Đắk Nông là nơi hội tụ của 40 dân tộc anh em với nền văn hoá cổ truyền độc đáo, đa dạng. Đời sống dân gian của đồng bào các dân tộc của tỉnh rất giàu tính sáng tạo và tinh tế trong biểu cảm nghệ thuật. Trong quan niệm của người đồng bào dân tộc M’Nông thì mọi vật đều có linh hồn và con người sinh ra ai cũng được thần linh che chở để cuộc sống được ấm no, hạnh phúc. Các nghi lễ, lễ hội cũng sinh ra từ đó để cầu nắng, cầu mưa, cúng trừ bỏ thần ác, cúng thần lành để mừng phù hộ hay cúng để tạ ơn, để ăn mừng, tiêu biểu như: lễ cúng thần rừng, thần núi, lễ ăn trâu trả nợ thần linh, lễ trưởng thành, mừng lúa mới, uống rượu cần… Các lễ hội của đồng bào các dân tộc tỉnh Đắk Nông rất phong phú, đa dạng, đặc sắc và cũng đầy huyền bí tiêu biểu như:
Các lễ hội liên quan đến sản xuất: lễ cúng rẫy (nương), lễ kết vòng cúng lúa, lễ cúng tuốt lúa, đặc biệt là lễ mừng cơm lúa mới với ý nghĩa trả công cho đất đai, nương rẫy đã khó nhọc cùng gia đình làm ra lúa gạo.
Các lễ hội liên quan đến phong tục tập quán và sinh hoạt cộng đồng: lễ tách hộ, lễ cúng nhà mới, lễ tách nhà dài, lễ sum họp cộng đồng, lễ tách bon, làng, lễ cúng bon … đây là những lễ hội có quy mô lớn, được chuẩn bị công phu và nghiêm túc. Qua lễ hội, bà con muốn gửi gắm tâm hồn, ước vọng của mình vào thần linh, mong muốn được ban cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu và nhất là cầu cho các bon làng đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau. Trong các lễ hội này thường diễn ra nghi thức đâm trâu để tạ ơn thần linh phù hộ, xuyên suốt lễ hội là những điệu múa, điệu nhảy, biểu diễn cồng chiêng tạo một không gian sinh hoạt văn hóa thể hiện tính cộng đồng rất cao của đồng bào các dân tộc tỉnh Đắk Nông.
Lễ hội ăn trâu (thường gọi là lễ thức đâm trâu): được tổ chức lớn, có sự tham gia của cả bon (làng). Những nghệ nhân giỏi nhạc cụ dân tộc được mời để gọi thần linh trong lễ đâm trâu. Cây nêu được trang trí cầu kỳ, rực rỡ được xem như một lễ đài bề thế, trang nghiêm. Trong nghi thức đâm trâu, dàn cồng chiêng của chủ và khách vang lên để người đâm trâu phấn chấn, can đảm, theo nhịp điệu của dàn cồng chiêng những người tham gia lễ hội sẽ cùng nhau ca hát, nhảy múa.
Lễ cúng ngõ: thường được tổ chức ngay ngoài ngõ của các bon (làng) với ý nghĩa kiêng cữ các thần ác ngoài rừng, các thần dữ trên trời và các thần thường gây tai họa cho con người; cầu xin thần mưa, thần gió, thần bão, thần dịch bệnh không gây tai họa cho bon (làng). Các lễ vật được chuẩn bị chu đáo dâng lên thần linh cầu mong được an lành, bình an, giàu mạnh.
