1. Các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống
Hát Chèo là nghệ thuật sân khấu cổ truyền của Việt Nam phát triển mạnh mẽ tại miền Bắc, Bắc Trung Bộ mang đậm bản sắc dân tộc. Từ thời xưa Chèo được coi là loại hình sân khấu hội hè, thường được biểu diễn trong những lễ hội hoặc những dịp đặc biệt. Phần ngôn từ đa thanh, đa nghĩa giàu sự ví von, tự sự trữ tình.
Nghệ thuật hát Chèo có nguồn gốc lâu đời và đi sâu vào đời sống xã hội của người Việt Nam. Chúng không chỉ là nghệ thuật mà còn là một tấm gương phản chiếu sự đa dạng về bản sắc của dân tộc ta với nhiều góc độ khác nhau như sự lạc quan, nhân ái, yêu nước, thương dân, mong muốn cuộc sống ấm no, tự hào dân tộc hay kiên cường bất khuất đánh giặc ngoại xâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đất nước. Chèo mang cả giá trị nội dung, nghệ thuật cao và được lập hồ sơ đề nghị UNESCO ghi danh là di sản văn hoá phi vật thể vào năm 2021.
Nghệ thuật Chèo được hình thành từ thế kỷ X dưới thời nhà Đinh (vua Đinh Tiên Hoàng), lúc bấy giờ kinh đô của nước là là Hoa Lư (Ninh Bình), đây cũng được coi là đất tổ của loại hình nghệ thuật sân khấu này. Bà Phạm Thị Trân được coi là bà tổ của Chèo. Sau đó chèo phát triển nhanh, lan rộng ra toàn lãnh thổ Đại Cồ Việt bao gồm miền Bắc và Bắc Trung Bộ hiện nay.
Ban đầu hát Chèo được phát triển chủ yếu dựa vào âm nhạc và múa hát dân gian, sau đó các tích truyện ngắn, câu chuyện được đưa vào và biểu diễn trọn vẹn thành một vở Chèo hoàn chỉnh với thời lượng dài hơn, nội dung cũng sâu sắc hơn. Đến thế kỷ XIV, nghệ thuật hát Chèo Việt Nam bắt đầu bị ảnh hưởng bởi Kim kịch Trung Quốc. Sang đến thế kỷ XV, vua Lê Thánh Tông không cho phép Chèo được biểu diễn trong cung đình vì thế chúng phát triển mạnh tại các vùng thông thôn và gắn liền với đời sống sinh hoạt của người dân, trở thành một trong những món ăn tinh thần không thể thiếu trong các hội hè, lễ hội của người Việt.
Trong giai đoạn từ thế kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX nghệ thuật Chèo tiếp tục phát triển mạnh và đạt đến đỉnh cao với nhiều vở diễn nổi tiếng. Từ thế kỷ XX cho đến nay, Chèo được đưa lên các sân khấu chuyên nghiệp và trở thành chèo văn minh, có thêm các tích truyện cổ mới được biểu diễn.
Phát triển từ thế kỷ X, trải qua hơn 1000 năm lịch sử, nghệ thuật hát Chèo đã phát triển theo nhiều hướng khác nhau nhưng có 4 loại chính bao gồm: Chèo sân đình, Chèo cải lương, Chèo chái hê và Chèo hiện đại. Mỗi loại lại có những đặc điểm riêng.
Là loại hát Chèo thường được tổ chức tại các sân đình, chùa nơi mà người dân hay lui tới thời xa xưa. Đây là loại hình chèo cổ với lối biểu diễn đơn giản, chỉ sử dụng chiếc chiếu trải ngoài sân và phía sau được treo một chiếc màn nhỏ, đạo cụ chủ yếu thường là quạt. Cũng chính vì hát Chèo được biểu diễn trên chiếu với các nhạc công diễn viên ngồi quanh hai bên mép nên người ta thường gọi đây là chiếu Chèo.
Là một dạng biểu diễn cách tân do Nguyễn Đình Nghị khởi xướng trong đầu thế kỷ 20 cho tới trước Cách mạng tháng Tám 1945. Tính hiện đại, chuyên nghiệp được đưa vào Chèo cải lương khi tác phẩm biểu diễn được soạn thành màn, lớp, bỏ múa và các động tác cách điệu. Thay vào đó chèo cải lương thổi những làn điệu dân ca có sẵn vào tại nên một sức hút mới lạ.
