Hàng năm, Bắc Giang có hơn 500 lễ hội truyền thống được tổ chức, mà không hội nào giống hội nào, cách thức tổ chức bài trí cũng khác nhau. Trong đó, tiêu biểu như: lễ hội Yên Thế; lễ hội Xương Giang; lễ hội Suối Mỡ; lễ hội Thổ Hà; lễ hội Chùa La (Vĩnh Nghiêm)… Thông qua sinh hoạt văn hóa dân gian cho thấy mỗi vùng tập tục về lễ hội, cưới xin, ma chay, ăn ở, tín ngưỡng có những khác nhau nhưng cùng tụ hội sinh sống trong một vùng đất. Bắc Giang là sự giao thoa giữa hai miền văn hóa Việt cổ (Bắc Ninh) và văn hóa Tày Nùng (Lạng Sơn). Giáp ranh với 6 tỉnh và có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống, đông nhất là dân tộc Kinh. Ngoài ra, theo lịch sử lâu dài của đất nước người dân từ nhiều nơi như Thanh Hóa, Hải Dương, Thái Bình, Hải Phòng, Hưng Yên, Nam Định... đã về đây sinh sống. Họ mang theo tập tục của mình và có những biến đổi theo người dân bản xứ trên đất Bắc Giang và ngược lại người dân Bắc Giang ở trước đó cũng bị những tác động của cư dân mới đến.
Bắc Giang có hàng nghìn công trình kiến trúc cổ đặc sắc với nhiều loại hình khác nhau như: Đình, đền, chùa, miếu, phủ, từ đường, văn chỉ… Mặc dù đã mất mát đi rất nhiều, song những công trình còn lại đều mang ý nghĩa lịch sử to lớn: Ngôi chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng) - cái nôi đào tạo phật pháp thiền phái Trúc Lâm; chùa Bổ Đà (Việt Yên) phản ánh tính chất cổ kính gần với phật giáo Ấn Độ, đình Lỗ Hạnh (Hiệp Hòa) được dựng vào cuối thế kỷ XVI - nơi từng được mệnh danh là "Đệ nhất Kinh Bắc"; đình Thổ Hà (Vân Hà - Việt Yên) xây dựng năm 1686; đình Phù Lão (Đào Mỹ - Lạng Giang) xây dựng thế kỷ XVII; đình Cao Thượng, đình Vường, đình Hả (Tân Yên); đền Hả (Lục Ngạn); lăng họ Ngọ, lăng Dinh Hương (Hiệp Hòa)... Mới đây các nhà nghiên cứu đã phát hiện di chỉ khảo cổ từ thời Lý thế kỷ XIII ở khu vực Đền Cầu Từ xã Phượng Sơn, huyện Lục Ngạn. Di chỉ này cùng thời với di chỉ tìm thấy ở Hoàng Thành Thăng Long đang được điều tra khảo sát tại Hà Nội. Đó là những kiến trúc về lăng tẩm để lại từ thời Lý - Trần với hoa văn trang trí các di chỉ tìm thấy, cách xây lăng tẩm cùng đổ trụ sỏi hoặc lát đường đi xếp gạch theo kiểu hoa chanh... Với sự phát hiện này càng khẳng định văn hóa Bắc Giang có từ lâu đời và sự giao thoa văn hóa giữa các tộc người trên mảnh đất Bắc Giang vẫn tồn tại từ xa xưa.
Các nhà khảo cổ học còn phát hiện ở tỉnh ta cách đây khoảng hai vạn năm có người thời đại đồ đá khai phá, sinh sống. Điều đó được thể hiện qua các di chỉ Bố Hạ (Yên Thế); Chũ, Cầu Cát (Lục Ngạn); Khe Táu, An Châu (Sơn Động). Thời gian tiếp theo các nhà khảo cổ cũng tìm thấy con người thời đại đồ đá mới sinh sống trên vùng đất này qua di chỉ Mai Sưu (Lục Nam), thời đại đồ đồng qua di chỉ Đông Lâm (Hiệp Hòa). Có thể khẳng định, điểm nổi bật trong những đặc trưng của văn hóa Bắc Giang đó là tụ điểm giao lưu - giao thoa văn hóa rất điển hình.
