Khác với các lễ hội ở vùng đồng bằng, lễ hội xuân vùng Đông Bắc nói chung và tỉnh Bắc Kạn nói riêng mang đậm bản sắc, gắn với những triết lý nhân sinh từ ngàn đời của các dân tộc vùng cao. Lên Bắc Kạn những ngày đầu xuân, không khí rạo rực và tưng bừng của lễ hội xuân khiến lòng người phấn chấn, thêm yêu mến con người, vùng đất nơi đây…
Trên những triền núi cao, những bản làng, ven những con suối, các dân tộc như Tày, Nùng, Dao, Mông… luôn gắn bó với núi rừng, với thiên nhiên để tạo dựng cuộc sống. Mỗi khi xuân về, đồng bào tổ chức lễ hội xuân của dân tộc mình để cảm tạ các vị thần linh cai quản núi rừng, sông suối, ruộng đồng và cầu mong các vị sẽ ban cho con người một năm mới no ấm, thóc lúa đầy bồ, trâu ngựa đầy chuồng, con người khỏe mạnh, cỏ cây tươi tốt, mưa thuận gió hòa.
Lễ hội xuân ở vùng cao Bắc Kạn mang đậm bản sắc dân tộc. Đầu tiên phải kể đến lễ hội Lồng tồng nghĩa là xuống đồng của dân tộc Tày, Nùng trên địa bàn tỉnh. Đây là lễ hội mang tính chất nghi lễ nông nghiệp cổ xưa, mở đầu cho một mùa sản xuất mới; trong lễ hội có lễ tạ Thành Hoàng, Thần Nông, cầu cho mùa màng bội thu, gia súc phát triển, con người khỏe mạnh, bản làng yên vui, mọi người, mọi nhà ấm no, hạnh phúc…
Sau một năm lao động vất vả, lễ hội mở ra mang lại những giờ phút nghỉ ngơi, thanh thản, mọi người có điều kiện gặp gỡ thăm hỏi, chúc tụng nhau, đồng thời cũng là dịp giao lưu tình cảm giữa các cô gái, chàng trai bằng những lời hát then sli, lượn…
Lễ hội thường được tổ chức sau dịp Tết, vào khoảng thời gian từ ngày 4 đến ngày 25 tháng Giêng, tùy theo phong tục của từng địa phương mà tổ chức khác ngày nhau và thời gian thường kéo dài trong 3 ngày. Lễ hội Lồng tồng rất phong phú cả về phần lễ và phần hội, có thể xem như một “Bảo tàng sống”, nói lên hoạt động phong phú, sinh động đời sống tâm linh của tộc người.
Trước hết người dân trong bản chuẩn bị mâm lễ gồm những sản vật do bà con làm ra như gà luộc, thịt lợn, xôi ngũ sắc, rượu, bánh dày, bánh chưng, chè lam… tượng trưng cho trời, đất, muông thú để dâng lên Thành hoàng làng, thần núi, thần suối sau một năm làm ăn.
Sau phần lễ là đến phần hội gồm các trò: Múa Sư tử, múa nộc niệc, tung còn, kéo co, đấu gậy, cờ tướng, bắn nỏ, đi cà kheo... Trong các trò vui chơi của người Tày, Nùng, trò hát then, Sli, lượn thu hút nhiều khách thập phương hơn cả. Các trò này được kéo dài từ lúc bắt đầu cho đến lúc kết thúc lễ hội với nội dung chủ yếu là hát giao duyên, hát chúc tụng, hát mừng xuân mới, đặc biệt các đôi trai gái thanh niên tìm hiểu nhau sau này trở thành vợ chồng...
Tiếp đến là lễ hội của của đồng bào Mông, trong đó đặc sắc nhất là Hội Mù Là tại xã Cổ Linh, huyện Pác Nặm, được tổ chức với mục đích tạ ơn trời đất và cầu cho mùa màng bội thu, thường được tổ chức trên mỏm đồi cao, trung tâm của bản Mông với sự tham gia của đông đảo người dân trong các bản. Đây cũng là dịp để trai gái Mông gặp gỡ, làm quen và kết duyên.