Là một dòng phát triển của nghệ thuật hát Chèo, thường được biểu diễn và hát vào rằm tháng 7 hàng năm hoặc trong các đám giỗ, đám đưa tiễn của người thọ với các phần chính bao gồm:
- Giáo roi
- Nhị thập tứ hiếu
- Múa hát chèo thuyền cạn
- Múa hát kể thập ân. Kết thúc chương trình hát chèo chái hê thường là hát quan họ.
Nghệ thuật hát Chèo hiện đại bắt đầu từ khi nước ta hội nhập quốc tế, để vừa giữ gìn được bản sắc dân tộc vừa giới thiệu đến các bạn trên toàn cầu những nét đẹp, đặc sắc nhất của chèo mà Chèo hiện đại ra đời. Từ sau những năm 1954 các đoàn chèo nước ta bắt đầu sang các nước xã hội chủ nghĩa để biểu diễn và được công chúng đón nhận. Sau này các nhạc sĩ và nghệ sĩ đã thổi hồn mới, cải biên và phối khí chèo theo các phong cách khác nhau, thay đổi nhạc cụ để làm mới các vở chèo nhưng không làm mất đi những giai điệu gốc vốn có.
Chèo là một loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống nhưng không vì thế mà chúng không có những quy tắc luật lệ riêng. Để tạo nên một vở chèo thành công, hoàn chỉnh nhất thì cần đảm bảo đầy đủ các yếu tố:
Một tác phẩm Chèo luôn có một cốt truyện rõ ràng và rành mạch phát triển theo một lối tư duy riêng gọi là tư duy Chèo. Kịch bản chèo có thể lấy trực tiếp từ các cốt truyện cổ hoặc phát triển lên nhưng không làm thay đổi quá nhiều về cốt chính.
Tuỳ từng sân khấu và số lượng nghệ sĩ biểu diễn mà phần kịch bản văn học của Chèo cũng được thay đổi cho hợp lý. Yếu tố kịch bản này không chỉ quan trọng trong hát Chèo mà chúng còn xuất hiện trong nhiều loại hình sân khấu khác như cải lương, kịch nói, kịch hát dân tộc. Tuy nhiên yếu tố văn học ở đây không để chỉ riêng các tác phẩm được lưu truyền trên sách vở mà còn là thứ văn học truyền miệng từ đời này qua đời khác, dù có nhiều thay đổi nhưng không làm mất đi nét hay vốn có của tác phẩm.
Diễn xuất là một yếu tố không thể thiếu trong một vở chèo ngoài kỹ thuật hát và diễn tả cảm xúc qua lời ca tiếng hát của nghệ nhân hát Chèo. Chèo cổ không đòi hỏi quá nhiều về diễn xuất nhưng dần qua thời gian, diễn xuất của diễn viên trở thành yếu tố quan trọng giúp cho vở chèo thêm sống động, chân thật hơn. Một số nhân vật mang tính biểu tượng về phạm trù đạo đức như Thị Phương, Trinh Nguyên, Thị Kính hay những nhân vật có hình tượng đa góc cạnh mang tính triết lý như Suý Vân, Mụ Sùng đều được tạo nên từ phần diễn xuất của diễn viên trong các chiếu Chèo.
Diễn xuất trong Chèo không thể tuỳ tiện nếu không sẽ không đạt được hiệu quả và chất lượng như mong muốn, chúng phải tuân theo nguyên tắc ước lệ, tự sự và cách điệu thông qua các động tác, nét mặt, lời thoại, khuôn múa, điệu hát. Chính nhờ diễn xuất đỉnh cao của các nghệ nhân Chèo mà tạo nên được cái hồn cho tác phẩm, thể hiện được đúng những gì mà vỏ chèo muốn truyền tải tới người xem, đưa khán giả đi vào diễn biến nội tâm của từng nhân vật.
