa hai thuật ngữ này, gây khó khăn cho việc phân biệt rạch ròi.
Phong nghĩa là nề nếp, trật tự đã lan truyền rộng rãi, tục là một thói quen lâu đời. Phong tục được hiểu nôm na những thói quen đã xuất hiện từ lâu trong mọi hoạt động, đời sống của con người, được lặp đi lặp lại thành thói quen tốt đẹp, lan truyền phổ biến, sâu rộng từ xưa đến nay. Sau đó, truyền bá rộng rãi bắt đầu từ địa phương đến phạm vi toàn quốc rồi ra thế giới theo chiều không gian.
Phong tục thường được áp dụng linh hoạt hơn so với tập quán, dù không phải nguyên tắc bắt buộc nhưng không có nghĩa là được sử dụng một cách tùy tiện và bị thay đổi mạnh mẽ như các hoạt động hằng ngày hay mối quan hệ đời thường.
Còn tập quán được hiểu là những tập tục phát sinh từ hành vi ứng xử giữa người với người, được ấn định và xem như dấu ấn nổi bật. Từ đó, trở thành lối sống, nề nếp của cá nhân trong một cộng đồng. Không giống như phong tục, tập quán mang tính bất biến, bền vững hơn nhiều và rất khó thay đổi.
Một khi phong tục được coi là chuẩn mực ứng xử và sinh hoạt ổn định thì nó sẽ trở thành tập quán xã hội bền vững. Vì vậy, có thể hiểu rằng phong tục – tập quán rất khó tách rời nhau, chúng đều là thói quen sinh hoạt của con người, hình thành từ lâu đời, được cộng đồng công nhận và hưởng ứng.
2. Giới thiệu một số phong tục tập quán Việt Nam nổi bật vẫn còn tồn tại
a. Phong tục, Lễ nghi
* Tục Ăn trầu
Ăn trầu là thói quen đã trở thành biểu tượng văn hóa của người Việt, gắn liền với truyện cổ tích Trầu Cau. Hình ảnh miếng trầu đã đồng hành trong đời sống hằng ngày của con người từ xa xưa. Người lớn tuổi thường nói: “Miếng trầu là đầu câu chuyện” để thể hiện lòng hiếu khách.
Bên cạnh đó, nó còn tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, là sợi dây gắn kết mối quan hệ vợ chồng. Không chỉ vậy, miếng trầu còn thể hiện sự tôn trọng mà thế hệ sau dành cho thế hệ trước, thế nên luôn phải bày trầu cau trên bàn thờ tổ tiên,…
Dù thói quen nhai trầu hiện không còn phổ biến như trước nhưng nó đã trở thành một trong 100 phong tục tập quán Việt Nam tốt đẹp, tồn tại mãi mãi trong tâm hồn người Việt.
* Tục Hút thuốc lào
Hút thuốc lào là một nét văn hóa đặc trưng của tầng lớp xã hội nông dân khu vực làng quê thời phong kiến ở Việt Nam. Hầu như nhà nào cũng có sự xuất hiện của thuốc lào. Nếu “miếng trầu khởi đầu câu chuyện” thì việc hút thuốc lào chính là “màn dạo đầu” cho những cuộc hội ngộ, tương phùng.
Nhuộm răng đen là một tục lệ lâu đời, xuất hiện từ thời Hùng Vương, tồn tại suốt mấy ngàn năm trong lịch sử văn hóa của người Việt. Đây vốn là phong tục cổ truyền không chỉ của cư dân người Việt mà còn tồn tại ở cộng đồng các dân tộc như Thái, Mường, Dao, Lự, Si La,…Trong cộng đồng người Việt, tục nhuộm răng đen chủ yếu chỉ phổ biến ở khu vực miền Bắc và miền Trung, còn ở miền Nam không thấy dấu vết của phong tục này.
Theo quan niệm thẩm mỹ xưa thì hàm răng đen được coi là chuẩn mực của cái đẹp không chỉ riêng đối với phụ nữ mà ngay cả nam giới cũng vậy, tuy ở nam giới ít hơn. Do đó, vẻ đẹp của hàm răng đen đã dần được đưa vào ca dao, thi ca như một chuẩn mực về nét đẹp của phụ nữ Việt Nam:
Răng đen ai nhuộm cho mình
Cho duyên mình đẹp, cho tình anh say?
Được xếp thứ 4 trong 10 chuẩn mực đo nét duyên của người con gái:
Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng láng hạt huyền kém thua.
Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm ra đời trong hoàn cảnh nhà thơ nghe tin giặc Pháp tàn phá quê hương, bao hình ảnh thân thương của làng quê đang bị quân giặc giày xéo hiện lên trong trí óc nhà thơ, trong đó có nụ cười của cô gái Kinh Bắc:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng.
Không chỉ là chuẩn mực của cái đẹp, tục nhuộm răng đen trở nên phổ biến đến nỗi được coi là chuẩn mực đạo đức. Trong xã hội bấy giờ, người ta cho rằng người nào răng trắng là người không tử tế: “Song tục quen đã lâu, đàn ông trắng răng thì chẳng sao, chứ đàn bà nhà tử tế bây giờ mà trắng răng thì coi cũng khí ngộ một đôi chút” . Phan Khôi cũng từng dẫn lời của một nhà báo lấy biệt hiệu là Lư Sơn Chơn Tướng về vấn đề này: “Tôi từng đi đủ Trung – Bắc hai kỳ, tôi thấy những nhà thi lễ, tức là bậc thượng lưu trong xứ, thì đàn bà con gái của họ cũng đen răng, cho như thế là trang nghiêm mỹ lệ; còn trái lại, răng trắng thì cho là đồ ăn chơi đĩ thõa. Coi đó thì biết cái tục răng đen của người Nam là từ các đấng tiên dân bày ra và đã lâu đời lắm rồi, chẳng những cho là đẹp mà cũng lấy đó tỏ ra là nề nếp con nhà nữa…. Khắp nước Việt Nam, trừ xứ Nam kỳ ra, thì tôi thấy đâu đâu đàn bà con gái cũng đen răng hết, duy có những hạng vợ tây, vú, bồi, bếp gái ở với Tây thì mới hay để răng trắng mà thôi, thế thì cái tục ấy xấu tốt thế nào cũng đủ biết”.
Do lẫn lộn tục ta với tục của Tàu, Tú Lan cho rằng tục nhuộm răng của ta là từ Trung Quốc truyền sang, do thời đó người Trung Quốc vì không muốn người Nam lẫn với người Tàu, vì sợ thành ra bình đẳng thì khó bề cai trị đè nén, bởi vậy mà họ bắt buộc người Nam phải nhuộm răng cho phân biệt. Tuy nhiên, cũng có người không tán đồng quan điểm trên, trích lời Lư Sơn Chơn Tướng để cải chính lại: “Ở bên Tàu chúng tôi, những người nào chưa hề bước chơn qua đất nầy thì chẳng bao giờ ngờ được rằng người An Nam có răng đen. Hoặc giả có người nghe nói tục đó, rồi khi gặp người Hoa kiều nào ở bên nầy về, đến nỗi đem mà hỏi nhau rằng: “Người An Nam đen răng, có phải là trời sanh ra như vậy không?” Còn như thứ thuốc gì mà nhuộm cho đen răng, thì thật họ tịt mù, chẳng hề ai biết tới. Huống chi người Tàu chúng tôi đã vốn không có tục nhuộm răng, lại cũng không hề biết đến cái tục ấy nữa” .
Có nhiều người lại nhập nhằng giữa tục nhuộm răng đen và tục ăn trầu, họ cho rằng do ăn trầu nên răng mới đen chứ không xem răng đen là một phong tục riêng của người Việt: “Người Tàu cho rằng vì ăn trầu mà sinh ra tục nhuộm răng. Phần nhiều người Châu Âu tiếp xúc với người Việt Nam từ TK XIX trở về trước cũng cho rằng vì ăn trầu cho nên răng thành đen”. Tuy nhiên, cũng đã khẳng định: “Thực ra tục ăn trầu và tục nhuộm răng không có quan hệ gì với nhau, duy hai tục ấy đều khiến cho răng thành vững chắc” . Như vậy, cần phải khẳng định rằng, răng đen không phải là do ăn trầu. Bởi người ăn trầu mà không nhuộm răng thì răng có màu đỏ sẫm chứ không đen nhánh. Do đó, tục nhuộm răng đen là một nét văn hóa thể hiện quan niệm về cái đẹp của người Việt. Để có được hàm răng đen nhánh hạt huyền thì người ta cần phải trải qua nhiều công đoạn nhuộm công phu và cũng không kém phần gian nan chứ không phải do ăn trầu mà có.
Các công đoạn nhuộm răng đen
Theo phong tục người Việt, người ta chỉ bắt đầu nhuộm răng khi đã thay xong lượt răng sữa, đã có một số răng hàm. Không chỉ nữ giới nhuộm răng mà nam giới cũng nhuộm răng.
Nhuộm răng thường được chia làm 4 công đoạn:
Đầu tiên là phải làm sạch răng, thường kéo dài 3-5 ngày. Sau mỗi bữa ăn, người nhuộm răng phải đánh sạch răng bằng vỏ cau khô, có nơi còn dùng bột than củi. Sau đó xúc miệng kỹ bằng nước có tính axit mạnh như chanh hay dấm. Người Huế thì ngậm nước nấu từ lá cây sôn (một loại lá có vị chua). Trước khi đi ngủ có thể ngậm thêm vài lát chanh mỏng. Các biện pháp này đều có tác dụng làm sạch răng, axit sẽ làm mỏng bề mặt ngoài của men răng, giúp thuốc nhuộm dễ kết bám hơn.
Tiếp theo là công đoạn nhuộm đỏ răng. Người ta dùng bột nhựa cánh kiến tán nhỏ, vắt chanh vào rồi để kín trong 7 ngày cho chất chua của chanh thấm vào bột cánh kiến. Có thể thay chanh bằng giấm gạo hoặc rượu gạo. Dùng hỗn hợp này quết vào mảnh lá dừa hoặc lá cau, đợi lúc đi ngủ áp vào hai hàm răng. Làm nhiều lần như vậy cho đến khi màu cánh kiến ăn dần vào răng, màu răng chuyển dần sang đỏ thẫm là được.
Sau khi răng lên màu đỏ như ý muốn, người ta bắt đầu công đoạn nhuộm đen. Lúc này vẫn dùng bột cánh kiến, nhưng hòa với phèn đen, rồi cũng quết hỗn hợp này lên lá dừa hoặc lá cau, đợi khi đi ngủ thì áp vào răng. Lần nhuộm đen chỉ cần độ 2 đêm là được.
Cuối cùng là công đoạn chiết răng. Công đoạn này có tác dụng giữ màu đen cho răng. Người ta lấy gáo dừa già đã phơi khô để lên con dao rồi đốt cho gáo dừa chảy ra thứ nhựa đen sền sệt, rồi lấy nhựa đó phết vào răng, răng sẽ có màu đen bóng và lâu phai.
Trong giai đoạn nhuộm răng, người nhuộm răng không những phải trải qua nhiều công đoạn phức tạp, mất nhiều thời gian, công sức mà còn phải chịu đau đớn về thể xác. Vì thuốc dùng để nhuộm răng là những chất nồng, cay nên thường làm cho môi, lưỡi, lợi của người nhuộm bị sưng tấy khiến người nhuộm rất vất vả trong ăn uống. Bên cạnh đó, để tránh làm phai màu thuốc lúc thuốc vẫn chưa bám chặt vào răng, trong quá trình nhuộm, người nhuộm răng phải kiêng khem đủ thứ, không được ăn đồ nóng, cứng, đôi khi ăn mà không dám nhai, chỉ dám nuốt chửng, thường là chỉ ăn những thức ăn mềm lỏng như cháo, bún,… Đợi đến khi chiết răng xong thì họ mới dám ăn lại bình thường.
Răng tuy đã chiết rồi, màu đã bám chắc rồi nhưng theo thời gian thì màu răng có thể sẽ bị phai bớt. Do đó người ta cần phải nhuộm lại. Đàn ông thì nhuộm lại độ 1,2 lần, còn phụ nữ thì mỗi năm nhuộm lại một lần, đến độ qua 30 tuổi cũng không nhuộm lại nữa.
Tục nhuộm răng thời bấy giờ được ưa chuộng đến mức trở thành một nghề để kiếm sống. Ngày xưa, ở nông thôn lẫn thành thị đều xuất hiện những thày nhuộm răng. Các thày nhuộm răng thường đi từ làng này sang làng khác để hành nghề, thường nhuộm tại nhà gia chủ. Ở thành thị như ở kinh đô Huế thì thày nhuộm thường hành nghề ở một địa điểm cố định, người nhuộm răng thường ăn ở tại nhà thày nhuộm trong quá trình nhuộm. Một số nhà thày nhuộm còn chuẩn bị cả những tiết mục mua vui để phục vụ người đến nhuộm răng.
Lịch sử tục nhuộm răng của người Việt
Theo nhiều tài liệu ghi chép lại thì tục nhuộm răng đen của người Việt có từ thời sơ sử (cách đây 4000 năm), giai đoạn hình thành nhà nước sơ khai Văn Lang – Âu Lạc. “Người Văn Lang có thói quen ăn trầu, nhuộm răng đen” và “cư dân Văn Lang, Âu Lạc đều có ý thức cùng chung một cội nguồn, một tổ tiên, một tập quán chung là nhuộm răng, ăn trầu”. Trong phần diện mạo văn hóa Đông Sơn có viết: “Tục ăn trầu, nhuộm răng đen và tục xăm mình rất phổ biến”. Hoặc Trần Quốc Vượng có đề cập: “Phong tục tập quán của người Đông Sơn rất đa dạng ví như tục nhuộm răng, ăn trầu”. Đặc biệt là trong các mộ thuyền, các nhà khảo cổ học Việt Nam tìm thấy người Đông Sơn đều nhuộm răng đen. Năm 1999, Bảo tàng lịch sử Việt Nam phối hợp với Sở VHTTDL Vĩnh Phúc đã tìm thấy bộ di cốt tại di chỉ Đồng Đậu thuộc Yên Lạc, Vĩnh Phúc còn gần như nguyên vẹn, khoảng 3500 tuổi, có dấu vết của tục nhuộm răng đen.
Đến thời Bắc thuộc, tục nhuộm răng đen vẫn còn được duy trì: “Do đã bắt rễ sâu vào các công xã nông thôn thời Văn Lang, Âu Lạc nên trong thời Bắc thuộc nói chung các phong tục tập quán của người Việt vẫn được duy trì và có sức sống mạnh mẽ. Cùng với tục dùng trống đồng, nhiều tục lệ cổ truyền khác vẫn được bảo tồn, như tục cạo tóc hay búi tóc, tục xăm mình, tục nhuộm răng, ăn trầu”. Khi nói về cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ các di sản văn hóa cổ truyền thời Bắc thuộc, có tác giả ghi: “Nhiều phong tục tập quán tốt đẹp của thời kì Văn Lang, Âu Lạc vẫn được giữ gìn như tục nhuộm răng, ăn trầu”. Trong giai đoạn này, tục nhuộm răng cùng với một số tục lệ khác như ăn trầu, xăm mình, búi tóc, …được xem là nét văn hóa đặc trưng góp phần định hình bản sắc văn hóa người Việt để phân biệt với các dân tộc khác. Do đó, mặc dù trải qua ngàn năm Bắc thuộc, chịu áp lực trước chính sách đồng hóa nặng nề của người phương Bắc, người Việt vẫn cố giữ gìn nét văn hóa riêng của dân tộc mình. Đến tận TK XVIII, năm 1789, trong lời hiệu triệu tướng sĩ đánh quân Thanh, Quang Trung đã kêu gọi đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng nhằm đấu tranh giành quyền để tóc dài, răng đen cho nhân dân, bảo vệ phong tục cổ truyền của dân tộc. Điều đó chứng tỏ, đến tận cuối thời nhà Lê, dân ta vẫn còn rất coi trọng tục nhuộm răng đen. Thời Hậu Lê, tục nhuộm răng không chỉ phổ biến ở nữ giới, mà còn ở nam giới, không chỉ phổ biến trong tầng lớp bình dân mà còn phổ biến trong cả giới quý tộc, hoàng gia. Bằng chứng là nhiều ngôi mộ được các nhà khảo cổ khai quật có vết tích của tập tục này như: ngôi mộ của vua Lê Dụ Tông (1705 -1728) vị hoàng đế thứ 11 của nhà Lê được phát hiện, khai quật vào năm 1964; xác ướp của bà Phạm Thị Đằng phu nhân của quan thượng phụ Đặng Đình Tướng (1649 – 1735) được tìm thấy ở Nam Định năm 1968; hoặc một xác ướp nữ có niên đại 300 năm được phát hiện tại Hà Nội năm 2013… đều được các nhà khảo cổ xác nhận là có dấu tích của tục nhuộm răng đen.
Tuy nhiên, đến cuối TK XIX, nhất là những năm đầu của TK XX, trước sự xâm nhập mạnh mẽ của nền văn minh phương Tây, Việt Nam bước vào thời kỳ biến đổi xã hội sâu sắc. Phong trào Âu hóa và phong trào đòi nữ quyền diễn ra rầm rộ.
Nhiều phụ nữ bắt đầu có xu hướng chuộng hàm răng trắng, có người còn cạo đi hàm răng đen mà mình mất bao công sức nhuộm cốt chỉ để trở thành hình tượng người phụ nữ mới tham gia vào công cuộc cải cách xã hội. “Có người đã nhuộm răng đen rồi lại đem đánh trắng đi cho hợp với cuộc sinh hoạt mới”. Thậm chí thời bấy giờ ai còn để tóc củ hành, răng đen, áo the, quần vải thì bị coi là hủ lậu, kém văn minh, “tại các thành thị, do ảnh hưởng của làn sóng Âu hóa những năm 1930-1940, nam giới đã bắt đầu cắt tóc ngắn và thôi nhuộm răng đen”. Nếu như trước đây hình thành nghề nhuộm đen răng thì thời này xuất hiện nghề cạo trắng răng.
Như vậy, tục nhuộm răng đen vẫn còn tồn tại mãi cho đến TK XX thì người Việt mới dần dần phá bỏ tục lệ này. “Kể từ năm 1945 tới nay, tục nhuộm răng hầu như mất dần. Người ta chỉ gặp những người răng đen cỡ tuổi đã rất cao”.
Năm 2013, có ý kiến phản ánh điện ảnh Việt Nam không tôn trọng lịch sử khi không đưa hình ảnh hàm răng đen vào phim Việt. Tác giả bài viết cũng mạnh dạn khẳng định rằng: “Chúng ta có quyền sáng tạo để lịch sử hay hơn, sinh động hơn dưới góc nhìn của thế hệ hôm nay. Nhưng có những điều thuộc về bản sắc dân tộc thì phải kiên quyết giữ. Không ít người cho rằng, bản sắc rõ nhất của người Việt từ ngàn năm nay là tục nhuộm răng đen. Nếu làm phim lịch sử mà diễn viên không có hàm răng đen thì không tôn trọng lịch sử”. Đó là một dấu hiệu đáng mừng cho thấy tục nhuộm răng đen tuy không còn hiện hữu trong đời sống thường ngày nhưng vẫn được lưu giữ lâu dài và đậm nét trong ký ức người Việt, bởi văn hóa là cái gì còn lại khi tất cả những cái khác bị quên đi.
Trải dài theo mấy nghìn năm lịch sử, nhuộm răng đen là một trong những phong tục cổ truyền góp phần định hình bản sắc văn hóa người Việt. Hiện nay, tục nhuộm răng đen hầu như đã không còn tồn tại trong văn hóa người Việt, có chăng là ở những người thật lớn tuổi, họ nhuộm răng từ thuở nhỏ, còn lưu dấu đến bây giờ. Thế nhưng ở Việt Nam, mặc dù đã có nhiều mai một nhưng tục lệ này vẫn còn tồn tại ở một số dân tộc như người Mường ở Hòa Bình, người Lự ở Lai Châu. Một phong tục cổ truyền mất đi, ta cũng không thể trách những người đã thay đổi, vì quan niệm mỗi thời mỗi khác, quan niệm về cái đẹp cũng không ngoại lệ. Cũng bởi văn hóa chẳng bao giờ bất biến, không có nền văn hóa nào chịu đứng yên một chỗ, nhất là khi nền văn hóa đó lại đang nằm trong vòng xoay của sự giao lưu và tiếp biến.
* Hầu Đồng, Hầu Thánh
Hầu đồng hay hầu thánh là một nghi lễ tín ngưỡng trong văn hóa Việt Nam, đặc biệt phổ biến trong đạo Mẫu. Nghi lễ này có mục đích kết nối con người với thế giới tâm linh, thường được thực hiện bởi các "đồng" hay "đồng thầy" - người có khả năng kết nối với các vị thánh, thần linh.
Nghi lễ hầu đồng bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ Mẫu - một dạng tín ngưỡng thờ cúng các vị thần nữ, với đại diện tiêu biểu là Mẫu Liễu Hạnh. Từ thời xa xưa, người Việt đã tin vào sự tồn tại của các thế lực siêu nhiên và tổ chức các lễ cúng để cầu bình an, may mắn và sức khỏe.
Nghi lễ hầu đồng là một phần quan trọng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt, bao gồm nhiều giai đoạn và nghi thức khác nhau. Mỗi nghi lễ đều mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc và được thực hiện với sự trang trọng, tôn kính.
Trước khi tiến hành nghi lễ hầu đồng, cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt:
- Lễ Vật: Bao gồm hoa, quả, tiền giấy, nến, nhang, và các vật phẩm cúng khác.
- Trang Phục: Người đồng và các phụ tá thường mặc trang phục truyền thống, nhiều màu sắc, tùy theo từng giá đồng khác nhau.
- Không Gian: Được trang trí trang trọng, thường là điện thờ hoặc phủ thờ, nơi diễn ra nghi lễ.
Nghi lễ mở phủ là bước đầu tiên trong hầu đồng, nhằm mời các vị thánh thần về dự lễ. Nghi thức này thường đi kèm với những lời cầu nguyện và hát văn truyền thống.
Người đồng bước vào trạng thái nhập thần, thực hiện các hành động và diễn xướng dưới sự chỉ đạo của các vị thánh thần. Mỗi giá đồng thể hiện một vị thánh khác nhau, mang theo những đặc điểm và câu chuyện riêng biệt.
Chầu văn là hình thức hát văn đi kèm với các giá đồng, thể hiện những câu chuyện và truyền thuyết về các vị thánh thần. Hát văn không chỉ là nghệ thuật mà còn là phương tiện truyền tải thông điệp tâm linh.
Kết thúc nghi lễ, người đồng trở lại trạng thái bình thường, các vị thánh thần rời đi. Đây là lúc cộng đồng cùng nhau cầu nguyện và cảm tạ, mong ước sự che chở và bảo hộ từ các vị thần linh.
Những nghi lễ trong hầu đồng không chỉ là phương tiện giao tiếp với thế giới tâm linh mà còn là nét văn hóa độc đáo, thể hiện sự phong phú và đa dạng của tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam. Mỗi nghi lễ đều góp phần tạo nên bức tranh toàn diện về văn hóa tâm linh của dân tộc, mang đến sự gắn kết và niềm tin vững chắc cho cộng đồng.
Hầu đồng, một nghi lễ tâm linh đặc trưng trong tín ngưỡng thờ Mẫu, đóng vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa và tinh thần của người Việt. Nghi lễ này không chỉ là cầu nối giữa con người và thế giới siêu nhiên mà còn là biểu tượng của sự đa dạng và phong phú trong văn hóa dân tộc.
Hầu đồng giúp con người cảm nhận sự che chở và bảo hộ của các vị thánh thần. Nghi lễ này tạo ra một không gian thiêng liêng, nơi mà con người có thể giao tiếp với các lực lượng siêu nhiên, tìm kiếm sự hướng dẫn và bình an trong cuộc sống.
Nghi lễ hầu đồng góp phần quan trọng trong việc gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam. Thông qua các nghi thức, trang phục và âm nhạc truyền thống, hầu đồng giữ cho những di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc được bảo tồn và truyền lại cho các thế hệ sau.
Hầu đồng là dịp để cộng đồng cùng nhau tham gia, chia sẻ niềm tin và cùng cầu nguyện cho một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nghi lễ này tạo ra sự gắn kết mạnh mẽ giữa các thành viên trong cộng đồng, củng cố tinh thần đoàn kết và tương trợ lẫn nhau.
Hầu đồng, với những nghi lễ đặc sắc và giàu bản sắc văn hóa, đã thu hút sự quan tâm của nhiều du khách trong và ngoài nước. Các hoạt động hầu đồng không chỉ góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam mà còn thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch văn hóa, mang lại lợi ích kinh tế cho cộng đồng địa phương.
Trong nghi lễ hầu đồng, các vị thánh và thần linh đóng vai trò quan trọng, mỗi vị đại diện cho một sức mạnh siêu nhiên và có một câu chuyện riêng biệt. Dưới đây là một số vị thánh và thần linh tiêu biểu thường xuất hiện trong các buổi hầu đồng.
Mẫu Liễu Hạnh là một trong những vị thánh mẫu quan trọng nhất trong đạo Mẫu. Bà được coi là hiện thân của sự bao dung và che chở, thường được người dân thờ cúng để cầu mong bình an và may mắn.
- Đặc Điểm: Mẫu Liễu Hạnh thường xuất hiện trong trang phục lộng lẫy, với biểu tượng của sự giàu có và phồn vinh.
- Câu Chuyện: Theo truyền thuyết, Mẫu Liễu Hạnh là con gái của Ngọc Hoàng, được phái xuống trần gian để giúp đỡ nhân gian.
Đức Thánh Trần, tức Trần Hưng Đạo, là một vị tướng tài ba và anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam. Ông được thờ phụng như một vị thánh bảo hộ, biểu tượng của lòng yêu nước và sức mạnh quân sự.
- Đặc Điểm: Đức Thánh Trần thường xuất hiện trong trang phục quân sự, tượng trưng cho quyền lực và sức mạnh.
- Câu Chuyện: Ông đã lãnh đạo quân dân Đại Việt đánh bại quân Nguyên Mông xâm lược vào thế kỷ 13.
Bên cạnh Mẫu Liễu Hạnh và Đức Thánh Trần, còn rất nhiều vị thánh khác được thờ cúng trong hầu đồng, mỗi vị đều có một vai trò và biểu tượng riêng biệt.
- Mẫu Thượng Ngàn: Vị thánh cai quản núi rừng, thường được cầu xin để bảo vệ mùa màng và sức khỏe.
- Mẫu Thoải: Vị thánh của sông nước, mang lại sự trù phú và thuận lợi trong việc làm ăn.
- Ông Hoàng Bảy: Vị thánh nổi tiếng với khả năng chiến đấu và bảo vệ đất nước.
- Cô Bé Thượng Ngàn: Vị thánh trẻ, biểu tượng cho sự hồn nhiên và tinh nghịch, thường giúp đỡ trong các công việc hàng ngày.
Hầu đồng, hay còn gọi là hầu thánh, là một nghi lễ tâm linh quan trọng trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt. Qua quá trình phát triển lâu dài, hầu đồng đã chứng minh được giá trị to lớn của mình trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Dưới đây là những điểm kết luận chính về hầu đồng:
Hầu đồng không chỉ đơn thuần là một nghi lễ tôn giáo, mà còn là một phần không thể thiếu của văn hóa và tâm linh người Việt:
- Bảo tồn văn hóa truyền thống: Hầu đồng góp phần bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, giữ gìn những phong tục tập quán đặc sắc.
- Kết nối tâm linh và cộng đồng: Nghi lễ hầu đồng giúp kết nối con người với thế giới tâm linh, tạo sự gắn kết cộng đồng thông qua các hoạt động tâm linh và văn hóa.
- Giá trị nghệ thuật và văn hóa: Hầu đồng là sự kết hợp hoàn hảo giữa nghệ thuật diễn xướng, âm nhạc và trang phục, tạo nên một nét đẹp độc đáo và tinh tế trong văn hóa Việt.
Trong tương lai, nghi lễ hầu đồng cần được bảo tồn và phát triển để tiếp tục giữ vững vị thế của mình trong đời sống tâm linh và văn hóa của người Việt:
- Bảo tồn và phát huy: Cần có các biện pháp bảo tồn và phát huy giá trị của hầu đồng, như việc tổ chức các lễ hội, cuộc thi, và chương trình giáo dục về nghi lễ này.
- Giới thiệu và quảng bá: Cần giới thiệu và quảng bá hầu đồng đến với bạn bè quốc tế, giúp thế giới hiểu hơn về văn hóa và tín ngưỡng của người Việt.
- Đào tạo và truyền dạy: Cần đào tạo và truyền dạy nghi lễ hầu đồng cho các thế hệ trẻ, đảm bảo rằng nghi lễ này không bị mai một theo thời gian.
Như vậy, hầu đồng không chỉ là một nghi lễ tâm linh quan trọng mà còn là một phần không thể thiếu của văn hóa Việt. Việc bảo tồn và phát triển hầu đồng không chỉ góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc mà còn làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần của người Việt.
* Tục bán khoán
1. Bán khoán là gì?
Bán khoán con cho chùa là một tín ngưỡng dân gian, một hình thức gửi gắm về mặt tâm linh. Có hai hình thức bán khoán con lên chùa: Bán khoán đến hết năm 12 tuổi rồi “chuộc” con ra, hoặc là bán khoán trọn đời. Từ xưa đến nay, nhiều gia đình quan niệm, khi sinh con ra, đứa trẻ hay đau yếu, khóc lóc không phải là do bị bệnh từ thân hoặc những đứa trẻ sinh vào giờ kỵ, ngày phạm (tức ngày mùng 1, 5, 8, 15, 23, 24, 28 và ngày 30 Âm lịch). Đó là những ngày kỵ theo quan niệm dân gian, người dân không nên ra ngoài đường, để tránh sự quở trách của “quan đi tuần”? Những đứa trẻ sinh vào ngày đó được xem là phạm vào ngày kỵ nên rất khó nuôi, hay ốm đau. Thế nên, nhiều gia đình mong muốn được nương nhờ vào Phật pháp, vào Thánh, vào sức mạnh của một đấng tối cao che chở cho con cái của họ. Cũng bởi thế mà tín ngưỡng bán khoán con diễn ra khá phổ biến ở nhiều địa phương trên cả nước. 2. Khi nào nên bán khoán con vào chùa?
Với những trẻ có triệu chứng khác lạ khiến cho việc chăm sóc; nuôi dưỡng gặp khó khăn như hay ốm đau, bệnh tật, khóc lóc không rõ nguyên nhân, hoặc bé sinh vào ngày phạm nên phải bán khoán con cho chùa mục đích là để trẻ có thể khôn lớn; phát triển bình thường.
Việc bán con chỉ giải quyết về niềm tin tôn giáo. Các thủ tục bán con thường chỉ bằng miệng, bố mẹ thấy con “khó nuôi” thì đưa cháu lên chùa. Tại đây, thầy trụ trì sẽ chọn ngày và lên chánh điện làm lễ.
Buổi lễ bán khoán diễn ra cũng rất nhanh chóng, thầy thắp hương và bạch Phật, sau đó dùng nước sái tịnh và lấy tay xoa đầu cho bé. Sau đó, thầy đặt cho một cái tên (tên này khác với ý nghĩa của pháp danh). Đây chỉ là cái tên của thầy đặt cho để công nhận bé là người của nhà chùa. Sau khi làm lễ xong, bố mẹ bé có thể đưa bé ra về. Việc làm này chỉ nhằm giúp bố mẹ nuôi bé dễ hơn.
Việc bán con này phổ biến diễn ra ở các vùng nông thôn, đặc biệt là các tỉnh miền Bắc. Gửi trẻ vào cửa Phật, đặt một cái tên khác để giúp cho bé dễ nuôi chứ không phải đi tu nên cũng không ảnh hưởng đến hôn nhân và công danh của bé sau này.
Tuy việc làm này hỗ trợ niềm tin nhưng cũng không nên quá lạm dụng. Có những gia đình vì quá tin vào thầy bói, khi nghe phán là cháu khắc với cha mẹ, sinh cháu ra sẽ làm ăn lụi bại hay đoản mệnh… thì tìm cách bán khoán cháu, để chùa nuôi là điều không nên. Còn nếu con không phạm gì xấu; cũng không khắc cung mệnh với bố hoặc mẹ thì không cần bán khoán hoặc cho người khác nhận con nuôi làm gì. Trẻ con dưới 3 tuổi ốm đau là chuyện bình thường. Miễn sao chăm sóc con tốt nhất là được rồi; kể cả bán khoán con cho chùa mà chăm sóc con không tốt thì cũng không có ý nghĩa gì cả.
Tục lệ bán khoán, bán khoán con vào chùa đồng nghĩa với việc gửi con cho Đức Phật, Đức Ông bảo hộ cho con mình, chứ không phải là gửi con cho sư thầy trụ trì chùa đó. Nếu ngày sinh và giờ sinh của bé phạm phải giờ sinh xấu (giờ Kim xà Thiết Tỏa, Quan sát, giờ Tướng quân, giờ Diêm Vương, giờ Dạ đề) hoặc cung mệnh của bé và cung mệnh của cha mẹ khắc nhau thì mới nên nghĩ tới việc bán khoán con vào chùa. Sau khi đã bán khoán con vào chùa, thì tới năm con trẻ được 13-18 tuổi thì cha mẹ sẽ làm lễ để chuộc con về, điều này không ảnh hưởng gì tới công danh và sự nghiệp của con cả. Nếu ngày giờ sinh của con trẻ không xấu, cung mệnh cũng không khắc thì tốt nhất là không nên bán khoán con vào chùa.
Trẻ dưới 3 tuổi không tránh được “3 ngày béo 7 ngày gầy”, cha mẹ cần chăm sóc con cho tốt, cho dù đã bán khoán con trẻ nhưng chăm sóc không tốt thì cũng chẳng có ý nghĩa gì.
3. Thủ tục bán khoán như nào?
Thường thì xưa và nay, người ta bán cho Đức ông; ở chùa có tượng mặt đỏ; trùm vải đỏ; trông nghiêm nghị đầy thần khí; đặt trên bệ thờ phía tay phải nhà bái đường của ngôi chùa. Khi tiến hành bán khoán; bố mẹ đứa trẻ lên chùa (hay vào đền; nếu bán cửa thánh) nhờ vị trụ trì hay người trông coi tại đó viết số; ghi rõ tên tuổi đứa trẻ; ngày; tháng; năm; giờ sinh; bán cho Đức Thánh tên là gì…
Kèm với mâm lễ vật (thường là lễ mặn; như xôi gà; trầu rượu; vàng hương); đặt lên bàn thờ Đức Thánh mà đứa trẻ cần bán tới; khi cúng xong (cháy 2/3 hương) thì đem hoá vàng và sớ. Thời gian bán khoán thường từ 10 – 12 năm; có khi đến 20 tuổi; sau đó mới làm lễ chuộc con về nuôi. Trong thời gian làm “con nuôi” Đức Thánh; các ngày lễ trọng hàng năm: như Rằm tháng Giêng; rằm tháng Bảy; Tết Nguyên đán; bố mẹ và đứa trẻ (khi đã lớn) đến đền; chùa thắp hương khấn lễ “cha nuôi”.
Nguồn: https://vanhoatamlinh.com/ban-khoan-con-vao-chua-de-lam-gi/
Gõ sạp (gõ sàn nhà) đón khách là một nét sinh hoạt văn hóa dân gian độc đáo của đồng bào Thái ở tỉnh Yên Bái. Không ai rõ tục gõ sạp xuất hiện từ bao giờ, chỉ biết rằng tục này tạo nên một bầu không khí sôi động, náo nhiệt khi trong bản, trong mỗi nhà tổ chức các cuộc vui có mời đông khách.
Cấu trúc nhà sàn của đồng bào Thái có một nét khá khác biệt với nhà sàn của một số dân tộc khác ở chỗ, khi đi lên hết cầu thang, không chỉ có cửa rẽ vào lòng nhà, mà có một lan can dọc theo trái nhà thẳng xuống khu vực bếp. Chính lan can này là khu vực diễn ra cảnh gõ sạp đón khách. Số người tham gia gõ sạp từ 9 - 12 là những thiếu nữ trẻ, giỏi văn nghệ. Trong số đó, có một người điều khiển trống cái và số còn lại mỗi người cầm một đôi ống tre hoặc nứa đứng thành hàng ngoài lan can.
Khi khách đã đến sân nhà, người điều khiển trống cái nổi một hồi trống thật dài. Sau đó đánh trống dặp để những người cầm ống làm động tác chuẩn bị. Đến khi tiếng trống dặp chuyển thành những tiếng tùng... cắc... thì những người cầm ống cũng trỗ ống xuống sàn nhà, đập 2 ống vào nhau, sao cho âm thanh của ống xen kẽ vào âm thanh của trống. Khi khách đã quây quần quanh những mâm cỗ, tiếng gõ sạp sẽ dừng lại. Các cô gái tỏa đi các mâm rót rượu mời khách. Rồi sau đó họ tập trung ở một góc nhà hát ví đối đáp với khách. Khi cuộc rượu đã tàn và chuyển sang màn múa xòe thì những cô gái này sẵn sàng lẫn trong vòng xòe cùng với khách. Khi khách bắt đầu ra về, các cô gái nhanh chóng cầm những chai rượu và những chiếc chén được chuẩn bị sẵn, tiếp tục đứng ra lan can rót rượu mời khách uống chén rượu chúc mừng và chia tay nhau. Người ra về cảm thấy mình có một cuộc vui thật mãn nguyện.
* Tục xông đất ngày Tết
Xông đất còn gọi là đạp đất hay xông nhà là tục lệ đã có từ lâu đời ở Việt Nam. Tục lệ xông đất ngày Tết được quan niệm rằng, người đầu tiên đến chúc Tết gia đình nếu là người hợp tuổi với gia chủ thì sẽ đem lại may mắn, tài lộc cho gia chủ trong cả một năm sắp tới
Chính vì vậy mà người Việt từ xưa rất coi trọng tục “xông đất”
Chủ nhà hoan hỉ đón chào và cảm ơn người xông đất cho gia đình mình. Đồng thời cũng chúc lại bằng những điều tốt đẹp hoặc mừng tiền lì xì cho người đã xông đất.
