Cao Bằng được coi là chiếc nôi văn hóa của khu vực phía Bắc Việt Nam. Nhiều dân tộc anh em đã chung sống, gắn bó lâu đời và cùng chung tay xây đắp nền văn hóa đậm đà, vừa đa dạng vừa thống nhất. Đây là vùng đất hội tụ nhiều nhóm ngôn ngữ - tộc người khác nhau như: Tày, Nùng, Mông, Dao, Lô Lô, Sán Chỉ... Mỗi dân tộc đều có tiếng nói, chữ viết và bản sắc văn hóa riêng.
Sự khác biệt và giàu sắc thái văn hóa không làm suy giảm tính thống nhất của văn hóa bản địa, tộc người và ý thức tộc người. Ở chừng mực nào đó còn làm tăng thêm và củng cố tính thống nhất thông qua sự đa dạng các sắc thái văn hóa của các địa phương. Đây là một lợi thế lớn của tỉnh trong phát triển du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái nhân văn. Sự đồng điệu, nét đặc thù, điểm chung, nét riêng, dấu ấn của bản sắc văn hóa hiện hình trong sinh hoạt cộng đồng, trong nếp sống, trang phục, ăn uống, cách ứng xử, giao tiếp hằng ngày của đồng bào các dân tộc.
Một trong những nơi biểu hiện và hội tụ nhiều sắc thái văn hóa của đồng bào các dân tộc ở Cao Bằng chính là chợ phiên vùng cao. Nói đến chợ phiên là nói đến hoạt động đáp ứng nhu cầu vật chất của mọi miền trên đất nước Việt Nam, chứ không riêng của Cao Bằng. Với miền xuôi, đi chợ, họp chợ, trước hết để bán những thứ mình làm ra và mua, đổi về những thứ mình không có. Nhu cầu trò chuyện có nhưng chỉ là trao đổi một vài câu chuyện, thông tin. Hoạt động mang tính văn hóa, tinh thần như chợ phiên của đồng bào các dân tộc ở miền núi nói chung, Cao Bằng nói riêng rất ít.
Chợ phiên vùng cao là những phiên chợ, ngoài hình thức trao đổi, mua bán sản vật còn là nơi mang đậm nét sinh hoạt cộng đồng, lưu giữ những giá trị bản sắc văn hóa truyền thống độc đáo của các dân tộc thiểu số. Chợ phiên vùng cao là nơi người ta gặp gỡ trò chuyện, giao lưu văn hóa giữa các tộc người với nhau. Một trong những đặc điểm nổi bật của chợ phiên vùng cao là sự phô diễn trang phục của các tộc người. Đến chợ, chúng ta dễ dàng nhận thấy nét văn hóa phong phú, đa dạng trong mỗi nếp nhà, mỗi tà áo, vành khăn.
Ở đây, chúng ta có thể bắt gặp sắc màu sặc sỡ, xòe hoa của các cô gái dân tộc Mông, Dao… Cô gái Mông chân thoăn thoắt cùng chiếc váy xòe sắc màu rực rỡ dắt ngựa xuống chợ; cô gái Tày duyên dáng, mặt ửng hồng thưởng thức món đặc sản truyền thống mỗi dịp lễ, Tết, hội hè. Chàng trai Dao, Tày, Nùng mặt đỏ au cùng nhau cạn bát rượu ngô ngào ngạt men say, rồi cùng nhau vui vẻ “lày cỏ”. Cô gái Kinh vai khoác túi thổ cẩm rực rỡ uyển chuyển tung quả còn xanh, đỏ lên cây nêu đầu chợ.
Điểm khác biệt giữa chợ phiên vùng cao và chợ phiên miền xuôi còn ở thời gian họp chợ. Chợ phiên miền xuôi chỉ diễn ra trong non buổi sáng. Hoạt động mua bán, trao đổi diễn ra nhanh gọn. Ở miền núi, 5 ngày mới họp chợ một lần nên chợ phiên kéo dài hơn bởi đan xen giữa hoạt động mua bán với hoạt động tinh thần mang đậm yếu tố văn hóa, văn nghệ. Vì thế, chợ phiên vùng cao còn có cả những đêm xòe ngất ngây lòng người.
Chợ phiên là nơi mà trước, trong, sau khi mua, bán, người ta gặp gỡ, chuyện trò, thậm chí trao nhau ánh mắt, nụ cười tình ý. Vãn chợ, người ta về bản cùng tiếng bước chân, tiếng nói cười xa dần theo những lối mòn với bao bịn rịn. Vãn chợ là để lại cũng như mang theo niềm thương, nỗi nhớ và chờ mong, đón đợi những phiên chợ sau.