Cùng với các yếu tố như cốt truyện, diễn xuất thì mỹ thuật cũng không thể thiếu trong các vở Chèo, chúng được thể hiện thông qua các cách điệu cũng như 31 ước lệ. Ở chèo cổ, tính mỹ thuật được thể hiện qua địa điểm diễn chèo, sân khấu, trang phục cũng như phần hoá trang của diễn viên bởi hồi đó chưa có phông nền và chuyển màn, chuyển cảnh chuyên nghiệp như hiện nay. Yếu tố mỹ thuật trong nghệ thuật Chè được ví như một mảnh đất đẹp đẽ để các diễn viên, nghệ sĩ biểu diễn có thể xây lên cho mình một căn nhà to, đẹp và hoàn chỉnh nhất.
Mỹ thuật phải đảm bảo tuân theo quy định của nghệ thuật hát Chèo truyền thống đó là phải có tính dân tộc, hình tượng, thẩm mỹ và thống nhất trong việc sáng tạo. Có thể thấy yếu tố mỹ thuật vừa là công cụ vừa là tiền đề để tạo nên một tác phẩm chèo thành công.
Đạo diễn Chèo là khái niệm mới được sử dụng trong nghệ thuật hát chèo hiện đại, còn đối với chèo cổ ngày trước thì đây được gọi là những thầy chèo, tuồng là người trực tiếp sắp trò và truyền nghề cho đệ tử theo học. Dấu mốc quan trọng bắt đầu cho sự phát triển mạnh mẽ của đạo diễn đó là vào năm 1920 khi vở Chén thuốc độc của Vũ Đình Long thành công rực rỡ tại nhà hát Lớn Hà Nội. Một số đạo diễn nổi bật phải kể tới những cái tên như: Đình Quang, Nguyễn Đình Nghi, Dương Ngọc Đức, Hoàng Giang, Lê Hùng, Xuân Huyền, Xuân Đàm,…
Vai trò của đạo diễn không phải là đồng cảm hay sáng tạo tốt mà họ quan tâm tới khả năng thực hiện của đơn vị cũng như diễn viên. Ngoài ra luôn phải thổi hồn giáo dục tư tưởng, tình cảm tốt vào trong các bản chèo. Thông thạo về loại hình nghệ thuật này để có thể kết hợp tốt với cả đoàn, hướng dẫn được diễn viên thể hiện tốt được nhân vật.
Múa cũng là một yếu tố không thể thiếu trong các vở chèo, nhất là với chèo hiện đại. Múa tạo nên sự kịch tính cũng như có giá trị tạo hình trong nghệ thuật Chèo.
- Thể hiện được nội dung của vở chèo thông qua lời hát, nhạc và múa hát.
Thể hiện được tâm trạng nhân vật chi tiết, rõ nét hơn.
Động tác chính là một trong những cách thể hiện diễn biến tâm trạng tốt nhất.
Giá trị nghệ thuật của hát Chèo: Chèo là nghệ thuật dân gian được xây dựng trên các kịch bản văn học, cốt truyện cổ có sẵn vì thế chúng mang tính nghệ thuật cao. Từ kết cấu, nhân vật đều được kể một cách chi tiết theo trình tự thời gian, tính cách nhân vật được bộ lộ rõ qua diễn xuất, hoàn cảnh của câu chuyện.
Nhìn vào vẻ đa dạng văn hóa của Việt Nam, không thể không nhắc đến nghệ thuật cải lương - một biểu tượng của sự phong phú và độc đáo trong di sản văn hóa của dân tộc. Cải lương không chỉ là một hình thức biểu diễn nghệ thuật mà còn là biểu tượng văn hóa sâu sắc, phản ánh đời sống tâm linh, lịch sử và nhân văn của người Việt Nam. Điều đặc biệt là cải lương không chỉ được coi là nghệ thuật truyền thống mà còn là một phần không thể tách rời khỏi cuộc sống hàng ngày của người dân Việt.
Cải lương là một thể loại nghệ thuật biểu diễn truyền thống của Việt Nam, thường được thực hiện trên sân khấu với sự kết hợp của âm nhạc, hát kịch, múa và diễn xuất. Từ "cải lương" xuất phát từ cụm từ "cải biên" và "lương thiện", chỉ sự cải biên các tác phẩm từ truyện cổ tích, truyện kinh điển và các tác phẩm văn học truyền thống sang dạng biểu diễn hát kịch.
Thường được biểu diễn bằng tiếng miền Nam, cải lương phản ánh cuộc sống, tâm trạng và giá trị văn hóa của người Việt Nam. Đặc điểm nổi bật của cải lương là sự kết hợp giữa hát, diễn xuất và múa, cùng với việc sử dụng âm nhạc và những cử chỉ biểu cảm để truyền đạt thông điệp của câu chuyện.