Tục xông đất có từ khi nào thì không một ai nhớ được, chỉ biết rằng từ rất lâu ông bà ta đã xem xông đất như một nghi thức không thể thiếu vào mỗi dịp tết cổ truyền dân tộc.
Nếu nhà có người già thì chúc “Bách niên giai lão”, “tăng phúc tăng thọ”; nếu là người buôn bán thì chúc “buôn may bán đắt”, “làm ăn phát đạt”, “làm ăn phát tài bằng năm bằng mười năm ngoái”; chúc gia đình có người làm việc Nhà nước thì chúc “thăng quan tiến chức” hoặc “lên chức lên lương”; gặp trẻ em thì chúc các bé “hay ăn chóng lớn”, “học hành đỗ đạt”
Tục xông đất đầu năm mới là phong tục cổ truyền được dân tộc ta giữ gìn qua bao thế hệ. Sở dĩ có tục Xông đất ngày Tết bắt nguồn từ mong muốn của ông bà ta về một năm thuận buồm xuôi gió, may mắn, bình an và tránh được những tai ương, xui xẻo.
Theo quan niệm xưa, sau đêm giao thừa, mọi thứ trong nhà đều được coi như làm mới lại từ đầu, chính vì thế mà gia chủ thường cầu mong đầu năm sẽ có người mang đến sự may mắn, phát tài, phát lộc với gia đình. Cho nên người đến nhà chúc Tết đầu tiên rất được coi trọng.
Người khách xông đất được gia chủ đón tiếp vui vẻ, nhiệt tình và nhận những lời chúc tốt đẹp đến với gia đình mình.
Việc xông đất tuy đơn giản nhưng lại mang đến niềm vui và và niềm tin cho gia đạo rằng mình sẽ may mắn cả năm. Còn người đi xông đất cũng có niềm vui riêng họ vui vì đã cho đi những điều tốt lành, làm phước giúp mọi người.
Việc lựa chọn được người hợp tuổi xông nhà đầu năm được cho rằng sẽ đem đến tiền tài, thịnh vượng cho gia chủ suốt một năm. Vì vậy, nhiều gia đình tìm người xông nhà trước đó vài ngày, thậm chí cả tháng với mong muốn có một năm thuận lợi, may mắn, công danh, tài lộc, gia đình viên mãn.
Xông nhà vốn là nét văn hóa đặc trưng của Việt Nam, nó còn mang ý nghĩa thắt chặt tình cảm giữa người với người, gắn kết tình làng nghĩa xóm.
Xông nhà không chỉ áp dụng trong dịp Tết cổ truyền mà còn được áp dụng nhiều trong các trường hợp như tân gia nhà mới, chuyển nhà, xông nhà xả xui, hoặc chỉ đơn giản là thanh tẩy không khí để đem lại vượng khí cho ngôi nhà.
Theo cách xông đất truyền thống, chủ nhà sẽ mời một người hợp tuổi với mình để trở thành người xông đất cho gia đình – cũng là người đầu tiên đặt chân vào nhà trong năm mới tính từ sau khoảnh khắc giao thừa đến sáng mùng 1.
Người xông nhà phải hợp tuổi với gia chủ và con vật đại diện của năm đó, tránh tuổi “tứ hành xung”. Sau khi xông nhà, người xông nhà xong sẽ mừng tiền, chủ yếu là cho trẻ con trong gia đình. Sau đó, cả gia chủ và người xông đất cùng dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất. Chủ nhà sẽ thiết đãi khách vài món ăn hay trà nước.
Sau khoảng 20 phút thì người xông nhà sẽ ra về. Sau khi đã tiếp người xông đất đầu năm, những người khách khác đến chúc Tết sẽ không ảnh hưởng đến gia chủ dù có hợp tuổi hay không.
Bên cạnh đó, không ít gia đình cũng áp dụng thêm các cách xông nhà từ những nguyên liệu thiên nhiên nhằm tẩy uế, mang đến luồng khí tươi sáng và thịnh vượng cho gia đình.
Người xưa chỉ có 2 cách chọn người tốt xông đất ngày Tết.
- Với người làm quan, học vấn cao sẽ chọn người xông đất có tuổi hợp với chủ nhà. Người xông đất phải là đàn ông.
- Với người dân lao động thì cách chọn người xông nhà sẽ đơn giản hơn. Chỉ cần người đó khỏe mạnh, tốt tính, gia đình hòa thuận, làm ăn khấm khá là được.
Ở một số vùng miền, một số ít các gia đình vẫn giữ quan niệm cổ hủ cho rằng con gái, đàn bà đến xông đất đầu năm sẽ mang đến sự xui xẻo cho gia chủ. Cũng vì vậy mà ngày đầu năm, người phụ nữ thường e ngại việc đi chúc Tết, đặc biệt là việc xông đất.
Tuy nhiên, xã hội ngày càng phát triển, hiện đại, bình đẳng giới được đề cao thì quan niệm “trọng nam khinh nữ” lạc hậu đó dần dần bị xóa bỏ.
Ngày nay, người ta có thể chọn những người hợp tuổi để xông đất, bất kể đàn ông, đàn bà, trai, gái, tốt nhất là những người có tính cách hiền lành tử tế, đỗ đạt, thành công.
Thậm chí, ngày nay, khi mà xã hội ngày càng phát triển thì không còn quá nhiều gia đình quan tâm quá đến vấn đề xông đất. Vì thế, trên thực tế thì người trong nhà hoặc họ hàng vẫn có thể tự đi xông đất nếu hợp tuổi.
Nếu bạn được nhờ vả là người đến xông nhà ngày Tết cho một gia đình nào đó thì hãy lưu ý những vấn đề cần tuyệt đối tránh sau nhé.
- Tránh nói về những câu chuyện buồn của năm cũ và không nhắc đến chuyện đã qua. Hãy nói tới những câu chuyện vui vẻ, những điều may mắn.
- Những người khắc tuổi, nhà có tang, ốm đau không nên đi xông đất nhà người khác.
- Tránh mặc đồ màu đen hoặc màu trắng khi tới nhà người khác xông đất. Thay vào đó là mặc trang phục có màu sắc tươi tắn, nhã nhặn.
- Tuy đã có nhiều thay đổi trong việc “trọng nam khinh nữ” khi xông đất nhưng nếu bạn là nữ đi chúc tết, hãy vào sau nam giới. Tránh trường hợp chủ nhà câu nệ vấn đề người nữ xông đất không được may mắn.
Theo thời gian, tục xông đất tuy đã có một vài thay đổi, không còn đặt nặng về sự may mắn, hậu vận, cũng không còn nhiều quy tắc như trước. Tuy nhiên, nếu được chọn làm người xông đất, các bạn vẫn nên lưu ý những điều nên tránh để mang đến niềm vui trọn vẹn cho gia chủ và cho chính bản thân mình trong những ngày đầu tiên của năm mới.
* Tục đi tu của người Khmer
Ngày nay, tục đi tu vẫn còn phổ biến trong người Khmer ở miền Tây Nam bộ. Bởi vì tu không phải để thành Phật mà để thành người, chuẩn bị cho cuộc sống tốt đẹp ở ngày mai, là một cơ hội tốt để cho họ được học chữ nghĩa, đạo lý và rèn luyện đức hạnh.
Người Khmer ở hầu hết các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long thường sống thành từng vùng, có nơi chiếm tới 70% dân số, tập trung nhiều ở các tỉnh giáp biên giới Campuchia như vùng Bảy Núi (Tịnh Biên, Tri Tôn), Hà Tiên (Kiên Giang), Vĩnh Châu (Sóc Trăng). Dân tộc Khmer thuần theo đạo Phật tiểu thừa. Ở đồng bằng sông Cửu Long có hơn 440 ngôi chùa lớn nhỏ của người Khmer, mỗi chùa có ít nhất 5 -10 ông lục, nhiều khi đến 60 - 70 ông ăn ở, học tập tu hành. Các ông lục, còn gọi là sư sãi, là con em người bổn sóc. Gia đình nào có con trai từ 12 tuổi trở lên đều cho vào chùa tu, có thể 3 tháng hoặc 3-4 năm hay trọn đời tuỳ ý, để học kinh, học chữ, rèn luyện thành người có trí thức và đức hạnh.
Ngày xưa, nếu người con trai nào không qua giai đoạn tu trong chùa thì bị xã hội và gia đình cho là bất hiếu và lớn lên rất khó lấy vợ. Bởi vì người con gái Khmer đến tuổi lấy chồng, thường chọn những chàng trai đã qua tu luyện trong chùa, đã hoàn tục. Theo họ, đó là người đã hoàn thành nghĩa vụ và học được cách làm người, nhất là biết chữ nghĩa, được mọi người trọng vọng.
Lễ đi tu thường được tổ chức vào ngày đầu tết Chôl Chnâm Thmây. Vào ngày này, gia đình nào muốn đưa con vào chùa tu (vài tháng trước đó, người con trai này phải vào chùa học thuộc vài bài kinh cơ bản) sẽ tổ chức một lễ gọi là Bank-Bom-Buôn để người đi tu từ giã họ hàng, bạn bè và được mọi người cầu chúc sức khoẻ. Khi vào lễ, anh ta cạo đầu, thay quần bằng chiếc xà rông, thay áo bằng một khăn vải trắng đắp lên vai từ trái sang phải gọi là Pênexo, chứng tỏ rằng anh ta từ bỏ thế tục. Lúc đó người ta gọi anh là Nec (rồng).
Theo truyền thuyết từ kinh điển Phật giáo, ngày xưa có một con rồng tu luyện thành người và xin được vào tu theo đức Phật. Một hôm, khi ngủ trưa rồng hiện nguyên hình. Môn đệ khác của đức Phật phát hiện ra liền báo ngay. Đức Phật trục xuất rồng khỏi hàng môn đệ, vì không phải người thì không được tu. Rồng khóc van xin, nhưng không lay chuyển được lòng đức Phật. Cuối cùng rồng xin đức Phật ban cho một ý nguyện là sau này, những ai bước chân vào tu cũng phải gọi bằng tên tộc là Nec. Từ đó đến nay, từ "nec" dùng để gọi nhà sư tương lai và cũng để nhớ đến truyền thuyết trên.
Để vào lễ, buổi tối họ mời sư sãi đến tụng kinh, cúng tam bảo và thọ giới theo Phật. Sáng hôm sau, khi cơm nước xong, họ đưa anh con trai lên chùa, có bạn bè thân quyến mang lễ vật cùng đi theo. Đến chùa, họ đi vòng quanh chánh điện ba vòng rồi mới vào trong làm lễ. ở đây có một nhà sư ngồi gọi là Uppachhe giảng dạy, hỏi và đọc các điều của luật tu hành cho các nec nghe. Sau đó nec mới cầm áo cà sa đi vào hàng giữa sư sãi và đọc lời xin tu. Khi vị thượng toạ chấp thuận thì nec mới đi thay xà rông và khăn trắng bằng áo cà sa. Tiếp theo là lễ thọ giới 10 điều của Phật giáo: 1. Không sát sinh; 2. Không trộm cắp; 3. Không tà dâm; 4. Không nói láo; 5. Không uống rượu; 6. Không ăn ngoài bữa; 7. Không xem múa hát; 8. Không dùng đồ trang sức; 9. Không chiếm ghế cao và giường êm; 10. Không đụng đến vàng bạc.
Cuối cùng các nhà sư cùng Phật tử tụng kinh cầu phước cho người mới tu hành và chúng sinh để chấm dứt buổi lễ.
Ngày nay, tục đi tu vẫn còn phổ biến trong người Khmer ở miền Tây Nam bộ. Bởi vì tu không phải để thành Phật mà để thành người, chuẩn bị cho cuộc sống tốt đẹp ở ngày mai, là một cơ hội tốt để cho họ được học chữ nghĩa, đạo lý và rèn luyện đức hạnh.
Đi tu đồng thời theo nếp nghĩ truyền thống cũng là một cách tích phước cho cha mẹ, gia đình và chính bản thân. Tuy nhiên, ngày nay người con trai Khmer vì theo học ở một trường nào đó hoặc có những gia đình quá khó khăn, thiếu lao động thì không phải đi tu và luật tu hành cũng không quá khắt khe như xưa nữa.
Nguồn:quehuongonline.vn
Mâm cỗ ở mỗi vùng quê Việt Nam có hương vị riêng nhưng bao giờ cũng vậy, mỗi mâm có 4 hoặc 6 người. Thông thường người ta kiêng ngồi 5 người, ở mâm cỗ có ít nhất hai người thân nhau, cũng có khi 3 cặp đều thân nhau thành một cỗ. Người nhà chủ tế nhị mời những người ăn ý với nhau vào một cỗ, sàn sàn lứa tuổi với nhau vào cùng mâm. Những người có tửu lượng mạnh hoặc nhẹ vào một cỗ, những người bằng vai phải lứa với nhau vào một cỗ. Đàn ông vào cỗ với nhau, còn đàn bà ngồi với đàn bà.
Cỗ là bữa ăn đặc biệt có tính chất long trọng, thân tình được tổ chức trong gia đình như: cỗ cưới, cỗ nhà đám, giỗ chạp, mừng một sự thành công, mừng cha mẹ sống lâu, tết nhất... Riêng cỗ mừng thọ của cha mẹ là do con cái đóng góp làm cỗ, các con trai làm các món ninh giò, mọc, nem, các con dâu làm các món bánh rồi quây quần với nhau ăn cỗ. Ở các gia đình khá giả hoặc ở thành phố, cỗ khai trừ tất cả các món ăn mà thường ngày dùng như dưa, cà, cá kho, rau muống... Có nhiều loại cỗ, cỗ tứ quý gồm 4 thứ hải sản chế biến thành mâm cỗ, cỗ cưới có xôi gấc đỏ, cỗ nhà đám có xôi trắng, cỗ mặn, cỗ chay... Có mâm cỗ một tầng, hai tầng, hoặc năm tầng, như ở 49 làng Quan họ xưa.
Trước đây, ở nông thôn cũng như thành phố đều có những phường nấu cỗ thuê do các nghệ nhân sành, thạo đời, khéo tay đảm nhiệm. Họ thường có kỹ thuật cao và cha truyền con nối. Họ có được những món truyền thống độc đáo. Ông Kiếm ở Cổ Nhuế biểu diễn giết gà một mình chỉ cần chiếc tăm vót nhọn. Ông Khán Trúc ở Trích Sài một mình giết một con lợn 15kg, chỉ cần một vò nước nóng. Trong phường có ông trùm phường là giỏi nhất. Những người nấu cỗ thuê rất hãnh diện về nghề và được đi nấu ở nhiều nơi, chủ yếu là để lấy tiếng chứ không vì vật chất. Họ góp ý kiến với nhà chủ, ra thực đơn rồi chia nhau mỗi người làm một hoặc nhiều món sở trường.
Mâm cỗ một tầng cơ bản thường là 5 bát: bóng, miến, măng, mọc, chim hoặc gà tần và năm đĩa: giò, chả, gà hoặc vịt luộc, nộm, xào. Có khi gia giảm bằng các món rán, nướng, quay hoặc nem Sài Gòn, xôi, chè, được xếp phía ngoài để ăn sau cùng. Bát nước mắm chấm có hồ tiêu, chanh, ớt hoặc cà cuống đặt giữa mâm.
Người uống được rượu thích những món có kèm xương xẩu hoặc sụn như đầu gà, cánh gà hoặc món nộm có đủ chua ngọt, cay, bùi, giòn, mềm. Rau thơm thường dùng húng láng thơm ngát, kinh giới thơm thanh cao hoặc rau ngổ có mùi thơm sắc gọn mà dữ dội.
Cỗ ở miền Nam có thêm chả nướng ăn với rau thơm, khế, chuối xanh, giá, đậu phộng, bánh tráng...
Mâm cỗ Việt Nam thơm ngon có truyền thống lâu đời, không cầu kỳ nhưng có đủ mùi vị, màu sắc. Trên bát bóng có những lát bóng trắng ngọc, điểm mấy lát trứng tráng vàng, vài con tôm đỏ, vài quả đậu Hà Lan xanh, nấm hương màu nâu. Trên bát miến có gan gà màu vàng đậm, tiết màu đỏ huyết dụ, thịt nạc màu trắng đục, mộc nhĩ đen nâu, ở giữa có một nhúm rau mùi xanh rờn. Khoanh giò thái ra có màu trắng ngon lành, hành xanh có củ trắng ngần, ớt đỏ hoặc vàng tươi trang điểm cho bát nước chấm vàng nâu... mâm cỗ là một bức tranh đẹp và hấp dẫn.
Ăn cỗ xong khách còn ăn xôi, chè hoa cau, chè cốm hoặc chè đậu đãi, rồi ra bàn bên cạnh uống nước trà, hút thuốc, ăn trầu.
Lúc khách ra về, chủ và khách chắp tay trên ngực, nói với nhau vài câu quý hóa rồi cùng vái nhau mấy vái. Cái kiểu chào này thật trang trọng, thân mật, giản dị, đượm màu sắc Phật giáo. Một số khách vừa thân tình vừa có họ với nhà chủ ở lui lại một chút. Họ nhận phần gồm một nắm hoặc một đĩa xôi, có thêm miếng thịt hay quả chuối, vì thế mới có câu: Có xôi có thịt mới nên phần.
Cỗ Việt Nam là cả một công trình, nó không phải là tiệc, không phải là liên hoan. Nó có cái độc đáo của nó, có điều ngày nay các phường nấu cỗ thuê không tồn tại nữa, kho tàng nghệ thuật ẩm thực Việt Nam cũng mất đi nhiều điều quý báu. Phải chăng, các nhà làm bếp bây giờ cần phải đi tìm lại kỹ thuật nấu cỗ của người xưa để bữa cỗ Việt Nam được vừa dân tộc, vừa khoa học hơn. Ẩm thực cũng là điều thiêng liêng, là nghệ thuật, là văn hóa.
Nguồn:quehuongonline.vn
* Tục cướp vợ của người HMông
Tháng giêng, khi những rừng mơ nở trắng, báo hiệu mùa cưới lung linh sắc màu thổ cẩm rộn lên khắp các bản làng Tây Bắc và Ðông Bắc cũng rộn lên. Người Mông có tục kéo con gái về làm vợ (cướp vợ).
Khi người con trai quen biết một người con gái và muốn cô gái đó làm vợ họ sẽ đi kéo cô gái về nhà. Để kéo được cô gái về nhà, người con trai phải chiêu đãi, mời rượu một số người bạn cùng lứa tuổi để họ đi kéo giúp. Chàng trai và bạn bè của anh có thể tìm cô gái ở chợ, ở đêm chơi trăng hay lúc đi làm nương. Khi đã kéo được cô gái về nhà, chàng trai lại phải mời rượu bạn để cảm ơn. Chàng trai sẽ phải nhờ chị gái của mình (hoặc em gái) để trông không cho cô gái trốn khỏi nhà mình. Chị gái của chàng trai sẽ có mặt bên cô gái được kéo về suốt cả ba ngày đêm.
Phong tục chính là thói quen đã ăn sâu vào đời sống xã hội của con người, được mọi người công nhận và làm theo. Có những phong tục mang tính cổ hủ, song có phong tục tô đẹp bản sắc văn hóa người dân Việt Nam.
Tục cướp vợ được coi là chế độ lược hôn. Tục này rất phổ biến ở các vùng Tây - Ðông Bắc. Ở vùng Tây Bắc giáp biên giới nước Lào, tục cướp vợ có sắc thái biểu cảm thật trữ tình. Vào một đêm trăng thanh, chàng trai miền núi vác chiếc thang tựa cửa nhà người yêu, rồi thổi một điệu kèn môi tình tứ bằng chiếc lá. Âm điệu du dương khiến lòng cô gái thổn thức, xốn xang. Nàng bắt đầu hé cửa sổ thì chàng lập tức ghé thang lên, trèo vào và cõng nàng chạy vào rừng. Họ ở bên nhau 3 ngày, rồi trở về nhà bố mẹ vợ, xin phép cưới.
Ở vùng tiếp giáp biên giới Trung Quốc, tục cướp vợ mang tính mạnh mẽ, quyết liệt hơn. Chàng trai đi chợ, bắt gặp một cô gái xinh đẹp. Chàng liền quay về, rủ một số bạn trai thân tình, mượn những con ngựa thật khoẻ. Họ hùng dũng ra chợ, chàng đi sát bên cô gái, bất ngờ bế thốc cô gái lên ngựa rồi phi nước kiệu. Nếu chàng và nàng đã có tình ý từ trước thì chàng đặt tay trái về phía cô, cô đặt tay trái lên rồi đạp chân trái của mình lên mô bàn chân cứng cáp của chàng, theo đà lên ngựa. Họ sống với nhau từ 2 đến 7 ngày. Sau đó, chàng đưa nàng về nhà vợ hỏi cưới.
Trong khi đó, tục cướp vợ của người Kinh mang tính chất cộng đồng, làng xóm. Cụ thể, một số làng thuộc huyện Ðông Anh, ngoại thành Hà Nội thường tổ chức tục cướp vợ rất đặc biệt (ngày nay không còn). Vào dịp lễ xướng, dân làng chọn một cô gái xinh đẹp, dịu dàng, chăm chỉ và một chàng trai khỏe mạnh, chịu khó. Cô gái ra làng ở, nằm mộng 7 ngày 7 đêm. Chàng trai nấp dưới bụi khoai nước bờ ao. Khi lễ hội được diễn ra, cô gái cất tiếng hát:
Tao có chiếc yếm lưỡi cày
Chẳng để cho mày thì để cho ai.
Tiếng hát vừa dứt chàng trai vọt lên bờ vác cô gái chạy đi, theo sau là tiếng hò reo, đuổi, ném đất dẻo, bắn cung bằng thân dâu của dân làng. Nếu chàng đưa cô gái sang bờ bên kia an toàn thì năm ấy dân làng làm ăn thịnh vượng, được mùa, trẻ em mau lớn. Bằng không thì ngược lại. Nhìn chung, tục lệ cướp vợ ở mỗi vùng khác nhau, song tựu chung lại vẫn là phản ánh tâm tư, tình cảm của con người, đồng thời tạo nên nét độc đáo riêng cho nền văn hóa nước nhà.
Nguồn:quehuongonline.vn
* Tục đeo vòng vía của người HMông
Việc trẻ ốm yếu cúng giải hạn hoặc gửi cửa theo số của nó đều không được thì thầy cúng sẽ xem số và đeo vòng vía cho trẻ. Nghi lễ đeo vòng vía cho trẻ của người Mông hoa ở Cát Cát tương tự như nghi lễ đeo vòng vía cho trẻ của nhóm người Mông trắng ở Bảo Phố - Bắc Hà.
Nghi lễ và sự chuẩn bị diễn ra như sau:
Gia đình phải chuẩn bị 3 chiếc vòng cuốn bằng tre có đường kính 1,5m. Họ dựng ngoài cửa 1 vòng, giữa nhà 1 vòng và phần giáp bàn thờ 1 vòng. Họ dùng một tấm vải trắng dài 12m đặt lên trên vòng tre từ cửa chính vào tới bàn thờ. Mâm cúng đặt ở góc phải, phía dưới bàn thờ bao gồm: 3 đôi đũa, 3 bát cơm, 3 chén rượu, 3 chén nước, 1 con gà luộc, 1 gói muối. Trên bàn còn có chiêng, kiếm của thầy cúng. Người nhà còn mời, nhờ một người trung tuổi, con cái khoẻ mạnh đến bế đứa trẻ để tiến hành nghi lễ đeo vòng vía. Khi thầy cúng bắt đầu việc cúng thì đứa trẻ đứng ở ngoài cửa trên mép vải đặt từ giữa cửa đến bàn thờ. Đầu tiên, thầy cúng cho mời tổ tiên của gia đình về chứng kiến việc làm tốt của thầy cúng cho đứa trẻ. Sau đó thầy cúng mời sư tổ của mình về và xin cho phép mầu để trừ tà diệt ma. Tiếp đó, thầy cúng gõ một hồi chiêng dồn dập, vừa gõ vừa gọi các âm binh đến. Thầy cúng uống một hớp rượu sau đó múa xung quanh nhà. Mỗi khi rú lên một tiếng, thầy cúng lại đâm thẳng kiếm xuống đất, tượng trưng cho việc trừ ma xấu làm hại trẻ. Khi thầy cúng đi ra cửa và đâm thẳng kiếm ra ngoài tức là ma đã bỏ ra khỏi nhà, khỏi đứa trẻ.
Người phụ cúng sẽ cho đứa trẻ bước vào qua vòng tre thứ nhất. Khi đứa trẻ bước vào trong vòng (qua cửa) thầy cúng bước ra ngoài và chém kiếm xuống đất chỗ đứa trẻ vừa đứng với ý nghĩa là chém ma xấu. Sau đó, thầy cúng đi vào trước bàn cúng, đặt kiếm xuống bàn và cầm chai rượu đổ ra tay tung vào đứa trẻ, tượng trưng nước phép vừa trừ ma, vừa rửa hồn vía đã bị ma xấu làm ô uế. Sau đó, đứa trẻ được người phụ cúng cho bước qua vòng thứ hai. Thầy cúng ngậm một ngụm rượu phun mạnh vào nơi đứa trẻ vừa đứng. Tiếp đến, thầy cúng đọc lời dồn hồn vía cho trẻ từ nay vía không được theo ma xấu. Một tiếng thét của thầy cúng tức là ma đã bỏ chạy và vía đã nhập vào đứa trẻ. Người phụ cúng hai tay đỡ hai vai trẻ và trẻ nhảy qua vòng tre cuối cùng, thầy cúng lập tức cầm vòng vía (cổ, tay, tai) đeo ngay cho trẻ với ý nghĩa là rào vía cho trẻ. Từ nay, hồn vía trẻ sẽ không bỏ đi chơi và ma xấu cũng sẽ không dám bén mảng đến vì đã có vòng vía là thứ vũ khí để trừ tà diệt ma.
Sau phần làm lễ, thầy cúng, phụ cúng và gia đình cùng ăn cơm, uống rượu bình thường. Khi ra về, thầy cúng được bắt một con gà trống và một lít rượu.
Vòng vía được đeo suốt đến lúc già. Trường hợp vòng vía đã đeo tự nhiên rơi hoặc bị mất thì được. Còn nếu người đeo tự tháo ra thì rất có thể họ sẽ bị ốm trở lại.
Nguồn:quehuongonline.vn
Lễ Nạp Thái được xem là bước quan trọng đầu tiên trong 6 nghi lễ. Đây không chỉ là một nghi lễ đơn giản mà còn chứa đựng nhiều hàm ý sâu xa về quan hệ gia đình.
Lễ Nạp Thái, còn được biết đến với tên gọi dân gian là “lễ Dạm Ngõ”, mang ý nghĩa “thu nạp những sính lễ mà nhà trai mang đến để thưa chuyện với nhà gái”. Trong lễ này, nhà trai thường mang theo đôi chim nhạn – biểu tượng của sự thuận theo thời tiết âm dương và nghĩa vụ người vợ theo chồng.
Đồng thời là cơ hội để gia đình nhà trai “xem mặt” cô dâu, từ nét mặt, giọng nói, cử chỉ, đến khả năng quán xuyến việc gia đình. Điều này không chỉ cho phép họ đánh giá phẩm chất của cô dâu mà còn giúp họ thấu hiểu gia cảnh và phong cách sống của nhà gái.
Đội ngũ tham gia trong lễ nạp thái thường đơn giản, nhưng cần có người giỏi về giao tiếp và đối đáp, và bắt buộc phải có sự có mặt của chú rể. Thú vị hơn nữa, lễ Nạp Thái cũng chính là lúc cả hai gia đình có thể đánh giá và quyết định liệu họ có muốn tiếp tục tiến tới các bước tiếp theo trong chuỗi lễ cưới hay không. Nếu một trong hai phía không đồng ý, họ có thể thông qua bà mối để không tiến hành tiếp các lễ tiếp theo.
Trong nghi lễ này, nhà trai cử một nhóm gồm vài người cùng mang theo những lễ vật truyền thống như chè, rượu, trầu, cau đến nhà gái. Mục đích chính của Lễ Vấn Danh là nhà trai muốn biết ngày tháng năm sinh của cô gái để kiểm tra xem liệu tuổi của hai người có hợp nhau hay không.
Khi nhà trai đến, nhà gái sẽ cung cấp thông tin về ngày, tháng, năm sinh của cô dâu, thậm chí cả giờ sinh nếu nhà trai yêu cầu. Thông tin này sẽ được ghi trên tờ giấy và sau đó nhà trai sẽ mang về để xem xét.
Phần quan trọng nhất của lễ Vấn Danh chính là việc kiểm tra xem tuổi của cả hai người có hợp nhau theo phong thủy và ngũ hành hay không. Nếu hai người có mệnh tương sinh, ví dụ như chồng mệnh Kim và vợ mệnh Thủy (Kim sinh Thủy), thì đây sẽ là dấu hiệu tốt về sự hòa hợp. Ngược lại, nếu hai người có mệnh tương khắc, ví dụ như chồng mệnh Kim và vợ mệnh Hỏa, thì đây là dấu hiệu của sự không hòa hợp.
Sau khi đã xác định được mệnh của cả hai, người ta sẽ tiếp tục xem xét kỹ lưỡng hệ can chi để có được cái nhìn chuẩn xác hơn về sự tương hợp giữa cô dâu và chú rể. Lễ Vấn Danh chính là cách thức độc đáo và truyền thống để đảm bảo rằng hôn nhân sẽ mang lại may mắn và hạnh phúc cho cả hai gia đình.
Nếu nhà trai đã xác định được cô dâu và chú rể hợp tuổi, họ sẽ chọn một ngày tốt để tổ chức lễ ăn hỏi. Lễ Nạp Cát, cũng như các lễ khác trong quá trình hôn nhân, đòi hỏi sự chuẩn bị các lễ vật mang đến nhà gái thật kỹ lưỡng và cẩn thận.
Trong Lễ Nạp Cát, nhà trai thường sẽ hỏi ý kiến nhà gái về số lượng và loại lễ vật cần mang theo. Điều này có thể bao gồm một buồng cau to, dăm chai rượu nếp, một mâm xôi gấc và nếu nhà trai có khả năng, thêm thủ lợn, lợn sữa quay, trà và bánh trái.
Theo thời gian, một số lễ vật đã thay đổi để phù hợp với thói quen và sở thích hiện đại hơn. Xôi gấc và lợn quay thường được thay thế bằng các loại bánh như bánh chưng, bánh dày, bánh cốm và bánh phu thê (tượng trưng cho nam và nữ, trời và đất).
Lễ Nạp Cát còn có mứt sen, chè hảo hạng, cau tươi và trầu không, điều quan trọng là phải tương xứng với số lượng bánh trái. Các lễ vật này cùng với dăm ba chai rượu màu mang đến cho Lễ Nạp Cát sự tươm tất và độc đáo, phản ánh sự phong phú và đa dạng của truyền thống hôn nhân Việt Nam.
Lễ Nạp Trưng hay còn được gọi là Lễ Thách Cưới. Trong nghi lễ này, nhà gái thường đưa ra những yêu cầu cao cho nhà trai về các lễ vật mà họ cần mang đến, tạo nên một loại “thách thức” cho nhà trai.
Các yêu cầu thường bao gồm nhiều món quà quý giá như vòng, vàng, xuyến, hoa tai, nhiều bộ quần áo mới, tiền bạc, rượu, gạo và thậm chí cả lợn. Tuy nhiên, nhà trai sẽ thương lượng với nhà gái dựa trên khả năng của mình, giúp tạo nên một sự thỏa thuận giữa hai bên.
Nghi lễ này đôi khi cũng đã tạo ra một số mâu thuẫn trong gia đình. Nếu nhà gái đưa ra những yêu cầu quá cao, có thể khiến cho nàng dâu mới cảm thấy áp lực và khó khăn khi tiếp tục cuộc sống mới trong gia đình chồng.
Đây là lúc nhà trai sẽ chính thức xin ngày giờ cụ thể để tổ chức lễ cưới. Mặc dù ngày giờ thường đã được nhà trai quyết định trước, nhưng vẫn cần có sự đồng ý từ phía nhà gái.
Trong hầu hết các trường hợp, nhà gái sẽ tôn trọng sự lựa chọn của nhà trai và đồng ý với ngày giờ đã chọn. Điều này không chỉ phản ánh tinh thần tôn trọng giữa hai gia đình, mà còn giúp đảm bảo rằng tất cả các bước liên quan đến việc tổ chức lễ cưới đều được xem xét kỹ lưỡng.
Như vậy, Lễ Thỉnh Kỳ không chỉ là việc xác nhận ngày giờ cưới, mà còn là dịp để hai bên gia đình giao lưu và bàn bạc về những chi tiết quan trọng khác của lễ cưới. Giúp tạo ra một không khí hòa thuận và hợp tác, tạo nền móng vững chắc cho cuộc sống hôn nhân sắp tới
Trong truyền thống đám cưới của người Việt, Lễ Thân Nghinh được coi là lễ nghi cuối cùng, đánh dấu thời khắc cô dâu chính thức về nhà chồng. Thời điểm này không chỉ thể hiện sự đón nhận và chào đón cô dâu từ phía gia đình chồng, mà còn chứa đựng ý nghĩa về sự liên kết và thống nhất giữa hai bên gia đình.
Theo phong tục, trước giờ đón dâu, nhà trai sẽ cử người đến nhà gái mang theo trầu cau, nhằm xin giờ thích hợp để đón dâu. Điều này vừa thể hiện sự tôn trọng, vừa để đảm bảo rằng lễ cưới diễn ra một cách hoàn hảo và tránh những sai sót không đáng có.
Trong quá trình chọn ngày giờ cưới, người Việt cũng tuân theo những quy định kiêng kỵ của dân gian. Một trong những điều kiêng kỵ quan trọng nhất là cô dâu và chú rể không được đang trong thời kỳ chịu tang, và ngày giờ cưới phải tránh những giờ “không vong”, “sát chủ” cũng như tránh tháng Ngâu.
Hái lộc, xông nhà, xuất hành, chúc Tết... là những tục lệ không thể thiếu trong ngày Tết của người Việt xưa. Đó là những giá trị văn hóa mà con cháu Việt gìn giữ đến nay.
1. Hái lộc
Người Việt có tục hái lộc, khi đi lễ đêm 30 Tết trở về, họ hái một cành cây, hoa (gọi là lộc) về cài vào cửa hoặc cắm vào bình hương bàn thờ để có ý xin lộc của trời, phật, thần, thánh ban cho.
Cành lộc thường là cành đa, đề, si trước các đình, đền, chùa, miếu. Những cây này thuộc loại cây sống lâu nên người ta mong lộc của trời, phật, thần, thánh ban cho sẽ được bền lâu như vậy.
2. Hương lộc
Có nhiều người trong lúc xuất hành đi lễ, thay vì hái cành lộc, họ xin lộc bằng cách đốt một nén hương sào hoặc một bó hương nhỏ, đứng khấn vái trước bàn thờ. Sau họ mang hương đó về cắm tại bàn thờ gia tiên hoặc bàn thờ Thổ công.
Ngọn lửa tượng trưng cho sự phát đạt. Lấy lửa từ các nơi thờ tự mang về tức là xin lộc của phật thánh để được phù hộ cho làm ăn phát đạt quanh năm.
Trong lúc mang nắm hương từ nơi thờ tự trở về, nếu gặp gió, nắm hương bốc cháy, người ta coi là điềm tốt báo trước sự may mắn quanh năm.
3. Xông nhà xông đất
Người Việt xưa tin rằng ngày đầu năm mới, nếu được người vui vẻ, dễ tính, tốt nết đến nhà trước nhất thì cả năm mọi việc trong nhà hanh thông, dễ dàng… Nhưng nếu gặp phải người khẳn tính, độc ác hay khờ dại, lăng tính đến xông nhà thì cả năm làm ăn lủng củng, khó khăn hoặc gặp nhiều vẩn vơ bực mình.
Vì vậy, người xưa thường nhờ người đến xông nhà theo ý muốn. Ở nhiều nơi, người ta thường tự xông đất nhà mình lúc trở về sau khi đi lễ chùa, đền, miếu đêm ba mươi Tết. Khi đó, người tốt nết nhất sẽ được vào nhà trước tiên.
4. Xuất hành
Xuất hành là ra đi, ra khỏi cổng, đi khỏi đất làng xã mình ở, bất cứ đi đâu, đi có việc gì. Đầu năm, người ta thường kén ngày giờ xuất hành tốt và hướng đi nào có lợi với mục đích cầu mong sự may mắn quanh năm.
Người Việt còn có tục trong ba ngày Tết, dù có đi đâu, đến chiều tối cũng phải về. Ý nghĩa của tục này là kiêng có đi mà không có về, giông cho cả gia đình.
5. Chúc Tết
Tại các làng quê, ngày mùng một Tết có tục chúc Tết ở đình làng, sau đến các cuộc chúc Tết của thôn, xóm và những phường nghề nghiệp, buôn bán. Xong xuôi, người dân mới trở về nhà lo cái Tết của gia đình mình.
Tại các gia đình, sớm mùng một Tết, sau khi cúng gia tiên và Thổ công, con cháu chúc Tết ông bà cha mẹ. Các cụ ngồi ở nhà thờ để con cháu tới lạy mừng chúc Tết. Lúc này, mọi người đều ăn mặc trịnh trọng với những bộ quần áo đẹp nhất của ngày Tết.
Khi chúc Tết các cụ, con cháu thường dâng một món quà Tết (bánh trái) hay một món tiền đặt trong phong giấy hồng. Tiền này gọi là tiền mở hàng, đem lại may mắn cho các cụ quanh năm.
Sau khi nghe chúc Tết xong, các cụ cũng chúc lại những điều tốt đẹp, đồng thời mừng tuổi cho con cháu để họ gặp được may mắn, tốt đẹp.
Ngoài ra, trong suốt mấy ngày Tết, người dân thường đến nhà người thân, hàng xóm chúc Tết những điều thịnh vượng. Khi gặp nhau, những sự tị hiềm trong năm cũ hầu như mất hết, ai cũng niềm nở và chúc người khác những điều họ mong mỏi.