Bắt đầu từ tháng Giêng đến tháng Ba âm lịch, trên địa bàn tỉnh có gần 40 lễ hội. Hầu hết các lễ hội truyền thống đều mang tính chất tín ngưỡng dân gian. Việc tổ chức đều do làng, bản chịu trách nhiệm theo một chu kỳ thời gian, mùa vụ nhất định. Các lễ hội không mang nặng yếu tố mê tín dị đoan, chỉ mang ý nghĩa tưởng nhớ, tri ân công lao của các anh hùng dân tộc như: những lễ hội tâm linh, cầu cho mùa màng tươi tốt, cầu sức khỏe cộng đồng bản, làng.
Đối tượng được thờ tự tại các lễ hội là các vị Thần sông, Thần suối, Thần ruộng nương... Hằng năm, trên địa bàn tỉnh có Lễ hội Lồng tồng, thị trấn huyện Bảo Lạc tổ chức ngày mùng 8 tháng Giêng; Lễ hội đền Dẻ Đoóng (còn gọi là Giang Động), xã Hồng Việt (Hòa An) tổ chức ngày 15 tháng Giêng; Lễ hội Nàng Hai tổ chức ngày 18 tháng Ba (âm lịch) tại xã Tiên Thành (Quảng Hòa); lễ hội đền Vua Lê tại Làng Đền, xã Hoàng Tung (Hòa An) tổ chức ngày mùng 6 tháng Giêng.
Lễ hội chùa Đống Lân, Lễ hội chùa Đà Quận, xã Hưng Đạo (Thành phố); Lễ hội đền Bà Hoàng (mẹ của Khâu Sầm Đại Vương Nùng Trí Cao), tổ 16, phường Sông Bằng (Thành phố); Lễ hội chùa Sùng Phúc, thị trấn Thanh Nhật (Hạ Lang) tổ chức ngày 15 tháng Giêng; Lễ hội đền Kỳ Sầm tưởng nhớ tới anh hùng Nùng Trí Cao, tại Bản Ngần, xã Vĩnh Quang (Thành phố) ngày 10 tháng Giêng…
Ngày nay, các nghi lễ trong một số lễ hội tổ chức không được như trước, song ban tổ chức vẫn cố gắng giữ gìn bản sắc văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo của người xưa như: tổ chức rước rồng, kiệu Thành Hoàng, khôi phục các trò chơi dân gian, làn điệu dân ca dân tộc. Công tác tổ chức lễ hội ngày càng chu đáo hơn nên lễ hội diễn ra an toàn, lành mạnh, đáp ứng nhu cầu trẩy hội đầu xuân của du khách thập phương.
Bên cạnh các lễ hội trên, Cao Bằng còn có nhiều lễ hội giàu bản sắc văn hóa như: Lễ hội chọi bò được tổ chức tại thị trấn Pác Mjầu (Bảo Lâm) hay thị trấn Xuân Hòa (Hà Quảng)… Đến lễ hội này, người xem bị cuốn hút bởi những trận đấu đầy kịch tính và quyết liệt do những “đấu sĩ bò” trình diễn. Với quan niệm, con bò gắn bó với người Mông sống trên núi, rừng rậm có nhiều thú dữ.
Để bảo vệ cho mình và gia chủ, con bò thường xuyên đấu đọ sức với thú dữ… hình thành bản năng vào trận nếu có đối thủ đe dọa. Vì vậy, người Mông quý bò, chọn gỗ chắc, xẻ ván bưng làm chuồng bò sạch đẹp và chăm sóc cẩn thận. Việc chọn bò, huấn luyện bò được thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau. Ngày nay các lễ hội vẫn được bảo tồn nhằm lưu giữ nét đẹp văn hóa của đồng bào các dân tộc tỉnh.
Đời sống văn hóa tinh thần phong phú của đồng bào còn được thể hiện ở nghề thủ công, mỹ nghệ, thổ cẩm truyền thống của đồng bào đã đạt đến độ tinh xảo và cuốn hút đến diệu kỳ. Phụ nữ Mông, Dao, Tày, Nùng, Lô Lô… rất giỏi trong cảm thụ màu sắc, những tấm thổ cẩm của họ bao giờ cũng hội đủ sắc màu của thiên nhiên từ cây thông, đồi núi, hạt ngô, hạt lúa… Tất cả được biểu đạt như bức tranh sống động của đời sống đồng bào.