Trong quá trình phát triển, cải lương đã trải qua nhiều giai đoạn và có sự biến đổi, đa dạng về nội dung và hình thức biểu diễn. Tuy nhiên, bản sắc truyền thống của nó vẫn được giữ gìn và phát triển, là một phần không thể thiếu của văn hóa dân tộc Việt Nam.
Nguồn gốc lịch sử của nghệ thuật cải lương có thể được truy vết trở lại vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX tại miền Nam Việt Nam, đặc biệt là trong các khu vực vùng sông nước như miền Tây và miền Đồng bằng sông Cửu Long.
Trong giai đoạn này, dưới sự ảnh hưởng của các nền văn hóa như Trung Quốc và Ấn Độ, cùng với sự phát triển của các hình thức nghệ thuật truyền thống dân gian như hát chèo, hát tuồng, và đặc biệt là hát bội, nghệ sĩ và nhà làm phim Việt Nam đã bắt đầu cải biên các tác phẩm từ truyện cổ tích và truyện kinh điển thành dạng biểu diễn hát kịch.
Với sự phổ biến của nền công nghiệp giấy và hình thành lớp tư sản thành thị, các văn phòng, xưởng may, cửa hàng, và nhà hàng cũng là những nơi phát triển cải lương. Cải lương không chỉ là một hình thức giải trí mà còn trở thành phương tiện truyền đạt, giáo dục và tinh thần cho cả nhân dân nông thôn và thành thị.
Trong suốt quá trình phát triển, cải lương đã trải qua nhiều giai đoạn và biến đổi, từ những năm đầu khi chỉ có sự biểu diễn trên các sân khấu rong rêu cho đến khi trở thành một phần không thể thiếu của văn hóa dân tộc và có sự hiện diện mạnh mẽ trên các sân khấu chuyên nghiệp cũng như truyền hình.
Nghệ thuật cải lương đặc trưng bởi những đặc điểm rõ nét trong trang phục, sân khấu và âm nhạc, tạo nên một bức tranh đa dạng và phong phú của văn hóa dân tộc Việt Nam.
* Trang phục
Trong nghệ thuật cải lương, trang phục đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện bản sắc và tâm trạng của nhân vật. Những bộ trang phục được thiết kế tinh tế, từ những chiếc áo dài lộng lẫy đến các bộ áo cách điệu, đều phản ánh phong cách và đẳng cấp của từng nhân vật. Trang phục thường được làm từ những loại vải cao cấp, kết hợp với các hoa văn truyền thống và phụ kiện như nón lá, khăn rằn, tạo nên sự quý phái và trang nghiêm.
* Sân khấu
Sân khấu trong nghệ thuật cải lương thường được thiết kế một cách cầu kỳ, với sự chú trọng đến chi tiết và không gian. Các bộ phận trang trí như cửa sổ, cánh cửa, và các phụ kiện như đèn lồng, hoa sen, cây cỏ... đều được sắp xếp một cách cân đối và tinh tế, tạo ra một không gian độc đáo và lãng mạn, phản ánh bối cảnh và tâm trạng của câu chuyện.
* Ca nhạc
Âm nhạc đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra không khí và cảm xúc cho câu chuyện cải lương. Những bài hát được viết bằng tiếng miền Nam thường mang đậm nét dân tộc và cảm xúc, kèm theo giai điệu trữ tình và độc đáo của nhạc cụ truyền thống như đàn tranh, đàn nguyệt và đàn bầu. Âm nhạc cải lương không chỉ làm nổi bật văn hóa dân tộc mà còn làm tăng thêm sức hấp dẫn và sâu sắc cho tác phẩm biểu diễn.
* Phong cách biểu diễn
Trong nghệ thuật cải lương, phong cách biểu diễn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên sức hút và đặc trưng của tác phẩm biểu diễn. Nghệ sĩ cải lương thường thể hiện sự chân thực và sâu sắc trong diễn xuất, đặt nặng vào việc thể hiện cảm xúc và tâm trạng của nhân vật. Sự phối hợp giữa giọng hát, diễn xuất và cử chỉ giúp họ truyền đạt thông điệp của câu chuyện một cách tinh tế và ấn tượng.