6. Mừng tuổi (lì xì)
Tục mừng tuổi bằng tiền trong lúc chúc Tết của người Việt đã có từ xưa. Tiền mừng tuổi thường được để trong những phong bao giấy hồng và có tiền lẻ với ý rằng tiền đó sẽ sinh sôi nảy nở thêm nhiều, đồng thời, đem lại may mắn cho con cháu.
Tiền mừng tuổi cũng gọi là tiền mở hàng để lấy may. Bạn bè gặp nhau thường mở hàng cho nhau để cầu chúc sự phát đạt. Người ta thường cất số tiền đó đi để giữ lấy may mắn.
Ở miền Nam, mừng tuổi cho trẻ em gọi là lì xì.
Trong ngày Tết, ngoài ông bà cha mẹ, những người lớn trong gia đình cũng mừng tuổi cho các cháu. Ngoài ra, các em nhỏ đi theo người lớn tới nhà khác lễ Tết, chúc Tết cũng được chủ nhà mừng tuổi để các em hay ăn chóng lớn, học hành thông minh, khỏe mạnh, ngoan ngoãn.
7. Lễ tết
Tục đi lễ Tết bắt nguồn từ việc người Việt thờ phụng tổ tiên. Họ thờ phụng tổ tiên nhà mình và cũng tôn trọng tổ tiên nhà người khác.
Tại các vùng quê, người ta đến nhà nhau vào ngày Tết không chỉ để chúc Tết như người thành thị mà việc chính là để lễ Tết.
Khi đi lễ Tết, người ta phải mặc quần áo chỉnh tề, đầu đội khăn vì ăn mặc lôi thôi là bất kính với giới vô hình ngự trên bàn thờ và chủ nhà mình tới lễ Tết. Đến mỗi nhà, người đi lễ Tết phải lễ trước bàn thờ gia tiên bốn lạy và ba vái, sau đó mới chúc Tết.
8. Hiếu khách
Xưa nay, người Việt Nam vốn hiếu khách, tinh thần này càng tỏ rõ hơn vào ngày Tết.
Mỗi người tới lễ Tết đều được gia chủ niềm nở chào mời. Sau khi khách lễ gia tiên nhà chủ, họ được mời ăn miếng trầu, uống hợp nước mà không thể từ chối vì như vậy sẽ làm giông (rủi) nhà chủ. Mời khách nếm bánh và được khen ngợi bánh ngon, chủ nhà cho là điềm tốt.
9. Khai bút
Nhân dịp Tết, các tay văn tự và thầy đồ thường chọn ngày giờ tốt để khai bút bằng một bài thơ hoặc câu đối. Thơ và câu đối này được các ông đọc cho nhau nghe rồi cùng ngâm vịnh khi có khách tới lễ Tết.
Các học trò nhân dịp này cũng kén giờ hoàng đạo khai bút để cầu học hành tấn tới, thi cử đỗ đạt.
10. Gánh nước đầu năm
Ngày mùng một Tết, tại các làng quê và thành thị, những người nghèo thường đi gánh nước ở giếng làng tới các nhà và nhận một món tiền hậu hĩnh.
Gánh nước đầu năm này được mọi gia đình đón nhận niềm nở dù trong nhà không thiếu nước. Người ta tin rằng đầu năm có người gánh nước tới nhà, quanh năm của sẽ vào như nước.
Ngoài ra, ở nhiều làng, sáng mùng một Tết, những người đàn ông tới các nhà chúc Tết mang theo những mảnh giấy đỏ viết Nhất bán vạn lợi (một vốn một vạn lời) hoặc Đại cát tặng chủ nhà và nhận lại một món tiền. Tục này có cùng ý nghĩa với tục gánh nước đầu năm.
Đồng bào các dân tộc Bắc Hà nói riêng và Lào Cai nói chung rất hiếu khách, nhưng khi du khách đến thăm làng, bản nên chú ý những điều kiêng kỵ và cần biết một vài phong tục, tập quán sinh hoạt để tiện ứng xử và giao tiếp.
1. Khi đến bản làng
Trên đường vào nhà người Hà Nhì, khi thấy một cánh cổng chào dựng tạm phía trên buộc tua tủa những dao gỗ, kiếm gỗ , đầu cánh gà ... đó là lúc dân làng đang tổ chức lễ cúng xua đuổi tà ma.
Tương tự như vậy hàng năm các nghi lễ chung cúng thần làng, xua đuổi ma ác của đồng bào Tày, Thái, Giáy, Lào, Bố y, Xá Phó... thường được tổ chức vào tháng 2 hoặc tháng 6 , tháng 7 âm lịch. Khi cúng đồng bào đặt các dấu hiệu kiêng kỵ cấm người lạ vào làng như buộc chùm lá xanh ở cột cao trên đường vào làng hoặc đan phên mắt cáo, buộc vào đó xương hàm lợn, trâu, bò. Cả làng không ai đi làm, không cho người lạ vào làng. Nếu người lạ vô tình gồng gánh, đội nón, che ô, đeo gùi, ba lô... vào làng sẽ bị phạt bằng cách nộp đủ số lễ vật để làm lại lễ cúng làng. Trường hợp có việc khẩn cấp, muốn vào làng ngay, khách lạ phải bỏ mũ, ba lô, gồng gánh ... tất cả đồ đạc đều phải xách tay. Như vậy mới mong được giảm hoặc miễn phạt.
Mỗi làng đồng bào các dân tộc ở Lào Cai đều có khu rừng cấm, thờ thế lực siêu nhiên. Nơi thờ cúng có thể ở gốc cây to, hòn đá lớn ở trong rừng. Rừng cấm là khu rừng chung của cả làng. Mọi người tự nguyện bảo vệ rừng, không ai được tự tiện chặt phá, phóng uế, trai gái không được phép đến nơi đó tâm tình.
2. Khi vào thăm nhà
Trước khi vào thăm nhà đồng bào các dân tộc, du khách cần quan sát kỹ, nếu thấy ở trước cửa nhà, ở đầu cầu thang cắm hoặc treo một cành lá xanh, một cành gai hoặc cắm một tấm phên đan hình mắt cáo... Đó là những dấu hiệu kiêng cấm, gia đình không muốn người lạ vào nhà.
Nhà người Hà Nhì Đen có hai lớp cửa, khách xa tới chỉ nên vào cửa thứ nhất. Nếu muốn vào cửa thứ hai thì phải được gia đình chủ đồng ý.
Nhà người Thái có đầu cầu thang, phụ nữ chỉ được lên cầu thang có sân phải (bên trái), không được lên cầu thang bên phải.
Ở vị trí quan trọng nhất trong nhà (vách nhà ở gian giữa hoặc góc đầu nhà sàn, là nơi thờ tổ tiên. Trang trí nơi thờ tổ tiên mỗi dân tộc có khác nhau, nhưng đều chung một quan niệm: Nơi thờ tổ tiên là chốn linh thiêng nhất. Khách không được đặt mũ, nón, tư trang và đồ dùng khác ở nơi đó, không được sờ tay lên các đồ thờ cúng. Khi ngồi không được quay lưng vào nơi thờ. Ở vùng người Thái Đen, phụ nữ không được đến gian đầu hồi nhà sàn- nơi thờ tổ tiên.
Bếp lửa vừa là nơi nấu nướng vừa là nơi tiếp khách của đồng bào các dân tộc, đồng thời là nơi thiêng liêng thờ vua bếp, thần lửa. Do đó có nhiều kiêng kị liên quan đến bếp lửa, ngồi cạnh bếp lửa sưởi không đặt chân lên hoặc làm xê dịch hòn đá kê làm kiềng, vì theo quan niệm của một số dân tộc thì các hòn đá này là nơi trú ngụ của thần lửa. Khi đun nấu đồng bào Tày, Thái, Nùng, Giáy, Bố Y, Lự... đều chú ý đặt quai ninh, chảo, nồi lên bếp không được để hai quai nồi, chảo theo hướng cây xà ngang (vì đó là hướng nằm của người chết) mà phải đặt theo hướng đòn nóc nhà. Ở vùng đồng bào Mông, Dao, Hà Nhì.... khi đưa củi vào bếp, không đưa ngọn vào trước, vì quan niện sợ con gái gia chủ sau này sẽ sinh ngược. Khi ngồi gần bếp, du khách không quay lưng và giẫm chân vào bếp.
Trong ngôi nhà đồng bào các dân tộc cửa và cây cột chính cũng là vị trí linh thiêng thờ thần cửa, thần cột cái. Vì vậy không nên ngồi bậu cửa hoặc treo mũ nón và tựa lưng vào cột cái.
Ở vùng người Thái, Tày, Kháng, La Ha, Phú Lá kiêng không đem lá xanh, cành cây xanh, rau xanh vào cửa chính.
Đồng bào kiêng không huýt sáo ở trong nhà, vì nó là tín hiệu gọi ma tà, bão giông.
3. Giao tiếp sinh hoạt
Chào hỏi: Khi đến nhà, đi đường, khách cần chủ động chào hỏi bằng thái độ chân thành, nụ cười thật thà sẽ xoá đi mặc cảm bất đồng ngôn ngữ. Khi chia tay có thể bắt tay, không cần nói lời tạm biệt, hẹn gặp lại nhưng luôn nở nụ cười. Không xoa tay lên đầu trẻ em người Mông, Dao, vì theo quan niện của họ, hồn người trú ngụ ở đầu, người lạ sờ vào, hồn hoảng sợ bỏ trốn, làm cho trrẻ hay bị ốm đau.
Khi ăn uống: Mỗi dân tộc có quan niện khác nhau về vị trí chỗ ngồi, vì vậy cần lưu ý không ngồi vào một số vị trí đặc biệt như: ở vùng người Giáy, Dao phía dãy ghế ở gần bàn thờ dành riêng cho người cao tuổi nhất, khách quý nhất. Đồng bào Mông khi bố mẹ mất, vị trí đầu bàn (gần bàn thờ) luôn bỏ trống với ý niệm nơi đó giành cho hồn bố mẹ. Người Thái, Tày, Mường nơi giáp cửa sổ gia chủ đặt hai chén con có ý giành cho tổ tiên về tiếp khách, khách không ngồi ở vị trí đó.
Trước khi ăn uống cần kiên trì nghe gia chủ tiến hành các nghi lễ mời tổ tiên, chúc tụng các điều tốt lành. Khách không rót rượu trước, không gắp thức ăn trước, khi dùng xong tuyệt đối không úp chén, úp bát xuống mâm.
Khi ngủ: Mỗi căn nhà của đồng bào dân tộc ở Lào Cai đều có chỗ ngủ dành riêng cho khách, nên cần tuân theo sự bố trí của gia chủ, không nằm để chân về phía bàn thờ. ở một số vùng người Mông, Dao,Thái, La Ha, Kháng kiêng không mắc màn màu trắng trong nhà.
Nguồn:quehuongonline.vn
* Tết Nguyên Đán
Ngoài tên gọi tết Nguyên Đán, người Việt Nam còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền, Tết năm mới hay ngắn gọn là tết. Tết Nguyên Đán là dịp lễ quan trọng nhất trong văn hóa của người Việt Nam cũng như một số quốc gia Châu Á khác.
Chữ “tết” có nguyên nghĩa là “tiết”. Còn “Nguyên Đán” có nguồn gốc từ chữ Hán. với từ “nguyên” là sơ khai hay sự khởi đầu và “đán” có nghĩa là buổi sáng sớm. Vì thế, nếu đọc chính xác phiên âm phải là “Tiết Nguyên Đán” còn Tết Nguyên Đán là do cách đọc trại từ của người Việt dần thành thói quen là Tết Nguyên Đán.
Có nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc tết Nguyên Đán nhưng đa phần đều cho rằng ngày tết Nguyễn Đán ở Việt Nam đã có từ rất lâu, trước thời Tam Hoàng Ngũ Đế.
Trong cuốn Kinh Lễ Khổng Tử có viết: “Ta không biết Tết là gì, nghe đâu đó là tên của một ngày lễ hội lớn của bọn nguời Man, họ nhảy múa như điên, uống rượu và ăn chơi vào những ngày đó”.
Trong Sách Giao Chỉ Chí cũng có viết: “Bọn người Giao Quận thường tập trung lại từng phường hội nhảy múa hát ca, ăn uống chơi bời trong nhiều ngày để vui mừng một mùa cấy trồng mới, không những chỉ có dân làm nông mà tất cả người nhà của Quan lang, Chúa động cũng đều tham gia lễ hội này”.
Đó là bằng chứng rõ ràng nhất là Tết Nguyên Đán có nguồn gốc từ Việt Nam.
* Ý nghĩa:
Tết Nguyên Đán Việt Nam thể hiện ý nghĩa vô cùng thiêng liêng, sâu sắc, đậm chất nhân văn. Tết Nguyên Đán là khao khát của con người về sự hài hòa Thiên – Địa – Nhân, là mong muốn trường tồn cùng trời đất.
Ở một đất nước nông nghiệp, thì tết Nguyên Đán thể hiện mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Khi tết đến cũng là lúc người nông dân thể hiện lòng biết ơn của mình với đất trời, thần linh đã ban mưa nắng thuận hòa để mùa màng được tươi tốt. Đó là vị thần Đất, thần Mưa, thần Sấm, thần Nước, thần Mặt trời… những vị thần luôn dõi theo từng bước chân, từng buổi ra đồng của người nông dân. Ngoài ra, người nông dân cũng bày tỏ tấm lòng với những loài vật, cây cối đã giúp đỡ, nuôi sống họ, từ hạt lúa đến trâu bò, gia súc, gia cầm trong những ngày tết.
Tết Nguyên Đán của người Việt Nam là ngày đoàn tụ, sum họp gia đình thế nên dù làm gì, ở đâu, người ta đều tranh thủ về với gia đình trong ba ngày tết. “Về quê ăn Tết”, đó không phải là một khái niệm thông thường đi hay về, mà là một cuộc hành hương về với cội nguồn, nơi chôn rau cắt rốn. Được ăn bữa cơm tất niên, thắp hương khấn vái ông bà, thăm mộ tổ tiên… là niềm tự hào của người con đất Việt.
Tết Nguyên Đán Việt Nam đâu chỉ là dịp đoàn tụ, sum họp của người còn sống mà còn là dịp tưởng nhớ, biết ơn ông bà tổ tiên. Trước khi cúng giao thừa, bữa cơm tối đêm 30 tết, nhà nhà thắp hương và khấn vái mời ông bà, tổ tiên, người thân đã qua đời về ăn cơm, vui tết (đây là lễ cúng gia tiên).
Và trong 3 ngày tết, sáng chiều người ta đều thắp hương trên bàn thờ gia tiên để thể hiện sự biết ơn, không khí liêng thiêng trong nhà cho đến hết tết. Để rồi sau đó, mọi người lại bắt đầu cuộc sống, công việc thường nhật nhưng trong lòng họ vui hơn, hạnh phúc hơn vì có được tình cảm gia đình đầm ấm, hạnh phúc, thuận hòa ngày tết.
Tết Nguyên Đán ai ai cũng muốn làm mới mọi thứ từ vật chất đến tinh thần. Việc làm mới đầu tiên là dọn dẹp, sơn sửa, trang trí lại nhà cửa, bàn ghế… Người lớn, trẻ con tắm rửa sạch sẽ và mặc quần áo mới.
Tết Nguyên Đán là dịp mọi người làm mới về tinh thần cũng như tình cảm, gạt bỏ buồn phiền, đau khổ sang một bên. Nhất quyết là trong ba ngày Tết, phải hòa nhã, nói năng từ tốn, lịch sự để mong suốt năm sắp tới mối quan hệ được tốt đẹp.
Bất kỳ người Việt Nam nào cũng đều tin rằng ngày Tết vui vẻ đầu năm là dấu hiệu của một năm mới tốt đẹp sẽ tới. Những điều không may mắn sẽ qua cùng năm cũ và niềm tin vào hạnh phúc, may mắn đến trong năm mới. Nếu năm cũ khá may mắn, thì sự may mắn sẽ kéo dài qua năm sau. Với ý nghĩa này, Tết còn là ngày của lạc quan và hy vọng.
Tết Nguyên Đán còn là ngày mà nhiều người Việt Nam đi lễ chùa cầu tình duyên. Ông Tơ bà Nguyệt sẽ tạo cơ hội cho người độc thân có tình duyên trong năm mới. Mùa xuân cũng là mùa cưới của biết bao đôi trẻ hạnh phúc, xứng lứa vừa đôi hòa cùng bao câu hát xuân nhộn nhịp.
Đối với người Việt, Tết Nguyên đán hết sức quan trọng và linh thiêng, được nhiều người mong đợi, nhất là những người đi làm ăn xa nhà, trở về sum vầy cùng gia đình, tận hưởng niềm vui đoàn tụ; cùng nhau nhìn nhận lại những việc đã làm trong năm cũ, đồng thời thực hiện các tập tục văn hóa (phong tục, tập quán) tốt đẹp với gia đình, dòng họ, cộng đồng và những gì đẹp nhất, ngon nhất, tốt nhất đều được dành cho ngày Tết.
Việc làm này đã tác động sâu sắc vào tâm thức của bao thế hệ người Việt. Vì vậy, dù trải qua biết bao thời gian, nhưng những phong tục đón Tết, vui Tết cổ truyền của người Việt vẫn giữ được những nét văn hóa riêng, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tùy theo mỗi vùng miền hoặc theo quan niệm về tín ngưỡng, tôn giáo và phong tục tập quán khác nhau, Tết cổ truyền ở từng địa phương cũng có những nét khác nhau. Tuy nhiên, xét về tổng thể, phong tục của ngày Tết được chia làm ba khoảng thời gian, gồm: Tất niên, Giao thừa và Tân niên. Mỗi khoảng thời gian ứng với những hoạt động như: Tống cựu nghinh tân; Đưa ông Táo về trời vào ngày 23 tháng Chạp; Gói bánh chưng, bánh tét; Chưng hoa ngày tết (đào, mai, quất…); Chưng mâm ngũ quả; Thăm viếng mộ tổ tiên, mời vong linh tổ tiên về ăn Tết với con cháu; Cúng giao thừa; Xông đất; Chúc tết và mừng tuổi ông bà, cha mẹ, họ hàng, bạn bè; Xuất hành đầu năm; Đi lễ chùa đầu năm; Hái lộc đầu xuân;…. Những phong tục mang tính linh thiêng đó đều nhằm cầu mong cho sự tốt lành, may mắn, thành công và sức khỏe trong năm mới.
Bên cạnh những phong tục linh thiêng ngày Tết, người Việt xưa còn ăn Tết, vui xuân bằng các hoạt động vui tươi, lành mạnh như: hội đánh vật, ném còn, chơi đu, bơi thuyền, chọi trâu, đua ngựa và các trò chơi dân gian khác…, thể hiện tình làng nghĩa xóm, đoàn kết, gắn bó cộng đồng; hình thành, vun đắp, giữ gìn văn hóa làng xã từ đời này qua đời khác.
Giờ khắc linh thiêng nhất của Tết Nguyên Đán là giao thừa đêm ba mươi, thời khắc trời đất giao hòa. Gia đình quây quần, sum họp đón năm mới, mọi người trò chuyện, hàn huyên về cái được, cái mất của năm qua và bàn bạc cách làm ăn sao cho năm tới tốt đẹp hơn. Ngoài ra, người dân Việt còn có phong tục xông nhà vào đêm giao thừa.
Tục chúc Tết, mừng tuổi đầu năm cũng là một mỹ tục xuất hiện từ lâu đời. Dân gian có câu: Mồng một Tết mẹ, Tết cha, Mồng hai Tết vợ, mồng ba Tết thầy. Đó là thể hiện nét đẹp văn hóa của người Việt.
Sáng mồng Một Tết, mọi người trong gia đình mặc quần áo mới, tề tựu đông đủ để thực hiện nghi lễ chúc Tết và mừng tuổi. Con cháu mừng tuổi ông bà, cha mẹ, chúc mạnh khỏe, sống lâu. Ông bà, cha mẹ chúc con cháu làm ăn tấn tới, học hành giỏi giang. Trẻ nhỏ được mừng tuổi bằng bao lì xì đỏ trong có ít tiền mới gọi là lộc với hàm ý may mắn cả năm.
Ngày Tết, họ hàng, láng giềng, đồng nghiệp qua nhà nhau chúc Tết, tay bắt mặt mừng, thăm hỏi nhau, chuyện trò râm ran, tíu tít. Điều đó làm cho ngày Tết càng thêm ý nghĩa về sự gắn kết và chia. Mọi người mang theo những điều tốt lành suốt trong năm mới và những điều không hay trong năm cũ đều được bỏ qua để quan hệ thân tộc, quan hệ xã hội… trong năm mới tốt đẹp hơn.
Nhắc đến Tết, không thể không nhắc đến những hoạt động khác được tổ chức xung quanh ngày Tết như các trò chơi dân gian, những phiên chợ Tết, phiên chợ hoa. Các phiên chợ Tết, chợ hoa cũng được tổ chức vào mỗi dịp xuân về để tăng thêm sự rộn ràng và hương vị của ngày Tết.
Đối với người Việt Nam, ngày Tết thường diễn ra vào ba ngày chính, nhưng trước đó một tuần, người dân đã rậm rịch sắm Tết. Loài hoa đặc trưng mà người miền Bắc và miền Trung chơi Tết là hoa đào, còn người miền Nam lại chuộng hoa mai.
Mâm ngũ quả cũng là một món đồ trang trí không thể thiếu của người Việt. Đây cũng là điểm khác biệt của hai miền Nam, Bắc. Bởi vì, đặc trưng mâm ngũ quả của người Bắc là bưởi, chuối, hồng, quýt và ớt. Còn miền Nam lại là những quả: mãng cầu, sung, dừa, đu đủ, xoài….
Trong những ngày này, đi đến đâu chúng ta cũng có thể thấy được không khí rộn ràng, tất bật rất đặc trưng. Trẻ con thì háo hức vì được nghỉ học, được đi chơi, mua sắm quần áo mới.
Bên cạnh đó là tục du xuân thăm viếng danh lam thắng cảnh, lễ đền, lễ chùa trong dịp Tết. Trong những ngày Tết, mọi người tranh thủ du xuân thăm viếng danh lam thắng cảnh, thưởng ngoạn vẻ đẹp của quê hương, đất nước để tâm hồn lâng lâng thanh thản và được tiếp thêm sinh khí của mùa xuân.
Các lễ hội gắn với những đền, chùa nổi tiếng linh thiêng được Phật tử và khách thập phương từ khắp mọi miền đất nước đến thăm viếng, cầu cho quốc thái dân an, cầu phúc, cầu lộc, cầu duyên trong năm mới.
Với sự đa dạng văn hóa của các cộng đồng, chúng ta cần nhìn nhận Tết Nguyên đán là một trong những di sản văn hóa hàng đầu của dân tộc Việt Nam, xứng đáng được thấu hiểu, bảo tồn, phát huy, phát triển và quảng bá.
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc giữ gìn và trân quý những giá trị tốt đẹp của ngày Tết cổ truyền chính là góp phần phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, làm cho mọi người Việt Nam càng thêm yêu quê hương, đất nước, càng gắn bó mật thiết với gia đình, với cộng đồng, sống có trách nhiệm hơn với quá khứ, với hiện tại và cả với tương lai.
Và mỗi khi những nét đẹp văn hóa của Tết cổ truyền dân tộc được lan tỏa trong tâm hồn của mỗi người Việt Nam, thì nó sẽ trở thành nguồn lực nội sinh to lớn, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước.
Ngày Tết của dân tộc Việt với rất nhiều ý nghĩa đặc biệt, những phong tục đẹp trong dịp Tết thể hiện truyền thống văn hóa, văn minh cần được các thế hệ sau trân trọng gìn giữ và phát huy, đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập với thế giới hiện nay, bởi đó là linh hồn, là bản sắc độc đáo của dân tộc Việt Nam.
* Tết Nguyên Tiêu
* Nguồn gốc:
Tết Nguyên tiêu bắt nguồn từ Trung Quốc và qua thời gian, lễ tết này được bổ sung nhiều yếu tố của văn hóa Đông Á, vì thế nguồn gốc của nó cũng được lý giải theo nhiều hướng khác nhau.
Có truyền thuyết cho rằng, Tết Nguyên Tiêu bắt nguồn từ việc đồng áng. Vào dịp rằm tháng giêng, bà con nông dân khẩn trương chuẩn bị cho công việc đồng áng, nên tối ngày 15/1 âm lịch là thời điểm ra đồng ruộng tập trung cỏ khô, lá khô, châm lửa tiêu hủy sâu bọ. Một số ý kiến khác cho rằng Rằm tháng Giêng bắt nguồn từ hoạt động của Phật giáo. Vào ngày này, chư Tăng tập trung đông đủ để nghe Phật thuyết Pháp.
Bởi vậy, những người theo đạo Phật dùng ngày này để tưởng nhớ đến đức Phật. Rằm tháng Giêng tuy không phải là lễ quan trọng của Phật giáo so với rằm tháng Tư (Phật đản) và rằm tháng Bảy (Vu lan) nhưng trùng hợp với lễ Thượng Nguyên và Tết Nguyên Đán trong dân gian, đồng thời ngày này là rằm đầu tiên của năm mới, thời điểm thích hợp nhất để cầu nguyện an lành cho cả năm, nên thu hút sự tham gia đông đảo của giới Phật tử và toàn thể dân chúng.
* Ý nghĩa
Vào rằm tháng Giêng hàng năm, các gia đình sẽ tiến hành làm lễ cúng đi Chùa, lễ Phật để tạ ơn thần linh đã che chở cho gia đình trong cả một năm vừa qua và cầu mong sự bình yên, khỏe mạnh trong năm mới. Cúng rằm tháng Giêng là lễ cúng lớn nhất trong năm.Theo đó, các gia đình sẽ phải chuẩn bị mâm cỗ cúng tỉ mỉ, kỹ lưỡng theo quan niệm văn hóa chung.
Dân gian tin rằng, rằm tháng Giêng là khoảng thời gian Phật giáng lâm, do vậy, lễ cúng tại nhà được các gia đình Việt hết sức quan tâm, coi trọng. Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều kiện sống của mỗi gia đình mà ngày cúng, giờ cúng, cách cúng rằm tháng giêng cũng khác nhau nhưng tất cả đều thể hiện được lòng thành kính đối với thần linh và lòng biết ơn của con cháu đối với tổ tiên, ông bà. Trong lễ cúng, bắt buộc phải có hương hoa, oản quả, không thể thiếu được trầu, cau và chút rượu trắng,...
Bên cạnh việc cúng lễ tại nhà, nhiều gia đình lựa chọn việc cúng lễ tại Chùa vì đây còn được xem là ngày vía của Phật tổ, ngày Phật tổ giáng thế cứu độ trần gian,... Dù bạn lựa chọn địa điểm cúng ở đâu, bạn cũng cần phải chuẩn bị các đồ cúng chăm chút, tỉ mỉ để thể hiện được sự thành kính của mình đối với bậc thánh thần và tổ tiên của gia đình mình.
Với những gợi ý trên, bạn sẽ không còn cảm thấy khó khăn để đi tìm cầu trả lời cho câu hỏi Lễ cúng rằm tháng giêng gồm những gì nữa, thay vào đó, bạn hãy dùng sự thành tâm, thành kính của mình để chuẩn bị lễ cúng trên đầy đủ, tươm tất để giúp bạn thực hiện được mong muốn, tâm nguyện của mình nhé.
* Tết Thanh Minh
* Nguồn gốc:
Tết Thanh Minh có nguồn gốc từ Trung Quốc, bắt đầu từ thời nhà Chu (1122 TCN - 256 TCN). Có hai thuyết chính về nguồn gốc của Tết Thanh Minh:
Thứ nhất, theo truyền thuyết, vua Thuấn - một vị vua thời cổ đại của Trung Quốc bị chết đuối ở sông Hoài. Do sông tràn bờ nên mộ của Thuấn bị nước cuốn trôi. Người dân định kỳ làm lễ cúng Thuấn để giữ lại linh hồn ông khỏi trôi dạt. Từ đó hình thành nên tập tục mỗi năm vào khoảng tháng 3 âm lịch, người dân Trung Quốc làm lễ cúng đại vương Thuấn.
Thứ hai, Thanh Minh có nghĩa là "thanh" là trong sáng, "minh" là sáng sủa. Đến tháng 3, thời tiết ấm áp, sáng sủa, cây cối xanh tươi nên được gọi là tiết Thanh Minh. Người xưa chọn thời điểm này để làm lễ tảo mộ tưởng nhớ tổ tiên.
Từ Trung Quốc, tục lệ Thanh Minh được truyền sang Việt Nam từ thời Lý và trở thành ngày thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của người Việt.
Tết Thanh Minh là ngày lễ truyền thống quan trọng của người Việt, mang ý nghĩa sâu sắc. Đây là dịp để tưởng nhớ, tri ân công đức tiền nhân, những người có công khai phá và xây dựng đất nước. Thể hiện lòng hiếu thảo, biết ơn tổ tiên đã sinh thành, nuôi dưỡng. Giữ gìn và phát huy truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc
Củng cố, thắt chặt tình cảm gia đình khi mọi người quây quần bên nhau vào dịp Tết. Giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống hiếu thảo, đạo lý ứng xử với ông bà, cha mẹ. Gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc khi duy trì phong tục cổ xưa này qua hàng ngàn năm
Thời điểm để mọi người nghỉ ngơi, vui chơi sau những ngày lao động cật lực đầu năm. Tại Trung Quốc, đây là dịp lễ lớn trong năm và người lao động sẽ được nghỉ 1 ngày hoặc nhiều hơn tùy quy định.
Tết Thanh Minh là dịp để ôn lại truyền thống và bày tỏ lòng thành kính với tiền nhân. Chuẩn bị cho Tết Thanh Minh ít tốn kém nhưng lại đem đến nhiều ý nghĩa.
Thứ nhất, hãy dành thời gian dọn dẹp, làm sạch và trang hoàng nơi an nghỉ của tổ tiên. Chuẩn bị các nhang đèn, hoa quả, trái cây để làm lễ cúng. Mời các thành viên trong gia đình cùng tham gia để tăng thêm tình cảm.
Thứ hai, bàn bạc với mọi người để chuẩn bị lễ vật. Những món ăn truyền thống như cũng không thể thiếu. Ngoài ra hương, hoa, trái cây, rượu trắng... cũng đều mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc. Cùng nhau thắp nén nhang thơm dâng lên bàn thờ. Lần lượt kính cẩn dâng lễ vật, thành tâm cầu nguyện tổ tiên phù hộ cho mọi người bình an, mạnh khỏe và hạnh phúc. Sau phần nghi lễ trang trọng, cả nhà quây quần bên mâm cơm vui vẻ để ôn lại kỷ niệm xưa.
Tết Thanh Minh là thời điểm linh thiêng, tâm linh được coi trọng nên bên cạnh việc giữ gìn sự trang nghiêm thì người Việt cũng chú ý nhiều kiêng kỵ.
Theo phong tục, trong ngày Tết Thanh Minh cần tránh những việc khiến ông bà buồn phiền. Chẳng hạn mâu thuẫn, cãi vã nhau hay khóc lóc thảm thiết bên mộ phần. Bên cạnh đó đừng nên để xảy ra việc đổ vỡ, sứt mẻ đồ đạc trong gia đình.
Nhiều người tin rằng không may sẽ xảy ra nếu vô tình làm rớt hoặc đổ đồ cúng. Vì vậy, cần cẩn thận, tập trung làm lễ. Mọi người trong gia đình cũng không nên cho vay, mượn tiền bạc vào ngày này để tránh việc con nợ khó đòi.
Ngoài ra, tránh xây xát sửa chữa vào ngày Tết Thanh Minh. Quan niệm cho rằng tiếng động lớn có thể làm phiền vong linh tổ tiên đang về đây. Chính vì thế, việc giữ sự tĩnh lặng, trật tự sẽ mang lại nhiều may mắn, tài lộc cho cả năm.
Ngoài những điều đã nêu, còn có nhiều kiêng kỵ khác liên quan đến ăn uống, sinh hoạt, ứng xử mà người Việt lưu ý để tránh vận xấu.
Theo quan niệm dân gian, vào ngày này tuyệt đối tránh xa thịt chó, thịt mèo vì chúng được xem như bạn thân của con người. Người già cấm các cháu nhỏ đùa nghịch trên bàn thờ hoặc ném đất đá xuống huyệt mộ.
Đặc biệt, không được quan hệ vợ chồng vào đêm hôm Tết đến. Bên cạnh đó là những điều kiêng kỵ liên quan phong thủy như cấm cạo tóc, cắt móng tay... do lo ngại vong linh tổ tiên hiểu lầm đó là hành động bất kính.
Nhiều gia đình còn đặt ra lệ là không cho phép thức đêm, ngủ dưới gầm giường hoặc ngồi chồm hổm. Những điều này đều mang ý nghĩa tôn trọng người đã khuất.
Mâm cúng Thanh Minh tại nhà thường có các món ăn đơn giản như xôi, gà luộc, rau củ quả. Bày biện thêm hoa tươi, trái cây, vàng mã để tăng thêm vẻ trang nghiêm. Nếu muốn, gia chủ có thể thay bằng mâm cúng chay thanh đạm.
Trước giờ cúng, cần dọn dẹp nhà cửa gọn gàng, sạch sẽ. Mâm cúng đặt trang trọng trên bàn thờ tổ tiên. Người cúng mặc quần áo chỉnh tề, thắp nhang khấn vái để bày tỏ lòng thành kính và biết ơn tiền nhân.
Ngoài mộ phần, mâm cúng Thanh Minh cũng thường có các loại hoa quả, rượu trắng, chén đĩa. Nếu điều kiện cho phép, gia đình có thể làm thêm mâm cỗ chay hoặc cỗ mặn để cúng bái thêm phần trang nghiêm. Dù khác nhau về hình thức nhưng tất cả đều thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc.
* Tết Đoan Ngọ
Hằng năm cứ đến mồng 5 tháng 5 (âm lịch) dân ta lại tổ chức ăn Tết Đoan ngọ. Tết Đoan ngọ còn gọi là Tết Đoan dương.
Đoan ngọ là bắt đầu giữa trưa (Đoan: mở đầu, Ngọ: giữa trưa) còn dương là mặt trời, là khí dương, Đoan dương có nghĩa là bắt đầu lúc khí dương đang thịnh.
Đây là một ngày Tết truyền thống dựa trên văn hóa – tín ngưỡng dân gian Phương Đông nhằm đánh dấu một giai đoạn mới mở đầu cho những điều tốt đẹp, cầu cho mùa màng bội thu, sinh nhai thuận lợi. Trong ngày Tết Đoan Ngọ người ta thường có những tục lệ khác nhau như: Tục chiết sâu bọ, Tục nhuộm móng chân – móng tay, Tục tắm nước lá mùi, Tục khảo cây lấy quả, Tục hái thuốc vào giờ Ngọ…
Tại mỗi nước khác nhau những tục lệ và nghi thức cho ngày Tết Đoan Ngọ lại khác nhau. Ở Đông Á có Việt Nam, Triều Tiên và Trung Quốc ngày Tết này được bảo tồn và chân trọng lưu giữ.
Ở Việt Nam, Tết Đoan ngọ còn được dân gian gọi là bằng cái tên dân dã hơn là Tết giết sâu bọ. Đây là một trong những ngày lễ truyền thống có nội hàm văn hóa phong phú. Không chỉ riêng ở Việt Nam hay Trung Quốc mà ở Triều Tiên, Hàn Quốc cũng có Tết Đoan ngọ. Vì vậy, Tết Đoan ngọ thực chất là một phong tục lễ tết Á Đông gắn liền với quan niệm về sự tuần hoàn của thời tiết trong năm.
Vào cuối thời Chiến Quốc, có một vị đại thần nước Sở là Khuất Nguyên. Ông là vị trung thần nước Sở và còn là nhà văn hoá nổi tiếng. Tương truyền ông là tác giả bài thơ Ly Tao (thuộc thể loại Sở từ) nổi tiếng trong văn hóa cổ Trung Hoa, thể hiện tâm trạng buồn vì đất nước suy vong với hoạ mất nước.
Do can ngăn vua Hoài Vương không được, lại bị gian thần hãm hại, ông đã uất ức gieo mình xuống sông Mịch La tự vẫn ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch. Thương tiếc người trung nghĩa, mỗi năm cứ đến ngày đó, dân Trung Quốc xưa lại làm bánh, quấn chỉ ngũ sắc bên ngoài (ý làm cho cá sợ, khỏi đớp mất) rồi bơi thuyền ra giữa sông, ném bánh, lấy bỏ gạo vào ống tre rồi thả xuống sông cúng Khuất Nguyên.
Ngoài ra, có truyền thuyết khác về sự bắt nguồn của ngày tết Đoan ngọ, nhiều nguồn tin cho rằng tập tục tết Đoan Ngọ là bắt nguồn từ Hạ Trí trong thời cổ, có người thì cho rằng, đây là sự tôn sùng vật tổ của người dân vùng sông Trường Giang.
Vào một ngày sau vụ mùa, nông dân ăn mừng vì trúng mùa nhưng sâu bọ năm ấy lại kéo dày ăn mất cây trái, thực phẩm đã thu hoạch. Nhân dân đau đầu không biết làm cách nào để có thể giải được nạn sâu bọ này, bỗng nhiên có một ông lão từ xa đi tới tự xưng là Đôi Truân. Ông chỉ cho dân chúng mỗi nhà lập một đàn cúng gồm đơn giản có bánh tro, trái cây, sau đó ra trước nhà mình vận động thể dục. Nhân dân làm theo chỉ một lúc sau, sâu bọ đàn lũ té ngã rã rượi. Lão ông còn bảo thêm: Sâu bọ hằng năm vào ngày này rất hung hăng, mỗi năm vào đúng ngày này cứ làm theo những gì ta đã dặn thì sẽ trị được chúng.
Dân chúng biết ơn định cảm tạ thì ông lão đã đi đâu mất. Để tưởng nhớ việc này, dân chúng đặt cho ngày này là ngày “Tết diệt sâu bọ”, có người gọi nó là “Tết Đoan ngọ” vì giờ cúng thường vào giữa giờ Ngọ.
Bởi vậy, không thể quan niệm Tết Đoan Ngọ của người Việt bắt nguồn từ Trung Quốc như một số người vẫn lầm tưởng như hiện nay.