Lễ hội liên quan đến săn bắt voi: lễ cúng săn bắt voi phải được tổ chức ở nhà thầy Gru (những người đã từng săn bắt được từ 16 con voi trở lên được gọi là thầy Gru). Người đại diện cho nhóm đi săn sẽ dâng lễ vật, khấn và cầu xin các thần, trong đó có thần trông giữ voi rừng biết là dân làng sắp đi săn voi, cầu xin thần phù hộ, nếu không cúng xin thần sẽ nổi giận và khiến cho người săn voi bị điên. Trong quá trình đi săn, khi làm bất cứ việc gì, mọi người trong đoàn săn voi cũng phải thực hiện các nghi thức và các quy định một cách nghiêm ngặt để tỏ lòng kính trọng thần linh, thầy Gru và đặc biệt là đảm bảo an toàn cho đoàn đi. Cùng với lễ cúng săn bắt voi, đồng bào các dân tộc còn có những nghi lễ cúng voi như: lễ cưới voi nhà, cúng sức khỏe, cắt ngà voi …
Hằng năm vào mùa lễ hội, đồng bào các dân tộc tỉnh Đắk Nông rộn ràng tổ chức các lễ hội truyền thống của dân tộc mình. Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc mình thông qua các lễ hội ngày càng được người dân tâm huyết thực hiện. Nhiều hoạt động lễ hội được phục dựng và tổ chức tạo môi trường sinh hoạt văn hóa lành mạnh đầy ý nghĩa. Đến nay, các địa phương trên địa bàn tỉnh Đắk Nông đã phục dựng được 40 lễ hội của đồng bào các dân tộc M’nông, Mạ, Ê đê. Trong đó, huyện Đắk Glong phục dựng lại lễ kết nghĩa bon làng ở bon Phi Mur, xã Quảng Khê; lễ cúng thần lúa ở xã Đắk R’măng. Huyện Chư Jút phục dựng lễ rước K’pan, lễ mừng mùa của đồng bào Ê đê. Các huyện Tuy Đức, Đắk R’lấp, Đắk Mil, Đắk Song, Krông Nô thì phục dựng các lễ hội tiêu biểu của đồng bào M’Nông như: lễ cầu mưa, lễ cúng phát rẫy, mừng lúa trổ bông, lễ cắm nêu cúng lúa, lễ cúng thần rừng… Thị xã Gia Nghĩa phục dựng lễ cưới, lễ đoàn kết, lễ cúng mừng sức khỏe người già, lễ mừng lúa mới của đồng bào Mạ…
Không chỉ có lễ hội truyền thống của các dân tộc bản địa, trên địa bàn tỉnh Đắk Nông còn có những màu sắc sinh động, mới lạ trong lễ hội của các dân tộc mới tới định cư tại Đắk Nông như Tày, Thái, Nùng, Dao, Mông… Các hoạt động lễ hội truyền thống của đồng bào các dân tộc di cư tới Đắk Nông cũng được tổ chức nhằm giữ gìn các phong tục, tập quán tốt đẹp, tiêu biểu như: đồng bào dân tộc Dao ở huyện Cư Jút hàng năm thường tổ chức các lễ hội truyền thống như: lễ cấp sắc, lễ cầu mùa, lễ mừng thọ, mừng sinh nhật… Người dân tộc Tày, Nùng ở huyện Đắk Mil cũng đang gìn giữ những nét văn hóa lễ hội đặc trưng của dân tộc mình đó là vào đầu tháng Giêng âm lịch, đồng bào lại cùng nhau đóng góp để tổ chức lễ hội lồng tồng (xuống đồng) - một trong những lễ hội quan trọng, đặc trưng của các dân tộc phía Bắc.
Nhận thức rõ vai trò quan trọng của lễ hội, trong những năm qua, cấp ủy, chính quyền các cấp đã lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện, gắn với Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) “về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”.
Có thể nói, các hoạt động lễ hội trên địa bàn tỉnh Đắk Nông được tổ chức theo nghi lễ truyền thống đã thực sự đáp ứng được nhu cầu của nhân dân, trở thành hoạt động văn hóa không thể thiếu trong đời sống cộng đồng. Qua đó, góp phần gìn giữ và phát huy những giá trị bản sắc văn hóa truyền thống của 40 dân tộc anh em đang sinh sống trên mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ. Khẳng định sức sống mãnh liệt, trường tồn của văn hóa các dân tộc Việt Nam nói chung và của nhân dân các dân tộc tỉnh Đắk Nông nói riêng và góp phần đẩy mạnh du lịch, phát triển kinh tế - xã hội và bảo tồn lâu dài các giá trị di sản thiên nhiên và văn hóa cho các thế hệ tương lai.
Đặc sản
Cá lăng thuộc họ cá da trơn, thường sống ở các khúc sông có nước chảy xiết và lắm thác ghềnh. Trong đó, có cá lăng đuôi đỏ thường sống ở sông Sêrêpốk, chảy qua địa bàn huyện Krông Nô và huyện Cư Jút, tỉnh Đăk Nông. Thịt cá lăng sông Sêrêpốk nổi tiếng béo, có vị ngọt và rất giàu dinh dưỡng và được dùng để chế biến thành nhiều món ngon như om, lẩu, nướng, làm chả, hấp, xào tỏi hoặc nấu cháo. Theo các thực khách sành ăn thì món cá lăng nướng và lẩu cá lăng măng chua rừng vẫn là ngon nhất.