Ngoài ra, khả năng sáng tạo và linh hoạt trong biểu diễn cũng là điểm nổi bật, giúp tạo ra những phong cách biểu diễn độc đáo và thu hút. Cuối cùng, sự tương tác gần gũi và thân thiện với khán giả cũng đóng vai trò quan trọng, tạo ra một môi trường trải nghiệm sâu sắc và đáng nhớ cho người xem.
Nghệ thuật cải lương không chỉ là biểu tượng của sự đa dạng và phong phú trong văn hóa dân tộc, mà còn là một phần không thể thiếu của cuộc sống và tinh thần của người Việt Nam. Hi vọng qua bài viết bạn sẽ hiểu được nhiều hơn về loại hình văn hóa nghệ thuật truyền thống này từ đó càng trân trọng và bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, đồng thời khám phá và đánh thức niềm tự hào về nền văn hóa đa dạng và phong phú của đất nước Việt Nam.
Tuồng là một bộ môn nghệ thuật sân khấu tổng hợp có các yếu tố văn học, âm nhạc, mỹ thuật, múa… tham gia. Để phân biệt với các loại kịch nói, kịch múa, kịch câm, opera,.. nghệ thuật biểu diễn này được xếp vào loại kịch hát dân tộc. Vì, cũng như ở nghệ thuật sân khấu chèo, cải lương…, tỉ lệ ca hát theo kiểu dân tộc ở đây chiếm phần đáng kể.
Tuồng còn được gọi là hát bộ hoặc hát bội. “Bộ” trong hát bộ bắt nguồn từ việc hát có điệu bộ, có trò trống, được hình thành từ cách gọi của dân gian. Về từ “bội” có ý kiến cho rằng từ này xuất phát trong từ “bội độc”, nghĩa là “ôn bài mà không cần sách”. Miền Trung, Nam phổ biến gọi là “bội” hoặc“bộ”, miền bắc gọi là “Tuồng”.
1. NGUỒN GỐC
Như hầu hết các loại hình sân khấu cổ truyền khác, thời điểm ra đời chính xác của Tuồng vẫn luôn là một chủ để gây nhiều tranh cãi và cần thêm những nghiên cứu lâu dài. Tuy nhiên, có 3 nhận định và giả thuyết chính nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu:
* Tuồng ra đời từ thời Trần thế kỷ XIII trên cơ sở kép hát tù binh Trung Quốc Lý Nguyên Cát truyền dạy cho Việt Nam.
Vào thế kỷ XII, quân Nguyên Mông xâm lược nước ta. Vào năm 1285, quân ta đại thắng quân địch ở trận Tây Kết và bắt được một kép hát người Tống tên Lý Nguyên Cát đi theo để phục vụ cho đội quân xâm lược. Hắn được giữ lại và lập một ban múa hát để mua vui cho nhà Trần. Lý Nguyên Cát dựa trên các truyện cổ làm ra các Tuồng tích hát theo điệu phương Bắc, rồi sau đó dạy lại cho các diễn viên Việt Nam. Từ đó, nhiều người cho rằng Tuồng của nước ta bắt đầu từ đây, ảnh hưởng từ Hí kịch của nhà Nguyên.
Tuy vậy, nhà nghiên cứu Trần Văn Khải cho rằng: “Khi quân Tàu thua chạy, quân ta bắt sống một số tàu quân trong đó có tên Lý Nguyên Cát biết múa hát. Nhà Trần bèn hậu đãi tên kép hát ấy để dạy cho người mình biết Hát bội. Song dạy về hình thức mà thôi, như múa men, vẽ mặt, mặc xiêm giáp… còn về nội dung, giọng hát, người mình đã có sẵn từ trước, nên không cần ai dạy. Nếu nói một kép hát Tàu qua dạy cho người Việt các giọng hát thật là phi lý”.
* Tuồng ra đời từ thế kỷ XVII tại Bình Định do Đào Duy Từ dạy cho người dân nơi đây và sau đó được lan truyền khắp cả nước.