Ở Việt Nam, Tết Đoan ngọ được “Việt hóa” thành ngày Tết diệt sâu bọ và thờ cúng tổ tiên. Người Việt Nam còn gọi Tết Đoàn Ngọ là “Tết giết sâu bọ” vì trong giai đoạn chuyển mùa, chuyển tiết, dịch bệnh dễ phát sinh. Vào ngày này, dân gian có nhiều tục trừ trùng phòng bệnh.
Hiện ở một số làng quê Việt Nam vẫn còn giữ nếp xưa, rất coi trọng ngày Tết này. Sau Tết Nguyên Đán, có lẽ “Tết giết sâu bọ” là cái Tết sum họp đầm ấm nhất và có nhiều tục lệ gắn kết với đời sống của người dân… vì vậy con cháu dù làm ăn xa xôi mấy cũng cố thu xếp để về.
Vào thời điểm này, trái cây, hoa lá bắt đầu đơm hoa kết trái mong một mùa bội thu, vì vậy, hoa quả là thứ đồ cúng không thể thiếu. Ngoài ra còn có những món ăn khác tùy theo tập quán của từng địa phương.
Vào ngày này, cả làng nhộn nhịp hẳn lên, nhà nào cũng dậy từ sớm chuẩn bị phẩm vật cúng tổ tiên và hoa quả là thứ đồ cúng không thể thiếu. Người ta quan niệm rằng, đây là thời điểm quả trên cây, lá trên cành bắt đầu đơm hoa kết trái và cúng tổ tiên để mong một mùa bội thu.
Sau lễ cúng là các tục lệ giết sâu bọ. Cả nhà quây quần ăn những thứ quả chua, rượu nếp, bánh tro… để diệt trừ” sâu bọ”, xua đuổi hết bệnh tật…
Theo lệ, đúng ngọ (12h trưa), người dân ở các vùng thôn quê rủ nhau đi hái lá. Đây là thời khắc có dương khí tốt nhất, là giờ mặt trời toả ánh nắng tốt nhất trong năm. Lá cây cỏ hái được vào giờ này có tác dụng chữa bệnh rất tốt như các bệnh ngứa ngoài da, nhất là các bệnh về đường ruột hay khi cảm mạo, đem những lá thuốc này nấu nước xông giải cảm rất tốt.
Ngày xưa, vào ngày này, người ta còn có tục nhuộm móng chân, móng tay, tục khảo cây lấy quả, tục treo ngải cứu để trừ tà… Những em bé chưa biết đi thì được lấy một ít vôi quyệt vào thóp, vào ngực và rốn để chúng không bị đau bụng, nhức đầu. Tuy nhiên, phần lớn các tục lệ này nay đã được bãi bỏ, chỉ còn giữ lại tục tắm nước lá và tục đi hái lá thuốc.
Nơi phố phường, thị thành, không nhiều vườn tược, cỏ cây, người dân có lệ đi mua lá thuốc mồng 5. Dịp này, những người buôn bán từ quê ra đều mang theo đủ thứ loại lá bày bán. Lá được xắt nhỏ, phân từng loại riêng biệt, người đi chợ chọn lấy những lá có mùi vị ưa thích mua về, đúng ngọ ngày mồng 5, lại đem ra phơi khô rồi bọc lại để trong tủ thuốc gia đình, dùng khi nhà có người ốm đau.
Theo truyền thống của từng miền, vào ngày này, ngoài hoa quả, những món ăn cũng khác nhau. Tại Hà Nội và một số vùng của miền Bắc ngày này, rượu nếp, đặc biệt là rượu nếp cẩm, là món không thể thiếu. Người ta cho rằng, bộ phận tiêu hoá của con người thường có các loại ký sinh gây hại và chúng nằm sâu trong bụng nên không phải lúc nào cũng diệt được. Duy có ngày mồng 5/5 (âm lịch), các loại ký sinh này thường ngoi lên, con người có thể ăn thức ăn, hoa quả vị chua, chát và nhất là rượu nếp, có thể loại bỏ chúng.
Theo dân gian, rượu nếp được ăn ngay khi vừa ngủ dậy thì rất hiệu nghiệm. Rượu này chủ yếu là xôi còn nguyên hạt lên men, còn gọi là “cái“. Người dân thường dùng các loại gạo nếp trắng và cẩm đồ thành xôi, để nguội rồi rắc men, ủ trong ba ngày. Thúng xôi ủ được đặt trên một chiếc chậu, hứng lấy nước rượu để khi ăn, trộn với cái, tạo vị ngọt, cay rất dễ chịu. Người già, con trẻ đều có thể ăn loại rượu này.
Phụ nữ các vùng quê miền Bắc phần lớn đều biết “ngả rượu nếp” và thường tranh thủ dịp này ngả rượu để mang ra Hà Nội bán, có người chỉ trong một buổi sáng bán được đến cả 10 chậu nếp cẩm.
Cơm rượu miền Trung: Cơm rượu được làm từ phương pháp lên men cổ truyền. Đây là món tráng miệng, lại giúp dễ tiêu hóa nên đã được nhiều gia đình miền Trung tự chế biến trong bữa ăn. Cơm rượu nếp miền Trung thường có hình dáng vuông vức.
Chè kê: Đây là món ăn đặc trưng của người Huế mỗi dịp Tết Đoan Ngọ. Sau khi xay hạt kê và loại bỏ lớp vỏ, người ta ngâm rồi đun sôi cho đến khi nở mềm, sền sệt rồi thêm nước đường cùng chút gừng là đã được một nồi chè kê thơm phức, vô cùng hấp dẫn rồi.
Cơm rượu nếp miền Nam: Ở các tỉnh miền Nam, cơm rượu nếp được gọi là cơm rượu. Cơm rượu không để rời mà viên thành từng viên tròn trước khi ủ. Món cơm rượu ở miền Nam thường có nước tiết ra và cũng được pha thêm nước đường, rất ngon nếu ăn kèm với xôi vò giống như món xôi chè ở miền Bắc.
Còn ở Đà Nẵng, món không thể thiếu trên mâm cơm cúng là bánh ú tro. Nhà nào cũng mua từ ba bốn chục bánh trở lên.
Ngoài ra, theo truyền thống của người miền trong, thịt vịt cũng là một thứ không thể thiếu cho ngày lễ này. Tại TP.HCM, vịt quay, heo quay ngày này thường tăng hơn so với ngày thường.
* Tết Trung thu
Trung thu là giữa mùa thu. Tết Trung thu như tên gọi rơi vào Rằm (ngày 15) tháng Tám âm lịch. Từ xưa, đây được xem là ngày lành, tháng tốt để tiên đoán mùa màng và cũng là dịp Tết vui chơi của trẻ nhỏ.
Theo đó, người xưa luôn cho rằng có mối liên hệ giữa cuộc đời và vầng trăng. Trăng tròn và trăng khuyết, niềm vui nỗi buồn, sự đoàn tụ, sum họp hay chia ly. Cũng từ đó trăng tròn là biểu tượng của sum họp và Tết Trung thu cũng được gọi là Tết Đoàn viên.
* Nguồn gốc
Theo các nhà khảo cổ học, Tết Trung thu ở Việt Nam có từ thời xa xưa, đã được in trên mặt trống đồng Ngọc Lũ. Theo văn bia chùa Đọi năm 1121 thì từ đời nhà Lý, Tết Trung thu đã được chính thức tổ chức ở kinh thành Thăng Long với các hội đua thuyền, múa rối nước và rước đèn. Đến đời Lê - Trịnh thì Tết Trung thu đã được tổ chức cực kỳ xa hoa trong phủ Chúa.
Cũng có rất nhiều những truyền thuyết được lưu truyền trong dân gian về nguồn gốc ra đời của ngày Tết Trung thu như: Chuyện nhà vua dạo chơi cung trăng vào Rằm tháng Tám, sự tích chị Hằng Nga, sự tích chú Cuội, sự tích Thỏ Ngọc…
Không chỉ ở Việt Nam, Trung Thu còn là ngày lễ của các quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc...
* Ý nghĩa
Vào ngày này, theo phong tục người Việt, người lớn thường chuẩn bị mâm cỗ (bánh, trái…) dâng lên cúng tổ tiên, những người đã khuất. Sau đó, tất cả các thành viên trong gia đình đều quây quần bên nhau cùng phá cỗ, thưởng trăng.
Người Việt cũng thường mượn ngày này để tỏ lòng hiếu kính với ông bà, bố mẹ bằng những món quà, những lời thăm hỏi.
Ngày này cũng được xem là Tết Thiếu nhi. Trẻ em các vùng miền trên cả nước được rước đèn, phá cỗ, xem múa lân, ngắm trăng… cùng bạn bè.
Theo quan niệm của người xưa, Tết Trung thu còn là dịp để người ta ngắm trăng tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia.
Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị.
* Tết ông Công, ông Táo
Lễ cúng ông Công ông Táo 23 tháng Chạp là ngày lễ quan trọng trong mùa Tết Nguyên đán. Đây là ngày mà các vị thần Bếp cưỡi cá chép lên trời để báo với Ngọc hoàng những chuyện tốt, xấu trong gia đình suốt năm qua.
Ông Công ông Táo trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam bao gồm các vị thần Đất, thần Nhà và thần Bếp (Táo quân). Bộ ba này được cho là sự Việt hóa của ba vị thần Thổ công, Thổ địa, Thổ kỳ trong Lão giáo Trung Quốc.
Dân gian có nhiều câu chuyện cho biết nguồn gốc, ý nghĩa ngày Tết ông Công ông Táo. Một trong các sự tích này kể rằng, vợ chồng Trọng Cao và Thị Nhi lấy nhau đã lâu mà không có con. Vì vậy mà dù vốn yêu nhau thắm thiết, Trọng Cao dần dần trở bên cáu gắt khó chịu, thường kiếm chuyện mắng mỏ, dằn vặt vợ.
Một hôm hai vợ chồng cãi nhau, Trọng Cao nổi cơn vũ phu, đánh mắng vợ rồi đuổi đi. Thị Nhi lang thang đến xứ người, gặp và lấy chồng mới là Phạm Lang, người đối xử với cô rất tốt.
Trọng Cao hối hận khi thấy mất vợ, bèn bỏ nhà đi tìm. Ngày tháng trôi qua, vợ không thấy mà tiền cũng hết, anh ta đành phải lần hồi xin ăn. Thế rồi số phận run rủi đưa anh ta đến ăn xin tại nhà Phạm Lang. Thị Nhi nhận ngay ra chồng cũ. Nhân lúc chồng mới đi vắng, cô đưa chồng cũ vào thết đãi, sau đó đem anh ta ra giấu ở đống rơm ngoài đồng, định bụng bữa sau sẽ lại đưa cơm ra.
Không ngờ lát sau, Phạm Lang đốt đống rơm ấy để lấy tro bón ruộng, khiến Trọng Cao bị thiêu chết. Hối hận và cảm thấy tội lỗi, cho rằng chồng cũ mất mạng là do mình, Thị Nhi nhảy vào lửa. Phạm Lang xông vào cứu cũng không thoát khỏi cái chết. Ngọc hoàng cảm động trước tình cảm của ba người, cho họ làm thần Bếp.
Còn theo truyện Sự tích ông đầu rau trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (Nguyễn Đổng Chi) lại có cách kể khác về nguồn gốc ngày Tết ông Công ông Táo:
Có có hai vợ chồng tuy nghèo nhưng rất yêu nhau. Vào năm mất mùa đói kém, họ không được ai thuê mướn, phải đi mò cua bắt ốc, đào củ, hái rau về ăn nhưng vẫn có nguy cơ chết đói. Người chồng bèn dứt áo ra đi kiếm cách khác mưu sinh, dặn vợ nếu sau 3 năm mình không về thì cứ đi lấy chồng khác vì khi đó anh đã bỏ xác quê người.
Sau đó, vợ được nhận làm thuê trong một gia đình khá giả. Nạn đói chấm dứt, cái hẹn 3 năm đã trôi qua nhưng chồng vẫn biệt tăm. Trong khi đó, ông chủ vừa góa vợ đã đem lòng yêu và muốn cưới nàng làm vợ. Chưa hết hy vọng gặp lại chồng, nàng xin để tang 3 năm rồi mới tính chuyện đi bước nữa. Hết 3 năm, tin tức của chồng vẫn biệt tăm, người đàn ông kia thúc giục, nàng lại cố trì hoãn thêm một năm.
Cuối cùng, khi hết năm thứ 7, người đàn bà cho rằng chồng mình thật sự đã chết nên làm mâm cơm cúng rồi chấp nhận gá nghĩa với người mới. Không ngờ 3 tháng sau, người chồng lưu lạc trở về khiến cả ba người lâm vào tình huống trớ trêu, khó xử. Người chồng mới xin trả lại vợ, nhưng anh chồng cũ không nỡ phá hoại hạnh phúc của họ nên từ chối và quyết định ra đi. Thế nhưng tình cảm sâu đậm với vợ khiến anh không thể bước chân ra khỏi làng, quẫn trí treo cổ lên cây đa.
Cái chết của chồng cũ khiến người đàn bà đau đớn, tự cho là lỗi của mình đã không thể chờ thêm vài tháng dù đã đợi đằng đẵng 7 năm. Nàng cảm thấy không có mặt mũi nào sống tiếp nên nhảy xuống ao cạnh nhà. Người chồng mới cũng thấy mình có lỗi, sau khi làm ma cho vợ đã chia hết gia sản cho họ hàng và cúng vào chùa rồi cũng tự tử.
Trước tòa án của Diêm vương, hai người đàn ông đều khai họ rất nặng tình với vợ mình, còn người đàn bà thú thật rằng tình cảm của nàng với cả hai người chồng đều rất sâu đậm. Diêm vương rất cảm động, cho họ hóa thành ba ông đầu rau (3 hòn đất nung chụm lại để thành bếp đun) để được ở gần nhau mãi mãi, và ngọn lửa luôn luôn đốt nóng tình yêu của họ. Họ cũng được phong làm Táo quân, trong nom từng bếp lửa của từng gia đình.
Không chỉ định đoạt may, rủi, phúc họa của gia chủ, các vị Táo quân được cho là còn ngăn cản sự xâm phạm của ma quỷ vào thổ cư, giữ bình yên cho mọi người trong nhà. Hằng năm, đúng vào ngày 23 tháng Chạp, Táo quân lên chầu trời báo cáo tất cả việc làm tốt, xấu của con người trong năm để Thiên đình định đoạt công tội, thưởng phạt phân minh.
Với mong muốn thần Bếp phù hộ cho gia đình mình được nhiều may mắn, người Việt thường làm lễ tiễn đưa Táo quân chầu trời một cách long trọng.
Phong tục cúng ông Công ông Táo mang ý nghĩa cầu mong cho sự ấm no, đầy đủ, sau đó mới đến ý nghĩa thờ thần Bếp chuyên cai quản việc bếp núc. Mâm cơm cúng vừa để bày tỏ lòng biết ơn với các vị thần, vừa là để mọi người trong gia đình sum họp, quây quần sau một năm làm ăn vất vả.
Đặc biệt trong lễ cúng ông Công ông Táo, người Việt thường chuẩn bị thêm cá chép (thường là 3 con) đựng trong chậu nước. Cá chép là phương tiện để ông Táo cưỡi về trời. Sau khi cúng lễ xong, các gia đình đem cá ra sông hay ra ao để thả.
Việc thả cá chép có ngụ ý "cá vượt vũ môn" hay "cá chép hóa rồng". Cá chép mang ý nghĩa biểu tượng cho sự thăng hoa, tinh thần vượt khó, sự kiên trì và bền bỉ để đi tới thành công.
* Lễ Hội đền Hùng - Phú Thọ
Giỗ Tổ Hùng Vương và Đền Hùng từ bao đời nay là biểu tượng đã ăn sâu vào tâm khảm thiêng liêng của mỗi người dân đất Việt. Đây là điểm hội tụ tâm linh, hội tụ bản sắc văn hóa và tinh thần đại đoàn kết dân tộc; là nguồn sức mạnh tinh thần giúp cho dân tộc Việt Nam vững vàng vượt qua mọi gian nan thử thách, đoàn kết, gắn bó keo son để chiến thắng mọi thiên tai vả kẻ thù.
* Nguồn gốc
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương bắt nguồn từ Tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên, một trong những tín ngưỡng đặc thù, có vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống tinh thần và là một trong những thành tố tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Trải qua bao biến cố của lịch sử, Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam luôn chiếm vị trí thiêng liêng trong đời sống tinh thần của cộng đồng các dân tộc; được bảo tồn và lưu truyền qua bao nhiêu thế hệ với sức sống lâu bền và ngày một lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng xã hội và tồn tại qua mọi thể chế chính trị.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là biểu hiện cao nhất của Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thể hiện bản sắc văn hóa đặc trưng của cộng đồng người Việt Nam, đó là lòng biết ơn đối với Hùng Vương và các bậc tiền nhân đã có công dựng nước. Trong tâm thức của người Việt, Hùng Vương là vị thủy tổ khai sinh ra dân tộc Việt. Với lòng tôn kính, biết ơn Vua Hùng, cộng đồng người Việt đã tự nguyện thờ cúng Hùng Vương, đưa việc thờ cúng Hùng Vường trở thành tín ngưỡng, là biểu tượng văn hóa tạo nên truyền thống đoàn kết, yêu thương, đùm bọc và cùng vượt qua mọi khó khăn thử thách để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thế đại diện của nhân loại vào ngày 6 tháng 12 năm 2012. Đây chính là đề cao sự thống nhất trong đa dạng văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
* Giá trị
Giá trị giáo dục đạo lỷ truyền thống dân tộc
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương - tụ nguồn từ Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên truyền thống của dân tộc Việt Nam với triết lý “con người có tổ có tông” và “uống nước nhớ nguồn” được trao truyền từ đời này sang đời khác đã trở thành nghi lễ dân gian mang tính quốc gia ở Việt Nam. Hiện nay, trên địa bàn cả nước có 1.417 di tích, riêng tỉnh Phú Thọ - vùng đất cội nguồn dân tộc có 345 di tích thờ Hùng Vương và các nhân vật thời Hùng Vương. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ngày càng khẳng định vị trí vững chắc trong đời sống xã hội đương đại; khẳng định sức sống của biểu tượng cội nguồn dân tộc, tự hào về đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” cua dân tộc Việt Nam, tạo sức mạnh cho việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam.
Giá trị giáo dục lòng yêu nước
Công đức các Vua Hùng được lưu truyền từ đời này qua đời khác, được cộng đồng tôn thờ, biết ơn là biểu tượng của anh hùng lập nước. Đây là cội nguồn của tinh thần yêu nước của dân tộc Việt. Ý thức về các vua Hùng cũng chính là ý thức về cội nguồn dân tộc, đất nước từ đó hình thành tinh thần tự cường dân tộc, ý thức độc lập tự chủ. Dân tộc ta trải qua thăng trầm của bao cuộc chiến tranh nhưng lòng yêu nước, ý thức độc lập tự chủ được các thế hệ người Việt tiếp nối nhau chưa bao giờ tắt, tạo nên một giá trị đặc trưng nổi bật trong hệ thống giá trị đạo đức của người Việt. Ngay từ những năm 40 - 43 (SCN) trong cuộc chiến tranh xâm lược, nữ tướng Hai Bà Trưng đã đọc lời thề Sông Hát trước khi xung trận:
"Một, xin rửa sạch quốc th
Hai, xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng”
Giá trị tinh thần yêu nước, tinh thần tự cường dân tộc được khởi nguồn từ sự khai sinh lập nước của các Vua Hùng được các thế hệ người Việt gìn giữ, tiếp nối và khẳng định như trong Tuyên ngôn độc lập của Lý Thường Kiệt:
“Sông núi nước Nam, vua Nam ở”
Đến thời đại Hồ Chí Minh với câu nói bất hủ của Người:
"Các vua Hùng đã có công dựng nước,
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước ”
Giá trị giáo dục tinh thần cố kết cộng đồng dân tộc
Ý thức đầu tiên về sự cố kết cộng đồng của người Việt Nam đã được dân gian huyền thoại hóa bằng thiên truyền thuyết “Lạc Long Quân và Âu Cơ” với hình ảnh “Bọc trăm trứng” chứa đựng triết lý nhân văn sâu sắc để lý giải nguồn cội con cháu Rồng Tiên. Truyền thuyết Quốc tổ Lạc Long Quân - Âu Cơ sinh hạ 100 người con trong đó 50 người con theo mẹ lên núi, 50 người con theo cha xuống biển lập ra trăm họ, là Thủy tổ của Bách Việt trong đó có Lạc Việt và Âu Việt của nước Văn Lang thời vua Hùng, nước Âu Lạc thời vua Thục.
Từ ngàn đời nay, câu chuyện cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ với "Bọc trăm trứng" (cùng bọc mẹ - nghĩa đồng bào), một huyền thoại mở đất, mở nước từ thời đại các Vua Hùng, trải qua bao tháng năm và thăng trầm của lịch sử vẫn mãi tồn tại trong tâm thức mỗi con dân đất Việt. Nghĩa “đồng bào” luôn là sức mạnh nội lực có sức lan tỏa mãnh liệt để cố kết mối đại đoàn kết toàn dân tộc chúng ta từ quá khứ tới hiện tại và tương lai.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và Lễ hội Đền Hùng thể hiện sự gắn bó của cộng đồng trong nghĩa “đồng bào”, với truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, dân tộc Việt Nam cùng có chung một cội nguồn, chung một dòng máu Lạc Hồng, là những người con cùng một bọc, nghĩa “đồng bào” từ đó mà sinh ra, cả nước cùng tôn thờ một vị vua Tổ, một biểu hiện cho sức mạnh siêu nhiên bảo vệ cho sự tồn vong của dân tộc, của cả cộng đồng. Với sự “Hội tụ” sâu sắc nhất nghĩa “đồng bào”, ý thức cội nguồn của hàng triệu triệu người dân đất Việt và sự “lan tỏa” mạnh mẽ từ Khu di tích lịch sử Đền Hùng không chỉ đến các di tích thờ Hùng Vương, danh nhân, danh tướng thời Hùng Vương trong tỉnh Phú Thọ mà còn lan rộng ra các di tích thờ Hùng Vương trong và ngoài nước đều đồng loạt tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương vào ngày 10 tháng 3 âm lịch trang nghiêm, thành kính, có ý nghĩa giáo dục sâu sắc ý thức dân tộc, tình yêu quê hương, đất nước
Giá trị văn hóa tâm linh
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương luôn hướng con người tới cái chân - thiện - mỹ, cái cao cả mà con người luôn ước vọng tôn thờ. Trong Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, các yếu tố văn hóa tâm linh được tiềm ẩn từ các kiến trúc tín ngưỡng đình, đền, miếu - nơi thờ phụng, thực hành tín ngưỡng đến các nghi lễ rước, tế, lễ vật, phẩm phục, diễn xướng dân gian.
Hàng năm, hàng triệu lượt người hành hương về núi thiêng Nghĩa Lĩnh để tưởng nhớ Hùng Vương, nhớ ơn công lao Tổ tiên đã có công dựng nước và giữ nước, cầu mong mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu, cầu may mắn, sức khỏe cho bản thân và gia đình. Những cuộc hành hương về quá khứ, giao tiếp với tổ tiên của quốc gia và gia đình là những hình thức kết nối sức mạnh của tổ tiên như là phương thức gặp gỡ và vượt qua thách thức của cuộc sống hiện tại.
Từ cộng đồng người Việt ờ Phú Thọ, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương lan tỏa mở rộng ra phạm vi cả nước, trở thành tập quán của cộng đồng người Việt Nam ở trong và ngoài. Người Việt Nam ở mọi miền đất nước và ở nước ngoài sáng tạo những không gian thờ cúng Hùng Vương riêng, xin chân nhang, đất, nước từ Đền Hùng về thờ cúng Ngài với tư cách ông Tổ của dân tộc. Đây là đức tin tín ngưỡng thuần Việt đã vượt qua mọi thời đại để trở thành biểu tượng cho khát vọng trường tồn, độc lập tự chủ lâu dài, vĩnh viễn và ước mơ về sự phồn vinh của quốc gia, dân tộc.
Giá trị lịch sử
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương thể hiện lòng tự hào về cội nguồn quốc gia dân tộc, ý thức của người dân về lịch sử - một ý thức hệ sâu sắc như một minh triết được ông cha truyền lại cho đến ngày hôm nay. Truyền thống tôn thờ Hùng Vương là một hình thức biểu hiện mạnh mẽ nhận thức về lịch sử và sự đoàn kết của dân tộc Việt Nam, truyền cảm mãnh liệt sự tôn kính của người dân với quá khứ của tổ tiên và di sản văn hóa đặc sắc.
Trên vùng đất Phú Thọ dày đặc các truyền thuyết huyền thoại về thời kỳ Hùng Vương dựng nước. Các truyền thuyết về Thánh Gióng, Sơn Tinh, Thủy Tinh, Mai An Tiêm; các lễ hội dân gian Rước Vua về làng ăn Tết, Rước Chúa gái, Vua Hùng dạy dân cấy lúa, Lễ hội Hát Xoan... là minh chứng khẳng định Phú Thọ - vùng đất cội nguồn dân tộc Việt Nam là kho tàng văn hóa dân gian lưu giữ dấu ấn lịch sử về thời đại Hùng Vương. Đằng sau truyền thuyết huyền thoại là yếu tố lịch sử. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là quá trình lịch sử hóa và huyền thoại hóa đan xen. Hệ thống các di chỉ khảo cổ Sơn Vi, Phùng Nguyên, Làng Cả, Xóm Ren, Gò Mun và các cổ vật được tìm thấy xung quanh núi Hùng như Nha chương, trống đồng, rùi, mũi tên... cho ta thấy một thời đại Hùng Vương rực rỡ và cho thấy rõ nét một nhà nước Văn Lang cổ đại - trung tâm khởi phát của người Việt cổ.
* Lễ Hội cồng chiên - Tây Nguyên
Sau 19 năm, kể từ khi được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại ngày 25/11/2005, không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên nói chung đang được bảo tồn và phát huy theo các góc độ khác nhau ở từng địa phương.
* Nguồn gốc:
Các nhà nghiên cứu về văn hóa Tây Nguyên cho rằng. Văn hóa cồng chiêng bắt nguồn từ văn minh Đông Sơn cổ đại. Nền văn minh được biết đến với tư cách là một nền văn hóa trống đồng nổi tiếng ở Đông Nam Á. Cồng chiêng được các tộc người ở Tây Nguyên quan niệm như là ngôn ngữ giao tiếp hàng đầu của con người. Với thần thánh và thế giới siêu nhiên. Những bộ cồng chiêng của mỗi gia đình xưa kia còn biểu hiện cho sự giàu có của người dân Tây Nguyên.
Cồng, chiêng là loại nhạc khí bằng hợp kim đồng, có khi pha bạc hoặc đồng đen.
Trước khi sử dụng các văn hóa bằng đồng, người xưa đã tìm đến loại khí cụ bằng đá. cụ thể như cồng đá, chiêng đá…Sau đấy mới tới thời đại đồ đồng, mới có chiêng đồng…
Xét về lịch sử tiến hóa, mỗi sự biến chuyển tính năng nhạc khí thời xưa diễn ra trong hàng mấy trăm năm. Và có thể khẳng định, căn cứ trên vết tích trống đồng, cồng chiêng Tây Nguyên đã có ít nhất 2.000 năm.
Không gian văn hóa truyền thống cồng chiêng Tây Nguyên trải rộng suốt 5 tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Nông và Lâm Đồng. Chủ nhân của loại hình văn hóa đặc sắc này là cư dân các dân tộc Tây Nguyên. Như Êđê, Ba na, Xơ đăng, Gia rai, M’nông, Cơ ho… Cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của các tộc người Tây Nguyên. Là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn con người, để diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống. Trong lao động và sinh hoạt hàng ngày của họ.
* Ý nghĩa và văn hóa Cồng Chiêng
Giá trị văn hóa truyền thống
Các nhà nghiên cứu cho biết. Cồng là loại có núm, chiêng không có núm. Các dàn cồng chiêng thường gồm nhiều bộ, mỗi bộ có số lượng khác nhau, đảm nhiệm những chức năng riêng trong cuộc hòa tấu. Nhạc cụ cồng chiêng có nhiều kích cỡ, đa phần có đường kính từ 20 cm đến 50 cm – 60 cm, có khi loại cực đại lên đến 90 cm. Cồng chiêng có thể được dùng đơn lẻ hoặc dùng theo dàn, một bộ có từ 2 đến 12, hoặc 13 chiếc. Thậm chí có nơi sử dụng lên đến 18 – 20 chiếc. Trong một bộ chiêng, chiếc chiêng mẹ (chiêng cái) là quan trọng nhất.
Từ năm 2007, tỉnh Đắk Lắk đã có đề án “Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa cồng chiêng” lưu giữ được trên 2.307 dàn cồng chiêng. Có gần 400 nghệ nhân chỉnh chiêng và 635 nghệ nhân truyền dạy đánh chiêng. Cũng từ đó đến nay, tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức hàng ngàn lớp truyền dạy đánh cồng chiêng cho thế hệ trẻ. Là con em của đồng bào các dân tộc thiểu số.
Cồng chiêng mang nét âm thanh riêng
Đồng bào Tây Nguyên không chỉ dùng riêng một loại chiêng núm hoặc chiêng bằng mà thường kết hợp với nhau. Trong đó, chiêng núm làm bè trầm, chiêng bằng đánh giai điệu. Khi biểu diễn vòng tròn, các nghệ nhân đánh và di chuyển dàn cồng chiêng từ phải qua trái với ý nghĩa ngược chiều với thời gian, hướng về cội nguồn.
Giá trị cồng chiêng không chỉ thể hiện ở kỹ thuật diễn tấu mà nó còn có ý nghĩa tâm linh. Cồng chiêng đại diện cho văn hóa Tây Nguyên. Được sử dụng trong nhiều nghi lễ, tín ngưỡng quan trọng. Khi âm thanh của cồng chiêng vang lên, đồng bào quan niệm có thể giúp con người thông tin trực tiếp đến các đấng thần linh. Là chiếc cầu nối giữa các thành viên trong cộng đồng.
Từ lúc cất tiếng khóc chào đời, con người đã nghe tiếng chiêng chào đón. Khi lớn lên dựng vợ, gả chồng tiếng chiêng lại rộn ràng trong ngày vui hạnh phúc. Và khi vĩnh biệt cõi đời về với tổ tiên thì cũng có tiếng cồng chiêng tiễn đưa. Cồng chiêng của đồng bào Tây Nguyên không được sử dụng bừa bãi. Mà chỉ được sử dụng trong các nghi lễ, lễ hội của gia đình, buôn làng, trong những dịp tiếp khách quý.
Cồng chiêng mang lại sự thiêng liêng vào cuộc sống
Điều này khiến con người cảm thấy được sống trong một không gian thanh cao, tâm linh, huyền ảo. Tiếng cồng chiêng Tây Nguyên hòa nhịp âm vang gợi cho người nghe như thấy được cả không gian săn bắn. Không gian làm nương rẫy, không gian lễ hội… của cả vùng Tây Nguyên. Không chỉ có vậy, cồng chiêng còn đem đến đời sống của các tộc người Tây Nguyên sự lãng mạn. Đó chính là nguồn gốc của những áng sử thi, thơ ca đi vào lòng người…
Có thể khẳng định văn hóa và âm nhạc cồng chiêng thể hiện tài năng sáng tạo văn hóa. Nghệ thuật ở đỉnh cao của các tộc người ở Tây Nguyên. Và vì thế, nó xứng đáng được UNESSCO vinh danh là kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại.
* Lễ Hội bà chúa xứ - An Giang
Hội Bà Chúa Xứ chính là một văn hóa tín ngưỡng làm nên sự phong phú cho nền văn hóa của dân tộc Việt Nam ta, thể hiện qua những lễ hội được tổ chức trong vùng.
Lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam ở thành phố Châu Đốc có từ lâu đời, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc của người dân vùng sông nước Nam Bộ.
Ngày 19/12/2014, Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ghi vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đặc biệt, năm 2016, hoạt động này đã được UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Bạn cũng có thể tham khảo thêm một số ngày lễ khác trong tháng 4 này nhé! Điển hình là: Tết Thanh Minh, lễ Phật Đản,…
Tương truyền, vào khoảng những năm 1820 – 1825, khi quân Xiêm sang xâm lược nước ta đã gặp một pho tượng đá lớn đặt trên đỉnh núi Sam.
Họ cố gắng mang nó xuống núi, nhưng đến một lúc, bức tượng của bà đột nhiên nặng và không thể nhấc lên được. Một trong số họ đã quá tức giận đến mức bị gãy tay trái nhưng ngay lập tức bị trừng phạt.
Một thời gian sau, tượng Bà xuất hiện trong giấc mơ của nhiều người trong làng, xưng là Bà Chúa Xứ. Ước mơ của cô là rước bức tượng xuống núi để lập miếu thờ, tượng sẽ che chở cho dân làng khỏi giặc ngoại xâm, phù hộ cho mưa thuận gió hòa.
Nghe lời ông, cả làng hợp sức khiêng tượng Bà Chúa Xứ xuống núi nhưng không hiểu sao ngay cả những thanh niên lực lưỡng cũng không nhấc nổi. Vào thời điểm đó, một cô gái tự xưng là Mẹ của Chúa nói rằng cô ấy chỉ cần 9 trinh nữ cho những tấm khiên.
Chắc chắn, chín cô gái đồng trinh đã có thể dễ dàng di chuyển bà. Đến chân núi, tượng Bà bỗng nặng trĩu không dời được. Từ đó, người dân địa phương hiểu rằng đây là địa điểm được Bà Chúa chọn và lập miếu thờ.
Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam chứa đựng những dấu ấn lịch sử của thời kỳ người Việt đến An Giang.
Đây là lễ hội truyền thống được gìn giữ và thực hành từ bao đời nay, thể hiện bản sắc và sự tiếp nối của cộng đồng người Kinh trong quá trình giao lưu văn hóa, chính trị, kinh tế với người Hoa, người Khmer và người Chăm.
Thông qua lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam góp phần gắn kết với đời sống tâm linh của người dân Châu Đốc, đồng thời góp phần lưu giữ những giá trị lịch sử của tiền nhân trong hành trình mở cõi Tây Nam Bộ của Tổ sư quốc gia. Hơn nữa, Miếu Bà Chúa Xứ gần chùa Huỳnh Đạo nên bạn có thể dễ dàng tham quan, hành hương sau khi dự lễ.
- Thời gian: Đây là ngày lễ tháng 4 bắt đầu từ ngày 23 tháng 4 đến ngày 27 tháng 4 âm lịch hàng năm.
- Địa điểm: Miếu Bà Chúa Xứ, núi Sam Châu Đốc, tỉnh An Giang.
Ngày thường, khi không có lễ vía, Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam cũng có rất đông tín đồ phật tử ngày đêm đến tham quan, chiêm bái. Khi ấy, mọi người sẽ đọc bài văn khấn bà Chúa Xứ.
Sở dĩ nơi đây thu hút nhiều người đến vậy bởi những người đến cầu may mắn, tài lộc hay bình an đều được phù hộ và rất hiệu nghiệm. Hơn nữa, kiến trúc ở đây cũng vô cùng ấn tượng mang đậm màu sắc Ấn Độ.
Những tháng khác cũng có nhiều ngày lễ mà bạn nên quan tâm là: Tết Hàn Thực, lễ hội Đua Voi, hội chùa Tây Phương,…
Hoạt động này diễn ra với các nghi thức chính: Lễ cung thỉnh tượng Bà về chùa, lễ tắm tượng, lễ thỉnh sắc thần ông Thoại Ngọc Hầu, lễ cất nóc và dựng am thờ, lễ chính tế và lễ hoàn trả sắc.
Lễ chuyển tượng Bà từ bệ đá sa thạch trên đỉnh núi Sam về điện thờ diễn ra từ ngày 22/4, đêm 23/4 đến rạng sáng 24/4 sẽ diễn ra lễ tắm Bà. Lễ tắm gội được thực hiện kín đáo, chỉ 9 cô gái còn trinh mới được thực hiện.
Sau khi tắm xong, quần áo cũ của cô sẽ được cắt thành từng mảnh nhỏ và phân phát cho những người tham gia, đây được coi là bùa hộ mệnh giúp mang lại sức khỏe và bình an.
Lúc 3 giờ chiều. ngày 24/4 sẽ diễn ra lễ cúng thần ông Thoại Ngọc Hầu và hai phu nhân. Nghi lễ này sẽ do các già làng và ban quản lý chùa thực hiện.
Đêm 25, rạng sáng 26/4, tại đây diễn ra lễ tế Túc, tế dựng nhà và lễ cúng tế để cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, đất đai phì nhiêu, nhân dân ấm no, hạnh phúc.
Lễ vật gồm: một con lợn trắng chưa nấu chín, đĩa đựng “mạch huyết”, mâm xôi, đĩa trái cây, đĩa trầu cau, đĩa cơm mặn. Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam sẽ kết thúc vào ngày 27/4 sau khi cử hành Lễ cấp sắc và Lễ tế trời.
Sau khi được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Quốc lễ vào năm 2001, hoạt động tín ngưỡng này đã được đầu tư và tổ chức sôi nổi hơn.
Ngoài phần lễ truyền thống, phần hội còn đan xen với các chương trình văn hóa của 4 dân tộc Kinh, Chăm, Hoa, Khmer như tuần lễ văn hóa, thể thao, trò chơi dân gian…, biểu diễn văn nghệ dân gian….
Các trò chơi dân gian thường được tổ chức gồm: kéo co, thả diều nghệ thuật, trò chơi vận động liên hoàn, cờ tướng, đẩy gậy, chọi gà, cờ người… Các hoạt động văn hóa, văn nghệ được tổ chức như: múa lân sư rồng, khiêu vũ thể thao cao nguyên, múa bóng rỗi , nhảy phẳng…
Với những hoạt động thú vị trong mùa lễ hội tại Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam, hàng năm, nơi đây thu hút hơn một triệu lượt người từ khắp nơi, nhất là từ Đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam bộ về dự lễ, dâng hương,…
* Hội Lim - Bắc Ninh
Vào mỗi dịp đầu xuân, ai nấy cũng hứng khởi và chờ đón những lễ hội diễn ra hàng năm tại nhiều nơi. Và một trong số những lễ hội truyền thống nổi tiếng ai cũng biết chính là Hội Lim Bắc Ninh. Hội Lim là hội của những làng xã cổ nằm quanh núi Lim và đôi bờ sông Tiêu Tương, là lễ hội lớn của vùng, thể hiện một cách sâu nhất văn hóa nghệ thuật và tín ngưỡng tâm linh của người dân xứ Kinh Bắc.