Theo thống kê, khảo sát, đến tháng 11/2010, tỉnh Bắc Giang có 2.237 di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh. Trong số đó đã lập hồ sơ khoa học và pháp lý xếp hạng được 492 di tích các loại (109 di tích xếp hạng cấp quốc gia, 383 di tích xếp hạng cấp tỉnh). Các di tích được phân bổ ở huyện, thành phố như sau: Huyện Sơn Động 24 di tích; huyện Lục Ngạn 173 di tích; huyện Lục Nam 263 di tích; huyện Lạng Giang 237 di tích; huyện Yên Thế 109 di tích; huyện Tân Yên 347 di tích; huyện Hiệp Hoà 385 di tích; huyện Việt Yên 331 di tích; huyện Yên Dũng 318 di tích; thành phố Bắc Giang 50 di tích. Nổi bật là dấu tích thành cổ Xương Giang; khu di tích cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế; khu di tích cách mạng Hoàng Vân, di tích Y Sơn (Hiệp Hoà); cây Dã hương nghìn năm tuổi (Lạng Giang), kho Mộc bản hơn 3.000 bản được lưu giữ tại chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng) chính thức được công nhận là Di sản tư liệu Khu vực châu Á - TBD (ngày 16/5/2012 tại Bankok, Thái Lan). Bắc Giang cũng là nơi có kho tàng văn nghệ dân gian phong phú: Truyện thần thoại, truyện cổ tích, huyền thoại, giai thoại, truyện cười, tục ngữ, ca dao, hát ví, hát trống quân, hát quan họ, chèo, ca trù và dân ca của các dân tộc thiểu số... Người dân Bắc Giang luôn tự hào vì quê hương mình là cái nôi của quan họ cổ với 6 làng ven sông Cầu, tồn tại như một sự kết duyên song song với quan họ Bắc Ninh. Đặc biệt, dân ca Quan họ và Ca trù đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại năm 2009.
Bắc Giang còn có nhiều cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp như: Khu thắng cảnh Suối Mỡ (huyện Lục Nam); hồ Cấm Sơn, hồ Khuôn Thần (huyện Lục Ngạn); rừng nguyên sinh Khe Rỗ, Tây Yên Tử (huyện Sơn Động) với những hệ động, thực vật phong phú, đa dạng, trong đó có nhiều loại sinh vật quý hiếm nằm trong sách đỏ Việt Nam đang được bảo tồn,… đó là điều kiện thuận lợi để Bắc Giang phát triển nhiều loại hình du lịch.
Hơn thế nữa, Bắc Giang còn xây dựng và phát triển nhiều sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng như: Vải thiều, mì Chũ Lục Ngạn; gà đồi và chè bản Ven Yên Thế; lúa thơm, Cua Da Yên Dũng; lạc giống Tân Yên; bánh đa Kế Bắc Giang hay bánh đa Thổ Hà Việt Yên; bánh chưng Hệp Hòa; mật ong rừng Sơn Động...
Sau 120 năm phát triển và hội nhập, tinh thần đoàn kết, sáng tạo, khí chất hào hùng qua các cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước của dòng họ Giáp, họ Thân và đặc biệt hơn là cuộc khởi nghĩa Yên Thế vẫn vang vọng mãi. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Giang tiếp tục đổi mới, chủ động, sáng tạo; tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của địa phương; vững bước trên con đường xây dựng và phát triển trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng Bắc Giang ngày một văn minh, giàu mạnh.