Đầu tiên, nghi lễ cúng cầu mùa được tiến hành để xua đuổi những điều không may mắn trong năm cũ, cầu mong mưa thuận gió hòa, nhà nhà yên vui, no ấm. Tiếp theo đó phần hội diễn ra nhiều trò chơi dân gian như: Múa khèn, hát giao duyên, ném pao, đấu bò, đánh cù (con quay)…
Lễ hội mùa xuân ở vùng cao Bắc Kạn không chỉ mang giá trị văn hóa tâm linh mà còn là dịp để đồng bào gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa mang bản sắc của dân tộc mình, giáo dục thế hệ trẻ biết yêu quý những gì cha ông để lại, gắng sức xây dựng một cuộc sống ấm no và hạnh phúc.
Ở Ba Bể, người dân thường ăn tôm chua với thịt chân giò hoặc ba chỉ luộc kèm đĩa khế chua, chuối xanh, đinh lăng… Giữa khung cảnh thiên nhiên nên thơ, nhấm nháp tôm chua cùng chén rượu ngô cay nho nhỏ, du khách sẽ có cảm giác lâng lâng êm ái, thấm thía vị béo chua chua của thịt, cảm nhận phần tỏi ớt cay cay cùng mùi thơm riềng...
Món ăn được bán khá nhiều ở các bản Bó Lù, Pác Ngòi… Ngoài tôm, các loại tép hay cá nhỏ được bắt tươi ở hồ, ăn không hết, người dân cũng muối vào lọ, để ăn dần.
Chuối hột hồ Ba Bể được bán nhiều ở đường lên ao Tiên, khu vực đón khách từ cổng vào xuống hồ... Vì trồng trên những quả núi quanh hồ nên thân chuối vươn cao, quả căng tròn trông rất hấp dẫn, vừa tạo cảnh quan đẹp lại dùng để làm thuốc và quà biếu.
Khác với một số dân tộc khác, người Tày sống quanh hồ Ba Bể thường bỏ thịt vào sọt hoặc gùi đi rừng rồi mới treo lên bếp. Khói từ bếp củi hằng ngày hun lên làm thịt có màu vàng đen.
Thịt treo như vậy để được cả năm mà không hỏng. Ngày nay, dù không phải tích trữ thịt treo gác bếp làm lương thực để dành nhưng trong nhà người Tày ở quanh hồ vẫn luôn có một ít, dùng trong những dịp đón khách quý, lễ tết hay ngày quan trọng khác.
Bánh pẻng phạ thường xuất hiện trong dịp người Tày vùng Ba Bể đón mừng năm mới hay lễ hội xuống đồng. Hình dáng chiếc bánh không có gì đặc biệt, viên bánh tròn tròn cỡ trái nhãn lồng.
Bên ngoài có lớp bột trắng che lớp bột nâu bên trong. Bánh pẻng phạ là một trong những món ăn truyền thống của dân tộc Tày để dâng trời đất.
Bánh pẻng phạ chế biến không cầu kỳ nhưng mùi vị thơm ngon. Nguyên liệu chính để làm bánh là bột gạo nếp được nhào với nước chè mạn pha đặc để lấy màu nâu và vị chát, một chút rượu trắng cho dậy mùi.
Khâu nhục là món ăn đặc biệt mang đậm tính dân tộc của người dân Bắc Kạn. Khâu nhục được làm rất công phu, khoai được chọn phải là khoai môn Bắc Kạn, bên trong lòng khoai có vân màu tím. Thịt lợn phải là thịt ba chỉ ngon, luộc sơ qua, dùng tăm tre chọc bì thật kĩ, tẩm ướp gia vị rồi đem quay, vừa quay vừa quết mật ong cho vàng bì. Khoai cũng phải rán vàng. Mọi thứ được xếp vào bát, cứ một miếng khoai, một miếng thịt, cho nhân được làm bằng thịt, nấm hương, mộc nhĩ …đã xào lên trên hấp cách thuỷ khoảng 5 tiếng đồng hồ. Thành phẩm khi xong được cho ra đĩa rất đẹp. Món khâu nhục làm cầu kì nhưng ăn lại rất ngon nên nhân dân Bắc Kạn thường dành vào những dịp đặc biệt như lễ tết, cưới hỏi và vào nhà mới.