Lịch sử Hội Lim được truyền miệng lại với rất nhiều phiên bản khác nhau. Có quan niệm cho rằng: Hội Lim có nguồn gốc từ hội chùa, hội hát, liên quan đến tiếng hát của chàng Trương Chi mà dấu xưa để lại là hình vết dòng sông Tiêu Tương khá rõ ở các làng quê vùng Lim. Giả thuyết này căn cứ vào truyền thuyết Trương Chi – Mỵ Nương.
Hội Lim vốn có lịch sử rất lâu đời, và phát triển tới quy mô hội hàng tổng (tổng Nội Duệ). Trên cơ sở lễ hội truyền thống của các làng trong tổng Nội Duệ (bao gồm 6 xã phường: Nội Duệ (Đình Cả và Lộ Bao), Nội Duệ Khánh, Nội Duệ Nam, Lũng Giang, Xuân Ổ và phường hát cửa đình Tiên Du (sau là Duệ Đông) với nhiều nghi lễ rước, tế lễ và các hoạt động nghệ thuật dân gian hết sức phong phú. Như: hát trống quân, hát chèo, ca trù, hát tuồng và hát quan họ…, viên quận công Đỗ Nguyên Thụy – người thôn Đình Cả, Nội Duệ, xứ Kinh Bắc đã tự hiến nhiều ruộng vườn và tiền của cho tổng Nội Duệ trùng tu đình chùa, mở mang hội hè, gìn giữ thuần phong mỹ tục. Ông đã quy định lễ nhập tịch cầu phúc vào dịp tháng Giêng hàng năm, theo truyền thống “xuân thu nhị kỳ”. Như vậy, quận công Đỗ Nguyên Thụy là người có công phát triển từ lễ hội đình tế thần cầu phúc của các làng xã vùng Lim lên lễ hội hàng tổng Nội Duệ vào dịp mùa thu, tháng Tám, với những quy định chung, đồng thời ông cũng chính là người xây dựng bước đầu những lệ tục của lễ hội vào mùa xuân, tháng Giêng.
40 năm sau, vào nửa sau thế kỷ XVIII, cũng chính người làng Đình Cả, tướng công Nguyễn Đình Diễn lại tiếp tục phát triển và đổi mới hội Lim. Ông đã cấp ruộng và tiền cho hàng tổng để chuyển hội hàng tổng từ mùa thu tháng Tám sang hẳn mùa xuân tháng Giêng. Ông cũng bỏ tiền mua nửa quả núi Hồng Vân (tức núi Lim) để xây lăng mộ của mình trên đỉnh núi.
Hội Lim được duy trì trong suốt thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ cứu nước, hội Lim không được mở trong nhiều thập kỷ cho đến tận những năm sau đổi mới. Ngày nay, hội được mở vào ngày 13 tháng Giêng âm lịch hàng năm.
Do được mở rộng cả về diện tích lẫn quy mô nên phải nói rằng hội Lim là một lễ hội lớn và được tổ chức công phu, hoành tráng.
Hội Lim Bắc Ninh thờ ai?
Không gian lễ hội lấy đồi Lim làm trung tâm, có chùa Lim – nơi thờ ông Hiếu Trung Hầu – người sáng lập tục hát Quan họ và diễn ra tại 3 địa phương bao quanh là: xã Nội Duệ, xã Liên Bão và thị trấn Lim. Hội Lim thường được kéo dài trong khoảng 3 ngày (từ ngày 12 đến 14 tháng Giêng âm lịch hàng năm), trong đó ngày 13 là chính hội với nhiều hoạt động tập trung. Bởi vậy mà du khách cũng tập trung du lịch Bắc Ninh vào ngày 13 để có mặt tại hội Lim trong chính hội.
Hội Lim bắt đầu bằng một lễ rước. Thành phần đoàn rước là những người dân được mặc bộ lễ phục thời xưa với màu sắc sặc sỡ. Trong ngày lễ chính (ngày 13 tháng Giêng) với các nghi thức rước, tế lễ các thành hoàng các làng, các danh thần liệt nữ của quê hương tại đền Cổ Lũng, lăng Hồng Vân, lăng quận công Đỗ Nguyên Thụy, dâng hương cúng Phật, cúng bà mụ Ả ở chùa Hồng Ân. Ngoài phần lễ, hội còn có nhiều trò chơi dân gian như đấu võ, đấu vật, đấu cờ, đu tiên, thi dệt cửi, nấu cơm… và đặc sắc hơn cả là phần hát hội.
Truyền thống xa xưa để lại một phong tục cuốn hút và say mê đặc biệt mà chỉ Bắc Ninh mới có, đó là các sinh hoạt văn hóa hát dân ca Quan họ – loại hình dân ca đã trở thành tài sản văn hóa chung của dân tộc. Hát dân ca Quan họ diễn ra từ ngày 12 tháng Giêng tại Lim (sân chùa Hồng Ân và các trại Quan họ) và khắp tại các chùa, đình. Hội hát Quan họ Bắc Ninh diễn ra ở bất cứ nơi đâu: trong nhà, trên sân đình, trước cửa chùa hay bồng bềnh trên những thuyền thúng giữa ao, hồ – dấu tích xưa của dòng Tiêu Tương đã một thời vang vọng tiếng hát Trương Chi làm say đắm nàng Mỵ Nương xinh đẹp. Chỉ cần nơi đó có các liền anh, liền chị.
Liền anh khăn xếp áo the, liền chị áo mớ ba mớ bẩy, nón thúng quai thao đến hẹn lại lên, gặp gỡ, đón tiếp nhau thân tình, nồng hậu, tinh tế và lịch lãm theo lề lối của người hát Quan họ, bằng làn điệu dân ca đạt tới trình độ nghệ thuật cao, là sự kết hợp nhuần nhuyễn, mê đắm của thơ cà và nhạc điệu nhằm bảy tỏ tình yêu trong sáng, hết lòng vì người kia, chung thủy một lòng ngóng chông của tình yêu đôi lứa. Nếu bạn có dịp được thưởng thức những khúc quan họ do chính những nghệ nhân mảnh đất Kinh Bắc hát, chắc hẳn sẽ là một trải nghiệm khiến bạn “nhớ mãi không quên”.
Lấy than, quạt nước, tiễn trà người xơi.
Trà này ngon lắm người ơi,
Người xơi một chén cho tôi bằng lòng.
Và đến lúc phải về, cuộc chia tay thật khó dứt, vì lời ca bao giờ cũng như níu chân khách lại:
Người ơi, người ở đừng về…
Hội Lim là một lễ hội truyền thống chắc chắn những người yêu thích du lịch hay cả những người yêu nét đẹp văn hóa dân tộc cũng nên trải nghiệm. Những áo mớ bảy mớ ba, nón ba tầm, quai thao, dải yếm lụa sồi, những ô lục soạn, khăn đóng, áo cặp the hoa gấm… như ẩn chứa cả sức sống mùa xuân của con người và tạo vật. Cách các ông, các bà tổ chức hội Lim cũng thật đặc biêt, mỗi biểu tượng, cử chỉ như mang trong mình thứ gì đó tinh tế lạ thường của ngừoi kinh Bắc. Bởi vậy, chẳng phải ngẫu nhiên mà Quan họ trở thành văn hóa phi vật thể, nét văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.
* Ý nghĩa hội Lim
Từ bao đời nay, bên cạnh ý nghĩa biểu tượng về tinh thần văn hóa và tâm linh của người dân Bắc Kỳ, hội Lim còn nhắc nhở những thế hệ sau này về việc phải ghi nhớ công lao của những người đi trước và giáo dục họ việc giữ gìn nét đẹp truyền thống của dân tộc.
* Hội Gióng - Hà Nội (Sóc Sơn)
Hội Gióng là cuộc diễn xướng lịch sử có quy mô hoành tráng bậc nhất trong các lễ hội cổ truyền của dân tộc, ghi lại sự tích chiến thắng ngoại xâm của tổ tiên ta trong buổi bình minh của lịch sử. Năm 2010, Hội Gióng ở Đền Phù Đổng và Đền Sóc đã chính thức được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Hội Gióng Đền Sóc
Hội Gióng là một lễ hội văn hóa được bảo lưu, trao truyền khá liên tục và toàn vẹn qua nhiều thế hệ, mô phỏng sinh động và khoa học diễn biến các trận chiến của Thánh Gióng và nhân dân Văn Lang với giặc Ân. Thông qua đó có thể nâng cao “nhận thức cộng đồng về các hình thức chiến tranh bộ lạc thời cổ xưa và liên tưởng tới bản chất tất thắng của cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện trong sự nghiệp giải phóng và bảo vệ Tổ quốc”.
*Nguồn gốc:
Hội Gióng ở Đền Phù Đổng và Đền Sóc gắn với truyền thuyết về một cậu bé được sinh ra một cách kỳ lạ ở Làng Phù Đổng (Gia Lâm, Hà Nội ngày nay). Khôi ngô, tuấn tú, nhưng lên 3 mà cậu vẫn chưa biết nói cười, suốt ngày nằm trong thúng treo trên gióng tre, vì thế được đặt tên là Gióng. Vậy mà khi giặc Ân sang xâm lược, nghe thấy lời kêu gọi của nhà Vua tìm người tài giỏi đánh giặc ngoại xâm, Gióng bỗng lớn nhanh như thổi, rồi xung phong ra trận cứu nước, cứu dân. Sau khi dẹp tan quân giặc, ngài về Núi Sóc (Sóc Sơn, Hà Nội ngày nay) rồi cưỡi ngựa bay lên trời. Từ đó, ngài được thiêng hóa thành vị Thánh bất tử bảo hộ mùa màng, hòa bình cho đất nước, thịnh vượng cho muôn dân.
Để tưởng nhớ công ơn của ngài, người dân lập đền thờ phụng ngài ở nhiều nơi, nhưng tiêu biểu nhất là Hội Gióng ở Đền Phù Đổng và Đền Sóc. Đó là một trong những lễ hội lớn nhất vùng châu thổ Bắc Bộ, tổ chức theo một nghi thức được quy định chặt chẽ, chuẩn bị công phu, với sự tham gia đông đảo của dân làng quanh khu vực hai Đền.
Hội Gióng ở Đền Phù Đổng, Xã Phù Đổng, Huyện Gia Lâm - nơi sinh Thánh Gióng - diễn ra từ ngày 7-9 tháng 4 Âm lịch; Hội Gióng ở Đền Sóc, Xã Phù Linh, Huyện Sóc Sơn - nơi Thánh hóa - diễn ra từ ngày 6-8 tháng Giêng Âm lịch.
Hội Gióng Phù Đổng là lễ hội nổi tiếng nhất vùng châu thổ Bắc Bộ. Trong 3 ngày diễn ra Hội, vào các buổi sáng sớm, bao giờ cũng phải tiến hành nghi thức tế Thánh trước khi triển khai thực hành các hình thức khác của diễn xướng hội. Để biểu đạt những ý tưởng và triết lý dân gian, Hội Gióng Phù Đổng có hàng trăm vai diễn hết sức phong phú, độc đáo và mang ý nghĩa sâu sắc.
Hội Gióng Sóc Sơn diễn ra trong 3 ngày với đầy đủ các nghi lễ truyền thống như: lễ khai quang, lễ rước, lễ dâng hương, dâng hoa tre lên đền Thượng, nơi thờ Thánh Gióng. Mặc dù có các nghi thức gắn với truyền thuyết Thánh Gióng nhưng các nhà nghiên cứu cho rằng: “Hội Gióng Sóc Sơn vẫn mang rõ tính chất hội cầu mùa theo tín ngưỡng dân gian phổ biến ở hầu hết hội Xuân vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ”.
* Ý nghĩa:
Hội Gióng là một lễ hội Hà Nội với văn hóa cổ truyền ở phía Bắc nhằm mô phỏng chân thật, sinh động và khoa học diễn biến các trận đấu giữa thánh Gióng cùng nhân dân Văn Lang với giặc Ân xâm lược. Thông qua đó lễ hội mong muốn sẽ nâng cao nhận thức cộng đồng về các cách tổ chức cũng như hình thức chiến tranh bộ lạc thời cổ xưa. Từ đó liên tưởng đến bản chất tất thắng của cuộc Tổng khởi nghĩa, chiến tranh toàn dân, toàn quốc, toàn diện nhằm giải phóng đất nước, bảo vệ Tổ quốc và người dân.
Có thể nói, Hội Gióng là hội trận độc đáo, không có gươm đao nhưng vẫn tái hiện được giá trị bằng một hệ thống nghi lễ mang tính biểu tượng đã được chuẩn hóa. Đó là hệ thống biểu tượng có những tầng ý nghĩa sâu xa, lâu đời, nhưng cũng có tầng ý nghĩa mới mẻ, cô đọng; thể hiện sự nhân nghĩa, khoan hồng của quân và dân ta từ ngàn đời nay. UNESCO đã ghi nhận một cách ngắn gọn và đầy đủ về Hội Gióng, đó là: “Một bảo tàng văn hóa của Việt Nam, lưu giữ nhiều lớp phù sa văn hóa, tín ngưỡng”.
* Hội đền Trần - Nam Định
“Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ” là câu ca dân gian từ lâu đã in sâu vào tâm thức của người Việt nói về hai trong số các lễ hội truyền thống lớn tại Nam Định. Đó là lễ hội tưởng nhớ “Cha” (Đức Thánh Trần) và “Mẹ” (Thánh Mẫu Liễu Hạnh). Hàng năm, cứ vào tháng 8 âm lịch, hàng nghìn du khách lại nô nức về với vùng đất Thiên Trường xưa để trẩy hội Đền Trần.
Cuộc đời và sự nghiệp của Anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo gắn liền với 3 lần kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII. Với tri thức quân sự uyên bác và tư tưởng đoàn kết giai cấp, dân tộc tiến bộ, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã đưa khoa học và nghệ thuật quân sự nước Đại Việt thời Trần đạt tới đỉnh cao về “võ công, văn trị”, lập nên những chiến công hiển hách trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. “Sinh vi tướng, tử vi thần” (sinh thời làm tướng giúp dân, giúp nước; mất đi hóa thần giúp nước, giúp dân). Sau khi mất, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn được nhân dân suy tôn là Đức Thánh Trần, lập đền thờ phụng, tri ân công đức.
Khu di tích Đền Trần, phường Lộc Vượng (thành phố Nam Định) gồm: Đền Thiên Trường, Đền Cố Trạch, Đền Trùng Hoa. Trong đó, Đền Thiên Trường (Đền Thượng) là nơi thờ tiên tổ họ Trần, 14 vị vua và các đế hậu, đế phi triều Trần; Đền Cố Trạch (Đền Hạ) là nơi thờ Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn; Đền Trùng Hoa là nơi thờ tượng 14 vị vua nhà Trần. Cả 3 ngôi đền cùng với Chùa Phổ Minh (Chùa Tháp) - nơi thờ Đức Vua, Phật Hoàng Trần Nhân Tông tạo nên một tổng thể công trình tôn giáo, tín ngưỡng độc đáo, đặc sắc về nghệ thuật kiến trúc, mang đậm giá trị văn hóa, lịch sử của dân tộc. Năm 2012, Khu di tích lịch sử - văn hóa Đền Trần - Chùa Phổ Minh đã được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định công nhận xếp hạng Di tích cấp quốc gia đặc biệt.
* Nguồn gốc
Lễ hội truyền thống Đền Trần, phường Lộc Vượng (thành phố Nam Định) có từ thời Nguyễn, đời Vua Thành Thái 7 (1895), sau khi Đền Cố Trạch được phục dựng trên nền nhà cũ của Hưng Đạo Đại Vương. Lệ cũ của làng Tức Mặc quy định, hàng năm, kỳ lễ tổ chức từ ngày 19 đến 21-8 âm lịch. Vào ngày 19-8 âm lịch, một số làng lân cận có đền thờ Đức Thánh Trần như: Hữu Bị, Đệ Nhất (Mỹ Lộc), Nam Mỹ (thành phố Nam Định) rước kiệu về Đền Cố Trạch để làm lễ. Ngày 20-8 âm lịch (chính kỵ Đức Thánh Trần), các làng Hậu Bồi, Phương Bông - nơi có đền thờ Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải và làng Đệ Tứ - nơi có đền thờ Chiêu Văn Đại Vương Trần Nhật Duật rước kiệu về Đền Cố Trạch tiếp tục làm lễ. Ngày 21-8 âm lịch, dân làng tổ chức lễ tạ kết thúc kỳ lễ hội. Trước kia, lễ hội truyền thống Đền Trần vào các năm chẵn thường được tổ chức to hơn năm lẻ do cộng đồng dân cư làng Tức Mặc - những người trực tiếp gìn giữ, bảo tồn và tổ chức các nghi lễ truyền thống.
* Ý nghĩa
Mặc dù trải qua nhiều thăng trầm, có lúc bị gián đoạn do chiến tranh, nhưng đến nay, lễ hội truyền thống Đền Trần vẫn được dân làng Tức Mặc gìn giữ và trao truyền qua nhiều thế hệ đầy đủ các lễ nghi nghiêm cẩn theo luật tục xưa. Cùng với thời gian, lễ hội ngày càng lan tỏa, phát triển thu hút đông đảo du khách thập phương tìm về.
Với những giá trị về lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng, lễ hội gắn với khu di tích Đền Trần (bao gồm: lễ hội Khai ấn Đền Trần đêm 14 tháng Giêng và lễ hội truyền thống Đền Trần tháng 8 âm lịch) là một trong 8 lễ hội dân gian truyền thống của tỉnh đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Trong lễ hội truyền thống Đền Trần, ngoài phần lễ còn có phần hội sôi động với nhiều sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, trò chơi dân gian truyền thống được tổ chức cho nhân dân địa phương và du khách thập phương về hành lễ thưởng thức. Trong đó, đấu vật là môn thể thao mang tinh thần thượng võ của dân tộc với mục đích rèn luyện sức khỏe, ý chí, tinh thần chiến đấu của dân tộc Việt. Cờ bỏi là trò chơi dân gian vừa mang tính giải trí, vừa mang tính trí tu. Trong các hoạt động hội, cuộc thi chọi gà cũng rất hấp dẫn, với giá trị nguyên bản là thú tiêu khiển tao nhã, mang ý nghĩa khuyến khích việc chăn nuôi của nhà nông xưa...
* Lễ Hội Lồng Tồng - Hà Giang
Như thường lệ, vào mỗi dịp đầu năm mới, các bản, làng của đồng bào dân tộc Tày tỉnh Hà Giang lại nô nức, phấn khởi tham gia Lễ hội Lồng Tồng. Đây là lễ hội độc đáo của người Tày, mang theo thông điệp cầu cho quốc thái, dân an, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Hà Giang, mảnh đất nơi địa đầu Tổ quốc, nơi hội tụ của 19 dân tộc anh em chung sống, trong đó dân tộc Tày chiếm khoảng 25% dân số toàn tỉnh. Đồng bào dân tộc Tày sinh sống chủ yếu ở ven các thung lũng, vùng núi thấp của các huyện như: Bắc Quang, Quang Bình, Hoàng Su Phì, Vị Xuyên và thành phố Hà Giang; mỗi bản có khoảng vài chục đến hơn 100 nóc nhà. Trải qua thời gian, người Tày ở Hà Giang vẫn giữ được nhiều nét văn hóa truyền thống đặc sắc như: Kiến trúc nhà sàn truyền thống, nghệ thuật hát Then, đàn Tính, trang phục áo chàm, các trò chơi, lễ hội dân gian.
* Nguồn gốc:
Lễ hội Lồng Tồng thường được tổ chức vào tháng Giêng âm lịch hàng năm. Tùy từng địa phương mà thời gian tổ chức lễ hội được ấn định cụ thể. Nhưng đa số các địa phương đều tổ chức từ ngày mùng 8 tháng Giêng trở đi.
Theo truyền thuyết, nguồn gốc của Lễ hội Lồng Tồng xuất phát từ một câu chuyện kể rằng, người dân tộc Tày, Nùng và Dao đã phải sống trong cảnh nghèo khó và thiếu thốn. Vì vậy, họ đã cầu xin các vị thần giúp đỡ và bảo vệ cho mùa màng bội thu và cuộc sống của họ. Các vị thần đã hiểu được lòng thành của người dân và đã ban cho họ một loại cây có tên là “lồng” để trồng và nuôi dưỡng. Từ đó, người dân đã biết ơn và tôn vinh các vị thần bằng cách tổ chức Lễ hội Lồng Tồng.
Lễ hội Lồng Tồng (còn gọi là lễ xuống đồng) là lễ hội quan trọng nhất vào dịp đầu năm mới, gắn liền với nền nông nghiệp trồng trọt của người Tày ở Hà Giang. Lễ hội gồm phần lễ và phần hội, thường được tổ chức ngoài trời, trên một thửa ruộng lớn hoặc khu vực sân trung tâm của các địa phương. Phần lễ chủ yếu là cúng tế trời đất và thần linh cầu cho mưa thuận, gió hòa, quốc thái, dân an. Mâm lễ cúng tế được người Tày chuẩn bị chu đáo với các lễ vật là sản vật của địa phương như: Thủ lợn, xôi, gà, hoa quả, bánh kẹo. Đặc biệt, một thứ không thể thiếu trên mâm lễ đó là hai đôi quả còn được làm bằng vải màu, bên trong nhồi cát hoặc bông, có tua rua sặc sỡ.
Trong phần lễ, nghi thức “Tịch điền” là một trong những thủ tục quan trọng không thể bỏ qua. Người thực hiện nghi thức này thường là người có uy tín trong cộng đồng, già làng, trưởng bản, được nhân dân quý mến, tín nhiệm. Theo đó, họ sẽ cày đường cày đầu tiên trên ruộng như một sự lấy may, tạo thuận lợi cho cả vụ mùa của dân bản, mở đầu cho cuộc sống nhà nông đầu năm mới.
Sau phần lễ sẽ diễn ra phần hội với nhiều hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao đặc sắc, hấp dẫn, trong đó, ném còn là trò chơi vui nhất, đông người tham gia nhất. Người Tày quan niệm trong hội phải có người tung được quả còn ngũ sắc xuyên thủng hồng tâm trên cột còn thì năm đó bản làng mới có thể làm ăn thuận lợi.
* Ý nghĩa
Lễ hội Lồng Tồng được xem là hoạt động tín ngưỡng cầu trời cho mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, đời sống ấm no cơm áo đầy đủ.
Lễ hội Lồng Tồng của dân tộc Tày gắn với tín ngưỡng về nông nghiệp là một hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, tính cố kết cộng đồng, thể hiện khát vọng của người dân trong sự hoà hợp trời đất, âm dương; cầu mong cho con người khoẻ mạnh, cuộc sống no đủ, vạn vật sinh sôi...
Những trò chơi trong lễ hội thể hiện nét đẹp tâm hồn phong phú, gắn với thiên nhiên, gắn với những tập tục văn hoá lâu đời của cư dân lúa nước. Lễ hội Lồng Tồng là một trong những nét văn hoá độc đáo của dân tộc Tày, góp phần làm phong phú kho tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam,...
Mặt khác, lễ hội còn góp phần bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống, tạo sản phẩm du lịch đặc sắc thu hút khách du lịch đến nhiều hơn với mảnh đất nơi cực Bắc địa đầu Tổ quốc.
Đồng thời lễ hội là dịp để người dân hội tụ giao lưu văn hoá, tình cảm, tăng thêm sự hiểu biết, đoàn kết dân tộc, ôn lại truyền thống của quê hương, đất nước, khơi dậy niềm tự hào truyền thống dân tộc, tạo điều kiện để các hoạt động văn hóa, văn nghệ, các trò chơi dân gian, dân tộc phát triển, kết hợp giữa văn hoá truyền thống với văn hoá đương đại, tạo nên đời sống văn hoá tinh thần vui tươi, lành mạnh, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
* Lễ Hội Tháp Bà Ponagar - Khánh Hòa
Lễ hội Tháp Bà Ponagar còn có tên gọi khác là lễ hội Thiên Y A Na Thánh Mẫu hay Lễ vía Bà, được tổ chức từ ngày 20 đến 23 tháng 3 âm lịch hàng năm với nhiều hoạt động hấp dẫn.
* Nguồn gốc lễ hội
Là một trong các lễ hội mang màu sắc tôn giáo lớn nhất tại Nha Trang, lễ hội được tổ chức với quy mô lớn tại Tháp Bà Ponagar hàng năm vào ngày 20 đến 23 tháng 3 âm lịch thu hút đông đảo các tộc người Kinh, Chăm, Raglai và các cộng đồng tộc người khác ở miền Trung, Tây Nguyên tham gia.
Gắn liền với tục thờ Mẫu từ lâu đời của người dân Việt Nam, lễ hội tôn vinh tưởng niệm mẹ Ponagar - mẹ xứ sở của người Chăm. Đây chính là người đã có công lớn trong việc dạy cho người dân cách thức trồng lúa, chăn nuôi, dệt vải... và đưa tộc người Chăm pa đến với một cuộc sống ấm no, một tương lai tươi sáng hơn.
Cùng với bầu không khí rộn ràng, những lễ nghi đặc sắc, lễ hội Tháp Bà Ponagar nhận được sự quan tâm của rất nhiều du khách trong và ngoài nước. Khi tham gia vào lễ hội, du khách sẽ được hòa mình vào sự vui tươi, nhộn nhịp giữa đoàn người đông đúc. Thỏa sức chiêm ngưỡng khung cảnh tuyệt đẹp với nhiều kiệt tác kiến trúc của các khu đền tháp hay tham gia nhiều hoạt động thú vị khác khi lễ hội diễn ra.
* Ý nghĩa của lễ hội tháp Bà Ponagar
Lễ hội Tháp Bà Ponagar diễn ra hàng năm thu hút đông đảo sự tham gia của các cộng đồng dân tộc Kinh, Chăm, Raglai ở miền Trung, Tây Nguyên. Qua đó giúp kết nối cộng đồng các dân tộc, thể hiện sự đoàn kết của các dân tộc anh em.
Lễ hội được gìn giữ và lưu truyền thể hiện sự tôn kính, lòng biết ơn đến Mẫu và cầu mong sức khỏe, bình an.
Đây còn là dịp hội tụ các giá trị truyền thống, giao thoa văn hóa Việt – Chăm và nhắc nhở thế hệ sau nhớ về nguồn cội.
Tiến trình lễ hội Tháp Bà Ponagar
Lễ hội Tháp Bà Ponagar Nha Trang được diễn ra trang nghiêm, với các nghi thức của một lễ hội dân gian truyền thống gồm những phần lễ và hội như sau:
- Lễ thay y
Thời gian: Giờ Ngọ ngày 20 tháng 3
Lễ thay y được diễn ra với nghi thức dâng trầm hương, nhang, trái cây, hoa và khấn vái bởi vị chủ tế. Những thành viên khác trong đội thay y sẽ sắp xếp đồ lễ trong dinh, cởi xiêm y, mũ miện và dùng nước nấu từ rượu và 5 loại hoa có mùi thơm để tắm tượng. Sau khi tắm, tượng mẹ được mặc xiêm y, mũ miện mới do người dân dâng cúng.
- Lễ thả hoa đăng
Thời gian: Từ 19 giờ đến 21 giờ, ngày 20 tháng 3
Đây là nghi thức được nhiều du khách mong chờ khi tham gia lễ hội Tháp Bà Ponagar. Những ngọn nến và hoa với hơn mười ngàn chiếc hoa đăng nhỏ, năm hoa đăng lớn được thả trên sông để cầu siêu cho các vong linh.
- Lễ cầu quốc thái dân an
Thời gian: Từ 6 giờ đến 8 giờ ngày 21 tháng 3
Nghi lễ cầu quốc thái dân an được thực hiện bởi Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Khánh Hòa. Đây là đại lễ cầu cho đất nước phồn vinh, thanh bình, người dân an vui, hạnh phúc.
- Lễ cúng Ngọ, cúng thí thực
Thời gian: Từ 12 giờ đến 12 giờ 30 ngày 21 tháng 3
Lễ cúng Ngọ, cúng thí thực được diễn ra tại ngôi tháp chính. Đây là nghi lễ dâng Mẫu và bố thí cho các cô hồn.
- Tế lễ cổ truyền
Thời gian: Từ 4 giờ đến 6 giờ ngày 23 tháng 3
Tế lễ cổ truyền được thực hiện bởi các cụ hào lão đình Cù Lao. Phần dâng lễ diễn ra theo nghi thức truyền thống, trang nghiêm.
- Lễ Khai Diên, lễ Tôn Vương
Thời gian: Từ 6 giờ đến 9 giờ ngày 23 tháng 3
Đây là phần lễ lớn được diễn ra tại sân lễ trước tiền đình Mandapa, mặt hướng vào điện thờ Đức Thánh Mẫu. Ban tổ chức sẽ dâng vật phẩm cúng gồm: hương đăng, rượu, trầu cau, vàng bạc, phong bì và hai roi chầu.
Tiếp đến là phần hát thứ lễ cúng Bà do đoàn Hát Bội thực hiện với những tích tuồng được lựa chọn gắt gao. Trước khi vở tuồng kết thúc, Lễ Tôn Vương được cử hành trang trọng theo lệ ở lễ hội Tháp Bà Ponagar Nha Trang.
- Lễ Dâng hương tạ Mẫu
Thời gian diễn ra: Từ 23 giờ đến 24 giờ ngày 23 tháng 3
Như tên gọi, phần lễ này được diễn ra với nghi thức dâng hương đăng lễ tạ ơn đức của Mẫu.
- Múa Bóng và hát Văn
Thời gian: Trong suốt các ngày lễ hội
Múa bóng và hát Văn là những hoạt động văn hóa dân gian đặc sắc được biểu diễn ở sân khấu trước tháp chính bởi hàng trăm lượt đoàn trong và ngoài tỉnh vào tháp dâng lễ Mẫu. Chương trình biểu diễn còn có các tuồng tích cổ gợi nhắc đến Thánh Mẫu.
- Hội thi rước nước và bày mâm trái cây dâng Mẫu
Thời gian: Từ 10 giờ đến 15 giờ ngày 23 tháng 3
Hội thi truyền thống này dành cho các đoàn về dự lễ hội Tháp Bà Ponagar. Ban tổ chức lấy nước từ chùa Hang về cho vào các vại đặt dưới Mandapa. Các thành viên tham gia sẽ đội chum nước từ Mandapa lên tháp để dâng Mẫu. Mâm trái cây được các đoàn chuẩn bị, sắp xếp công phu, đẹp mắt. Đội thi nào có mâm lễ đẹp nhất sẽ được dâng lên tháp chính, các mâm còn lại sẽ được dâng ở những tháp khác trong di tích Tháp Bà.
* Hội Chùa Hương - Hà Nội
Lễ hội chùa Hương là một trong những lễ hội lớn tại Việt Nam, thu hút rất nhiều du khách tham quan mỗi dịp đầu năm. Đến với chùa Hương, du khách sẽ được biết đến như một quần thể hang động mang đậm màu sắc, tín ngưỡng tôn giáo dân gian và phảng phất nét văn hóa phồn thực.
Lễ hội chùa Hương là một lễ hội ngày Tết lớn ở Việt Nam được tổ chức mỗi năm và thu hút rất nhiều Phật tử từ Nam ra Bắc đến tham quan và hành hương. Lễ được diễn ra tại khu danh thắng chùa Hương (hay còn gọi là Hương Sơn) thuộc Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, thủ đô Hà Nội. Nơi đây được ví như một khu phức hợp giữa tôn giáo và văn hóa bao gồm những ngôi chùa Phật giáo, những ngôi đền thờ các thần long nhãn và tín ngưỡng nông nghiệp. Trung tâm của nơi đây là chùa Hương trong động Hương Tích, hay còn được gọi với cái tên khác là chùa Trong.
Lễ hội chùa Hương diễn ra trong khoảng thời gian dài từ tháng 1 đến tháng 3 âm lịch. Khai hội chính thức bắt đầu lễ hội vào ngày mùng 6 tháng Giêng hàng năm, ngày mở cửa rừng của người dân. Lễ hội kéo dài trong 3 tháng, nhưng thời điểm được nhiều du khách khắp đất nước đến tham quan chính là vào những ngày từ rằm tháng Giêng đến 18 tháng Chạp m lịch. Ngoài ra, mùng 5 cũng là một trong những ngày thu hút rất nhiều khách du lịch đến tham quan (có khoảng hơn 4 vạn du khách từ mọi miền trên đất nước đến tham quan).
* Nguồn gốc
Nói đến nguồn gốc chùa Hương là nói đến mối quan hệ gắn kết giữa chùa Hương với tín ngưỡng dân gian thờ bà Chúa Ba. Trong truyền thuyết, vào thế kỷ đầu tiên ở vùng đất này có công chúa Diệu Thiện - tục gọi là chúa Ba ứng thân của Bồ Tát Quán Thế Âm tu hành 9 năm đắc đạo trở thành Phật đi cứu độ chúng sinh. Ngày đó cũng được xem là ngày Phật Đản (được xác định là ngày 19 tháng 2 âm lịch), đây cũng là thời điểm mùa xuân vừa đến, trăm hoa đua nở.
Đến tháng 3 năm 1770 (năm Canh Dần), Chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm đã có chuyến tuần du cùng quân dưới trướng đến Trấn Sơn Nam. Chúa đã vào động Hương Tích để thắp hương, vãn cảnh và Chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm có đề lên trên vách đá trước cửa động Hương Tích năm chữ “Nam Thiên Đệ Nhất Động”. Đây là nơi linh địa, lại được Chúa ca ngợi nên trở thành đắc địa hơn, trở thành chỗ dựa tinh thần của nhiều người dân để mong cầu an bình và mọi điều được suôn sẻ, tốt lành.
Ngoài ra, Chúa Trịnh Sâm cũng là một trong những người góp phần đưa vị thế động Hương Tích trở thành một di tích lớn, đặt nền móng cho sự phát triển lễ hội chùa Hương về sau. Từ đó hàng năm du khách đến tham quan lễ hội ngày một đông hơn. Nhưng cho đến năm 1896 niên hiệu Thành thái năm thứ 8, lễ hội chùa Hương mới chính thức mở hội lớn sau ngày lễ hội khai sơn của làng Yến Vỹ (mùng 6 tháng Giêng).
* Ý nghĩa
Không chỉ được biết đến như một lễ hội du xuân thông thường của vùng đất “linh sơn phúc đại”, mà lễ hội chùa Hương còn mang đậm nét đẹp văn hóa, tín ngưỡng của Bắc Bộ. Phần hội là nét giao thoa giữa văn hóa dân tộc độc đáo với vẻ đẹp thiên nhiên mùa xuân vốn có. Phần nghi lễ thể hiện đậm nét tín ngưỡng thờ cúng của một tổng thể tôn giáo Việt Nam (bao gồm cả Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo). Đến đây, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng cảnh sắc thiên nhiên mà còn cảm nhận được nét đẹp đoàn kết của dân tộc giữa con người ở mọi chốn Việt Nam hội tụ.
Lễ hội chùa Hương còn tượng trưng cho sự dung hòa giữa thực và mơ, tiên và tục. Hiện thực là nền tảng, mơ được xem là uất vọng trong không khí mùa xuân tươi mát, ấm áp mà con người Việt Nam nhân ái, chất phác đã cảm nhận và trao truyền từ thuở xa xưa.
Phần lễ của lễ hội chùa Hương thể hiện niềm tin về tín ngưỡng tôn giáo chung ở Việt Nam bao gồm cả Phật tử và những du khách mang tín ngưỡng Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo.
Lễ hội chùa Hương bắt đầu khai sơn (lễ mở cửa rừng) vào ngày mùng 6 tháng Giêng. “Mở cửa rừng” mang ý nghĩa mới - mở cửa chùa - khai lễ. Trong nghi thức dâng hương sẽ có hương, nến, đèn, hoa quả, đồ chay. Khi dâng đàn, hai ni tăng sẽ mặc áo cà sa, mang đồ lễ chạy đàn đến cúng, rồi thực hiện những động tác vô cùng độc đáo. Mặt khác, ở sảnh ngoài còn thờ các vị thần với nhiều màu sắc phong phú mang đậm chất của đạo giáo.
Rất nhiều trò chơi, hoạt động văn hóa đặc sắc cũng được diễn ra tại nơi đây như chèo thuyền, hát chèo, leo núi, hát chầu văn,...ngày hội du thuyền còn mang lại một nét đẹp độc đáo của lễ hội chùa Hương bởi gợi nhớ đến cội nguồn cho người đi hội.
* Lễ Hội Hoa Lư - Ninh Bình
Nhắc đến Ninh Bình, người ta không chỉ nghĩ ngay đến những cảnh đẹp non nước hữu tình mà còn là những đặc trưng về văn hoá lễ hội. Và lễ hội Hoa Lư chính là một trong những ngày hội lớn luôn được mong chờ hàng năm. Lễ hội truyền thống này được tổ chức thường xuyên từ mùng 6 đến mùng 8 tháng 3 âm lịch ngay tại cố đô Hoa Lư ở Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.
* Nguồn gốc:
Lễ hội Hoa Lư (hội Trường Yên hay hội Cờ Lau) là một trong các lễ hội có nguồn gốc lịch sử lâu đời nhất Việt Nam. Lễ hội Hoa Lư hiện đang là di sản văn hoá phi vật thể cấp quốc gia, và đang được đề xuất nâng lên thành lễ hội theo nghi thức cấp nhà nước.
Đây là lễ hội lớn diễn ra hàng năm nhằm tưởng nhớ vị anh hùng dân tộc Đinh Bộ Lĩnh đã xây dựng kinh đô Hoa Lư, lập nên nhà nước Đại Cồ Việt và khởi đầu nền độc lập, tự chủ lâu đời của người Việt suốt các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần.
Kể từ khi Kinh đô Hoa Lư trở thành Cố đô, thì lễ hội Hoa Lư đã trở thành một Lễ trọng và Quốc lễ. Mỗi lần diễn ra lễ hội, các triều đình từ Huế, Thăng Long đều cử người đến tham dự rất trọng thể.