Theo lịch sử, Đào Duy Từ (1572 – 1634) là người đầu tiên đặt nền móng cho nghệ thuật Tuồng của nước ta khi ông mang hình thức sân khấu này vào Đàng Trong theo chúa Nguyễn. Xuất thân là người Thanh Hóa, Đào Duy Từ là con trai của Đào Tá Hán, một xướng hát chuyên nghiệp. Tuy học rộng, biết nhiều nhưng do là con nhà phường Chèo, ông đã không được đi thi, trốn vào Đàng Trong phục vụ chúa Nguyễn. Trong thời gian sống tại Bình Định, ông đã dạy cho người dân ở đây cách diễn Tuồng. Tương truyền, ông đã từ Chèo và các hình thức diễn xướng dân gian ở miền Bắc mà đã xây dựng nghệ thuật Tuồng ở Đàng Trong và sáng tác vở “Sơn Hậu”. Điều này tuy đáng chú ý nhưng hiện tại vẫn chưa có tài liệu, dấu tích nào có thể xác minh được tác giả của vở này.
* Tuồng ra đời vào khoảng thế kỉ XVI và XVII từ các trò diễn sân khấu phát triển lên.
Trong “Sở khảo lịch sử Tuồng”, giáo sư Hoàng Châu Ký viết: “Nếu chỉ dựa vào những điểm như phong cách tự sự, loại sân khấu có hát và múa, thậm chí dựa vào chi tiết hơn một chút như hát có ngâm thơ, phú, hoặc hát có vãn vỉa, múa sử dụng cả tay, chân như Tuồng hiện nay… mà nói đó là Tuồng thì chưa thực là xác đáng, vì những đặc điểm trên đây không chỉ Tuồng mới có.”
Ông cho rằng những nghệ thuật sân khấu được ghi chép lại thời Lê Sơ chỉ là “bộ phận tiền thân của nghệ thuật Tuồng chứ chưa phải là nghệ thuật Tuồng, cũng có thể nói một cách khác là nó là nguồn gốc chính và gần gũi nhất của nghệ thuật Tuồng và cả Chèo”. Sau đó ông lại tiếp tục xét đến thời thịnh đạt của nghệ thuật Tuồng để tìm ngược lên giai đoạn hình thành của nó với những dẫn chứng về sự phát triển của Tuồng:
– Thời Minh Mạng (1820 – 1840) nghệ thuật Tuồng đã phát triển rầm rộ. Trong bộ máy nhà nước ở trung ương đã có thự Việt Tường là cơ quan phụ trách nghệ thuật Tuồng.
– Sách “Lịch triều tạp ký” của Cao Tẩu chép rằng Vua Lê Hiển Tông (1740 – 1786) nghiên cứu đồ án phục trang của các hình nhân vật in ở đầu truyện Tam quốc, chế tạo áo mão gươm đao, dạy cho cung nhân đánh nhau trên sân khấu.
– Phạm Đình Hổ viết trong “Vũ Trung tùy bút” như sau: “Các quan chính phủ ghét là hung lễ lại dùng lẫn lộn với cát lễ nên nghiêm cấm đã hơn mười năm. Đến năm canh tuất (1790) niên hiệu Quang Trung năm thứ hai, lại thấy dân gian bày trò “Hát Bội” ấy.”
Vậy có thể thấy rõ rằng tới thế kỷ XVIII nghệ thuật Tuồng đã đạt đến trình độ sân khấu khá cao. Cuối cùng, giáo sư Hoàng Châu Ký đã kết luận lại như sau: “Nhắc lại rằng ở phần trên chúng tôi đã nêu ý kiến, cho rằng nghệ thuật sân khấu thời Lê sơ chưa phải là Tuồng, đến thế kỷ XVIII thì Tuồng đã khá hoàn chỉnh. Vậy thời điểm hình thành của nó chỉ là ở vào khoảng các thế kỷ XVI và XVII.”
2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
* Trong thời kỳ phong kiến.
Từ thế kỷ XV, nhà Lê quan niệm nghệ thuật sân khấu là trò du hí tiểu nhân. Do vậy, tuy là người có tài, danh sĩ Đào Duy Từ vẫn bị cấm thi cử vì xuất thân trong gia đình “xướng ca vô lại”. Ông trốn vào Đàng Trong và được chúa Sãi[vô cùng trọng dụng. Ông chính là người đã có công lớn trong việc phát triển Tuồng ở nơi đây. Và từ đó, bộ môn nghệ thuật này trở nên vô cùng phát triển tại Đàng Trong do đối với các chúa và vua Nguyễn Tuồng là một công cụ tuyên truyền đầy hấp dẫn cho hệ thống chính trị và đạo đức mà họ đề cao.