Không giống như các loại rau khác chỉ cần trồng ngày một ngày hai là được hái lá, rau sắng từ khi trồng đến khi được hái lá lần đầu tiên phải sau ít nhất là 3-5 năm, và sau 10 năm mới được thu hoạch với số lượng lớn.
Lá rau sắng dùng để nấu canh với thịt hoặc cá. Mùi vị của loại rau này rất đậm đà, chỉ cần một vài cọng cũng đã đủ để có thể nấu bát canh thơm ngon cho 4 người ăn.Theo kinh nghiệm của người dân, phải ăn canh rau sắng nấu suông, nêm một chút muối, chậm rãi nhai kỹ từng chiếc lá nhỏ, thưởng thức thật sâu, thật kỹ vị ngọt, vị bùi khó tả của nó thì mới cảm nhận được hương vị đặc biệt của cây rau sắng. Những cây rau sắng đực cho những chùm rồng rồng. Loại này có thể nấu canh và ngon hơn nữa là xào với thịt bò.
Quả sắng hình bầu dục, to như quả nhót, khi chín có mầu vàng sẫm, ăn có vị ngọt đượm như mật ong. Hạt của quả sắng sau khi bóc vỏ đem ninh với xương rất thơm ngon, có vị ngọt, bùi.
Món xôi này rất độc đáo vì được nấu từ gạo nếp nương và tất cả màu sắc của xôi không tạo ra bằng phẩm màu mà bằng hương sắc của cây cỏ. Người ta lấy lá của cây cẩm và vài loại lá khác đun lên, chắt nước ra, ngâm gạo nếp vào khoảng vài giờ rồi mang đồ trên chõ gỗ. Nước ngâm gạo phải nóng già thì khi chín xôi mới có độ dẻo.
Xôi Đăm Đeng có một mùi thơm đặc trưng của cây cỏ, không thể lẫn với bất cứ loại xôi nào khác. Hạt xôi bóng đẹp nhưng không ướt, khi nguội hạt xôi se lại nhưng vẫn mềm, dẻo và thơm.
Xôi Đăm Đeng thường được ăn với muối vừng hoặc ruốc tùy theo khẩu vị từng người. Người dân miền núi quan niệm rằng ăn xôi này sẽ mang lại nhiều may mắn và tốt lành.
Nếu có dịp lên Bắc Kạn vào những ngày lễ, tết hãy thưởng thức món xôi “Đăm Đeng” để tận hưởng hương sắc của núi rừng nơi đây.
Miến dong là đặc sản nổi tiếng của Na Rì, Bắc Kạn, được làm thủ công từ những củ dong riềng trồng trên đèo Áng Toòng ở độ cao trên 1.000 m. Sợi miến được làm từ bàn tay khéo léo của người dân nơi đây nên giữ nguyên màu sắc tự nhiên vốn có. Sợi miến có màu vàng hoặc trong đục, sợi dai và giòn để lâu cũng không bị nát, đây cũng là nét đặc trưng khiến nhiều người yêu thích món ăn dân dã này.
Sợi miến có màu tự nhiên do không dùng hóa chất, sợi miến khi nấu có vị dai, giòn và thơm của dong riềng. Từ miến dong có thể chế biến nhiều món ngon và dễ ăn.
Rừng Bắc Kạn có rất nhiều loại măng như: măng tre, măng trúc, măng nứa, măng mai… nhưng nếu nói là đặc sản phải kể đến thứ “măng vầu” hay còn gọi là “măng đắng”. Theo kinh nghiệm của những người đi hái măng, vào đầu vụ những mầm măng vầu mới nhú còn có vị ngọt xen lẫn vị hơi hơi hơi đắng, còn từ sau tháng 2 Âm lịch, măng lại chuyển sang vị đắng gắt hơn.