Theo sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ thì hàng năm triều đình Nguyễn tổ chức đại lễ, tế miếu vua nhiều lần. Trong đó có 4 vị được coi là đặc biệt quan trọng: Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Vương và Đinh Tiên Hoàng.
Vua Minh Mạng đã cho lập miếu Đức vua Đinh Tiên Hoàng ở xã Dương Xuân, kinh đô Huế cũng đủ thấy rõ sự cần thiết của le hoi vua dinh vua le ninh binh trang trọng đến chừng nào.
Và từ đó trở đi, triều đình quy định việc tế lễ miếu Đinh Tiên Hoàng sẽ được tổ chức mỗi năm vào hai kỳ Xuân – Thu nhằm thể hiện tấm lòng thành kính của triều đình.
Để có được cái tên lễ hội Hoa Lư như hiện nay là cả một quá trình, mà trong đó có sự kết hợp của nhiều yếu tố lịch sử và cả các truyền thuyết dân gian.
* Ý Nghĩa
Hội Hoa Lư phản ánh chân thực, sống động nhất con người, cuộc đời và sự nghiệp của đức vua Đinh Tiên Hoàng và lịch sử Việt Nam qua ba triều đại Đinh, Lê, Lý. Lễ Hoa Lư xưa được nhiều vương triều quân chủ tổ chức trọng thể ở cấp Nhà nước.
Hiện nay lễ hội Trường Yên có sức lan toả mạnh mẽ, lưu giữ nguyên vẹn các giá trị văn hoá, nghệ thuật dân gian truyền thống và đang hướng tới nâng cấp lên Quốc lễ.
Phần lễ gồm có: Lễ mộc dục, Lễ mở cửa đền, Lễ dâng hương, Lễ thắp nhang, Lễ rước kiệu, Lễ thượng phẩm, Lễ rước đèn và Lễ hội hoa đăng. Trong đó, lễ rước nước được đánh giá là phần đặc sắc và ấn tượng nhất. Phần lễ này cũng thu hút rất đông du khách phương xa và những người dân địa phương đến tham dự.
Ngay sau khi đoàn rước đuốc trở về sân khấu trung tâm lễ hội, kết thúc nghi thức thả rồng bay thì khởi điểm phần lễ tế tại 2 đền Vua Đinh, Vua Lê. Phần lễ có sự tham dự của các đoàn theo lịch đăng kí.
Các đoàn khiêng kiệu cùng chân hương từ các di tích thờ cúng các danh nhân thời Đinh – Lê sẽ tham gia đưa kiệu qua 2 đền, còn những đoàn có khoảng cách ngắn được đi trên xe lễ hội hướng về Hoa Lư.
Lễ giỗ được tổ chức sau đó cả ban ngày và ban đêm ở cả đền vua Đinh và vua Lê với nội dung tôn vinh công đức của hai vị vua, tiếp đó du khách sẽ lần lượt đến dâng hương tưởng nhớ.
Tham gia lễ tế có các đoàn trong tỉnh và ở những nơi không có đền thờ 2 Vua Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành cũng đưa kiệu đến làm lễ.
Phần hội của lễ hội truyền thống Cố đô Hoa Lư diễn ra với nhiều trò chơi dân gian: kéo co, đua thuyền rồng, viết thư pháp, hề chèo, đẩy gậy,… cùng một số trò chơi đa dạng khác. Ngoài các trò chơi dân gian nói trên, có thể kể đến những nội dung chính của lễ hội như:
Đã hơn một nghìn năm trôi qua, nhưng âm hưởng của Kinh đô Hoa Lư xưa vẫn còn vang vọng tới tận hôm nay. Những vết tích tường thành, nền móng cung điện hay cổ vật được khai quật từ các tầng văn hóa khảo cổ trong lòng đất cho thấy tầm vóc, kiến trúc đặc sắc của Kinh thành xưa. Linh khí chốn kinh kỳ, công đức dựng nước, giữ nước, chăm lo cho muôn dân của các bậc quân vương hiền minh vẫn còn in dấu trong suốt hành trình lịch sử, trong tâm thức nhân dân với tấm lòng tri ân sâu nặng. Lễ hội Hoa Lư hàng năm vẫn luôn là lời mời gọi tha thiết đến những người con khắp mọi miền Tổ quốc về với Ninh Bình, cùng trẩy hội Hoa Lư, để được trở về với cội nguồn dân tộc, được tìm hiểu về lịch sử, văn hóa vùng đất "sinh Vua, sinh Thánh", thêm tự hào và trân trọng về truyền thống cha ông, thêm yêu quý và luyến lưu mảnh đất, con người Ninh Bình tươi đẹp, hữu tình.
* Lễ Hội Yên Tử - Quảng Ninh
Hội Yên Tử bắt đầu từ ngày 9 tháng Giêng và kéo dài hết 3 tháng mùa xuân hàng năm. Sau phần nghi lễ long trọng của lễ hội tổ chức dưới chân núi Yên Tử là cuộc hành hương của hàng vạn người đến với chùa Đồng ở trên đỉnh núi. Du khách đến hội chùa Yên Tử để được tách mình khỏi thế giới trần tục, thực hiện cuộc hành hương về đất Phật giữa thiên nhiên hùng vĩ.
Hàng năm không chỉ Phật tử mà hàng ngàn du khách đến đây dâng hương vãn cảnh. Trên đường đi du khách có cơ hội chiêm ngưỡng những ngôi chùa, ngọn tháp ẩn nấp bên những con suối, rừng cây. Lên đỉnh núi tựa như chạm đến cổng trời. Khi trời quang mây tạnh, từ đây có thể phóng tầm mắt dõi nhìn khắp vùng biển miền Đông Bắc.
Ca dao có câu:
“Trăm năm tích đức tu hành
Chưa đi Yên Tử, chưa thành quả tu”.
Vùng núi Yên Tử ở xã Thượng Yên Công cách trung tâm thị xã Uông Bí (Quảng Ninh) khoảng chừng 14 km. Trước đây, người ta gọi núi Yên Tử là núi Voi bởi hình dáng ngọn núi tựa như một con voi khổng lồ. Trong sử sách ghi lại, Yên Tử còn có tên là Bạch Vân Sơn bởi quanh năm núi chìm trong mây trắng.
Các triều đại vua chúa xếp Yên Tử vào hạng "danh sơn" của nước ta. Đây là trung tâm Phật giáo của nước Ðại Việt thuở trước, nơi phát tích của thiền phái Trúc Lâm. Trong quần thể di tích Yên Tử rộng lớn hiện có 11 chùa và hàng trăm am tháp. Chùa Ðồng ở trên đỉnh cao nhất 1.068 m (so với mặt nước biển). Lên chùa Ðồng du khách cảm tưởng như đi trong mây ("nói cười ở giữa mây xanh -Nguyễn Trãi). Ở Yên Tử có ngọn tháp cao 3 tầng bằng đá. Ngọn tháp có niên đại "Cảnh Hưng thập cửu niên - 1758" là cổ nhất. Cũng không đâu có rừng tháp như khu Tháp Tổ ở Yên Tử gắn liền với những sự tích huyền thoại về ông vua nhà Trần và phái Thiền Trúc Lâm.
* Nguồn gốc:
Gần 1000 năm trước, sử sách đã ghi lại rằng, Yên Tử được coi là "phúc địa thứ 4 của Giao Châu". Nhiều tài liệu cũ đều thống nhất ghi nhận "Năm Tự Ðức thứ 3, núi Yên Tử được liệt vào hàng danh sơn, chép trong điển thờ ".
Phải chăng, chính sự linh thiêng huyền bí ấy mà từ xưa các tín đồ đạo phật Việt Nam đã đến Yên Tử dựng am cỏ cầu kinh niệm Phật. Cũng vì thế mà từ thế kỷ thứ 10, đạo sĩ An Kỳ Sinh (Yên Kỳ Sinh) đã đến nơi này tu hành và đắc đạo. Những năm sau đó, nhiều thế hệ tăng ni phật tử Việt Nam tiếp tục tìm đến Yên Tử tu hành, xây dựng chùa tháp và nhiều công trình khác.
Đặc biệt từ thời Trần, đã đầu tư xây dựng Yên Tử thành khu quần thể kiến trúc chùa tháp có quy mô lớn. Khởi đầu là vua Trần Thái Tông lên Yên Tử năm 1236. Sau đó Trần Nhân Tông sau khi lãnh đạo quân dân kháng chiến giành đại thắng trước quân Nguyên-Mông , mang lại thanh bình cho đất nước, vào lúc đất nước thái bình, vua nhường ngôi cho con lên núi Yên Tử tu hành.
Năm 1299 (cách đây hơn 700 năm ), Trần Nhân Tông đã xây dựng nên dòng thiền Trúc Lâm bằng cả một hệ thống lý thuyết và hành động gắn đạo với đời. Ông được coi là vị Sư Tổ thứ nhất của Phật phái Trúc Lâm mang Phật danh Ðiều Ngự Giác Hoàng. Kế tục sự nghiệp của ông là Sư Tổ Pháp Loa và Huyền Quang Tôn Giả. Cả 3 vị được gọi chung là Trúc Lâm Tam Tổ. Từ đó, Yên Tử trở thành kinh đô tư tưởng của Phật phái Trúc Lâm, đánh dấu sự phát triển triết học và tư tưởng của dân tộc Việt Nam trong các thế kỷ 12, 13, 14.
Gắn liền với lịch sử phát triển dòng thiền Trúc Lâm tại Yên Tử là việc xây dựng và hình thành một quần thể các công trình kiến trúc gồm 11 chùa và hàng trăm am, tháp, mộ, bia, tượng. Quần thể kiến trúc đồ sộ này được đặt trong một tổng thể cảnh quan hùng vĩ, thơ mộng trải dài gần 20km tạo thành Khu Di tích Lịch sử và Danh thắng Yên Tử mang tầm quốc gia.
Không biết lễ hội Yên Tử được hình thành từ bao giờ, chỉ biết rằng, từ thế kỷ 17-18, trên đỉnh Yên Tử, ở độ cao 1.068m đã hiện diện một ngôi chùa (Thiên Trúc Tự) mái lợp ngói đồng, trong chùa có 2 tượng đồng, cạnh chùa là một phiến đá lớn bằng phẳng được gọi là Bàn cờ Tiên cùng với một chữ Phật khối lớn khắc vào vách đá... Tất cả đều nói lên sự linh thiêng, huyền bí và sức cuốn hút kỳ diệu của Yên Tử.
* Ý nghĩa:
Linh sơn Yên Tử không chỉ là nơi có cảnh quan kỳ vĩ mà còn là chốn non thiêng hội tụ nhiều giá trị tinh thần của tổ tiên. Ý nghĩa lễ hội Yên Tử - Quảng Ninh là tôn vinh những giá trị lịch sử, văn hóa, văn minh thời Lý, Trần,... lưu truyền đến các thế hệ mai sau. Bởi vậy, mỗi dịp xuân về, người dân lại nô nức ghé thăm địa điểm du lịch Quảng Ninh này trong hành trình hành hương về cõi Phật để quên đi những muộn phiền trần ai.
* Nghi thức lễ hội:
Trước ngày khai mạc lễ hội, tại chùa Trình - Yên Từ, Hội Phật giáo tỉnh sẽ tổ chức nghi lễ mở cửa rừng Yên Tử. Các vị sư thầy cùng với nhân dân địa phương sẽ thực hiện dân hương, tụng kinh niệm phật, tế cáo đất trời, kinh phật tổ và các vị sơn thần để cầu mong một mùa lễ hội diễn ra bình an, tốt đẹp. Đây được xem là một nghi lễ mở màn, lời xin phép thần linh để được bắt đầu lễ hội.
- Lễ Khai hội
Lễ khai hội sẽ được bắt đầu diễn ra vào sáng mùng 10 tại Trung tâm Văn hóa Trúc Lâm Yên Tử với những phần lễ trang nghiêm, mang ý nghĩa giáo dục vô cùng sâu sắc. Tại đây, các vị chư tăng hòa thượng sẽ tiến hành thực hiện nghi lễ cầu quốc thái dân an. Tiếp đến, các đại biểu sẽ lần lượt thực hiện đóng dấu thiêng trên ấn Yên Tử.
Ngoài ra, phần lễ lúc này còn các hoạt động thú vị khác nhau thỉnh chuông, gióng trống, chúc phúc đầu năm vô cùng đặc sắc. Các nghi lễ được diễn ra trang nghiêm với những vật lễ được chuẩn bị kỹ lưỡng.
- Hoạt động sau phần khai hội
Sau khi kết thúc nghi lễ khai hội, bạn sẽ được tham quan khu Trung tâm lễ hội, thượng sơn lễ Phật, làng hành hương hoặc tham gia các trò chơi dân gian vô cùng ấn tượng như: ném còn, kéo co, chọi gà, giải cờ tướng kỳ vương Yên Tử,... Hay thưởng thức các màn trình diễn độc đáo như: Văn nghệ truyền thống tại khu vực đình làng hành hương Yên Tử, võ thuật cổ truyền, nghệ thuật múa rồng.
Ngoài ra, lúc này sẽ có hàng ngàn người bắt đầu cuộc hành hương lễ phật theo từng dòng, học lần lượt di chuyển đến đỉnh núi Yên Tử - Nơi có ngôi chùa Đồng linh thiêng, cổ kính. Đoạn đường di chuyển lên đây khá gập ghềnh, uốn lượn, rợp bóng mát dưới những bóng cây cổ thụ to lớn và có cả những làn sương khói mờ ảo, cứ ngỡ như đang đi vào cõi Phật.
Dọc đoạn đường chinh phục núi Yên Tử được ước tính có khoảng hơn 11 ngồi chùa và hàng chục am, tháp. Đặc biệt, nơi đây có ngọn tháp cao 3 tầng được xây dựng bằng đá với niên đại cổ nhất vào năm 1758, hoặc suối Giải Oan tại chùa Giải Oan - Nơi gắn liền với hàng trăm câu chuyện cung nữ xưa kia đã trẫm mình xuống dòng nước đấy, để tỏ lòng thành với vua Trần Nhân Tông… và một số ngôi chùa độc đáo khác.
Để tiếp tục nâng tầm giá trị của Yên Tử, trong những năm qua, tỉnh Quảng Ninh đã tích cực phối hợp với tỉnh Bắc Giang, tỉnh Hải Dương hoàn thiện xong bộ hồ sơ khoa học "Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc" trình lên tổ chức UNESCO xem xét, thẩm định công nhận là Di sản thế giới.
Với những giá trị văn hóa tinh thần to lớn đó, ngày nay, Yên Tử đã trở thành báu vật vô giá và là niềm tự hào không chỉ của người dân Quảng Ninh mà là của cả dân tộc.
* Lễ Hội Kate - Ninh Thuận
Không biết từ bao giờ cứ đến thời gian giao mùa, mảnh đất nắng Phan Rang bắt đầu đón những cơn mưa đầu mùa rơi xuống xua đi cái nóng hè kéo dài, người dân Ninh Thuận và đồng bào Chăm lại nao nức đón mừng một mùa Lễ Hội Kate.
Trong không khí lễ hội Kate thật đặc biệt cùng những điệu múa, những làn điệu dân ca Chăm, cộng hưởng với bản hòa âm của trống Gi Năng, trống Paranưng và kèn Saranai tất cả tạo nên một không gian lễ hội thiêng liêng sống động để những ai đã từng một lần đến Ninh Thuận hòa chung không khí lễ hội đều nhớ mãi luôn muốn tìm về nơi đây!
Văn hóa Chăm nói chung còn đọng lại hôm nay chỉ là bóng mờ của quá khứ, cho nên muốn biết Lễ hội Kate có từ khi nào phải ngược nguồn một quãng đường dài cũng như phải có cái nhìn thực địa vào những gì đã và đang diễn ra.
Bởi Kate đã đứt mạch và ngưng trệ trong một thời gian dài từ khi triều đại cuối cùng cáo chung vào thế kỷ XVII, chỉ được phục dựng lại vào thập niên năm 60 thế kỷ XIX và được tôn tạo theo thời cuộc cho đến ngày hôm nay.
Dân tộc Chăm có ba lễ hội quan trọng nhất, đó là Rija Nưgar, Kate và Cabbur. Rija Nưgar là tết đầu năm tương đương với tết Nguyên đán của người Việt bởi nó bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 Chàm lịch, có nghĩa là ngày lễ tết của toàn xứ sở vương quốc Champa ngày xưa. Đó là ngày tết truyền thống đón năm mới của toàn dân Chăm cho dù cư trú ở vùng miền nào, thuộc sắc tộc nào hiện diện trên lãnh thổ thuộc chủ quyền của Champa xưa.
Không biết ngày xưa lễ tết này diễn biến và được tổ chức quy mô như thế nào nhưng hôm nay chỉ còn gói gọn ở phạm vi làng như một tục lệ, làng nào cúng lễ làng ấy để rồi sau đó cúng lễ theo từng gia đình tộc họ.
Từ Kate không chỉ để định nghĩa mà là để thấu hiểu ý nghĩa của nó một cách căn cơ nhất có thể để từ đó có một hướng nhìn mới về lễ hội này. Nếu Rija Nưgar bắt đầu một năm mới thì Kate khởi đầu vào giữa năm vào ngày 1 tháng 7 Chăm lịch, cho nên tạm gọi Kate là tết giữa năm.
Trong từ vựng Chăm chỉ có duy nhất một từ Kate trong cụm từ Ar Kate, có nghĩa là chuyện trên trời để ám chỉ những điều cao xa mà người trần gian khó tiếp cận và thấu hiểu. Chăm bảo rằng Kate di bingun Cabbur di klơm, có nghĩa là lễ Kate được tổ chức trong thượng tuần còn Cabbur luôn khởi đầu vào hạ tuần trăng.
Điều này cho thấy rằng Kate thuộc dương nên chỉ thỉnh mời dương thần ở trên thượng giới mà tiếng Chăm gọi là Ywơr Yang, những vị thần mang tính thần thoại cùng những thần vua đã có công khai phá đất nước để có thành quả đến ngày hôm nay.
Còn Cabbur thuộc âm nên chỉ ưu tiên mời Quốc mẫu Po Inư Nưgar cùng những vị tiền hiền mang tính địa phương hơn là toàn vương quốc và tầm vóc có phần nào lép vế hơn so với Kate.
Triết lý âm dương Chăm còn được phản ánh rõ nét hơn khi Kate được tổ chức vào tháng 7 bởi đó là biểu tượng của tính dương thuộc về người đàn ông, Cabbur diễn ra vào tháng 9 bởi đó là tính âm thuộc về người phụ nữ.
Số 7 tượng trưng (padah tok) cho trí tuệ qua thất khiếu với đầy đủ giác quan trong một cái đầu (sa baoh cơk tajuh gilaung), những kiến thức cần thiết để trang bị cho chiến đấu.
Số 9 là sự bổ sung thêm hai bầu sữa tượng trưng cho dòng suối mát của trực giác và linh cảm, một sự trú ẩn cần thiết cho sự sinh sản và dưỡng dục. Ariya Xah Pakei có câu: Hơc po kanai jiơng crauh / Jiơng bbol sa bauh caik ray gơm gabbak để nói lên khát vọng của sự hòa hợp này, từ tình cảm bình dị của con người cho đến quy luật sinh tồn của thiên nhiên.
Từ những lý giải nêu trên có thể kết luận rằng: Kate là Lễ tế trời và Cabbur là Lễ tế đất. Kate đã mất đi một thời gian dài và được phục dựng lại một thời gian không lâu nhưng phần nào cũng đáp ứng được đời sống tâm linh của người Chăm trong những ngày lễ hội thiêng liêng vui vẻ.
Chăm bí ẩn là thế bởi không có gì rõ ràng rành mạch, mọi thứ dường như bị chôn vùi trong tro bụi thời gian và không gian ngay cả trong ký ức của những vị cao niên thông thái nhất.
Tháp Chàm hiện hữu sừng sững ngay trước mắt có thể tai nghe mắt thấy tay sờ, thế mà nhiều nhà khoa học với nhiều phương tiện hiện đại cũng không thể lý giải được kết cấu của từng viên gạch hình thành lên ngôi tháp. Kate thật xa và cũng thật gần là thế, hãy đến với Kate trong chính tự cõi lòng!
* Ý nghĩa
Katê là lễ hội dân gian có từ lâu đời và đặc sắc nhất của người Chăm theo đạo Bàlamôn ở Bình Thuận với ý nghĩa tưởng nhớ đến các vị thần và cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng thuận lợi, lứa đôi hòa hợp, con người và vạn vật sinh sôi nảy nở. Vào lễ hội Katê, không chỉ người Chăm ở Bình Thuận mà người Chăm sinh sống, làm việc ở khắp mọi nơi đều trở về đoàn tụ và quây quần cùng gia đình, bạn bè và người thân.
Lễ hội Katê tại các gia đình và dòng họ được tổ chức nhằm quy tụ tất cả các thành viên trong gia đình để ông bà, cha mẹ giáo dục các thế hệ con cháu biết ơn, kính trọng tổ tiên và cầu mong tổ tiên phù hộ cho một năm làm ăn phát đạt, gặp nhiều may mắn.
* Nghi thức:
Lễ hội Kate của người Chăm ở khu vực Bình Thuận, Ninh Thuận hằng năm được khai diễn vào ngày 1.7 Chăm lịch, thường vào cuối tháng 9 đầu tháng 10 dương lịch.
Đây là lễ hội lớn kéo dài trong 3 ngày, với nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ truyền thống đặc sắc của đồng bào Chăm Ninh Thuận.
Theo truyền thuyết, trong “gia đình Champa xưa” thì người Chăm là chị cả, người Raglai là em út. Em gái út trong gia đình mẫu hệ Chăm sẽ là người cất giữ đồ gia bảo của tổ tiên, vì vậy y phục của các vị thần của người Chăm do người Raglai cất giữ.
Ngày đầu tiên của lễ Kate là ngày mà người Raglai rước y phục của các vị thần trở về làng của người Chăm ở khu vực có đền thờ của vị thần đó. Buổi lễ rước và lễ đón y phục của người Chăm diễn ra rất trang trọng, với những hoạt động văn nghệ truyền thống Chăm đặc sắc tại làng Hữu Đức.
Lễ đón rước y phục nữ thần Po Nagar từ làng Raglai Phước Hà về làng Chăm Hữu Đức (Ninh Thuận).
Ngày thứ hai là ngày đặc sắc nhất của lễ hội diễn ra tại Tháp Po Klong Garai. Với nghi thức: rước y phục của vị thần lên tháp, lễ mở cửa tháp, tiến hành tắm rửa cho tượng thần, khoác y phục cho tượng thần, cùng các đại lễ truyền thống khác.
Ngày này, những người Chăm địa phương và các vùng lân cận (không có đền tháp) đều tìm về đền tháp, trong những bộ trang phục lễ hội truyền thống đẹp nhất của mình, sắm sửa lễ vật cúng dâng các thần để cầu mong những điều tốt đẹp.
Lễ hội Kate diễn ra vào ngày 1 tháng 7 Chăm lịch – đầu tháng 10 theo Dương Lịch
Ngày thứ ba là phần lễ hội ở các làng, các gia đình. Mọi thành viên trong gia đình quây quần bên nhau, cùng cầu mong cho tổ tiên, thần linh phù hộ để con cháu làm ăn phát đạt, gặp nhiều may mắn.
Nhiều hoạt động văn nghệ diễn ra rất sôi động tại các làng Chăm trong suốt thời gian diễn ra lễ hội
Với các hoạt động lễ hội diễn ra trên các đền tháp cổ kính, lễ Kate đã thu hút rất đông du khách khắp nơi về dự, và ngày nay đã trở thành một lễ hội lớn nhất trong năm của người Chăm.
Năm 2017, Lễ hội Katê của đồng bào Chăm được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia. Giờ đây, Lễ hội Katê không chỉ là niềm vui riêng của bà con dân tộc Chăm mà còn là một trong những ngày hội lớn của các dân tộc anh em Kinh, Chăm, Raglai ở Ninh Thuận.
* Bảo tồn, phát huy có hiệu quả giá trị Lễ hội phục vụ đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng người Chăm và góp phần phát triển du lịch địa phương
Cần tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào Chăm duy trì và phát huy các giá trị của Lễ hội, khuyến khích việc hướng dẫn, phổ biến rộng rãi về nội dung, ý nghĩa và giá trị của Lễ hội trong cộng đồng. Quan tâm đầu tư và hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị Lễ hội, ngăn chặn những nguy cơ làm mai một, biến thể hoặc thất truyền các nghi thức trong Lễ hội.
Bên cạnh đó, chú trọng gìn giữ, bảo tồn nguyên vẹn phần lễ trong Lễ hội, từ thời gian, không gian, trình tự, cách thức thực hành các nghi lễ, thành phần tham gia cúng lễ, trang phục của các chức sắc, phụ nữ, thanh niên, thiếu nữ Chăm, đối tượng thờ cúng, lễ vật dâng cúng… cho đến nội dung lời khấn trong từng nghi lễ của các chức sắc tham gia hành lễ.
Đồng thời, duy trì tổ chức phần Lễ hội theo nghi lễ truyền thống. Lễ hội Katê có các hoạt động ở đền, tháp; thôn, xóm và tại các gia đình. Tại đền, tháp có các hoạt động: Lễ đón rước y trang, nghi lễ diễn ra ở các đền, tháp nơi tổ chức lễ hội. Lễ mở cửa đền, tháp. Lễ tắm tượng thần. Lễ mặc y phục cho tượng thần. Tiếp đến là múa cầu an và dâng lễ, cuối cùng là lễ múa mừng lễ hội Katê với các điệu múa của thiếu nữ Chăm hòa nhịp trong tiếng đàn Kanhi, tiếng trống Baranưng, tiếng trống Ghi-năng và tiếng kèn Saranai. Sau khi kết thúc phần Lễ, sẽ diễn ra phần hội với những trò chơi dân gian đặc sắc như: Hội thi dệt vải, làm gốm, đội nước, múa quạt, đánh cồng chiêng, ca hát; trưng bày gốm, thổ cẩm; cúng Katê thần làng; các trò chơi dân gian, giao lưu thể thao…
* Lễ Hội Nghinh Ông - vùng biển
Lễ hội Nghinh Ông từ lâu đã trở thành một trong những nét đẹp văn hóa của người dân miền biển. Với niềm tin to lớn vào Cá Ông, ngư dân nơi đây luôn tin vào những điều may mắn do ông đem lại. Lễ hội bao gồm 2 phần là phần lễ và phần hội cùng nhiều trò chơi dân gian hấp dẫn du khách cả trong lẫn ngoài nước.
Lễ hội nghinh Ông là lễ hội nước lớn nhất của người dân miền biển. Lễ hội còn có nhiều tên gọi khác như: lễ rước cốt ông, lễ tế cá “Ông”, lễ cầu ngư, lễ nghinh “Ông”, lễ cúng “Ông”, lễ nghinh ông Thủy tướng,… Mặc dù mang nhiều tên gọi khác nhau nhưng tất cả đều mang chung một quan niệm rằng cá “Ông” là một sinh vật linh thiêng ở biển, là vị cứu tinh của họ mỗi lúc tàu, thuyền của họ gặp nạn trên biển.
Lễ hội Nghinh Ông là một nét đẹp đặt trung trong văn hóa tín ngưỡng của ngư dân các tỉnh thành ven biển Việt Nam, kéo dài từ Quảng Bình trở vào Nam. Lễ hội Nghinh Ông là lễ hội cầu ngư lớn với mục đích cầu cho sóng yên, biển lặng, gió hòa, ngư dân gặp nhiều may mắn, làm ăn phát đạt, an khang, có được nhiều vụ mùa lớn. Đây cũng là dịp để các địa phương có thể thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước góp phần phát triển cho ngành du lịch.
Theo lịch sử thì Lễ hội Nghinh Ông cùng Tục thờ Cá Ông có nguồn gốc xuất phát từ tục thờ Cá Ông của người Chăm. Được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, trải qua sự bản địa hóa, tục thờ cá Ông trở thành tín ngưỡng của người Việt và cả người Hoa.
Theo truyền thuyết thì vào những ngày đầu lập quốc, Nguyễn Ánh trong một lần bị quân Tây Sơn truy đuổi, thủy quân của Nguyễn Ánh tháo chạy ra biển thì gặp phải sóng to gió lớn. Trong lúc nguy khốn không biết làm cách nào thì bỗng có một con cá Ông to lớn ghé đưa thuyền vào bờ.
Về sau, khi thắng được quân Tây Sơn và lên ngôi vua, Nguyễn Ánh nhớ ơn cứu mạng đã phong tặng cá Ông là Nam Hải Đại Tướng quân và cho dân lập miếu thờ cúng cá Ông…”
Lễ hội Nghinh Ông được tổ chức vào các thời gian khác nhau, tùy vào từng nơi sẽ có thời gian tổ chức riêng: Ở Vũng Tàu lễ thường được tổ chức vào ngày 15/8 – 18/8 âm lịch hàng năm tại Khu di tích đình thần Thắng Tam thuộc phường 2, Tp. Vũng Tàu. Ở Cà Mau lễ hội được tổ chức trong 3 ngày 14, 15, 16 tháng 2 âm lịch hàng năm tại cửa sông Ông Đốc, huyện Trần Văn Thời.
Ở Tiền Giang được tổ chức vào 2 ngày mùng 9 và mùng 10 tháng 3 Âm lịch tại Đình Thần xã Kiểng Phước. Tại Cà Mau thì lễ được tổ chức vào ngày 14, 15, 16 tháng 2 âm lịch hàng năm tại cửa sông Ông Đốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Ở Cần Giờ người dân tổ chức lễ hội hàng năm từ 14-17/8 âm lịch. Còn tại Khánh Hòa lễ sẽ bắt đầu vào ngày 15 tháng 12 âm lịch, ….
4. Quá trình diễn ra Lễ hội Nghinh Ông
Lễ hội Nghinh Ông dù được tổ chức ở địa phương nào thì cũng sẽ có 2 phần bắt buộc là phần lễ và phần hội. Phần lễ sẽ bao gồm lễ tế và lễ rước kiệu của Nam hải Tướng quân xuống thuyền rồng ra biển. Sau phần lễ là phần hội, phần này bao gồm những hoạt động vui chơi và ăn uống.
* Phần lễ
Phần lễ với 2 phần chính là lễ tế và lễ rước kiệu của Nam hải Tướng quân xuống thuyền rồng ra biển. Lễ rước kiệu diễn ra khá trang trọng, từ mờ sáng đã có hàng ngàn ngư dân và du khách trong trang phục quần áo chỉnh tề cùng những lễ vật đã chuẩn bị sẵn cùng tụ hội về ngay trước cửa lăng để dự lễ. Trước cửa nhà dân nằm trên con đường mà đoàn Nghinh Ông sẽ đi qua đều được lập sẵn bàn thờ và mâm cỗ gồm: gạo, muối, rượu, trà, hương đèn, hoa quả để chờ nghinh Ông về.
Ở ngoài bờ biển, các ghe tàu đánh bắt của địa phương đều đã neo đậu sẵn trên bờ biển chờ dự lễ hội Nghinh Ông. Trên những chiếc ghe giăng đầy đèn, kết hoa, treo cờ màu sắc rực rỡ và trước mỗi ghe đều bày mâm lễ vật chuẩn bị sẵn sàng ra khơi cúng Ông.
Những lễ vật mà ngư dân cúng tế thường là gà, vịt, đầu heo, heo quay,… đặc biệt là không bao giờ được cúng Ông bằng đồ hải sản vì đây là binh tướng của Ông. Ngoài ra, trên biển còn có tàu của Công an, bộ đội biên phòng cũng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự giúp buổi lễ nghinh Ông trên biển diễn ra an toàn, tốt đẹp.
Lễ tế được diễn ra khá trang trọng với các nghi thức cổ truyền ngay sau khi phần lễ rước kết thúc. Lễ cầu an, xây chầu đại bội, hát bội lần lượt diễn ra tại lăng.
Khác với phần lễ, phần hội được diễn ra sôi nổi với nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, vui chơi, giải trí như: thả chài, bắt vịt trên biển, trói cua, đá bóng cà kheo diễn ra sôi nổi trên bãi biển. Một số nơi, lễ hội Nghinh Ông còn có thêm những trò chơi mới như: đánh bi sắt, chạy marathon, bóng chuyền bãi biển, cờ tướng, triễn lãm thành tựu nghề biển và các ngành nghề khác của địa phương.
Qua đó tạo điều kiện cho khách tham dự giao lưu với ngư dân. Cùng với các hoạt động vui chơi, ngư dân và các du khách cũng được mời đến cùng nhau ăn uống, vui chơi, trò chuyện thân tình…
Lễ hội Nghinh Ông mang đậm bản sắc văn hóa của người dân miền biển, được tổ chức mỗi năm 1 lần với mong ước: mưa thuận, gió hòa, làm ăn phát đạt. Đây cũng là dịp để ngư dân tỏ lòng biết ơn của mình và là dịp để vui chơi giải trí sau một năm làm lụng vất vả. Nếu bạn có dịp đến thì đừng bỏ lỡ lễ hội này nhé!
* Lễ Vu lan báo hiếu
Lễ Vu Lan báo hiếu là một trong những đại lễ báo hiếu quan trọng, được tổ chức vào Rằm tháng 7 âm lịch hàng năm. Đây là một trong những ngày lễ lớn của Phật giáo, được tổ chức ở nhiều địa phương trong nước.
1. Nguồn gốc lễ Vu Lan
Lễ hội Vu lan xuất phát từ sự tích Phật giáo được ghi lại trong kinh Vu Lan Bồn. Theo kinh Vu Lan Bồn, Lễ Vu Lan phát xuất từ thời Đức Phật; Ngài đã dạy phương thức báo hiếu cho cha mẹ ở đời này và nhiều đời khác. Người đầu tiên tiếp nhận chính là Tôn giả Mục Kiền Liên - một trong 10 vị đệ tử xuất chúng của Đức Phật.
Kinh "Vu Lan Bồn" có ghi lại: Ngày xưa, khi Bồ Tát Mục Kiền Liên tu thành chánh quả, tưởng nhớ mẫu thân, đã dùng tuệ nhãn kiếm tìm khắp nơi trong trời đất, liền thấy mẹ mình đang ở trong loài ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ rất khổ sở. Thương mẹ, Ngài đã vận thần thông xuống cõi ngạ quỷ dâng bát cơm đầy cho mẹ. Rất tiếc, bà Thanh Đề còn quá sân si và bởi ác nghiệp còn quá nặng nên khi bốc cơm đưa vào miệng thì cơm biến thành lửa. Tôn giả Mục Kiền Liên không có cách nào cứu được mẹ nên Ngài liền quay về hỏi Đức Phật.
Đức Phật dạy rằng: "Dù ông có thần thông quảng đại như thế nào cũng không đủ sức cứu mẹ ông, chỉ có một cách là nhờ sự hợp lực của chư tăng khắp nơi, sau 3 tháng an cư kiết hạ cùng tập trung chú nguyện mới có thể chuyển hóa được nghiệp lực giúp mẹ ông thoát khỏi cảnh khổ".
Tôn giả Mục Kiền Liên làm theo lời Đức Phật, cung thỉnh chư Tăng, sắm sửa lễ cúng vào ngày 15/7 âm lịch.
Sau đó, mẹ của Ngài được giải thoát. Trong dịp này Đức Phật cũng dạy: Chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu - Lan - Bồn Pháp) mà làm". Từ đó, ngày Lễ Vu Lan ra đời.
2. Ý nghĩa của lễ Vu Lan
Vu Lan báo hiếu luôn là một trong những ngày lễ có sức sống văn hóa mãnh liệt nhất trong đời sống tinh thần của mỗi người dân Việt Nam, để tưởng nhớ công ơn cha mẹ và tổ tiên nói chung, nhắc nhở mỗi người biết trân trọng những gì mình đang có, nhắc nhở bổn phận làm con phải luôn nhớ đến công ơn sinh dưỡng của cha mẹ mà làm những việc hiếu nghĩa để thể hiện tình cảm, lòng biết ơn.
Ngày nay, lễ Vu Lan không đơn thuần chỉ có ý nghĩa tôn giáo thiêng liêng mà đã trở thành “lễ hội văn hóa tình người”. Pháp hội Vu Lan còn có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc, hướng mỗi người trở về với cội nguồn dân tộc, về với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” với tiên tổ. Tinh thần đạo hiếu cần được đề cao, biểu dương mạnh mẽ hơn để truyền thống đó luôn được bồi đắp, ngày càng trở thành sức mạnh văn hóa của dân tộc hôm nay và mãi mãi về sau.
Lễ Vu Lan chính là dịp để con cháu trong gia đình thể hiện lòng thành kính, hiếu thảo, đền đáp lại công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, ông bà và thể hiện lòng thành với tổ tiên. Đây là ngày lễ đặc biệt, nhằm phát huy truyền thống tốt đẹp “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam.
Báo hiếu ở đây là đối với cha mẹ, người đã sinh và nuôi dưỡng chúng ta không chỉ ở kiếp này mà còn ở nhiều kiếp khác. Tín ngưỡng Phật giáo luôn nhìn nhận con người trong mối tương quan nhân quả, trong vòng báo luân hồi. Điều này dẫn đến việc chúng ta phải mở rộng vòng báo hiếu ra tất cả chúng sinh. “Phổ độ chúng sinh”, “cứu nhân độ thế”, “xá tội vong nhân”.
Không riêng gì đối với mỗi người Phật tử, Lễ Vu Lan mở ra cả một mùa báo ân, báo hiếu lan toả khắp cả đất nước Việt Nam.
Lễ Vu Lan cũng kêu gọi ý thức xã hội về tinh thần đền ơn đáp nghĩa của Đức Phật, khuyến khích con người đền ơn 4 nguồn ân đức gồm tri ân, đền ơn cha mẹ đã sinh thành; tri ân những người thầy cô đã dạy dỗ, truyền đạt kiến thức; tri ân các bậc tiền bối đã hi sinh xây dựng đất nước mang lại cuộc sống ấm no, chủ quyền cho dân tộc và cuối cùng là tri ân chính đồng loại.