Triều đại Tây Sơn cũng ưa chuộng Tuồng. Bản thân hoàng đế Quang Trung và nhiều tướng sĩ trong triều đình cũng xuất thân từ đào kép Tuồng. Giọng nói mạnh mẽ của dân Bình Định cùng đòn thế võ Bình Định đã để lại dấu ấn đậm nét trong bộ môn nghệ thuật này.
Tuồng càng phát triển cực thịnh dưới thời vương triều Nguyễn. Các công trình, cơ quan thuộc cung đình chỉ dành riêng cho Tuồng được xây dựng và thành lập: Thanh Bình từ đường (1825) – nhà thờ tổ của ngành hát bội nói riêng, của giới sân khấu Việt Nam nói chung; Thanh Bình thự – cơ quan quản lý việc múa hát cung đình và đào tạo nghệ nhân; Duyệt Thị đường (1826) – nhà hát Tuồng quốc gia được xây dựng quy mô trong Tử Cấm thành. Thú vị hơn, chính vua Minh Mạng đã trực tiếp tham gia vào viết kịch bản cho cho một đoạn trong vở Tuồng “Quần tiên hiến thọ”. Trong giai đoạn này, triều đình còn mời một kép hát người Hoa là Càn Cương Hầu tới kinh đô dạy điệu hát khách, làm phong phú thêm phần âm nhạc của nghệ thuật Tuồng.
Khi vua Tự Đức lên ngôi, Tuồng lại được nâng cao hơn và hoàn bị về nhiều phương diện. Ông cho xây thêm nhà hát Tuồng Minh Khiêm đường trong Khiêm cung (tức lăng Tự Đức), chiêu tập kép hay với đào đẹp về Phú Xuân, tổ chức “Ban hiệu thư” chuyên sáng tác, hiệu đính, nhuận sắc kịch bản Tuồng. Nếu trước kia, mỗi vở Tuồng chỉ từ 1 đến 3 hồi thì đến giai đoạn này đã xuất hiện những vở “kỳ vĩ trường thiên” như Học lâm gồm 20 hồi, Vạn bửu trình tường gồm 216 hồi có thể kéo dài tới mấy năm trời. Về sau, Tuồng tiếp tục được ưa chuộng bởi các vị vua Triều Nguyễn.
Nhưng không chỉ trong triều đình, khắp tỉnh thành từ Bắc chí Nam, dân chúng đua nhau lập đoàn Tuồng, gánh Tuồng tư nhân để diễn cố định hoặc lưu diễn. Hầu hết địa phương, mỗi lần hội hè, tế lễ, đều dựng rạp, mời nghệ nhân đến hát bội. Đặc biệt, dịp Tết Nguyên đán hằng năm, trong thành ngoài nội đâu đâu cũng diễn Tuồng khiến thiên hạ say mê tới mức:
Hát bội hành tội người ta,
Đàn ông bỏ vợ, đàn bà bỏ con!
* Trong thời kỳ cận đại.Bước sang thế kỷ XX, Tuồng vẫn giữ vai trò “quốc kịch”.
Giáo sư Nguyễn Lộc viết trong sách Nghệ thuật hát bội Việt Nam (NXB Văn Hoá, Hà Nội, 1994): “Có thể nói trong suốt thế kỷ XIX cũng như trước đó và non hai thập niên đầu của thế kỷ XX, hát bội gần như chiếm độc quyền trên toàn bộ sân khấu biểu diễn ở nước ta. Trong thời kỳ này ta biết ở đồng bằng Bắc Bộ còn có chèo và múa rối. Nhưng cả hai loại hình sân khấu này đều là sân khấu dân gian và nó cũng chỉ tồn tại ở nông thôn miền Bắc chứ chưa bao giờ có quy mô toàn quốc như hát bội.”
Song song với dòng Tuồng cung đình/Tuồng ngự, dòng Tuồng dân gian vẫn tiếp tục nảy nở tạo vẻ đẹp thú vị và phù hợp thị hiếu đại đa số quần chúng – trong đó có lắm vở Tuồng hài đã làm sân khấu hát bội sôi động hẳn nhờ gắn bó với hiện thực cuộc sống “bụi bặm đời thường”.