Ở Bắc Kạn, người ta có thể chế biến măng thành rất nhiều món ngon nhưng hấp dẫn hơn cả có lẽ là măng luộc chấm mắm tôm chanh ớt. Những người sành ăn măng thì hay chọn ăn loại măng luộc thật đắng vì như vậy mới cảm nhận hết được sự thú vị của món ăn này. Cái cảm giác đắng, chát cứ mất dần khi nhai kỹ, thay vào đó là cảm giác thoang thoảng ngọt, nhẹ nhẹ cay, rất lạ.
Rau dớn là một loại cây thuộc họ quyết, giống như cây dương xỉ, cành dài lá nhỏ, mặt lá có màu xanh nhẵn, cuống lá có lông. Ở Bắc Kạn, rau dớn thường mọc ở vùng núi cao, nơi ngọn nguồn của các con sông, con suối và thường mọc ở bờ suối, bờ khe, nơi có độ ẩm ướt cao.
Rau dớn ăn ngon nhất là sau mùa lụt đến cuối mùa xuân. Lá rau dớn non uốn cong như vòi voi, có nhựa nhớt. Đồng bào thường chỉ hái ngọn cong non, lá bánh tẻ để ăn.
Hồ Ba Bể là một địa điểm không thể nào bảo qua khi du khách đi du lịch Bắc Kạn. Hồ nằm ở Vườn quốc gia Ba Bể, cách Thành phố Bắc Kạn gần 70km. Hồ Ba Bể gồm có 3 Hồ nước là Pé Lầm, Pé Lèng và Pé Lù, các hồ đều đã được hình thành hơn 200 triệu năm trước và có độ cao 150m so với mực nước biển.
Xung quanh Hồ Ba Bể là những dãy núi cao và những cánh rừng già nguyên sinh, hồ nước xanh ngắt, quanh năm luôn mát mẻ. Trên hồ còn có những đảo nhỏ xinh đẹp và đây còn là nơi sống của hàng trăm loài cá nước ngọt. Dọc theo bờ hồ là làng Tày với những ngôi nhà sàn truyền thống.
Pác Ngòi là một bản làng của người Tày nằm ở vùng đông bắc của Việt Nam, thuộc tỉnh Bắc Kạn. Pác Ngòi có vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ và hoang sơ, với những ngôi nhà sàn xinh xắn dựa lưng vào núi, soi bóng xuống hồ Ba Bể. Du lịch Bắc Kạn sẽ mang lại cho khách du lịch những trải nghiệm độc đáo và khó quên với vẻ đẹp thiên nhiên của vùng Đông Bắc. Du khách sẽ được chiêm ngưỡng những cảnh quan hữu tình của núi rừng, đồng lúa, hồ nước xanh ngắt. Du khách đi tour du lịch Bắc Kạn sẽ được tham gia vào cuộc sống của người dân bản Pác Ngòi, một làng Tày cổ kính và đậm đà bản sắc, được học hỏi nhiều điều thú vị về văn hóa và phong tục của người Tày, như hát then, si, lượn, dệt thổ cẩm, đẽo thuyền độc mộc, nấu rượu ngô,…
Thác Bạc Bản Vàng là một trong những địa điểm nổi tiếng trong tour Bắc Kạn. Thác nước cao 40m, chảy mạnh từ trên xuống, tạo nên một khung cảnh trắng muốt và xanh biếc. Thác nước còn lấp lánh như kim cương khi ánh nắng chiếu sáng. Dưới chân thác có những vũng nước trong vắt và những hòn đá to, du khách đi tour Bắc Kạn có thể tắm mát hay chụp ảnh.
Thác Bạc Bản Vàng là một địa điểm lý tưởng để du khách cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên hoang dại và huyền ảo của Bắc Kạn. Nơi đây, chắc hẳn sẽ khiến du khách có những khoảnh khắc tuyệt vời khó quên và sẽ muốn quay lại nhiều lần.