* Lễ Hội Đền hai bà Trưng - Mê Linh
Việt Nam mình gắn bó với nhiều câu chuyện lịch sử hào hùng của dân tộc, trong đó không thể không nhắc đến Hai Bà Trưng – Hai vị anh hùng đã có công đánh đuổi giặc Tô ra khỏi Giao Chỉ. Vì thế, mỗi năm tại Hà Nội lại tổ chức nhiều lễ hội đặc biệt để tưởng nhớ công ơn của hai Bà, trong đó nổi bật và đặc sắc nhất chính là lễ hội đền Hai Bà Trưng Mê Linh.
Trên toàn lãnh thổ Việt Nam, bạn sẽ tìm thấy 103 nơi thờ cúng Hai Bà Trưng và các tướng lĩnh nằm rải rác trong 9 tỉnh, thành phố (chỉ riêng huyện Mê Linh đã có đến 25 di tích ở 13 xã). Trong đó, đền Hai Bà Trưng ở thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh là có ý nghĩa quan trọng nhất, thờ tự hai vị anh hùng dân tộc là Trưng Trắc và Trưng Nhị. Đền được lựa chọn làm nơi tổ chức lễ hội Hai Bà Trưng thường niên vì ở đây không chỉ là nơi ghi lại dấu ấn thiêng về 2 vị nữ anh hùng – liệt nữ lúc thơ ấu, bình sinh, mà còn là nơi khắc ghi quá trình chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng oanh liệt của dân tộc thời đầu Công nguyên. Đền thờ Hai Bà Trưng được công nhận Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc Gia năm 1980.
Kiến trúc của đền Hai Bà Trưng được xây dựng như thế nào mà được chọn làm nơi trang trọng tổ chức lễ hội thường niên?
Đền Hai Bà Trưng thuộc thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh nằm trên một khu đất cao và rộng lớn, có thể nhìn ra bờ đê sông Hồng vô cùng bình yên và thanh tịnh. Đền có diện tích vừa, khoảng 129.824 m2, với nhiều công trình kiến trúc bên trong có thể kể đến như Cổng đền, nhà khách, nghi môn ngoại, nghi môn nội, gác trống, gác chuông, nhà tả - hữu mạc, đền thờ Hai Bà Trưng, hồ mắt voi, suối vòi voi, hồ bán nguyệt, hồ tắm voi, thành cổ Mê Linh; đền thờ thân phụ - thân mẫu của Hai Bà, đền thờ thân phụ, thân mẫu của ông Thi Sách, đền thờ các nữ tướng triều Hai Bà Trưng, đền thờ các nam tướng triều Hai Bà Trưng, nhà bia lưu niệm Hộp thư bí mật của đồng chí Trường Chinh,...
Đền có lối kiến trúc khá đặc biệt khi được xây dựng theo hình chữ “tam” – 3 đường thẳng nằm ngang song song với nhau, bao gồm: Tiền tế, Trung tế, Hậu cung, xung quanh là tường gạch; hai bên là Tả mạc và Hữu mạc. Cũng vì có lối kiến trúc đặc biệt cũng như tọa lạc trên mảnh đất Mê Linh hào hùng nên Đền Hai Bà Trưng được lựa chọn làm địa điểm tổ chức lễ tưởng niệm và nhớ ơn Hai Bà hàng năm.
Hai Bà Trưng là tên chỉ chung của hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị - Hai người đã có công lao rất lớn trong việc đánh đuổi giặc Tô ra khỏi đất Mê Linh. Trong sử sách viết lại, Trưng Trắc và Trưng Nhị được xem là những thủ lĩnh khởi binh nhằm chống lại chính quyền đô hộ của Đông Hán. Từ đó, lập ra một quốc gia mới với kinh đô đóng tại Mê Linh. Trưng Trắc tự phong là Nữ Vương, còn gọi là Trưng Vương. Thời kì của Hai Bà Trưng xen giữa thời kỳ Bắc thuộc lần 1 và Bắc thuộc lần 2.
Giới thiệu về lễ hội đền Hai Bà Trưng Mê Linh
“Đố ai nêu lá quốc kì
Mê Linh đất cũ còn ghi muôn đời
Yếm, khăn đội đá vá trời
Giặc Tô mất vía rụng rời thoát thân?”
Bạn có thể biết đến rất nhiều lễ hội Hà Nội nổi tiếng có thể kể đến như Hội Gióng Sóc Sơn, Phù Đổng hay lễ hội đền Cổ Loa và cả đền Hai Bà Trưng nữa. Từ ngày mùng 4 đến mùng 10 tháng Giêng, không chỉ người dân ở huyện Mê Linh mà cả khu vực Thủ đô Hà Nội và các tỉnh lân cận cũng đều nô nức kéo về thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh để tham dự lễ hội đền Hai Bà Trưng Mê Linh nổi tiếng. Lễ hội được tổ chức theo nghi thức nhà nước và truyền thống địa phương vì thế du khách sẽ có cơ hội tìm hiểu được thêm về văn hóa đặc sắc của huyện Mê Linh nói riêng và miền Bắc nói chung.
4. Ý nghĩa của lễ hội tưởng nhớ Hai Bà Trưng
Lễ hội đền Hai Bà Trưng Mê Linh được tổ chức thường niên nhằm giáo dục cũng như khuyến khích truyền thống yêu nước, nhằm góp phần nâng cao tinh thần và đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" của dân tộc Việt Nam. Lễ hội cũng đồng thời góp phần tuyên truyền, quảng bá hình ảnh truyền thống, một nét đẹp văn hóa của vùng đất Mê Linh đến với các tầng lớp nhân dân, đưa ra tầm quan trọng, giá trị lịch sử của di tích Quốc gia - Đền Hai Bà Trưng. Đưa nơi này trở thành điểm du lịch văn hóa tâm linh hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước. Lễ hội mang một màu sắc vô cùng đặc biệt trong lòng người dân huyện Mê Linh, cũng như Hà Nội và các tỉnh thành lân cận và được lưu truyền nối tiếp từ đời này sang đời khác.
5. Các hoạt động đặc sắc bên trong lễ Hai Bà Trưng ở huyện Mê Linh
Vào ngày mồng 4 tháng Giêng, dân làng sẽ làm lễ mộc dục để thay bao sái tượng Vua Bà. Sau đó ở làng Hạ Lôi sẽ tổ chức lễ tế ở đình làng cùng với Thành hoàng làng là 4 vị tướng là Đô, Hồ, Bạch, Hạc đã phù Thánh Tản Viên dựng lại nghiệp đế họ Hùng.
Nét độc đáo nhất trong lễ rước kiệu Hai Bà ở Hạ Lôi chính là nghi thức giao kiệu: Khi bắt đầu lễ rước kiệu thì kiệu Trưng Trắc sẽ đi trước đến đường kéo quân để về đình làng thì kiệu Trưng Trắc sẽ né sang một bên để kiệu Trưng Nhị đi trước. Đến cổng đình thì sẽ đảo lại để kiệu chị đi trước, kiệu em đi sau. Hai bên sẽ có người dân chào đón hai Nữ Vương tượng trưng Vua từ kinh đô Mê Linh về thăm làng.
Cuộc tế lễ trang trọng sẽ diễn ra tại đình làng Hạ Lôi vào sáng ngày mồng 6 tháng Giêng. Vào ngày chính hội, dân làng sẽ đưa tiễn Hai Bà về kinh đô lên Đền. Thứ tự rước kiệu sẽ ngược lại so ngày rước hai bà về đình làng. Sau đó, từ mồng 7 đến mồng 10 tháng Giêng sẽ là lễ viếng lục bộ nữ tướng, cầu phúc, yến hạ - khao quân, tạ lễ. Không chỉ nhân dân Mê Linh mà còn rất nhiều khách thập phương về dự lễ hội và hái lộc cầu may. Các trò chơi dân gian như đánh đu, chọi gà, đấu vật hay cờ tướng cũng sẽ được tổ chức náo nhiệt trong tiếng trống rộn rã.
Với những giá trị đặc biệt, ngày 19-1-2016, lễ hội truyền thống đền Hát Môn đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Sáng 12-4-2016 (tức mùng 6 tháng Ba âm lịch), UBND huyện Phúc Thọ tổ chức Lễ hội truyền thống đền Hát Môn kỷ niệm 1976 năm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng và đón nhận Bằng Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia cho lễ hội đền Hát Môn.
* Lễ Hội chùa Bái Đính - Ninh Bình
Lễ hội chùa Bái Đính là một trong các lễ hội lớn nhất miền Bắc vào những ngày đầu năm, thu hút đông đảo du khách thập phương về đây tụ hội. Đến chùa Bái Đính bạn không chỉ được chiêm ngưỡng cảnh sắc kỳ vĩ mà còn hòa mình vào không gian rộng lớn.
Chùa Bái Đính là điểm du lịch văn hóa tâm linh nằm trong quần thể thu hút hàng trăm ngàn lượt khách đến tham quan mỗi năm. Mang đặc điểm thuận lợi bởi không gian nguy nga, tráng lệ, chùa nằm trên núi Bái Đính thuộc địa phận xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình và chỉ cách trung tâm thành phố Ninh Bình khoảng 12km, cách thủ đô Hà Nội khoảng 100 km.
Để đến nơi này, bạn có thể lựa chọn nhiều loại phương tiện di chuyển khác nhau như máy bay, tàu lửa, xe khách. Đặc biệt đối với những ai ở miền Bắc đặc biệt là Hà Nội có thể rất tiện lợi di chuyển đến đây bằng xe khách.
Chùa Bái Đính được xây dựng từ năm 2003. Chùa nằm ở cửa ngõ phía tây cố đô Hoa Lư tựa như tiên cảnh vắt vẻo trên sườn núi Bái Đính, xung quanh chùa được bao bọc bởi các dãy núi đá lớn và thung lũng mênh mông. Chùa Bái Đính Ninh Bình đã thu hút sự chú ý của rất đông du khách trong nước và quốc tế bởi nơi đây từng là nơi đóng đô của nhà Đinh trong lúc tiến hành xây dựng kinh đô Hoa Lư xưa. Cũng chính tại nơi này, đã có ba triều đại Vua Đinh, Tiền Lê, Lý nối tiếp nhau ra đời. Chính vị các vị vua này rất quan tâm và coi trọng đạo Phật nên Ninh Bình đã có rất nhiều ngôi chùa cổ, trong đó có cả chùa Bái Đính.
Theo người xưa tương truyền lại rằng ý nghĩa của tên chùa bắt nguồn từ: Bái có nghĩa là lễ bái, cúng bái đất trời, Tiên Phật. Đính mang ý nghĩa là đỉnh, là ở trên cao. Bái Đính có nghĩa thờ cúng Tiên Phật ở trên núi cao. Chính vì thế, tại đây đã diễn ra nhiều sự kiện oai hùng trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chùa Bái Đính cổ còn là một trong những di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia trên đất cố đô Hoa Lư, có giá trị về cả mặt tâm linh và danh thắng.
Lễ hội được tổ chức với mục đích để tưởng nhớ công lao của các vị anh hùng đã có công với quê hương, đất nước. Lễ hội chùa Bái Đính là một lễ hội xuân diễn ra thường lệ từ chiều ngày mùng 1 tết. Lễ hội này được khai mạc ngày mùng 6 tết và kéo dài đến hết tháng 3, khởi đầu cho những lễ hội hành hương về vùng đất cố đô Hoa Lư tỉnh Ninh Bình. Ngoài ra, bạn cũng có thể đến chùa vào thời gian trên để thăm thú quang cảnh núi rừng và chiêm ngưỡng các hoạt động văn hóa lễ hội tại Ninh Bình.
Phần lễ bao gồm 4 nghi thức chính: thắp hương thờ Phật, tưởng nhớ công đức Thánh Nguyễn Minh Không, lễ tế thần Cao Sơn và chầu thánh Mẫu Thượng Ngàn. Lễ hội chùa Bái Đính sẽ được bắt đầu bằng nghi thức rước kiệu. Trong nghi thức này, các tu sĩ trong chùa sẽ mang bài vị thờ Thần Cao Sơn, Đức Thánh Nguyễn và Bà chúa Thượng Ngàn từ khu chùa cổ ra khu chùa mới để tiếp tục đến với phần hội.
Đến với phần hội, sẽ bao gồm có các trò chơi dân gian, ngắm cảnh chùa, thưởng thức nghệ thuật hát Chèo, Xẩm, Ca trù hoặc tham gia vào các hoạt động khám phá hang động. Đặc biệt, trong phần sân khấu hóa do Nhà hát Chèo Ninh Bình đảm nhiệm có tái hiện lại lễ tế cờ của Vua Quang Trung trên núi Đính trước giờ xung trận và lễ đăng đàn xã tắc của Đinh Tiên Hoàng Đế. Với các hoạt động vô cùng thú vị đó, lễ hội Chùa Bái Đính đã thực sự thu hút du khách trong và ngoài nước tham gia khi ghé thăm mảnh đất Ninh Bình xinh đẹp.
Trong thời gian diễn ra phần hội thì các đại biểu và tăng ni, phật tử cùng du khách đã tham gia nghi lễ cầu nguyện cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, đất nước phồn vinh, no ấm. Với ưu thế của một quần thể chùa rộng, lễ hội chùa Bái Đính đã thu hút một lượng lớn du khách thập phương đổ về chùa.
* Lễ Hội chọi trâu - Đồ Sơn
Cứ vào tháng 8 âm lịch hàng năm, vùng biển Đồ Sơn, Hải Phòng lại thu hút hàng nghìn người ở khắp nơi về tham gia lễ hội chọi trâu diễn ra hàng năm. Đây là một trong những tập tục cổ xưa của người dân vạn chài.
Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn, còn gọi là đấu ngưu, là một tập tục cổ, có từ xa xưa, một lễ hội truyền thống của người dân vạn chài tại vùng biển Đồ Sơn, Hải Phòng; diễn ra vào ngày 9 tháng 8 Âm lịch hàng năm; di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2013 của Việt Nam. Đây là một lễ hội với lễ nghi trang trọng, rước kiệu thần, có lọng che, phường bát âm...
Trong văn hóa cộng đồng người dân Hải Phòng, còn lưu truyền câu ca cổ:
"Dù ai buôn đâu bán đâu
Mùng chín tháng tám chọi Trâu thì về"
Cho đến nay, chưa xác định chính xác lịch sử hình thành lễ hội. Cộng đồng địa phương còn lưu truyền nhiều câu chuyện, truyền thuyết về lễ hội như sau:
1. "Ở chân núi Đồ Sơn, huyện Nghi Dương, có đền thờ Thủy Thần. Tương truyền có người bán thổ đi qua, thấy hai con trâu chọi nhau dưới đền, nên hàng năm đến ngày 9 tháng 8, có tục chọi trâu để tế thần" (Theo sách Đại Nam nhất thống chí)
2. Lịch sử lễ hội chọi trâu gắn với huyền thoại về một cô thôn nữ xinh đẹp tên là Đế, do có thai với vua Thủy Tề, bị dân làng phạt vạ, quan lại địa phương mang cô ra biển dìm. Cô gái oan ức, hiển linh, cộng đồng địa phương lập đề thờ, tên gọi đền Bà Đế. Linh thiêng, nơi bà chết, tôm cá kéo đến tập trung, năm này qua năm khác, các vạn chài kéo đến đánh cá. Về sau, cộng đồng địa phương tổ chức Lễ hội chọi Trâu, những con trâu thắng mang ra biển cúng tế Bà Chúa. Cũng có ý kiến cho rằng, truyền thuyết dìm chết nàng Đế ở ngoài khơi Hòn Độc là di vết của tục hiến sinh các cô gái cho Thủy Thần có từ thời kỳ nguyên thủy đến thời sơ kỳ phong kiến; về sau, khi trình độ xã hội phát triển, việc hiến sinh con vật được thay thế.
3. Cũng ở nơi đây, cộng đồng dân cư Đồ Sơn còn lưu truyền sự tích về người hùng áo vải, Quận He Nguyễn Hữu Cầu người làng Lôi Động xã Tân An, huyện Thanh Hà, vì cuộc sống ấm no của người dân vạn chài đã phất cờ chống lại phong kiến thối nát tàn bạo thời kỳ 1741 – 1751. Tưởng nhớ công đức Người, hàng năm nhân dân Đồ Sơn mở hội chọi Trâu, múa cờ. Cũng có tài liệu cho rằng: "Mỗi khi đánh trận thắng ông thường mổ trâu khao quân. Những con trâu chọi mổ bụng dứt dây lao ra, chọi nhau quyết liệt. Quân sĩ thấy thế hứng khởi reo hò vang dội. Kể từ đó, hàng năm, Nguyễn Hữu Cầu mở hội chọi trâu để cổ vũ động viên tinh thần quân sĩ".
4. Lễ hội chọi trâu có hai ngày trọng đại. Ngày 8 tháng 6, ngày đấu loại tuyển chọn những ông trâu tiêu biểu vào vòng chung kết ngày 9 tháng 8. Đây là những ngày con nước, sóng to gió cả. Hơn nữa, Đồ Sơn là quê hương của "Tiềm Thủy Ngưu", một giống trâu ở ngầm đáy nước miền sông nước. Do vậy, lễ hội chọi trâu là dâng tế Thủy Thần với cầu mong ra khơi gió lộng, bình yên.
5. Thành tích cá Kình. Dân làng chài kể lại rằng dân chài thường bị cá kình ăn thịt nên lập đàn cầu thần linh phù hộ vào thượng tuần tháng sáu và hứa sẽ mổ trâu, mổ lợn lễ tạ. Sau đó hai tháng, vào một đêm mưa bão gió giật, sáng ra thấy xác cá kình chết, trên hầu có vết chim cắn, một loại chim thần giáng thế độ dân. Từ đó, dân làng không bị cá ăn thịt nữa. Như đã hứa, hàng năm dân làng mang trâu đến lễ thần ở đền Nghè. Khi lễ, trâu dứt đứt dây, chọi nhau quyết liệt. Mọi người cho rằng thần linh thích xem trâu chọi. Bởi vậy hàng năm, dân làng tổ chức lễ hội chọi trâu và ngày đó đã trở thành đại sự, ngày hội truyền thống của dân vạn chài.
6. Theo sách Lịch sử Người Hà Nội của nhà văn Hà Ân, Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn có thể từ thời nhà Trần, nhưng chưa có căn cứ.
Lễ hội chọi trâu đặc biệt ở chỗ đây là minh chứng cho thấy sự giao thoa, kết hợp độc đáo giữa nhiều cộng đồng địa phương. Bởi lẽ, theo lẽ thông thường, mỗi địa phương sẽ sáng tạo và giữ gìn một lễ hội nhất định, tương ứng với câu nói “Trống làng nào làng ấy đánh. Thánh làng nào làng ấy thờ."
Tuy nhiên, điều này lại không đúng với lễ hội chọi trâu Đồ Sơn. Ở đây có sự giao thoa giữa các yếu tố trong văn hóa nông nghiệp của cư dân miền biển (như đã nói ở trên) với cư dân vùng đồng bằng. Với mục đích chung là tưởng nhớ công ơn các vị thần, cầu nguyện một năm quốc thái dân an.
Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn mang sắc thái vừa riêng vừa chung, thể hiện tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng đúng như triết lý “trống mọi làng cùng đánh, thánh mọi làng cùng thờ.”
Ngoài ra, vì là tục lệ của người dân miền biển nên lễ hội chọi trâu còn gắn liền việc thờ cúng thuỷ thần với nghi lễ chọi và hiến sinh trâu. Theo quan niệm của người dân nơi đây, đặc biệt là với ngư dân đánh bắt biển xa bờ, mặt trăng có liên quan mật thiết đến thủy trình.
Lễ hội chọi trâu có hai phần, phần lễ và phần hội đan xen. Từ ngày mùng một đầu tháng, các vị cao niên các làng có trâu chọi làm lễ tế thần Điểm Tước ở đình Tổng. Sau đó là lễ rước nước, gắn với tục tế Thủy Thần. Lọ nước thần mỗi năm thay một lần được từng làng mang về đình riêng.
Tại đình làng, các chủ trâu cho trâu ra làm lễ Thành Hoàng, sau khi lễ thần, trâu chọi được gọi là "Ông trâu".
Sáng ngày chính hội, 9/8 âm lịch, khoảng 1 giờ sáng, chủ tế các làng làm lễ xin phép Thành Hoàng đưa trâu đi thi đấu. Khoảng 6 – 7 giờ sáng, tổ chức lễ rước "ông trâu" ra đấu trường. Dẫn đầu đám rước là cơ ngũ phương, trống, chiêng, long đình, long kiệu, bát bửu. Người khiêng long đình, long kiệu, trống, chiêng… chít khăn đỏ, mặc áo đỏ viền vàng, thắt lưng và quấn cạp đỏ. Người gọi loa, hay dịch lao đội khăn xếp, mặc áo lương đen, thắt lưng bố hậu đỏ, quần trắng. Theo sau là các bô lão, chức sắc và thứ tự các ông trâu (theo kết quả xếp hạng đấu loại), trên lưng được chùm một tấm vải đỏ, sừng quấn một dải lụa điều. Đi bên cạnh mỗi ông trâu có hai chàng trai tay cầm cờ đuôi nheo để múa. Lễ rước các "ông trâu" vào các xào xá rộn rã trong tiếng nhạc bát âm, cờ bay phất phới kèm theo tiếng cổ động của dân cư trong vùng...
Khi ông trâu bước vào xào xá, tiếng trống, tiếng loa nổi lên dõng dạc, đổ hồi như tiếng sóng dội vào Hòn Độc, nơi trâu sẽ được hiến tế Thủy Thần.
Tiếp theo là nghi thức múa cờ khai hội được 24 tráng niên của làng chia thành hai hàng trình diễn vừa uyển chuyển, vừa mạnh mẽ, màu sắc biến hoá linh hoạt và huyền ảo trong những âm thanh của trống, thanh la; tái hiện lại lễ ra quân của Quận He Nguyễn Hữu Cầu trước giờ xuất trận; thể hiện ước nguyện cầu mong Thần Gió phù hộ cho thuyền bè cưỡi sóng vượt ra ngoài biển khơi.
Múa cờ vừa dứt, từ hai phía hai "ông trâu" được dẫn vào xới, có người che lọng và múa cờ hai bên. Khi hai "ông trâu" cách nhau 20 m, người dắt nhanh chóng rút "sẹo" cho trâu rồi khẩn trương thoát ra ngoài sới chọi. Hai ông trâu hoàn toàn tự do lao vào chọi nhanh giành thắng bại.
Kết thúc lễ hội, ông trâu thắng cuộc được làm lễ rước trở về. Sáng ngày 10 tháng 8, toàn bộ ông trâu tham gia lễ hội được đem giết thịt làm lễ vật tế thần ở đình, có kèm theo một đĩa đựng tiết và lông trâu (mao huyết). Khoảng 12 giờ trưa lễ tế bắt đầu. Sau đó, đĩa mao huyết được đổ xuống biển, phần còn lại được chia lộc thần cho dân với niềm tin một vụ khai thái mới bình an, nhiều tôm cá.
Vào ngày 16 tháng 8, làng tiến hành nghi thức "tống thần" và rã đám, kết thúc lễ hội.
* Lễ Hội đền bà chúa Kho - Bắc Ninh
Trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt, hiếm có ngôi đền nhỏ nào lại thu hút được nhiều khách thập phương, đặc biệt là giới kinh doanh, buôn bán như Đền Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh, bởi nơi đây được dân gian truyền tụng là “ngân hàng vàng mã” và rất linh thiêng.
Đền bà Chúa Kho mang một truyền thuyết vô cùng sâu sắc. Tương truyền bà Chúa Kho là người phụ nữ xinh đẹp, giỏi giang và khéo léo. Trong trận chiến Như Nguyệt năm 1076 do Lý Thường Kiệt lãnh đạo, bà đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tổ chức sản xuất, tích trữ lương thực, bảo vệ kho tàng quốc gia.
Bà là người có công lao to lớn trong việc chiêu dân lập ấp, khai khẩn đất đai vùng Quả Cảm, Cô Mễ, Thượng Ðồng. Sau khi trở thành hoàng hậu dưới triều Lý, bà tiếp tục hỗ trợ nhà vua trong lĩnh vực kinh tế và duy trì kho lương thực. Tuy nhiên, bà lại bị giặc sát hại trong lúc đang phát lương cứu đói nhân dân. Dân làng Cổ Mễ tưởng nhớ và trân trọng công lao của bà, lập nên đền Bà Chúa Kho tại vị trí cũ trên Núi Kho.
Mặc dù Lễ hội Đền Bà Chúa Kho chính thức diễn ra vào ngày 14 tháng Giêng nhưng ngay từ những ngày bắt đầu năm mới, đặc biệt là sau thời điểm giao thừa, người dân đổ về đây vô cùng đông đúc. Điều này thường sẽ kéo dài đến hết tháng Giêng.
Có người đến cầu an, cầu lộc, nhưng đa phần mọi người đến là để “vay vốn” từ Bà Chúa Kho. Đây là một nghi thức vô cùng thú vị và đặc sắc. Những người cần “vay vốn” sẽ chuẩn bị sớ, lễ để dâng hương. Trong tờ sớ sẽ phải ghi rõ là vay bao nhiêu, sử dụng làm gì, và bao lâu sẽ trả,… Thậm chí đã có nhiều người hứa rằng vay 1 trả 5, trả 10… với niềm tin Bà Chúa Kho sẽ phù hộ độ trì cho mình làm ăn phát đạt. Và đã vay thì phải trả nên dù có làm ăn tốt hay không thì người ta vẫn giữ đúng lời hứa tạ lễ cuối năm rất lớn ở đền Bà Chúa Kho mong cho năm sau vốn liếng dồi dào, làm ăn tốt hơn…
Nghi thức “vay vốn” này bắt nguồn từ những huyền tích xa xưa được các cụ truyền lại, và càng được củng cố thêm qua thời kỳ chiến tranh dù phải trải qua nhiều trận chiến ác liệt thì ngôi đền này vẫn vững vàng.
Dịp lễ hội, bao quanh ngôi đền có hàng trăm cửa hàng bán đồ lễ cúng. Mâm lễ được khách hành hương mua sắm tùy tâm, đơn giản là thẻ hương, bông hoa với tiền âm phủ, cầu kỳ thì con gà đĩa xôi, hay một mâm ngũ quả đủ đầy… chủ yếu là cần phải thành tâm cầu khấn.
Theo nghi thức truyền thống của người phương Đông, việc ăn mặc giản dị và trang trọng luôn được coi là quy định cơ bản tại những địa điểm linh thiêng như đền chùa. Bạn nên chọn lựa những bộ trang phục lịch sự với màu sắc nhã nhặn khi tham gia lễ hội Đền Bà Chúa Kho. Hạn chế sử dụng quần áo có phần hở, ít vải và không nên mặc những chiếc áo dài có phần tà quá dài để tránh việc khó khăn khi di chuyển trong đám đông hoặc nguy cơ làm rách, cháy vải. Đồng thời, bạn nên chọn giày dép thoải mái và phù hợp với hoạt động đi bộ nhiều trong lễ hội, chẳng hạn như giày bệt hoặc giày thể thao, không nên sử dụng giày cao gót để tránh tình trạng đau nhức và sưng chân.
Vàng mã, nén hương là những vật dụng không thể thiếu để làm lễ, dọc theo con đường lên Đền Bà Chúa Kho có rất nhiều cửa hàng cung cấp đồ lễ cúng. Tuy nhiên, để tránh tình trạng bị “chặt chém” khi mua sắm tại đền, bạn nên chuẩn bị vàng mã từ nhà trước khi đến. Tiền nên đặt vào hòm công đức thay vì để lên bàn thờ hay hương án, tránh gây mất thẩm mỹ cho không gian tế tự. Ngoài ra, việc chuẩn bị kỹ lưỡng mâm lễ và đội lễ trên đầu giúp bạn tránh va chạm trong dòng người đông đúc khi tới đền.
Trong những năm gần đây, tình trạng hỗn loạn tại Đền Bà Chúa Kho do hiện tượng cúng thuê đã tăng lên, gây ra sự bức xúc cho những người tham gia lễ hội. Mặc dù ban quản lý đã cảnh báo và đặt bảng thông báo ở nhiều vị trí trong đền nhưng vẫn có nhiều người tiếp tục thực hiện cúng thuê bất chấp. Vì vậy, khi tham gia lễ hội, bạn nên tập trung vào cầu nguyện và lễ bái để thể hiện sự thành tâm của mình, hạn chế hoặc tránh sử dụng dịch vụ cúng thuê để duy trì không khí trang nghiêm và linh thiêng của đền.
Lễ hội Đền Bà Chúa Kho tại Bắc Ninh không chỉ là một sự kiện tôn giáo mà còn là ngày hội của niềm tin, lòng thành kính và hy sinh. Đền Bà Chúa Kho không chỉ thu hút người dân địa phương mà còn là địa điểm hành hương quan trọng thu hút đông đảo du khách từ khắp nơi. Không chỉ là lễ kính, lễ cầu an, Lễ hội Đền Bà Chúa Kho còn là dịp để mọi người cùng nhau tạo nên không khí tươi vui, đoàn kết và lòng yêu thương.
Nguồn: Tổng hợp
* Lễ Hội Ok Om Bok - Sóc Trăng
Sóc Trăng nổi tiếng là nơi diễn ra nhiều lễ hội thú vị và đặc sắc. Bạn nên tham dự các lễ lớn như: Lễ dâng y Kathina Sóc Trăng, Lễ thả đèn nước Lôi Prôtip,... Trong đó, Lễ hội Ok Om Bok Sóc Trăng chính là nghi thức cúng thần để có mùa màng bội thu, gia đình đủ đầy. Hy vọng nét đẹp truyền thống này sẽ giúp cho mọi người ở đây được gắn kết và có nhiều kỷ niệm bên nhau hơn.
* Tên gọi của Lễ hội Ok Om Bok Sóc Trăng
Lễ hội Ok Om Bok Sóc Trăng (phiên âm: Ak Ambok) còn được biết đến với tên gọi quen thuộc là Lễ Đút cốm dẹp hay Lễ hội Cúng trăng. Đây là một lễ hội truyền thống có ý nghĩa lớn của đồng bào Khmer Nam. Lễ hội này có sự tương đồng với lễ hội Thượng điền của người Việt Nam. Hy vọng thế hệ sau vẫn có thể lưu giữ và kế thừa những giá trị tích cực của tín ngưỡng đa thần cổ xưa này.
* Ý nghĩa của Lễ hội Ok Om Bok Sóc Trăng
Người Khmer có truyền thống làm nông nghiệp gần như cả cuộc đời nên Lễ hội Ok Om Bok Sóc Trăng có ý nghĩa rất lớn. Đối với người Khmer, mặt trăng được xem là vị thần có quyền năng ảnh hưởng đến thành quả mùa màng và mang đến những điều tốt đẹp cho họ. Vì thế nên sau khi thu hoạch thành phẩm của mỗi vụ mùa thì người ta lại tiến hành nghi thức cúng tế để tạ ơn thần. Theo nghĩa đó, Lễ hội Ok om bok Sóc Trăng của người Khmer không chỉ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc là tạ ơn thần Mặt Trăng đã ưu đãi cho họ mùa màng bội thu, có cơm ăn áo mặc mà còn là dịp cho mọi người cùng nhau giao lưu, gặp gỡ sau quá trình vất vả mưa nắng nơi đồng ruộng. Xét theo khía cạnh này thì có thể xem như ý nghĩa của nó cũng tương tự như Lễ hội Chôl Chnăm Thmây Sóc Trăng.
Thời gian: Diễn ra vào rằm tháng 10 âm lịch hằng năm.
Địa điểm: Tại tại Quảng trường Bạch Đằng, TP Sóc Trăng
* Phần lễ của Lễ hội Ok om bok
Lễ hội Ok Om Bok Sóc Trăng diễn ra với nhiều hoạt động hấp dẫn như: Lễ Cúng Trăng, thả đèn gió, đèn nước. Trong đó có một phần được tổ chức tương tự Lễ thả đèn nước Lôi Prôtip nhưng nếu được tham dự cả 2 thì bạn sẽ thấy nó có sự khác biệt lớn. Phần Lễ Cúng Trăng sẽ được diễn ra tại mỗi gia đình hay ngôi chùa. Ở đó, người ta sẽ chọn ra những khoảng sân cao ráo, thoáng đãng để có thể nhìn rõ được mặt trăng. Lễ hội chính thức bắt đầu khi mặt trăng vừa nhô cao, chiếu ánh sáng khắp mọi nơi.
Những vật thường được gia chủ bày ra để cúng tế bao gồm: Cốm dẹp, khoai, chuối. Người có tuổi nhất sẽ vo những hạt cốm dẹp thành những nắm nhỏ cùng với chuối, khoai rồi đút cho đứa trẻ trong nhà. Vừa đút sẽ vừa xoa vào lưng và hỏi chúng những mong ước để thần Mặt trăng chứng giám. Sau khi kết thúc nghi lễ cúng tế thì những chiếc đèn gió được chế tạo từ vải, nan tre, bùi nhùi bên trong sẽ được đốt lửa và thả lên trời cao mang theo ước nguyện của người dân về cuộc sống ấm no, hạnh phúc và những vụ mùa bội thu. Trong Lễ hội Ok Om Bok Sóc Trăng còn thường có các nhà sư đến để làm lễ và đọc kinh. Tiếp đến, mỗi huyện sẽ cử một chùa đại diện để thực hiện nghi thức thả hoa đăng. Khung cảnh lúc này sẽ vô cùng nhộn nhịp, nào là đội múa Chayyam, dàn nhạc ngũ âm, các sư thầy và bà con phum sóc cầm đèn nhỏ đi bộ diễu hành dọc theo bờ Ao bà Om. Kết thúc diễu hành, toàn bộ hoa đăng sẽ được thả xuống mặt nước như gửi trao những ước nguyện thầm kín của người dân đến các vị thần và tạo nên cảnh tượng lung linh huyền ảo.
* Phần hội của Lễ hội Ok om bok
Nếu Lễ hội Ok Om Bok Sóc Trăng là một nghi thức để tạ ơn vị thần Mặt trăng thì phần Hội Đua ghe ngo được tổ chức là để đưa tiễn và tạ ơn thần Nước cũng góp công giúp mùa màng bội thu. Song song đó, hội đua ghe Ngo mang tính đại chúng rất cao và thể hiện sự đoàn kết thông qua rất nhiều người đến tham gia. Các cuộc đua ghe thường được diễn ra trong vòng 3 - 4 giờ đồng hồ trong tiếng reo hò, cổ vũ nhiệt tình của rất nhiều người xem hội. Trong thời gian diễn ra Lễ hội Ok Om Bok Sóc Trăng ở nhiều nơi còn diễn ra các hoạt động nghệ thuật sân khấu chuyên nghiệp, thể thao, hội chợ hay diễn xướng dân gian truyền thống rất náo nhiệt thu hút nhiều người đến chung vui. Ngoài ra, Lễ hội Ok om bok Sóc Trăng còn là niềm tự hào của dân tộc Khmer và người bản địa Sóc Trăng vì vào năm 2015 hoạt động này đã được chứng nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
Nguồn: Dân tộc và Phát triển
* Lễ Hội Chôl Chnăm Thmây- Sóc Trăng
Bên cạnh lễ hội Ok om bok Sóc Trăng, Chôl Chnăm Thmây cũng là ngày lễ quan trọng nhất của đồng bào Khmer Nam Bộ, thu hút đông đảo tín đồ du lịch đến tham dự.
* Nguồn gốc của lễ hội Chôl Chnăm Thmây Sóc Trăng
Lễ hội Chôl Chnăm Thmây Sóc Trăng là ngày lễ lớn nhất của đồng bào Khmer có nhiều nét tương đồng với ngày Tết Bunpimay của Lào, Tết Songkran của Thái Lan và Tết Thingyan của Myanmar. Vào những ngày này, đồng bào Khmer đều tất bật chuẩn bị đón Tết, nào là sửa sang quét dọn nhà cửa, chùa chiền, treo cờ và khẩu hiệu có dòng chữ “Sua Sđey Chnăm Thmây” tạm dịch là “Chúc mừng năm mới”.
Có nhiều truyền thuyến về nguồn gốc của lễ hội Chôl Chnăm Thmây Sóc Trăng, nhưng nhìn chung đều liên quan đến sự chuyển giao từ Bà La Môn giáo sang Phật giáo. Bên cạnh Phật giáo, người Khmer còn tin rằng mỗi năm sẽ có một vị thần trên trời thay phiên nhau hạ phàm bảo vệ người dân và phù hộ cho họ một năm bình an, mùa màng bội thu. Ngày mà vị thần tiên xuống hạ giới được người Khmer coi là ngày đầu tiên của năm mới.
* Ý nghĩa của lễ hội Chôl Chnăm Thmây Sóc Trăng
Lễ hội Chôl Chnăm Thmây Sóc Trăng là dịp để cộng đồng Khmer cùng nhau họp mặt, đón mừng năm mới và tưởng nhớ đến tổ tiên đã khuất. Bên cạnh đó, đây còn là dịp để họ bày tỏ hy vọng về một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.
Không giống người Việt hay Hoa ăn sẽ Tết sau mùa thu hoạch, đồng bào Khmer lại mừng năm mới trước khi chuẩn bị một vụ mùa canh tác. Đối với người Khmer, ngày Chôl Chnăm Thmây được xem thời khắc chuyển giao giữa mùa nắng và mùa mưa, việc tổ chức lễ hội xuất phát từ mục đích cầu mong mùa khô qua mau để có thể bắt đầu mùa vụ mới. Người Khmer quan niệm rằng thời gian diễn ra lễ hội là lúc cỏ cây trở lại tươi tốt và thiên nhiên trỗi dậy sức sống, chính là một sự khởi đầu của một năm mới.
Lễ hội Chôl Chnăm Thmây Sóc Trăng thường tổ chức vào đầu tháng Chét của lịch Phật giáo Khmer, là khoảng giữa tháng 4 dương lịch tương đương với tháng 3 âm lịch. Đây là một trong những ngày lễ mang đậm màu sắc văn hóa nông nghiệp đặc trưng của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, có gắn bó mật thiết với vòng đời cây lúa nước. Theo nông lịch, đây là thời gian mà việc nhà nông nhàn nhã nhất vì vào cao điểm của mùa khô, lúa đã thu hoạch xong và mọi hoạt động trồng trọt, chăn nuôi đều tạm dừng để chờ mùa mưa đến.