Canh thụt là món đặc sản Đăk Nông độc lạ của người dân tộc M’Nông và người Mạ ở tỉnh Đăk Nông. Nguyên liệu để tạo nên món ăn này bao gồm lá bép (còn gọi là lá nhíp), đọt mây, cà đắng với các loại cá suối để cho ra món canh dân dã mà vô cùng hấp dẫn. Cái tên “canh thụt” xuất hiện từ việc ngày xưa, khi người dân đi làm, thường nấu canh trong những ống tre, ống nứa mọc trong rừng. Khi nấu, người ta dùng đũa để khuấy các nguyên liệu cho mềm.
Rượu cần là một trong những loại ẩm thực không thể thiếu trong các cuộc vui chơi, lễ hội của đồng bào ở tỉnh Đăk Nông. Rượu được ủ trong những chiếc ché không qua chưng cất; nguyên liệu ủ rượu bao gồm những nguyên liệu tự nhiên có tại địa phương như: lúa, trấu cùng với loại men được làm từ lá, vỏ cây rừng.
Với khí hậu thuận lợi cũng như điều kiện thổ nhưỡng, bơ trồng tại Đăk Nông được nhiều người ưa chuộng bởi có vị thơm ngon đặc trưng, phần cơm dày, dẻo và hàm lượng dinh dưỡng cao. Trong những năm qua, bơ đang trở thành một trong những loại quả có giá trị kinh tế cao, mang lại nguồn lợi nhuận lớn cho nhiều nông dân Đăk Nông và được hướng đến xuất khẩu sang nước ngoài. Các loại bơ đặc trưng nơi đây bao gồm: bơ 034, bơ Booth, bơ Cuba…
Nhắc đến đặc sản của bất cứ tỉnh nào ở vùng cao nguyên đất đỏ bazan, không thể không kể đến cà phê. Và ở Đăk Nông, có một thương hiệu cà phê nổi tiếng đó là cà phê Đức Lập, mang hương thơm nồng nàn, quyến rũ. Vùng đất Đắk Mil, trước đây là huyện Đức Lập có điều kiện tự nhiên vô cùng thuận lợi cho cây cà phê sinh trưởng và phát triển. Những cây cà phê nơi đây được trồng, chăm bón đúng quy trình nên đảm bảo chất lượng thơm ngon, nguyên chất và an toàn cho người dùng.
Xuất xứ của giống khoai lang này là từ những năm đầu mới thành lập tỉnh, người dân xã Đắk Búk So (huyện Đắk R’lấp nay thuộc địa bàn huyện Tuy Đức) đã đưa giống khoai lang Benzen có nguồn gốc từ Nhật Bản về trồng. Do phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng nên khoai lang ở Tuy Đức đạt năng suất cao, mang hương vị đặc trưng như: thơm ngon, bùi, ngọt, có hàm lượng tinh bột và dinh dưỡng cao; được nhiều người ưa chuộng và nhiều doanh nghiệp thu mua để sản xuất ra các mặt hàng như bánh, mứt, kẹo… xuất khẩu sang thị trường nước ngoài.
Tại Đăk Nông, đồng bào Tày sinh sống hầu hết ở các huyện, thị xã, nhưng nhiều nhất là ở các huyện Cư Jút và Krông Nô. Đồng bào Tày có nhiều món ăn ngon, nhưng phổ biến nhất là món bánh cuốn. Bánh cuốn được làm từ những nguyên liệu chính là gạo tẻ và thịt heo. Người dân chọn loại gạo tẻ ngon, dẻo ngâm nước sau đó vớt ra để cho ráo nước rồi cho vào cối đá xay thành bột mịn. Để tạo thành bánh, người làm hòa bột với một lượng nước vừa phải sao cho khi tráng phải kết dính, bánh không quá mỏng hay dày.
Đối với phần nhân bánh, bà con chủ yếu dùng thịt lợn, đặc biệt là loại thịt ba chỉ, xay hoặc băm nhuyễn rồi trộn gia vị, phi hành, đảo đều cho đến khi chín tới. Bánh cuốn được ăn kèm với các loại rau thơm, hành tươi và chấm với loại nước chấm làm từ ớt bột ngâm với măng chua. Bạn cũng có thể chấm với nước mắm ớt hay xì dầu. Ngoài ra, bánh cuốn còn có cách ăn khác nữa là ăn nước. Nước dùng được hầm từ xương heo thật nhừ, sau đó cho các gia vị và hành, tỏi, sả, thảo quả. Tại các chợ vùng sâu ở các huyện Cư Jút, Krông Nô có rất nhiều quán bán bánh cuốn do người Tày làm chủ.