Đặc sản
Nhắc tới đặc sản nổi tiếng Bắc Giang bạn sẽ không còn thể không nhắc tới vải thiều. Vải thiều được trồng nhiều nhất ở vùng Lục Ngạn – Bắc Giang. Quả vải thiều Lục Ngạn có đặc điểm khi chín có red color, vỏ mỏng, hạt nhỏ, cùi dày khi ăn có vị ngọt đậm, mùi vị đặc trưng của vải thiều là vấn đề khiến bạn mê ly vùng đất Bắc Giang, ăn mãi không biết chán. Ngoài vải tươi ở đây người dân còn sấy khô vải để giữ được mùi vị của vải mà không làm mất đi đi vị ngọt đặc trưng.
Nếu ai có dịp thưởng thức món bánh đúc ở thôn Đồng Quan, xã Đồng Sơn, Bắc Giang chắc hẳn đều lưu lại trong mình dư vị của một món ăn dân dã, đậm đà mùi vị quê nhà, không nhiều nơi đã dành. Bánh đúc làng Đồng Quan được nhiều người yêu thích bởi bánh vừa dẻo, vừa mát. Miếng bánh đúc trắng ngần, bóng mịn, lấm tấm mấy hạt lạc bùi bùi, giòn sần sật. Ăn bánh đúc phải chấm với tương bần, cái mùi vị đó tất cả hòa quyện thành vị quê nồng đượm.
Một trong những đặc sản nổi tiếng nức tiếng ở Bắc Giang đó chính là gà đồi Yên Thế. Thịt gà đồi thường chắc, ngọt và thơm chứ không nhão và dai như gà công nghiệp. Món gà đồi ngon nhất nên làm luộc chín tới, thịt gà còn chắc, giòn để chấm với muối trộn lá chanh, nước luộc ngọt lịm dùng làm ăn kèm với cơm. Ở Bắc Giang đây là món được rất nhiều khách ưa chuộng.
Nói tới mỳ Chũ thì sẽ không còn ở đâu có thể có và ngon như ở Bắc Giang. Mỳ Chũ được làm từ gạo Bao Thai Hồng nên sợi mì dẻo, mịn. Và đặc biệt quan trọng giống lúa Bao Thai Hồng phải được canh tác trên đất đồi Chũ chứ không phải trồng ở dưới đồng. Mỳ Chũ được tráng mỏng, cắt thành sợi như bánh phở, phơi khô và buộc thành từng bó nhỏ, thường được sử dụng như mì ăn liền, có lẽ cách chế biến ngon nhất nên ăn mỳ Chũ trong bữa lẩu.
Bánh đa Thổ Hà được làm tại xã Vân Hà huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang. Ở đây người dân làm bánh đa từ thời điểm năm 1990 và giờ đã trở thành đặc sản nổi tiếng nổi tiếng của Bắc Giang. Bánh đa Thổ Hà nổi tiếng nhờ vị thơm ngon từ nguyên liệu được chọn lọc kỹ lưỡng. Có 2 loại bánh là bánh đa nướng và bánh đa nem. Bánh đa nướng có màu vàng rộ, giòn tan khi ăn có vị thơm bùi của vừng, của lạc. Còn bánh đa nem có white color vừa phải, mềm dẻo, dai và ngon có đường kính khoảng chừng 40cm.
Chè kho Mỹ Độ là một trong những món ăn truyền thống vào trong ngày tuần rằm hay dịp lễ tết. Chè có màu vàng hơi sậm – màu của đỗ với những hạt vừng tấm trắng rang thơm được rắc lên mặt đĩa chè. Hương đậu xanh, hương vừng, vị ngọt thanh của đường kính, vị béo thoang thoảng của mỡ, chất đậm đà của đậu xanh hòa quyện vào nhau làm cho món chè kho càng ngon hơn.