Do mang ý nghĩa chào đón mùa mưa và mùa vụ mới nên lễ hội Chôl Chnăm Thmây Sóc Trăng được tổ chức lớn nhất trong năm. Trước đây lễ hội này thường kéo dài từ 10-15 ngày, nhưng trong xu thế đơn giản hóa lễ hội như hiện nay, Chôl Chnăm Thmây chỉ còn được tổ chức trong vòng 3 ngày, năm nhuận thì kéo dài 4 ngày.
* Các nghi lễ đặc trưng trong lễ hội Chôl Chnăm Thmây Sóc Trăng
Cũng giống như Tết Việt, ba ngày của lễ hội Chôl Chnăm Thmây Sóc Trăng là khoảng thời gian những người con Khmer trở về sum họp gia đình để mừng năm mới, thăm hỏi bà con họ hàng và chúc nhau sức khỏe, cuộc sống yên vui, phát đạt.
Vào những ngày trước lễ hội Chôl Chnăm Thmây Sóc Trăng, người Khmer sẽ sắm sửa cho mình những bộ quần áo mới, sửa sang, quét dọn lại nhà cửa và chuẩn bị đầy đủ đồ ăn, thức uống cho 3 ngày Tết. Mọi người sẽ dừng lại các công việc thường nhật, người lao động ở xa thì trở về quê, ai ai cũng đều hào hứng chăm lo mừng năm mới.
Thông thường, lễ hội Chôl Chnăm Thmây Sóc Trăng sẽ gồm 3 ngày lễ chính và được tổ chức tập trung tại các ngôi chùa lớn trong vùng.
+ Ngày đầu tiên: Chôl Sangkran Thmây
Chôl Sangkran Thmây là ngày đầu tiên trong lễ hội Chôl Chnăm Thmây Sóc Trăng. Vào ngày này, mọi người sẽ tắm gội, mặc quần áo đẹp, đội cỗ lên chùa làm Lễ rước Đại lịch (Maha Sangkran) diễn ra vào giờ tốt đã được chọn sẵn, bất kể thời gian là sáng hay chiều.
Đại lịch được khiêng đi vòng quanh chính điện 3 vòng, sau đó các nhà sư bắt đầu thực hiện nghi lễ cầu bình an cho người dân. Tương tự như giao thừa của người Việt, Lễ rước Đại lịch của người Khmer mang ý nghĩa tiễn đưa điều xui xẻo, gửi gắm hy vọng vào những điều may mắn trong năm mới.
+ Ngày thứ 2: Wonbơf
Ngày thứ hai của lễ hội Chôl Chnăm Thmây Sóc Trăng là nghi lễ dâng cơm và đắp núi cát, nếu là năm nhuần thì có 2 ngày Wonbơf. Vào ngày thường nhà sư sẽ mang bình bát đi khất thực vào mỗi sáng, nhưng vào lễ hội Chôl Chnăm Thmây Sóc Trăng các gia đình làm cơm mang cơm đến tận chùa dâng cho các vị sư. Trước khi ăn, nhà sư sẽ tụng kinh làm lễ tạ ơn những người đã làm ra thức ăn, chúc phúc cho gia chủ và cầu siêu cho linh hồn người thân đã khuất của họ.
Buổi chiều của ngày Wonbơf sẽ tổ chức Lễ đắp núi cát, mọi người đắp cát thành nhiều ngọn núi nhỏ theo tám hướng và một núi ở trung tâm tượng trưng cho vũ trụ. Người Khmer tin rằng mỗi hạt cát đắp lên thành núi sẽ giải thoát được một kẻ có tội ở thế gian, vì thế họ rất hăng hái đắp núi cát để cầu xin năm mới được nhiều phúc đức. Hiện nay, tại một số chùa sẽ thay cát bằng lúa và gạo để sau lễ hội Chôl Chnăm Thmây Sóc Trăng, số lương thực này sẽ cung cấp cho các nhà sư hoặc đem hỗ trợ cho dân nghèo.
+ Ngày thứ 3: Lơng Săk
Lơng Săk là ngày cuối cùng và cũng là ngày quan trọng nhất trong lễ hội Chôl Chnăm Thmây Sóc Trăng. Trong ngày này, bà con Khmer sẽ tiến hành Lễ tắm tượng Phật và Lễ cầu siêu.
Lễ cầu siêu được thực hiện ở chùa, sau kết thúc Lễ đắp núi cát nhằm hồi hướng phước đức đến với ông bà, cha mẹ và những người thân quá cố ở thế giới bên kia. Buổi chiều là Lễ tắm tượng Phật được diễn ra tại chùa, sau đó mọi người sẽ về nhà làm làm nghi thức tắm cho ông bà, cha mẹ. Giống như lễ Sene Đôn Ta Sóc Trăng được xem là ngày Vu lan báo hiếu của người Khmer, nghi thức này cũng mang ý nghĩa cầu mong phước lành cho trưởng bối và xin tha thứ những thiếu sót, lỗi lầm của bậc hậu bối trong năm cũ.
Nguồn: Tổng hợp
* Lễ Hội Đua ghe Ngo - Sóc Trăng
Bên cạnh Lễ hội Chôl Chnăm Thmây Sóc Trăng và Sene Đôn Ta, Ok Om Bok là ngày lễ truyền thống lớn nhất của cộng đồng người Khmer. Trong Hội đút cốm dẹp Ok Om Bok diễn ra nhiều hoạt động văn hóa thú vị như Lễ Cúng Trăng, Lễ thả đèn nước và hấp dẫn nhất Lễ hội đua ghe ngo thu hút đông đảo người dân Khmer lẫn người Kinh, Hoa cùng tham dự.
* Ghe Ngo là gì?
Ghe Ngo trong tiếng Khmer gọi là Tuk Ngô, được bà con sử dụng để bơi đua với nhau tại mỗi dịp Lễ hội Ok Om Bok Sóc Trăng nhằm mục đích cầu mong cho một năm trồng trọt, chăn nuôi đạt năng suất cao. Ngày xưa, ghe Ngo của đồng bào Khmer là chiếc thuyền độc mộc được làm bằng thân cây sao, bởi loại gỗ này có tính đàn hồi tốt, chịu nước và giúp chiếc ghe Ngo lướt sóng nhanh hơn. Loại gỗ sao được chọn để đóng ghe phải là cây trên 100 năm tuổi, có đường kính to và chắc chắn. Tuy nhiên, ngày nay do khan hiếm về nguồn gỗ nên hầu như ghe Ngo đều được đóng bằng gỗ cây sao cưa thành từng miếng ván.
Ghe Ngo có hình dạng giống rắn Naga trong Hindu giáo, có chiều dài khoảng từ 25 - 30m, rộng nhất khoảng 1,1m. Phần hai đầu ghe cong lên tạo hiệu ứng khi bơi trông như một con rắn đang trườn mình trên mặt nước, rất sinh động. Hai bên thân ghe được trang trí, chạm trổ bằng hình ảnh vảy rồng, rắn Naga hoặc hoa lá cách điệu để tạo khí thế cho đội chơi. Ghe Ngo thường được bảo quản trong khuôn viên chùa có mái che và dàn đà cao để tránh mưa nắng, phòng mối mọt. Ngày xưa, nhà ghe được xem là nơi thiêng liêng nên phụ nữ không được phép đến gần. Tuy nhiên trong thời đại bình đẳng giới, Lễ hội đua ghe ngo Sóc Trăng đã mở rộng cho những đội ghe nữ tham gia tranh tài.
* Nguồn gốc Lễ hội đua ghe ngo
Lễ hội đua ghe ngo Sóc Trăng được tổ chức sau Lễ Cúng Trăng vào rằm tháng 10 âm lịch hằng năm. Đây được xem là hoạt động rước nước đặc trưng gắn liền với sản xuất nông nghiệp, người Khmer thông qua đua ghe để cầu mong cho một năm canh tác thuận lợi. Về hình thức, đua ghe Ngo của người Khmer gồm hai loại là đua trên cạn và đua dưới nước. Đua ghe Ngo trên cạn chủ yếu để tái hiện, mô phỏng lại cuộc đua ghe dưới nước là một trò chơi xuất hiện trong phần hội sau các nghi lễ truyền thống.
Theo truyền thuyết, sự xuất hiện của ghe Ngo là để phục vụ nhu cầu chiến trận trên biển và các con sông. Người Khmer đã chế ra một loại thuyền thân thon dài, chở được nhiều binh lính, đầu ngóc lên tiến về phía trước, tiện lợi cho việc di chuyển trên sông nước để giết kẻ thù. Nhờ loại ghe này mà người Khmer đã bảo vệ được đất nước của mình. Mãi đến con cháu đời sau, nhân ngày lễ hội Ok Om Bok đã tổ chức đua ghe Ngo nhằm để tưởng nhớ chiến công anh dũng của tổ tiên ngày trước.
Ngoài ra, còn một lý giải khác về sự ra đời của Lễ hội đua ghe ngo Sóc Trăng là quá trình người Khmer mô phỏng hình dáng loài rắn Naga để chống lại các loài thủy quái vào thời kỳ khai phá vùng đất Nam Bộ.
* Ý nghĩa của Lễ hội đua ghe ngo
Lễ hội đua ghe ngo Sóc Trăng gắn liền với lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng của cộng đồng cư dân Khmer. Đây là sự phản ánh về khát vọng cuộc sống bình an, phồn thịnh thông qua việc khấn cầu vị thần Mặt Trăng và tổ chức đua ghe. Đồng thời, Lễ hội đua ghe ngo Sóc Trăng cũng phần nào nói lên sự gắn bó mật thiết của con người với môi trường tự nhiên, nhằm bày tỏ lòng tri ân và cầu xin thần linh tha thứ về những việc làm ảnh hưởng đến môi trường xung quanh.
Ngoài ra, Lễ hội đua ghe ngo Sóc Trăng còn đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt cộng đồng, góp phần giáo dục về sự đoàn kết, tinh thần kỷ luật và rèn luyện khả năng chịu đựng giúp con người phát triển toàn diện về cả đức lẫn tài.
Lễ hội đua ghe ngo Sóc Trăng gồm hai loại là đua trên cạn và đua dưới nước. Đua ghe Ngo dưới nước là hoạt động được nhiều người mong đợi nhất sau Lễ thả đèn nước Lôi Prôtip vào rằm tháng 10 âm lịch hằng năm. Lễ hội đua ghe ngo Sóc Trăng được thể hiện qua 2 hình thức là Nghi thức hạ thủy và Hội đua ghe Ngo diễn ra trên sông Maspéro ở trung tâm Thành phố Sóc Trăng.
* Nghi thức hạ thủy ghe Ngo
Thông thường, Nghi thức hạ thủy ghe Ngo sẽ diễn ra trước cuộc đua chính thức khoảng một tuần. Trong buổi lễ, chiếc ghe Ngo sẽ được đặt ngay giữa sân chùa hướng về phía mặt trời mọc, còn các vận động viên sẽ đứng xung quanh hai bên chiếc ghe, chắp tay cầu nguyện. Buổi lễ sẽ được các Achar tụng kinh chúc phúc, rải nước lành cho các đội viên để cầu bình an và tiếp thêm sức mạnh, niềm tin trước khi ra thi đấu.
* Cách phân chia đội viên thi đấu
Trong thời gian một tuần trước khi thi đấu, các vận động viên sẽ phải tập luyện trên ghe để đảm bảo sự dẻo dai, sức bền và thống nhất đội hình. Thông thường, mỗi đội đua ghe sẽ có từ 70 đến 80 người, là những trai tráng khỏe mạnh tại địa phương bao gồm cả bơi chính và dự bị. Theo truyền thống, trên ghe Ngo cần có 3 người điều khiển gồm một người ngồi ở vị trí mũi ghe chịu trách nhiệm chỉ đạo kỹ thuật bơi và các nghi lễ liên quan. Người ngồi giữa sẽ có nhiệm vụ dùng còi hoặc cồng thúc giục đội viên ở khu vực giữa ghe, được gọi là Blong Kchay. Người ngồi cuối là Sayak giữ nhiệm vụ điều chỉnh kỹ thuật bơi.
Ngồi phía sau người ở vị trí mũi ghe là cặp “con dầm”, hai người này phải có kỹ thuật bơi nhanh, đúng nhịp nhất để làm chuẩn cho những đội viên phía sau. Tiếp theo là “kôn chro va” gồm 6 người ngồi bơi, rồi đến “kô lich” là 28 người quỳ bơi có nhiệm vụ đứng lên dồn lực cho ghe lao nhanh khi gần về đích, sau đó là 8 “sroong dôn” làm nhiệm vụ nhún bơi. Cuối cùng là lái chính và 2 lái phụ đứng song song phía trước lái chính.
* Quy trình thi đấu ghe Ngo
Buổi sáng trước ngày thi đấu, các đội đua sẽ làm lễ xuất quân tại chùa, đoạn sông hoặc trung tâm của phum, sóc. Sau khi ghe Ngo được đưa đến nơi thi đấu, các đội ghe tham gia tập trung tại khán đài để nhận lịch đua đã được bốc thăm chia bảng từ trước. Hội đua ghe tổ chức trong 2 ngày từ vòng loại đến chung kết. Mỗi đội dự thi theo lịch thi đấu đã nhận trước, do chịu chi phối của thời gian con nước lên khoảng từ 13h00 trở đi, nên có đua sáng thì phải bắt đầu từ 7h30.
Theo qui định của Ban Tổ chức, ghe nam xuất phát bằng cách nắm dây còn ghe nữ sẽ xuất phát bằng cách gióng hàng để so mũi ghe bằng nhau. Nếu có ghe phạm quy thì trọng tài sẽ thổi còi tạm ngưng đợt đua, nhắc nhở ghe vi phạm và hướng dẫn ghe trở lại vị trí xuất phát. Ghe nào vi phạm lần thứ 2 sẽ bị xử thua cuộc. Đợi khi trọng tài ra lệnh xuất phát thì các đội mới được phép bơi.
Để vào được vòng chung kết yêu cầu đội đua không những mạnh mà còn có sức bền, kèm theo người chỉ huy giỏi. Phần thưởng tinh thần lớn nhất mà họ dành được là vinh dự cho thôn làng cùng tinh thần thần thể thao gắn kết mọi người.
Lễ hội đua ghe ngo Sóc Trăng là hoạt động truyền thống của cộng đồng Khmer gắn liền với sản xuất nông nghiệp mang giá trị văn hóa, tinh thần sâu sắc. Với ý nghĩa mà lễ hội mang lại, chắc chắn đây sẽ là một điểm đến lý tưởng trong cẩm nang du lịch cho những ai yêu thích không khí náo nhiệt của những buổi hội hè.
Nguồn: Tổng hợp
* Lễ Hội đua bò Bảy Núi - An Giang
Lễ hội đua bò Bảy Núi là một trong những sự kiện truyền thống của người dân tỉnh An Giang. Cứ mỗi năm khi lễ hội diễn ra, người dân lại cùng nhau háo hức tham gia. Vậy Lễ hội đua bò Bảy Núi có nguồn gốc từ đâu và ý nghĩa ra sao?
Lễ hội đua bò Bảy Núi là nét đặc trưng của đồng bào Khmer tại An Giang. Nó cũng được xem là một những sự kiện văn hóa nhộn nhịp, giàu ý nghĩa tại Tây Nam Bộ. Thu hút sự tham gia của đông đảo người dân địa phương cùng du khách trong và ngoài nước.
Từ năm 1992, lễ hội này trở thành sự kiện thể thao cấp Quốc gia được nhiều người yêu thích. Dần dần nó trở thành một đặc sản văn hóa tinh thần không thể thiếu của người dân nơi đây.
Lễ hội đua bò Bảy Núi khởi phát từ lòng yêu nước, sự tự do cởi mở của người Khmer. Theo truyền thống, người Khmer sống theo cộng đồng, công việc chủ yếu là làm nương rẫy. Họ dùng bò để phục vụ cho công việc cày kéo mỗi ngày. Vì vậy, bò là một loài động vật có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất của người Khmer.
Trong quá trình sản xuất, để tạo không khí vui vẻ, hăng say thì nông dân thưởng rủ nhau đua bò. Đôi bò nào giành được chiến thắng thì sẽ được khen thưởng xứng đáng. Dần dần, hoạt động này trở thành lễ hội nhộn nhịp, được mong đợi tại vùng Thất Sơn.
Lễ hội đua bò Bảy Núi mang đến những ý nghĩa như sau:
- Đua bò là một hoạt động không thiếu mỗi dịp tết Đolta của người dân Khmer An Giang.
- Thể hiện khát vọng về một vụ mùa bội thu, mùa màng thuận lợi, đem đến cuộc sống vui tươi cho người dân.
- Thể hệ được tinh thần gắn kết giữa các dân tộc, tạo không khí gần gũi, vui tươi cho cộng đồng dân cư.
Tại địa điểm đua bò vào ngày diễn ra lễ hội, người dân có mặt đông đảo từ rất sớm. Họ không ngại đường xá xa xôi, mang theo cả xoong, nồi, loa, kèn để cổ vũ. Có người còn trang bị sẵn cả thức ăn, đem theo lương thực để nấu ăn tại chỗ. Mục đích chủ yếu là muốn có được phút giây xem đua bò trọn vẹn nhất.
Trận đua bò diễn ra với không khí hò reo, háo hức cùng tiếng vỗ tay sôi động. Ai nấy cũng đều hồi hộp với những pha về đích gam go, quyết liệt của người điều khiển và đôi bò. Điều này khiến cho các phum, sóc lúc nào cũng sôi nổi, nhộn nhịp.
Trước khi bắt đầu cuộc đua bò, người điều khiển chọn đôi bò, bốc thăm và thỏa thuận ai sẽ đi trước đi sau. Đôi bò đi sau thường sẽ có ưu thế hơn, khi đua mà đôi bò nào tạt ra khỏi đường đua sẽ bị loại. Đôi bò phía sau giẫm lên giàn bừa của đôi bò trước sẽ thắng cuộc. Người điều khiển khi đua bò phải cố gắng đứng vững, vì nếu bị ngã, rơi khỏi giàn bừa sẽ bị loại.
Đôi bò sẽ được gắn vào một chiếc bừa, bàn đạp bừa là tấm gỗ chiều rộng 30cm, dài 90cm. Phía dưới sẽ là răng bừa để di chuyển khi đua đua bò. Roi mây được người điều khiển cầm trên tay. Hoặc có thể cầm một khúc gỗ tròn chừng 3cm và đầu có cây đinh nhọn (cây xà-lul).
Khi trọng tài ra lệnh bắt đầu, người điều khiển chích mạnh cây xà-lul vào mông bò. Lúc này, bò sẽ phóng nhanh và chạy về phía trước, người điều khiển cần chích đều cả hai con. Có như vậy thì đôi bò mới đạt được tốc độ như mong muốn và giành chiến thắng.
Lễ hội đua bò Bảy Núi được tổ chức vào thời gian diễn ra lễ hội Dolta (lễ cúng ông bà). Tức là vào 29/8 đến 1/9 âm lịch (tháng thiếu thì từ 29/8 đến 2/9 âm lịch). Do đó, bên cạnh không khí nhộn nhịp, háo hức của ngày hội đua bò. Nơi đây còn diễn ra nhiều hoạt động khác mang đậm ý nghĩa trong văn hóa người Khmer.
Đua bò Bảy Núi tranh Cúp Truyền hình An Giang là một hoạt động thường niên, quan trọng. Vì thế, địa điểm tổ chức phải đảm bảo được các tiêu chi nhưng mong muốn. Phải có không gian rộng rãi, an ninh và thuận tiện cho việc đua bò. Lễ hội đua bò diễn ra tại sân đua bò huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.
Trên đây là toàn bộ thông tin về lễ hội đua bò Bảy Núi diễn ra tại An Giang. Hy vọng bạn sẽ có được những trải nghiệm thú vị với lễ hội đặc sắc này của người Khmer.
* Lễ Hội Kỳ yên đình Tân An - Bình Dương
Lễ hội Kỳ yên đình Tân An là một trong những lễ hội đặc sắc mà bạn nên lưu ngay vào cẩm nang du lịch của mình để có thêm những trải nghiệm thú vị. Cũng giống như lễ hội Chùa Bà Thiên Hậu và các lễ hội truyền thống khác tại Bình Dương, lễ hội Kỳ yên đình Tân An thể hiện văn hóa đặc trưng của cư dân gốc nông nghiệp với mục đích cầu cho mưa thuận gió hòa, đất đai tươi tốt, mùa màng bội thu cũng như đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Hằng năm, lễ hội được đông đảo dân bản xứ và du khách thập phương ghé đến để khám phá những hoạt động văn hóa độc đáo và hiểu thêm về tín ngưỡng thiêng liêng của người dân vùng Nam Bộ.
* Nguồn gốc hình thành lễ hội - Câu chuyện xuất phát từ ngôi đình cổ
Đình Tân An (hay còn được gọi là đình Bến Thế) ra đời song song với quá trình khai hoang, mở đất, lập làng của cộng đồng người Việt trên mảnh đất này vào khoảng những năm đầu thế kỷ XIX. Lúc đầu, đây chỉ là ngôi miếu có tên Tương An, là nơi thờ tự của bốn xã thuộc huyện Bình An xưa, bao gồm xã Tương Hiệp, xã Tương An, xã Tương Hòa và xã Cầu Định. Dần dần sau đó, các xã Tương Hiệp, Tương Hòa và Cầu Định lần lượt xây dựng đình thờ của mình nên Tương An miếu trở thành ngôi đình riêng của xã Tương An (nay là phường Tân An). Hằng năm, nơi đây tổ chức lễ hội Kỳ yên đình Tân An như một minh chứng lịch sử của quá trình mở cõi về phương Nam, khai hoang lập ấp của cư dân bản địa.
* Ý nghĩa của lễ hội Kỳ yên đình Tân An
Đình Tân An thờ Quận công Nguyễn Văn Thành. Giống như các đình làng khác ở Nam Bộ, lễ hội Kỳ yên đình Tân An diễn ra hàng năm nhằm mục đích tưởng nhớ các bậc tiền bối đi trước đã có công khai phá đất đai, lập nên xóm làng, những anh hùng có công với đất nước trong việc mở mang bờ cõi và để cầu cho đất nước bình an, mưa thuận gió hòa.
Lễ hội không chỉ là hoạt động thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng mà còn là không gian sinh hoạt văn hóa của người dân địa phương. Tham gia lễ hội thể hiện tính kết nối cộng đồng, phản ánh tính cách của người dân Nam Bộ và tính tự chủ của cộng đồng địa phương. Bên cạnh đó, lễ hội Kỳ yên đình Tân An còn là cách để người dân bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các vị Thần đã bảo vệ, phù hộ cho xóm làng, tri ân các vị Tiền Hiền, Hậu Hiền và các anh linh liệt sĩ có công bảo vệ quê hương, đất nước.
Lễ hội được tổ chức tại đình Tân An (đình Bến Thế) thuộc khu phố 1, phường Tân An, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Lễ hội Kỳ yên đình Tân An diễn ra vào tháng 11 âm lịch hằng năm. Vào các năm Sửu, Dần, Thìn, Tỵ, Mùi, Thân, Tuất, Hợi, đình Tân An sẽ tổ chức lễ hội với quy mô nhỏ (chỉ trong 1 ngày). Cứ 3 năm đáo lệ, các năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu sẽ tổ chức quy mô lớn (3 ngày, từ ngày 14 - 16 tháng 11 âm lịch) và có đoàn hát Bội biểu diễn.
Khác biệt hẳn so với lễ hội Lái Thiêu mùa trái chín, lễ hội Kỳ yên đình Tân An sở hữu một bầu không khí thiêng liêng mang đậm nét văn hóa tâm linh với rất nhiều nghi lễ truyền thống.
* Trải nghiệm các nghi lễ linh thiêng trong ngày đầu tiên của lễ hội Kỳ yên đình Tân An
Buổi sáng
Sáng ngày 14 tháng 11 âm lịch - ngày đầu tiên trong 3 ngày diễn ra lễ hội Kỳ yên đình Tân An sẽ tổ chức các nghi lễ trang nghiêm bao gồm lễ Thỉnh sắc, lễ cúng an vị và lễ Rước tổ hát Bội vào đình. Ngày thường, sắc phong được cất giữ tại nhà cổ của ông Nguyễn Tri Quan (thuộc dòng dõi Tiền Hiền). Đến lễ hội Kỳ yên, sắc phong sẽ được rước về đình an vị bằng nghi thức dâng hương, rượu do Ban quý tế thực hiện.
Tiếp đó là lễ cúng an vị. Lễ vật gồm có một con heo đã mổ thịt và làm sạch, đặt nguyên con ở trên ván son phía trước bàn thờ Thần. Ngay sau lễ cúng an vị là nghi lễ Rước Tổ hát Bội vào đình. Vì hoạt động hát Bội biểu diễn trong lễ hội Kỳ yên mang ý nghĩa cúng Thần do đó phải xin phép Thần. Sau khi thực hiện xong nghi thức xin phép Thần thì đoàn hát Bội mới được vào đình.
Buổi chiều
Sau khi kết thúc các nghi lễ buổi sáng là thời gian bắt đầu lễ Thỉnh sanh (hay còn gọi là Tỉnh sanh) để xin phép Thần cho dân làng được yết vật tế cúng trong nghi thức Túc yết. Vật tế là một con lợn đực còn sống, màu đen tuyền, mập mạp, khỏe mạnh và không có dị tật, được người dân địa phương gọi là “Con sanh”.
Buổi tối
Buổi tối sẽ diễn ra Lễ Túc yết với ý nghĩa mời Thần về dự lễ (nghinh Thần cúc cung bái) và dâng lễ vật lên Thần, cầu chúc Thần “thánh thọ vô cương”, mong Thần tiếp tục ban nhiều phước lộc cho bá tánh, nhân dân, cầu no đủ. Lễ vật trong nghi thức Túc yết là con lợn được làm trong lễ Thỉnh sanh, trên lưng cắm một con dao và sáu chung mao, huyết được đặt trên bàn thờ Thần cùng với hương, đăng, trà, quả bày sẵn trước đó.
Tiếp đến là lễ Xây chầu được chia thành hai phần gồm Thỉnh chầu và Xây chầu. Đứng lễ Xây chầu phải là người cao niên trong làng có lối sống mẫu mực và con cháu đề huề. Ngay sau đó sẽ tiến hành lễ Đại bội do đoàn hát Bội đảm nhiệm. Hát Bội trong cúng đình không chỉ là hoạt động văn nghệ giúp vui mà cái chính là để thực hiện nghi lễ dâng Thần. Vì vậy, hát Bội phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt những quy phạm mang tính chính thống. Lễ Đại bội cũng là nghi lễ kết thúc ngày thứ nhất của lễ hội Kỳ yên đình Tân An.
* Ngày thứ hai của lễ hội Kỳ yên - Tưởng nhớ công ơn các bậc tiền bối
Buổi sáng
Mở đầu ngày 15 là nghi lễ tế Hậu bối (3 hương án thờ Tiền vãng Viên Quan, Tiền vãng Hương chức, Tiền vãng Dịch mục) và Chiến sĩ (hương án thờ liệt sĩ và miếu thờ chiến sĩ). Trong buổi sáng, đoàn hát Bội sẽ tiếp tục biểu diễn phục vụ người dân.
Buổi tối
Nghỉ ngơi buổi chiều và đến buổi tối, Ban quý tế sẽ làm lễ Đàn cả với ý nghĩa tạ ơn Thần đã phù hộ cho dân làng được bình an, làm ăn thuận lợi, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Nghi thức lễ Đàn cả về cơ bản giống với Túc yết, chỉ thay đổi lời ca xướng từ “nghinh Thần cúc cung bái” thành “tạ Thần cúc cung bái” và thêm phần ẩm phước tức là Ban quý tế sẽ đại diện dân làng hưởng lộc Thần ban. Sau lễ Đàn cả, đoàn hát Bội sẽ biểu diễn thêm một vở tuồng nữa và kết thúc ngày thứ hai của Lễ hội Kỳ yên đình Tân An.
* Các nghi lễ kết thúc lễ hội Kỳ yên
Buổi sáng
Sáng ngày 16 là lễ Tôn vương và Đoàn hát Bội sẽ tiếp tục diễn suất tuồng cuối. Đình Tân An thường chọn vở San Hậu (hồi thứ 3) để biểu diễn và làm lễ Tôn vương, bởi nội dung của vở tuồng này được xây dựng theo công thức “Vua băng – Nịnh tiếm – Bà thứ lên chùa – Chém nịnh – Định đô – Tôn vương – Tức vị”.
Buổi chiều
Đến chiều, dân làng làm lễ đưa sắc phong về nơi cất giữ tại nhà cổ Nguyễn Tri Quan – gọi là lễ Đưa sắc. Về cơ bản, nghi thức cúng tế, đội hình đoàn đưa sắc cũng giống như lễ Thỉnh sắc nhưng số lượng người tham gia thường ít hơn.
Trên đây là những nét đặc sắc của lễ hội Kỳ yên đình Tân An. Đến với lễ hội, bạn sẽ có cơ hội khám phá không gian sinh hoạt văn hóa đặc trưng mang đậm nét tâm linh, tín ngưỡng truyền thống của người dân vùng Nam Bộ. Bên cạnh đó, bạn cũng có thể cân nhắc ghé thăm miếu Bà Bình Nhâm nếu muốn hiểu thêm về văn hóa và con người nơi đây.
* Lễ Hội vía Bà Ngũ Hành - Long An
Theo đúng tục lệ thì lễ vía Bà Chúa Ngũ Hành là vào ngày 19/3 âm lịch nhưng tùy từng địa phương sẽ tổ chức cũng lễ vào những thời gian khác nhau, thường là vào tháng 3.
Lễ hội vía Bà Ngũ Hành tại Miếu Ngũ Hành (Long An) được diễn ra từ ngày 18 – 21 tháng Giêng. Lễ hội đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2014.
Trong 3 ngày diễn ra lễ hội, ngày 18 tổ chức lễ khai mạc và dâng hương; ngày 19 làm lễ cầu an, múa bóng rỗi; ngày 20 lễ dâng bông, hát địa nàng… Kết thúc vào ngày 21 là lễ cúng bế cả. Trong đó, có thể nói múa bóng rỗi, hát địa nàng là những tiết mục đặc sắc, thu hút nhiều khách tham quan bởi đó không chỉ là những nghi thức trang trọng mà còn là loại hình nghệ thuật dân gian hết sức độc đáo của Nam bộ.
Ngày 18
Ngày 18 là lễ Khai môn thượng kỳ, mở cửa chính của miếu, thượng cờ, người dân cùng nhau quét dọn, bày biện, trang trí, treo đèn, kết hoa để chuẩn bị cho đại lễ. Tiếp đến là lễ Mộc Dục, tắm rửa thần vị của Ngũ Hành Nương Nương (người thực hiện việc tắm Thần mặc áo dài, khăn đóng, pha nước hoa, dùng khăn sạch nghiêm cẩn lau rửa 5 vị Thánh Phi).
Lễ Khai chung cổ là nghi lễ đánh những tiếng chuông và tiếng trống đầu tiên trong lễ Kỳ yên/Cầu an. Sau đó, khai mạc lễ hội Miếu Bà. Tối cùng ngày là nghi thức tụng kinh cầu an do một vị sư trụ trì chùa hành lễ cùng một vị Hương cả, quỳ trước bàn thờ, khấn Bồ Tát phù hộ cho bá tánh an cư lạc nghiệp, nhà nhà hạnh phúc ấm no. Lễ vật cúng Kỳ yên ở Miếu Bà Ngũ hành ở Long Thượng là những sản phẩm nông nghiệp do địa phương sản xuất, ngoài ra còn có heo Yết (heo dùng để tế Bà).
Ngày 19 tháng Giêng, cùng với nghi lễ là các trò diễn dân gian như: hát bóng rỗi, múa bóng ca tụng sự linh hiển và công đức của Bà. Tiết mục Hát bóng rỗi diễn ra trước sân miếu, những người diễn xướng, người hát và múa mặc trang phục đặc trưng với áo, mũ, khăn, váy, ngạch quan và trang điểm cầu kỳ. Hát bóng rỗi có ý nghĩa như một bản nhạc khai tràng cúng Bà, có dàn nhạc diễn tấu các điệu nhạc lễ và đệm cho các điệu hát; sau các điệu nhạc lễ khai tràng là những bài hát bóng rỗi chầu mời Ngũ Hành Nương Nương, chư tiên, chư thánh, các chiến sĩ… về dự lễ.
Người diễn xướng, thường gọi là “bóng”, hát những bài bản có sẵn hoặc ứng tác nội dung phù hợp với đối tượng mời, bằng các làn điệu như tuồng, lý, kể vè… Sau khi hát chầu mời, các “bóng” bắt đầu trình diễn điệu múa dâng mâm vàng một cách nghiêm trang và thành kính. Không khí trang nghiêm của nghi lễ được chuyển dần sang không khí sôi động của sinh hoạt cộng đồng khi các “bóng” bắt đầu trổ tài trình diễn các tiết mục múa đặc sắc. Đó là những màn trình diễn mang tính chất “xiếc” theo sở trường riêng, nhưng chủ yếu là dùng đầu, trán, môi, mũi, mặt nâng giữ vật nặng, tạo thăng bằng và di chuyển theo các vũ điệu đặc trưng của múa bóng với điệu múa dâng bông và hát theo điệu Xây tá. Bóng nhấc tộ bông có cắm bông vạn thọ, trang, cúc đặt lên bàn tay trái, xoay người 3 lần rồi đặt tộ bông lên đầu để múa một cách ngẫu hứng theo điệu đàn, nhịp trống của dàn nhạc bóng. Các động tác múa ở đây hết sức uyển chuyển, mềm mại, khi nhanh, khi chậm sao cho lễ vật đội trên đầu không rơi xuống đất, các “bóng” vừa múa, vừa di chuyển đến bàn thờ Bà, để dâng bông cho chủ lễ đặt lên bàn thờ.
Sau tiết mục múa dâng bông là các trò diễn dân gian, như: múa dâng lộc, múa bông huệ, múa ghế, múa khạp, múa dao, múa dâng rượu, trong đó một số trò diễn mang chất xiếc được cộng đồng rất tán thưởng.
Buổi tối diễn ra lễ Đại Bội trước khi đoàn hát bội trình diễn các vở tuồng cổ. Lễ Đại Bội gồm 3 nghi tiết: nhứt thái, nhị nghi, tam hiền và gia quan tấn tước. Các nghi tiết diễn ra tượng trưng cho việc khai mở bốn cửa trời, sự hòa hợp trong vũ trụ để tạo ra vạn vật, mong muốn cuộc sống thần tiên, vui vẻ.
Những ngày tiếp theo
Người dân tiếp tục thực hiện các nghi lễ truyền thống, như: lễ Túc yết, lễ Đoàn cả – lễ Tạ thần. Bên cạnh đó, trò diễn dân gian hát bóng rỗi, múa bóng vẫn được trình diễn tại miếu Bà. Ngoài ra, trò diễn hát chặp Địa Nàng có sức cuốn hút người xem với nội dung hài hước thể hiện sự lạc quan, thông minh cũng như phản ánh thói hư, tật xấu của con người.
Lễ hội vía Bà Ngũ hành là lễ hội mang tín ngưỡng dân gian, là sự kiện mang tính cộng đồng của người dân trong tỉnh nói chung và huyện Cần Giuộc nói riêng. Qua đây phản ánh một khía cạnh đời sống tâm linh của cư dân trong vùng và thể hiện ước vọng về cuộc sống no đủ, mùa màng bội thu. Lễ hội còn lưu giữ được nhiều trò diễn dân gian, góp phần bảo lưu nghệ thuật và các giá trị truyền thống của dân tộc, tạo nên sự cố kết cộng đồng.
Chúa Bà Ngũ Hành được tôn thờ phổ biến trong nhân gian bởi người ta tin rằng các Bà có những quyền năng liên quan tới mọi ngành nghề như đất đai, củi lửa, kim khí, … có thể phù hộ và ban lộc cho ngư dân, thợ thủ công, nông dân, … giúp họ làm ăn thuận lợi, có của ăn, của để. Vì việc thờ cúng Chúa Bà Ngũ Hành trở thành một tục lệ phổ biến nên Chúa Bà được thờ tự rất nhiều tại các đền miếu, đặc biệt là ở khu vực phương Nam, Việt Nam, việc sắm lễ, cúng lễ cũng gần như tương tự nhau.
Về việc sắm lễ, giống như việc thờ các vị thần linh Tứ Phủ khác, nhân dân cũng sắm lễ, dâng hương Chúa Bà vào những ngày đầu năm đầu tháng với các thứ lễ đầy đủ, tùy tâm.
Truyền thống là những thói quen được hình thành từ lâu đời. Nó bất biến trong suy nghĩ, nếp sống của nhiều đối tượng khác nhau như gia đình, tập thể, xã hội, tập đoàn lịch sử. Truyền thống còn được coi là những tư tưởng, tình cảm trong một cộng đồng nhất định, được hình thành trong quá khứ và mang lại những giá trị tốt đẹp. Truyền thống thường được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Thế hệ sau có một phần trách nhiệm gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống do thế hệ cha ông đã để lại.
Truyền thống tốt đẹp của dân tộc là tổng hợp những giá trị tinh thần (hệ tư tưởng, tính cách, lối sống, cách ứng xử tốt đẹp ...) được hình thành trong quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước và được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Từ bao đời nay, người dân Việt Nam chúng ta luôn tự hào là quốc gia giàu truyền thống tốt đẹp và đáng tự hào, có thể kể đến như:
- Truyền thống yêu nước, từ thời Văn Lang, Âu Lạc, nhân dân ta cho thấy một lòng yêu nước mãnh liệt.
- Truyền thống bất khuất, kiên chung chống giặc ngoại xâm;
- Truyền thống đoàn kết; tinh thần đoàn kết là một trong những truyền thống quý báu của của nhân dân Việt Nam.
- Truyền thông nhân nghĩa; chắc hẳn mọi người vẫn chưa quên về câu chuyện người anh hùng ngoài đời thật
- Truyền thống cần cù lao động;
- Truyền thống hiếu học;
- Truyền thống tôn sư trọng đạo;
- Truyền thống hiếu thảo;