Cơm lam là món ăn luôn có mặt trong các lễ hội, cuộc vui của đồng bào. Nguyên liệu chính để làm cơm lam là gạo nếp. Sau khi ngâm gạo nếp, gạo được bỏ vào ống tre, ống nứa, lấy nước suối để nấu. Những ống nứa đựng gạo nếp được đốt trên lửa hoặc vùi trong than. Đi cùng với cơm lam là thịt nướng được chế biến theo một cách rất riêng từ gia súc, gia cầm. Phần lớn nguyên liệu được nướng trên than, không ướp tẩm gia vị mà xiên que hoặc để vào ống lồ ô và nướng. Khi ăn, người ta hay chấm với muối ớt.
Pẻng tải là một loại bánh quen thuộc trong đời sống của người Nùng. Trên mảnh đất Đăk Nông, bánh pẻng tải truyền thống mà người Nùng thường làm trong các ngày lễ cúng có 2 loại, chia theo cách làm bột bánh là nếp chuối đường và nếp lá gai đường. Và nhân bánh của 2 loại bánh này đều làm bằng mè rang giã nát trộn đường bát; ngoài ra người dân còn làm nhân bánh từ đậu xanh, đậu phộng, đậu đỏ, đậu đen… Các loại “pẻng tải” đều được gói bằng lá chuối phơi khô. Khi ăn, bạn sẽ cảm nhận bánh có vị ngọt thanh của đường, sự dẻo thơm của nếp và ngọt bùi của nhân đậu.
Từ lâu, người Ê-đê xã Tâm Thắng, huyện Cư Jút (Đăk Nông) đã dùng kiến vàng chế biến thành nhiều món ăn độc đáo, ngon miệng. Trong đó phải kể đến món canh chua kiến vàng, là món ăn truyền thống và đặc sản của người Ê-đê. Kiến vàng thường sinh sống trên các cành cây, làm tổ ở những nơi cao. Vào mùa mưa, người Ê-đê thường đi “săn” kiến vàng vì vào thời điểm này chúng sẽ làm tổ và đẻ trứng nhiều.
Để làm được món canh này phải có các nguyên liệu chính gồm kiến vàng, các loại tôm, cá, cua sông, hoa “djam tang”, ngò gai, nén, gia vị. Đối với canh chua, thay vì dùng lá giang hay me để tạo vị chua cho món ăn, người Ê-đê đã sử dụng kiến vàng tạo nên độ chua “độc lạ” và khiến cho hương vị của món canh càng đặc biệt, bổ dưỡng hơn.
Địa điểm du lịch
Thác Ba Tầng cách thị xã Gia Nghĩa 8 km ngược hướng thành phố Buôn Ma Thuột. Có tên gọi “Ba Tầng” là do thác có cấu trúc chia thành 3 tầng rõ rệt, nước chảy từ cao xuống thấp tạo nên khung cảnh tuyệt đẹp với những lớp bọt trắng xóa. Ngoài tên gọi trên, dòng thác còn có cái tên khác là thác Thủy Tiên.
Xung quanh ngọn thác chảy rì rầm suốt ngày đêm là những tán cây cổ thụ xanh mướt có tuổi đời hàng trăm năm. Tất cả hòa quyện tạo nên khung cảnh thanh bình, tươi mát, giúp bạn xua tan mọi buồn lo trong cuộc sống.
Thác Diệu Thanh (hay còn được gọi là thác Liêng Nung) cách thị trấn Gia Nghĩa hơn 11km, mất khoảng 20 phút di chuyển bằng xe máy. Đây được đánh giá là một trong những địa điểm check-in ở Đắk Nông được nhiều bạn trẻ yêu thích nhất. Lý do chính là cấu tạo thác vô cùng độc đáo với duy nhất một dòng chảy.
Thác Lưu Ly được mệnh danh là cô gái đẹp giữa núi Đắk Nông, nơi này cũng được nhiều khách du lịch tìm đến để tham quan. Dù quy mô không lớn như thác Liêng Nung nhưng Lưu Ly vẫn mang vẻ đẹp rất riêng, đằm thắm hơn, dịu dàng hơn.