Nghe tên bánh vắt vai chắc hẳn sẽ rất nhiều người không biết đây là loại bánh gì đúng không ạ? Đây là một món ăn độc đáo của người dân vùng Lục Ngạn. Nguyên liệu làm bánh vắt vai có gạo nếp, đường, đậu xanh, lá chuối, rau ngải cứu… Gạo nếp nghiền nhỏ bằng cối xay đá; lá ngải cứu luộc lẫn nước vôi trong cho bớt vị chát, đắng, sau đó nghiền nhỏ trộn cùng bột nếp. Sau thời điểm nặn và gói xong, bánh được luộc cách thủy khoảng chừng hai giờ đồng hồ đeo tay, vớt ra để ráo nước là có thể dùng được.
Cua Da là loại cua thường sống ở những vùng ghềnh đá cạnh sông Cầu, chỉ xuất hiện vào hai tháng mùa lạnh, khi nhiệt độ xuống thấp. Đến với Bắc Giang vào lúc đầu đông bạn sẽ tiến hành thưởng thức món cua này. Cua da được chế trở thành nhiều món ăn ngon như cua rang muối, canh cua nhưng có lẽ ngon nhất đó chính là món cua hấp bia. Khi cua chín có màu vàng cam rất hay. Thịt cua ngọt, lớp vỏ ở chân và càng cua khá mềm, chấm bột canh pha mù tạt kèm nửa quả chanh vắt vào thì không gì thú vị bằng.
Món xôi ba màu được chế biến từ các nguyên liệu gồm lá cây cẩm đỏ, cây sau sau trên rừng, nghệ và gạo nếp cái hoa vàng. Xôi ba màu là món được người dân Bắc Giang làm để cúng tổ tiên, chào đón tổ tiên về phù hộ cho con cháu. Nguyên liệu chế biến xôi đều là những loại lá rất có lợi cho sức khỏe nên càng được nhiều người ưa thích hơn.
Cái tên rượu làng Vân đã trở thành “thương hiệu” độc đáo và là niềm tự hào từ bao đời nay của người dân tỉnh Bắc Giang. Rượu được nấu bằng gạo nếp cái hoa vàng cùng với men rượu bí truyền của làng Vân được chế biến từ 36 vị thuốc Bắc quý và hiếm và phải ngâm ủ đủ 72 giờ. Rượu có màu trong văn vắt với mùi vị êm dịu, và lắng đọng đã chinh phục cả những vị khách khó tính nhất.
Với chiều dài gần 30 km, ngang nơi rộng nhất 7 km, hẹp nhất 200 m, diện tích khoảng 2.650 ha, hồ Cấm Sơn nằm ở huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang. Hồ có dung tích khoảng 248 triệu m³ nước, đến mùa mưa, lũ nhiều, nước dâng cao, mặt hồ lúc này có thể rộng đến 3.000 ha. Các vùng xung quanh hồ Cấm Sơn có khí hậu ôn hòa, dịu mát, đồng thời hồ còn cung cấp nguồn nước tưới chính cho sản xuất nông nghiệp của hai tỉnh Hải Dương và Bắc Giang. Xung quanh hồ là những dãy núi cao bao bọc, hay nói một cách khác bờ của hồ chính là những ngọn núi điệp trùng và cây cao bóng cả.
Đến với hồ Cấm Sơn bạn có thể bơi thuyền, leo núi, câu cá, đi bộ vào các làng xóm của đồng bào dân tộc, hay đi chơi rừng... Có 2 đường chính để đến với khu du lịch hồ Cấm Sơn, thứ nhất từ thành phố Bắc Giang, ngược quốc lộ 31 về phía Đông Bắc đến thị trấn Chũ, rẽ trái vào đường tỉnh 290, tiếp tục ngược quốc lộ 279 qua đèo Váng rẽ trái vào đường đất đến xã Sơn Hải là đến với hồ Cấm Sơn; ngoài ra du khách có thể đi theo quốc lộ 1A, từ thành phố Bắc Giang theo hướng Lạng Sơn, đến đoạn giao với quốc lộ 279, rẽ phải và còn khoảng 4 km nữa là bạn sẽ có mặt ở hồ Cấm Sơn.