Động Nàng Tiên là một địa danh du lịch Bắc Kạn nổi tiếng, thu hút nhiều du khách bởi vẻ đẹp huyền ảo và truyền thuyết lãng mạn. Động Nàng Tiên nằm sâu trong lòng núi, có chiều dài khoảng 60 mét, chiều cao từ 30 đến 50 mét. Cửa động rộng 6 mét, có hình dạng như mai rùa, được bao phủ bởi cây cỏ xanh tươi. Để vào trong động, du khách đi tour Bac Kan phải trèo qua 132 bậc thang đá cheo leo.
Bên trong động, không khí mát mẻ, hơi nước mờ ảo, tiếng nước chảy róc rách tạo nên một không gian thơ mộng và bí ẩn. Động Nàng Tiên còn có một câu chuyện dân gian kể về 7 nàng tiên xinh đẹp đã từng trú ngụ tại đây khi hạ phàm tắm mát ở con suối Khuổi Hai.
Nếu du khách yêu thích du lịch khám phá thiên nhiên và văn hóa, chắc hẳn sẽ không thể nào bỏ qua tour du lịch Bắc Kạn. Du khách tham gia tour du lịch Bắc Kạn sẽ được chiêm ngưỡng Đảo Bà Góa, một hòn đảo nhỏ nằm giữa Hồ Ba Bể, có liên quan đến một câu chuyện cổ tích về hai mẹ con bà góa đã dùng hai chiếc thuyền độc mộc để cứu người dân trong trận lũ lụt năm xưa. Với thác nước trắng xóa chảy từ trên cao, lấp lánh như kim cương khi ánh nắng chiếu sáng. Khách du lịch sẽ được tham gia vào cuộc sống của người dân bản Pác Ngòi, một làng Tày cổ kính và đậm đà bản sắc.
Nơi đây, du khách sẽ được học hỏi nhiều điều thú vị về văn hóa và phong tục của người Tày, như hát then, si, lượn, dệt thổ cẩm, đẽo thuyền độc mộc, nấu rượu ngô,… cũng có thể tham gia chèo thuyền kayak hay tắm mát ở những vũng nước trong vắt và những hòn đá to dưới chân thác. Tour du lịch Bắc Kạn là một hành trình khám phá vẻ đẹp thiên nhiên hoang dại và huyền ảo của vùng Đông Bắc.
Động Nả Phoòng là một trong những địa điểm du lịch đáng để du khách ghé thăm khi đến Bắc Kạn, bởi nó không chỉ có vẻ đẹp thiên nhiên huyền bí mà còn có giá trị lịch sử rất lớn. Động Nả Phoòng là một hang động tự nhiên, nằm ẩn sâu trong lòng núi, thuộc khu vực của Vườn Quốc Gia Ba Bể. Động có chiều dài khoảng 700m, chiều cao từ 30 đến 50 mét, với các vách đá đứng và nhiều nhũ đá có nhiều hình dạng, màu sắc khác nhau. Động còn có một con suối ngầm đổ vào Hồ Ba Bể.
Để vào trong động, khách du lịch phải trèo qua 132 bậc thang đá cheo leo, nhưng khi vào trong du khách đi tour Bắc Kạn sẽ cảm thấy không khí mát mẻ, hơi nước mờ ảo, tiếng nước chảy róc rách tạo nên một không gian thơ mộng và bí ẩn. Động Nả Phoòng còn là nơi đã từng là trụ sở của Đài tiếng nói Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp (1950 - 1954).
Du khách có thể khám phá những trang sử hào hùng của quân và dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp khi du lịch Bắc Kạn và ghé thăm Di tích Đèo Giàng. Đây là nơi Trung đoàn 165 đã phục kích địch lớn và chiến thắng vang dội vào năm 1947, khai mạc cho chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông và đóng góp vào chiến thắng lịch sử của dân tộc.
Trên Quốc lộ 3, giữa hai huyện Bạch Thông và Ngân Sơn, là Di tích Đèo Giàng. Du khách có thể tham quan nhà bia kỉ niệm chiến thắng Đèo Giàng, có kiến trúc cổ xưa, bốn cột bê tông sơn màu giả gỗ, mái bằng bê tông cốt thép. Trong nhà bia có đặt bia kỉ niệm ghi lại chiến thắng Đèo Giàng năm 1947, làm bằng đá. Mặt bia hướng ra đường quốc lộ 3. Du khách cũng có thể ngắm nhìn phong cảnh núi rừng và vực sâu, nơi quân và dân Việt Nam đã phục kích địch lớn và chiến thắng vang dội. Sẽ cảm nhận được tinh thần anh dũng và hy sinh cao cả của những người lính và dân quân đã bảo vệ Tổ quốc.