Không gian ở thác có phần tĩnh lặng, bạn có thể nghe thấy rõ tiếng chim rừng hót líu lo, tiếng nước chảy róc rách hay lá reo rì rào. Bạn có thể dành thời gian đến đây để thư giãn, hòa mình vào thiên nhiên.
Hồ Tây Đắk Mil Làm một hồ Bán Nguyệt nhân tạo áo được xây dựng ảnh vào năm 1940 do thực dân pháp quy hoạch với mục đích trồng những dự án cà phê. Hồ cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột 60km và cách thị xã Gia Nghĩa khoảng 65km.
Hồ được xem là viên ngọc xanh ở Đắk Nông, Là một địa điểm cực kỳ quen thuộc của người dân địa phương Có vai trò điều hòa cảnh quan cho thị trấn và là nơi nơi thu hút du khách đặc biệt là các bạn trẻ đến check-in. Thời điểm tuyệt vời nhất để tham quan nơi này là vào lúc bình minh hoặc hoàng hôn, khi ánh mặt trời giúp cho khung cảnh trở nên rực rỡ hơn gấp nhiều lần.
Hồ Trúc Đắk Nông có tổng diện tích khoảng 25 ha, trong đó phần nước chiếm khoảng 15 ha, phần còn lại là một bán đảo với nhiều loại thực vật như thông, trúc, bằng lăng. Trong đó trúc là loài cây chiếm ưu thế nhiều nhất.
Đắk Nông không chỉ có thác, có núi rừng còn có cả hang động. Với hang động núi lửa Chư Bluk, đường đến đây là nơi các tín đồ trekking thường ghé tới. Đồng thời nơi đây vẫn còn khá hoang sơ và chưa chịu nhiều tác động của con người. Hang có chiều dài khoảng 25km với hơn 100 hang nhỏ bên trong.
Vườn quốc gia nằm trên xã Đắk Som, huyện Đắk G’long, tỉnh Đắk Nông (cách thị trấn Gia Nghĩa hơn 50km). Tại đây tỉ lệ che phủ rừng đạt đến 85% với hệ sinh thái vô cùng đa dạng.
Đặc biệt, nơi này còn là mái nhà chung của 37 loài động vật quý hiếm thuộc danh sách bảo vệ nghiêm ngặt. Nổi bật nhất là 3 loại đặc hữu cho Việt Nam gồm Voọc bạc trung bộ, Vượn má hung (Hylobates gabriellae) và Chà vá chân đen. Ngoài ra, Tà Đùng là vườn quốc gia duy nhất tại Việt Nam có sự xuất hiện của loài Hươu vàng (hay còn gọi là hươu đầm lầy).
Bạn có thể tham quan vườn quốc gia Tà Đùng vào bất cứ lúc nào trong năm. Nhưng hãy lưu ý, tháng 11 đến tháng 4 là mùa mưa sẽ có mưa gió bất thường nhưng đổi lại hồ sẽ đầy nước trông rất đẹp. Vào khoảng tháng 5 đến tháng 10 là mùa khô, nước hồ vơi hơn nhưng bạn có thể dễ dàng di chuyển.
Khu du lịch Phước Sơn đi vào chính thức hoạt động năm 2019 gần đây nhưng đã thu hút được khá đông khách du lịch đến nhất là vào dịp Tết và ngày lễ. Đến đây bạn sẽ được trải nghiệm cuộc sống trang trại nông nghiệp và du lịch sinh thái.
Đến với Phước Sơn bạn sẽ được thử qua các loại trái cây như: bơ, cam, ổi, dừa, mận và không thể bỏ qua thưởng thức cà phê đặc sản Tây Nguyên rồi.
Bắt nguồn từ nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của người dân trong khu vực, chính quyền đã cùng nhân dân thành lập chùa Hoa Nghiêm. Tuy chùa không có diện tích quá rộng nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp truyền thống của người Việt. Công trình chia thành nhiều hạng mục như: tháp chuông, chánh điện, giảng đường, nhà tổ, đài Quan Âm…
Chùa thành lập vào năm 1992, tọa lạc tại đường Trần Hưng Đạo, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông. Đây là một nơi thanh bình, xua tan mệt mỏi của cuộc sống và tìm về những nét đẹp văn hóa truyền thống. Ở sân chùa có tượng đài Quan Âm bên trong điện Phật được bài trí đơn giản và trang nghiêm.