Rừng nguyên sinh Khe Rỗ ở xã An Lạc, huyện Sơn Động là một di sản thiên nhiên quý giá của Đông Bắc Việt Nam. Với diện tích hơn 5000 ha và đa dạng hệ động thực vật, rừng Khe Rỗ là nơi sinh sống của nhiều loài động vật quý hiếm, trong đó có những loài được ghi tên trong sách đỏ như gấu ngựa, sơn dương, báo, rùa vàng... Ngoài ra, cảnh quan thiên nhiên của rừng còn rất đẹp, với các điểm như hồ Vũng Tròn, thác Đồng Dương, suối Nước Vàng... Còn văn hóa truyền thống của các dân tộc ít người như Tày, Nùng, Cao Lan, Sán Chí cũng được bảo tồn và phát triển tại đây.
Được mệnh danh là 'Nguồn cảm xúc sâu lắng', suối Mỡ đẹp như tranh vẽ, là điểm đến không chỉ để trải nghiệm du lịch sinh thái mà còn để tìm kiếm bình yên tinh thần. Với những thác nước lớn, bồn tắm thiên nhiên hấp dẫn, suối Mỡ mang đến cho du khách những trải nghiệm độc đáo và mới lạ. Mỗi phiến đá lớn trên dòng suối đều kể một câu chuyện về sức mạnh và vẻ đẹp tự nhiên.
Suối Mỡ không chỉ là nơi để thư giãn, tận hưởng không gian thiên nhiên mà còn là điểm lễ hội truyền thống vào ngày mùng 1/4 âm lịch hàng năm. Cùng tham gia vào những trò chơi dân gian, thưởng thức các món ăn dân dã và hoa quả đặc sản của vùng đất Lục Ngạn, bạn sẽ có những trải nghiệm đáng nhớ tại suối Mỡ.
Khu du lịch Khuôn Thần nằm tại xã Kiên Lao, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, bao gồm hồ Khuôn Thần và rừng Khuôn Thần. Hồ Khuôn Thần với diện tích 240 ha, nước trong xanh mênh mang, được chăm sóc và trang trí với 5 đảo nhỏ trồng cây thông xanh mướt. Rừng Khuôn Thần với diện tích 700 ha, trong đó có rừng tự nhiên và rừng thông tạo nên cảnh quan hùng vĩ, hòa quyện với hồ nước, tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt vời.
Du khách khi đến đây có thể thỏa sức trải nghiệm cắm trại, khám phá hồ bằng thuyền đạp chân hoặc thuyền máy, thưởng thức đặc sản địa phương và tham gia các hoạt động văn hóa cùng người dân địa phương. Ngoài ra, bạn còn có cơ hội tham gia các hoạt động như chơi gôn, cắm trại trên núi, giao lưu văn hóa, hay thư giãn tại các nhà nghỉ cuối tuần.
Làng nghề Thổ Hà là một trong những điểm đến độc đáo và lôi cuốn của Việt Nam. Nơi đây nổi tiếng với nghề làm gốm, sản xuất bánh đa nem và mỳ gạo truyền thống. Qua hàng trăm năm lịch sử, làng đã lưu giữ vẻ đẹp cổ kính với những con đường ngõ xưa, những bức tường nhà làm từ gốm vỡ và tiểu sành phế phẩm mà không cần sự hỗ trợ từ vôi vữa, chỉ sử dụng bùn đất từ sông Cầu để liên kết.
Đình Thổ Hà, được xây dựng từ năm 1685, là điểm đến không thể bỏ qua khi ghé thăm làng. Đình rộng lớn với kiến trúc chữ công tinh xảo, được trang trí với nhiều hình ảnh sinh động, trong đó có nhiều tác phẩm điêu khắc độc đáo được đánh giá cao. Khách tham quan cũng sẽ được chiêm ngưỡng nghệ thuật điêu khắc tinh xảo từ thời Pháp thuộc.