Di tích Đèo Giàng là một điểm đến hấp dẫn và ý nghĩa cho những ai muốn tìm về nguồn cội của dân tộc. Du khách sẽ được học hỏi về những trang sử oanh liệt và tự hào về những anh hùng đã hy sinh vì đất nước.
Đối với những ai muốn đi du lịch Bắc Kạn và yêu thích sự hoang sơ thì du khách không nên bỏ qua Thác Nà Đăng, một địa điểm du lịch độc đáo và đẹp mắt ở xã Lương Thành, huyện Na Rì. Thác Nà Đăng cao hơn 100 mét, nước chảy từ trên núi xuống tạo nên một khung cảnh ngoạn mục và kỳ ảo. Bọt nước trắng xóa bay lên như sương mù, mang theo những cơn gió mát lành.
Xung quanh thác là rừng nguyên sinh xanh ngát, là nơi cư trú của nhiều loài động thực vật hiếm có. Khách du lịch có thể nghe tiếng chim líu lo, tiếng sâu rít rít và tiếng lá rơi trong gió. Thác Nà Đăng là một nơi tuyệt vời để du khách nghỉ ngơi, hòa mình vào thiên nhiên và chụp những bức ảnh đẹp.
Nếu du khách muốn khám phá một nơi có khí hậu ôn hòa, môi trường trong sạch và cảnh quan đẹp mắt ở Bắc Kạn, du khách có thể tham gia tour du lịch Bắc Kạn đến Phya Khao, một điểm du lịch thuộc huyện Chợ Đồn. Phya Khao là một đỉnh núi cao hơn 800 mét so với mực nước biển, nơi có nhà nghỉ mát do người Pháp xây dựng từ thời thuộc địa. Khách du lịch sẽ được tận hưởng không khí trong lành, ấm áp vào mùa đông và mát mẻ vào mùa hè.
Du khách có thể thăm quan nhiều địa điểm lịch sử và hấp dẫn quanh Phya Khao, như Đồi Khau Mạ, nơi nguyên Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng và cơ quan Văn Phòng Chính phủ đã sinh hoạt và làm việc từ đầu năm 1950 đến mùa hè năm 1951. Du khách cũng có thể ghé thăm các điểm du lịch khác ở huyện Chợ Đồn, như ATK (Bắc Cạn), Khuổi Linh, Nà Pậu,… Phya Khao là một lựa chọn tuyệt vời cho những ai muốn trải nghiệm một chuyến đi vừa thú vị vừa bổ ích.
Nếu du khách đang tìm kiếm một địa điểm du lịch tâm linh và lịch sử ở miền Bắc, nên thử ghé thăm Chùa Thạch Long ở huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn. Đây là một ngôi chùa cổ kính và huyền bí, nằm trong một hang động rộng lớn, có hình miệng con rồng đang há. Du khách sẽ được chiêm ngưỡng những tượng Phật thiên nhiên, được nghe những sự tích thần kỳ và được tìm hiểu về những dấu ấn lịch sử của chùa trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Chùa Thiên và chùa Âm là hai phần chính của Chùa Thạch Long. Chùa Thiên cao ngất ngưởng, có thềm đá từ dưới chân núi lên tận miệng hang hình rồng. Gian trên cùng thờ Phật Thích Ca, gian giữa có bức ảnh Bác Hồ. Chùa Âm thấp hơn, phải đi theo đường quanh co bên sườn núi mới tới được. Cửa vào chùa Âm nhỏ hơn chùa Thiên một tí, bên trong hang cũng không rộng lắm. Trong hai phần chùa đều có nhiều tượng Phật do thiên nhiên tạo ra, mang lại một bầu không khí uy nghiêm và linh thiêng.