Các sản phẩm về thổ cẩm của phụ nữ các dân tộc miền núi đã làm cho khách du lịch phải thán phục. Mỗi họa tiết trên váy áo là một công trình nghệ thuật được thêu dệt trên trang phục. Giờ đây, hàng thổ cẩm của đồng bào Mông, Dao, Tày, Nùng, Lô Lô trở thành quà lưu niệm quen thuộc của khách du lịch trong nước cũng như người nước ngoài khi đến du lịch. Để có một sản vật hoàn mỹ như vậy là sự kết tinh của những bàn tay tài hoa, khéo léo; sự lao động miệt mài và khổ công được ông bà, cha mẹ truyền dạy từ đời này sang đời khác…
Trong lĩnh vực kiến trúc, những ngôi nhà mái chảy chất lợp ngói nung hoặc gỗ ván, dựa theo sườn núi thu hút sự quan tâm của du khách. Đó là những ngôi nhà mang đậm chất văn hóa riêng ở những bản người Mông, Dao, Tày, Nùng… với đời sống sinh hoạt còn lưu giữ các giá trị văn hóa đặc sắc.
Văn hóa truyền thống Cao Bằng rất phong phú, đa dạng. Mọi thành tố văn hóa truyền thống từ cách ứng xử với môi trường tự nhiên, ứng xử với môi trường xã hội đến văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức đời sống cộng đồng đều đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc. Mỗi dân tộc đều mang vẻ đẹp hấp dẫn riêng. Trong quá trình phát triển, các dân tộc đều có sự giao lưu, qua lại lẫn nhau cùng vùng, cận vùng, khác vùng (các dân tộc ở bên kia biên giới). Điều đó đã làm cho bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc càng đậm đà, phong phú, hấp dẫn du khách thập phương.
Phần lớn các huyện ở Cao Bằng đều có mận nhưng ngon nhất vẫn là mận ở huyện Bảo Lạc. Mận Bảo Lạc có lớp vỏ nhẵn bóng, màu đỏ sậm nên vẫn thường gọi là mận máu. Trái mận có kích thước lớn, vị ngọt dịu chứ không chua như mận ở các vùng khác, thường được du khách mua về làm quà.
Lợn sữa quay là món ngon tiếp theo mà bạn phải thưởng thức trong tour ẩm thực Cao Bằng. Lợn được chọn quay phải là lợn nuôi tại địa phương, nặng từ 4 – 6 kg. Khi quay, người ta sẽ dùng tre xuyên từ mõm đến đuôi lợn, trong bụng nhồi lá mắc mật, bên ngoài phết mật ong và gia vị. Lợn quay trên bếp than hồng nên có phần bì vàng rộm, giòn tan, hương lá mắc mật thơm lừng kích thích vị giác.
Xôi trám là món ăn đặc sản của vùng Cao Bằng, thường xuất hiện trong bữa ăn của đồng bào người Tày và Nùng. Nếp nương kết hợp cùng quả trám rừng giúp hạt xôi có màu tím hồng đẹp mắt, khi ăn bạn sẽ cảm nhận được vị bùi và dẻo đặc trưng.
Bánh áp chao là món bánh nổi tiếng ở Cao Bằng, bên ngoài nhìn giống bánh rán, phần nhân bên trong làm từ thịt vịt. Phần vỏ bánh được làm từ bột gạo nếp và gạo tẻ nên rất dẻo và thơm. Sau khi nhồi nhân vào vỏ, bánh được rán trên chảo dầu sôi, chao qua chao lại đến khi cả 2 mặt vàng rộm.
Nếu được hỏi “loại bánh nào nổi tiếng ở Cao Bằng?” thì bánh cuốn chính là câu trả lời. Bánh cuốn Cao Bằng đặc biệt hơn so với bánh cuốn ở các vùng khác, thường ăn cùng với nước dùng ninh từ xương. Trong phần nước dùng ninh xương còn có cả thịt bằm và hành hoa mỡ, ăn kèm bánh cuốn nóng hoặc bánh cuốn trứng.
Bánh trứng kiến còn có tên gọi khác là Pẻng Rày, là đặc sản của đồng bào người Tày. Nguyên liệu chính tạo nên món ăn độc đáo này là trứng kiến, kết hợp cùng thịt lợn băm, lá kiệu và lạc rang. Vỏ bánh được làm từ bột nếp, nhào nặn, cán mỏng thành hình vuông rồi ốp vào lá vả. Sau khi cho nhân bánh vào, người ta sẽ ốp thêm một lớp lá nữa rồi mang hấp cách thuỷ. Để thưởng thức món ăn này, du khách phải đến Cao Bằng vào tầm tháng 4 – tháng 5 hàng năm.