Thôn Đồng Cao, xã Thạch Sơn, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang, là nơi nằm lưng chừng gần 1.000 mét so với mực nước biển, với những đồi cỏ xanh mát bao phủ, lan tỏa như những thảo nguyên bát ngát ở châu Âu. Cao nguyên Đồng Cao còn đặc trưng với những bãi đá cổ nằm rải rác trên những triền đồi xanh. Hương rừng, gió núi thổi nhẹ, cùng với những đám mây trôi lững lờ, tạo nên bầu không khí thư thái, thanh bình, giúp khách đến đây cảm thấy thoải mái, dễ chịu hơn. Đồng Cao đang trở thành điểm đến lý tưởng của các bạn trẻ đam mê khám phá, đặc biệt là những người yêu thích du lịch mạo hiểm.
Cao nguyên Đồng Cao nằm trong vùng núi Đông Bắc, với khí hậu mát mẻ, dễ chịu quanh năm. Bạn có thể ghé thăm Đồng Cao bất cứ lúc nào trong năm mà bạn muốn. Tuy nhiên, thời điểm lý tưởng nhất để đến đây là từ tháng 9 đến tháng 11 hàng năm. Trong khoảng thời gian này, thời tiết ở Bắc Giang thường khá mát mẻ, khô ráo, thích hợp cho các hoạt động cắm trại, sinh hoạt ngoài trời tại Đồng Cao.
Di tích lịch sử Thành Xương Giang tọa lạc tại xã Xương Giang, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Thành hình chữ nhật, chiều dài theo hướng Đông - Tây đo được 600 m, chiều rộng theo hướng Bắc - Nam 450 m, diện tích 27 ha, tường đắp đất cao dầy, bốn góc có pháo đài, hào rộng bao quanh, mở 4 cửa, cửa chính trông về phía Tây. Ở khu trung tâm, dân gian gọi là khu đồi quân Ngô. Khu này nằm giữa thành, cách đường thành một khoảng cách chừng 300 m - 400 m, nay đã là ruộng trồng lúa và hoa màu. Bên cạnh đồi ngô còn có địa danh 'Giếng Phủ' - Phủ Lạng Giang xưa - giếng này nay là một cái ao lớn. Nếu có cơ hội các bạn hãy đến tham quan ngôi thành cổ này nhé.
Để kỷ niệm lịch sử chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn tại thành Xương Giang, hàng năm tỉnh Bắc Giang tổ chức lễ hội vào ngày 6 - 7 tháng Giêng. Trong lễ hội có nhiều nghi lễ và trò vui đặc sắc. Trước ngày khai hội, tối mồng 5 tháng Giêng, thanh niên tổ chức đốt lửa trại. Tại các đình, chùa, đền, miếu và nhà văn hoá đèn đuốc suốt đêm để tới canh năm hôm sau tề chỉnh săp hàng ngũ, chiêng trống kéo về nơi khai hội. Sáng sớm ngày mồng 6 tháng giêng âm lịch, các đoàn người từ các phường xã, giương cờ, gióng trống, xe kiệu với quần áo rực rỡ, tề chỉnh từ các ngả đường lần lượt tiến về trung tâm khai hội…
Khu du lịch Đồng Thông nằm trong tuyến du lịch Tây Yên Tử - một tuyến du lịch quan trọng đang được tỉnh Bắc Giang chú trọng phát triển. Nơi đây còn là điểm dừng chân lý tưởng cho du khách trước khi chinh phục đỉnh Phù Vân Yên Tử từ phía Tây.