Rau dạ hiến hay rau bồ khai là loại rau mọc dại ở vùng núi đá, chỉ có ở Cao Bằng. Loại rau này khá hiếm, chỉ mọc từ tháng 2 – tháng 7 âm lịch. Rau dạ hiến thường được dùng trong các bữa tiệc, ngon nhất là xào chung với lòng gà, lòng lợn hoặc thịt bò.
Món vịt quay 7 vị công phu từ khâu chọn vịt, tẩm ướp gia vị cho đến chế biến. Vịt được chọn quay phải là loại vịt sáng lông, chắc thịt. Hương vị độc đáo của món ăn đến từ 7 loại gia vị ướp, trong đó có rất nhiều loại lá và rễ cây rừng. Khi ăn, bạn sẽ cảm nhận được lớp da giòn rụm, phần thịt thơm và ngọt.
Cá Trầm Hương là loại cá ngon ở thác Bản Giốc, thường ăn lá mục và rễ của cây Trầm Hương nên mới có tên gọi như vậy. Sau khi làm sạch, người ta sẽ cho vào bụng cá các loại rau, thì là, ớt, hành, gia vị… bọc lá chuối rồi nướng trên bếp than. Thịt cá ngọt, ăn cùng với nước mắm nguyên chất làm cho món ăn thêm tròn vị.
Bánh khảo là một loại lương khô của đồng bào Tày và Nùng ở Cao Bằng, thường được làm vào dịp tết. Nguyên liệu làm bánh khảo là nếp thơm, đường phèn, vừng, lạc cùng mỡ heo, khi ăn có vị ngọt thanh và béo ngậy. Bánh có thể bảo quản trong thời gian dài nên bạn có thể mua về làm quà.
Thác Bản Giốc là một thác nước cao hùng vĩ và đẹp nhất của Việt Nam, nằm ở địa phận xã Ðàm Thủy, huyện Trùng Khánh, Cao Bằng. Thác Bản Giốc gồm có hai phần, phần chính nằm giữa biên giới Việt – Trung, được phân chia ranh giới bởi dòng sông Quây Sơn chảy phía dưới và phần còn lại nằm hoàn toàn trên lãnh thổ Việt Nam. Phần thác chính rộng khoảng 100 mét, cao 70 mét và sâu 60 mét, nhìn từ xa thác đổ xuống trắng xóa nguyên sơ, như dải lụa trắng vắt ngang núi rừng, tạo nên một nét quyến rũ.
Sở dĩ có tên gọi là Núi Mắt Thần bởi vì hình dáng bên ngoài của ngọn núi ở phía trên đỉnh có một hang thủng hình tròn tựa như “con mắt” sừng sững giữa núi rừng bạt ngàn. Vẻ đẹp của nơi đây là sự giao thoa giữa mấy trời và non nước, mỗi mùa trong năm cảnh vật xung quanh núi Mắt Thần lại mang màu sắc khác nhau.
Vào mùa mưa, ngọn núi kiêu hãnh cùng “con Mắt Thần” khổng lồ soi bóng mình in nơi đáy nước giữa trùng trùng điệp điệp các mỏm núi bao quanh. Phía xa xa là những rặng hoa dại đang khoe sắc thắm làm nên nét chấm phá cho khung cảnh nơi đây thêm phần lãng mạn.
Núi Mắt Thần – địa điểm du lịch Cao Bằng được ví như thảo nguyên du mục nằm len lỏi trong những ngọn núi đá trập trùng giữa màn sương trắng nắng vàng. Đến đây vào mùa khô, sẽ là nơi lý tưởng cho du khách tổ chức những buổi picnic ngoài trời, cùng hội bạn quây quần bên nhúm than hồng thêm vài củ khoai nướng thì còn gì tuyệt vời hơn.
Đèo Mã Phục được đánh giá là con đèo đẹp nhất Cao Bằng có chiều dài hơn 3,5km, cao khoảng 700m so với mực nước biển. Nổi tiếng là một trong những cung đường hiểm trở vùng núi Đông Bắc nước ta. Để lên được đến đỉnh con đèo này bạn phải đi qua 7 vòng dốc với đường đèo quanh co, được bao bọc bởi rừng núi chắc chắn sẽ đem đến cho bạn cảm giác rất mới lạ.
Bên cạnh đó, trong khi chinh phục Đèo Mã Phục và ngắm nhìn thiên nhiên toàn cảnh thì bạn còn có thể thăm quan chợ phiên và mua đặc sản của Cao Bằng là một trải nghiệm rất thú vị đối với du khách khi đến đây.
Hồ Thang Hen là một hồ nước đẹp nhất nằm trong tổng số 36 hồ lớn nhỏ trong vùng rừng núi của huyện Trà Lĩnh. Nơi đây nổi tiếng bởi có cảnh đẹp thanh bình và dòng nước xanh mướt.
Sáng sớm, từ trên cao nhìn xuống bạn nhìn thấy mặt hồ mờ ảo bởi sương sớm giống như lạc vào chốn tiên cảnh. Khi đi dạo trên thuyền bè, bạn có thể ngắm nhìn những loài hoa lan rừng hay những loài động vật quý hiếm trên núi và nghe những điệu hát sli, hát lượn, hát then đầy tình cảm.
Nếu đến Thang Hen vào mùa lúa chín, bạn sẽ được ngắm nhìn những dải lúa chín vàng đều tăm tắp đẹp tựa như một tấm thảm dệt khổng lồ từ bàn tay tạo hóa và "cảm thấy thỏa mãn" thính giác trong mùi lúa non thơm ngọt đầy kích thích. Hồ Thang Hen có phong cảnh sơn thủy hữu tình với những hàng cây xanh vươn mình trên vách đá cheo leo, soi bóng xuống mặt nước xanh ngát, uốn vòng theo lòng thung lũng mấp mô những mỏm đá ngầm.
Động Ngườm Ngao có chiều dài 2.144m, tọa lạc trong lòng một quả núi ở bản Gun, xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh cách thành phố Cao Bằng khoảng 50km, cách thác Bản Giốc khoảng 3 km. Vì nằm ở một địa hình không mấy thuận lợi, đường đi từ thành phố Cao Bằng vào Trùng Khánh với những đoạn đèo khá quanh co và nguy hiểm nên trước đây động Ngườm Ngao ít được biết đến.
Với vẻ đẹp kỳ ảo của thạch nhũ muôn hình vạn trạng, động Ngườm Ngao được mệnh danh là hang động đẹp nhất Việt Nam. Là một hang động nằm trong núi, được hình thành từ khoảng 300 triệu năm trước, với những hình ảnh kỳ thú giống như cây tơ hồng, bầu sữa mẹ, con cóc thần, cây đàn đá…
Và càng không thể bỏ qua những “điểm nhấn” nổi bật nhất của Ngườm Ngao là cây san hô và con tàu, thác vàng, thác bạc, đài sen úp ngược, cột đá cô đơn. Tất cả những cảnh vật trên đều do thiên nhiên tạo ra từ nhũ và măng đá vôi, không hề có sự can thiệp sắp đặt của con người nhưng chúng hiện lên vô cùng sinh động, quyến rũ.
Động Ngườm Ngao gồm 3 cửa chính: cửa Ngườm Lồm quanh năm mát lạnh nằm ẩn mình dưới những khối đá dưới chân núi, cửa Ngườm Ngao cách chân núi vài trăm bậc thang và cửa Bản Thuôn phía sau núi, kề cận bản Thuôn của người Tày. Trong động có nhiều nhũ đá và măng đá với nhiều hình thù đa dạng và phong phú.
Pác Bó - hai tiếng gọi ngân lên làm lòng người thổn thức về quần thể di tích lịch sử năm xưa. Nơi khiến trái tim người Cách mạng - chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại cũng phải xuyến xao để tức cảnh sinh tình ‘Sáng ra bờ suối tối vào hang’. Hang Pác Bó vốn dĩ đã đẹp, nay lại càng đẹp hơn. Ngược lên Cao Bằng xa xôi, dừng chân ở Pác Bó, khách du lịch không chỉ có cơ hội hoài niệm về quá khứ hào hùng của cha ông mà còn được dịp chiêm ngưỡng bức tranh tuyệt đẹp như bồng lai tiên cảnh.
Những vách đá sừng sững, những con suối róc rách tỉ tê, những lòng hồ miên man màu nước tựa trời thu cùng rừng cây xanh ngát đổi màu theo mùa đem lại cho Pác Bó khung cảnh đẹp đến nghẹt thở, cứ ngữ đang lạc miền cổ tích.