Đến với Đồng Thông, bạn có thể thăm chợ Nòn để thưởng thức mật ong rừng Yên Tử, rượu men lá đặc sản của vùng; hoặc tìm hiểu văn hóa, phong tục, lễ nghi dân gian như: Lễ cầu mưa, lễ cúng cơm mới, lễ cấp sắc của người dao ở bản Mậu và Đồng Thông. Ngoài ra, bạn cũng có thể tổ chức các hoạt động dã ngoại xuyên rừng lên đến Chùa Đồng và các chùa khác trên dãy núi Yên Tử.
Lăng Dinh Hương nằm trong làng Dinh Hương, xã Đức Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang là một quần thể kiến trúc điêu khắc đá hoành tráng, độc đáo thời Hậu Lê, đã được công nhận di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia từ năm 1965... Quần thể lăng đá Dinh Hương chia làm ba phần chính: Phần mộ táng ở giữa, phần thờ tự ở bên trái, phần bia ở bên phải. Tượng người và vật tại lăng được chạm khắc rất sống động, kích thước lớn, hình khối mập, chắc và được tỉa công phu. Đây là điểm đến ưa thích của người dân, du khách và các nhà nghiên cứu.
Lăng nằm trên một quả đồi hình tròn rộng khoảng một ha có tường gạch bao quanh (ngày xưa là tường đá ong bao quanh). Vào cổng là hai tượng quan hầu cầm dùi đồng. Quần thể lăng đá Dinh Hương chia làm ba phần chính: Phần mộ táng ở giữa, phần thờ tự ở bên trái, phần bia ở bên phải. Tượng người và vật tại lăng được chạm khắc rất sống động, kích thước lớn, hình khối mập, chắc và được tỉa công phu.
Khu thờ tự gồm hai voi nằm chầu, bàn thờ có hai con nghê to há mồm ngồi chầu, tiếp theo là ngai thờ làm từ hai khối đá lớn cùng hai quan hầu nữ và hai con nghê nhỏ trạm khắc tinh tế, sinh động. Quan hầu nữ bên trái bưng chiếc tráp khối hộp chữ nhật ngang bụng, bàn tay trái đỡ dưới hộp tráp, tay phải giữ ngang đầu hộp, để hở nửa bàn tay với những ngón thon dài. Quan hầu nữ bên phải ngai thờ tay cầm quạt, đầu đội mũ ni có chóp nhọn như một chiếc nón nhỏ, nửa phía sau mũ có bốn lớp vải trùm kín chân tóc, phủ xuống kín tai và gáy.
Bản Đá Húc nằm cách trung tâm xã Bình Sơn khoảng 8 cây số. Từ con đường liên xã chạy qua bản nhìn lên giữa những gò đồi nhấp nhô cây cỏ dại lại nổi bật lên một màu xanh của đại ngàn. Đó là khu rừng nguyên sinh, hay còn gọi là rừng lim xanh bản Đá Húc. Cạnh bìa rừng, một ngồi đình cổ kính, trầm mặc nhìn ra khu định cư của đồng bào Cao Lan. Phải đi tắt qua cánh đồng mới lên được sân đình. Giữa trưa hè nắng lửa, bên góc sân đình ngồi dưới gốc lim già cổ thụ, cái cảm giác mát dịu ở đâu ùa tới, ai cũng thấy khoan khoái dễ chịu.
Chẳng biết từ bao giờ ngôi đình Đá Húc bên rừng lim xanh đã trở lên rất linh thiêng và là niềm tự hào tôn kính của đồng bào Cao Lan ở nơi đây. Chẳng thế mà không ai dám tự ý chặt phá bất cứ một cành cây nào ở rừng lim. Hàng năm vào ngày lễ hội 15-3 hoặc những ngày sự lệ của đồng bào Cao Lan, mọi người lên quét dọn đình, sau đó cho phát những cây cỏ dại để chăm sóc cho rừng lim mãi mãi xanh tươi. Mỗi khi có việc đại sự của gia đình, dòng họ đồng bào thường mang lễ vật đến làm lễ ở đình để cầu thần Rừng cho may mắn, bình an.