Đến với nơi đây, bạn có thể trải nghiệm nhiều hành trình thú vị. Bạn sẽ biết thêm nhiều điều về người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, vì đây là nơi Bác đặt chân đầu tiên khi trở về sau hơn 30 năm bôn ba ra đi tìm đường cứu nước. Không những thế, nếu bạn là một người thích leo núi thì nơi đây quả là địa điểm lý tưởng. Leo núi giữa không khí trong lành, mát mẻ mang đôi chút hoang sơ, vắng vẻ sẽ là một trải nghiệm thú vị khi bạn đặt chân đến vùng đất này.
Đèo Mẻ Pia là một trong những cung đèo nổi tiếng nhất thuộc địa bàn tỉnh Cao Bằng, vùng Tây Bắc của Việt Nam. Theo đó, đèo Mẻ Pia nằm trên QL4A có tổng chiều dài chỉ 2,5km nhưng vì độ dốc nên được tạo thành đường uốn lượn như dải lụa trong gió. Toàn bộ con đèo này đều nằm trên địa bàn xã Xuân Trường, nối tiền xã này với trung tâm Bảo Lạc, huyện có biên giới với Trung Quốc.
Nhiều người không nhớ tên chính xác của Mẻ Pia thường hay gọi nó là đèo 14 tầng dốc vì hình dạng vốn có. Được xây dựng nối liền một xã và một trung tâm huyện cách này một một dốc núi nên đèo Mẻ Pia phải làm thành đường cong nhằm giúp đoạn đường 2,5km dốc dựng đứng trở nên an toàn hơn khi di chuyển bằng ô tô, xe gắn máy.
Nhà sàn của người Tày ở Trùng Khánh là một vùng linh thiêng – nơi lưu giữ những nét đặc trưng của đời sống vật chất và tinh thần truyền thống từ bao đời nay. Sau những thăng trầm của cuộc sống, cho đến ngày nay, trong tâm thức của người dân xứ Tày “thần đá” vẫn gắn bó và tồn tại trong quan niệm của họ.
Đặc điểm này có thể do vị trí địa lý của khu vực có nhiều núi đá vôi nên đá có vai trò rất quan trọng trong đời sống của cộng đồng dân cư nơi đây. Đá được sử dụng rộng rãi trong đời sống sinh hoạt của đồng bào dân tộc thiểu số. Nhà xây bằng đá, vách núi, nền làm bằng đá và chân móng cũng bằng đá, làm lại. Đá cũng được sử dụng trong các công trình xây dựng khác như hàng rào, đập, nhà máy, bếp
Cột mốc 108 là nơi ghi lại dấu ấn sâu sắc nhất trong lịch sử cách mạng Việt Nam, còn là nơi đầu tiên Bác Hồ đặt chân trở về sau 30 năm xa quê hương tìm đường cứu nước. Cột mốc 108 không chỉ là địa điểm du lịch Cao Bằng nơi lưu giữ những thước phim lịch sử mà nơi đây còn đem lại cho du khách những cảm giác chân thực nhất trên từng bước chân tảng bộ.
Đối với người dân ở đây, Cao Bằng có gì ngoài những giai thoại đã đi vào từng trang sử dân tộc. Cột mốc 108 có ý nghĩa thiêng liêng, được bảo tồn và lưu giữ qua nhiều thế hệ. Không chỉ là chứng nhân lịch sử trong nhiều cuộc kháng chiến, mà cột mốc 108 vẫn hiên ngang đứng vững để dõi theo từng bước chân của du khách đi qua nơi này.
Nằm trong hệ thống Công viên địa chất Toàn cầu UNESCO Non nước Cao Bằng, Vườn Quốc gia Phja Oắc - Phja Đén (Nguyên Bình) nổi tiếng với nhiều cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, mang đậm nét hoang sơ, còn lưu giữ nhiều loài động, thực vật quý hiếm có giá trị về nghiên cứu khoa học, bảo tồn nguồn gen và giáo dục môi trường.
Đỉnh Phja Oắc có độ cao 1.931 m, được ví như “nóc nhà” phía Tây của tỉnh. Rừng ở đây thuộc kiểu “rừng kín thường xanh, mưa ẩm á nhiệt đới” có 1.287 loài thuộc 786 chi trong 202 họ thực vật của 6 ngành thực vật tại vườn; trong đó có nhiều loài thực vật quý hiếm nằm trong Sách Đỏ Việt Nam.