Trong giai đoạn 1930 – 1945, Tuồng ảnh hưởng khá nhiều bởi các tác phẩm văn học lãng mạn. Những vở gọi là “Tuồng tiểu thuyết” mang cốt truyện tình yêu nam nữ thị dân éo le, mùi mẫn, trở thành gu thời thượng. Thời gian này, cải lương vừa trải qua quá trình hình thành và đang phát triển mạnh. Không ít gánh Tuồng tìm cách thu hút khán giả bằng cách “cải lương hoá” và cả “kịch nói hoá” nghệ thuật hát bội cổ truyền.
Từ năm 1954, nghệ thuật Tuồng thịnh suy. Ở miền Bắc, sau một số năm cấm diễn Tuồng vì xem đấy là “sản phẩm phong kiến”, Nhà nước đã chủ trương phát huy văn hoá dân tộc và quan tâm đến các bộ môn hát bội, chèo, cải lương. Nhà hát Tuồng Việt Nam được thành lập năm 1959 tại Hà Nội, sau đổi tên thành Nhà hát Tuồng trung ương. Tuồng được giảng huấn trong trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn. Khi cần giới thiệu Tuồng Việt với quan khách nước ngoài tại Manila (Philippines) hoặc Hội chợ quốc tế Osaka (Nhật Bản), chính quyền Sài Gòn đã cử đoàn Ba Vũ từ Huế xuất ngoại trình diễn.
Giai đoạn bấy giờ, dẫu gặp lắm khó khăn do thời cuộc bất ổn, các công trình khảo tả và nghiên cứu về Tuồng vẫn được xúc tiến. Đó là các công trình của Nguyễn Nho Tuý, Hoàng Châu Ký, Nguyễn Lai, Lê Ngọc Cầu, Vũ Ngọc Liễn, v.v., thực hiện ở miền Bắc; và của Vương Hồng Sển, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Văn Quý, Huỳnh Khắc Dụng, Đinh Bằng Phi, v.v., thực hiện ở miền Nam. Ở hải ngoại, quý học giả Trần Văn Khê, Emile Gaspardone, Jules le Maỵtre, v.v, cũng bắt tay nghiên cứu Tuồng và có những đánh giá cao đối với nghệ thuật hát bội Việt Nam. Một số quyển sách tiêu biểu có thể kể đến như:
Sau kháng chiến chống Mỹ, nghệ thuật sân khấu Tuồng vẫn có những bước phát triển nhất định. Ví dụ như:
Vào năm 1976, ngay sau khi hai miền thống nhất, Hội diễn Tuồng toàn quốc đã được tổ chức tại Bình Định. Hàng chục đoàn Tuồng từ nhiều tỉnh thành khắp ba miền đất nước lần đầu tiên hân hoan gặp gỡ, giao lưu.
Nhà hát nghệ thuật hát bội TP.HCM hiện nay, vốn là Đoàn nghệ thuật hát bội TP. HCM ra đời năm 1977 đã tập hợp được nhiều diễn viên Tuồng “gạo cội” (Năm Đồ, Ba Út, Lệ Khanh,…) và có các tác giả thường trực là Đỗ Văn Rỡ và Đinh Bằng Phi. Năm 1979, băng ghi âm trích đoạn vở Phi Long tiễn chồng do NSND Năm Đồ diễn cùng NSƯT Châu Ký đem lại thành công vang dội: đoạt giải thưởng Hội đồng Âm nhạc thế giới thuộc UNESCO. Năm 1993, tại Liên hoan các trích đoạn Tuồng hay toàn quốc tổ chức ở Huế, đơn vị này dẫn đầu về số lượng huy chương vàng.
* Trong thời kỳ hiện đại.
Tuồng vẫn tiếp tục được coi là một trong những nghệ thuật sân khấu cổ truyền bác học và đặc sắc nhất của Việt Nam cũng như vẫn nhận được những sự chú ý của bạn bè quốc tế.
Tuy nhiên, hiện nay, nghệ thuật Tuồng ngày càng có nguy cơ bị mai một do thiếu đi sự quan tâm của cộng đồng nói chung và giới trẻ nói riêng.
3. CÁC ĐIỆU BỘ MÚA TUỒNG
* Tính ước lệ, tượng trưng trong nghệ thuật biểu diễn Tuồng.
Tuồng lấy sự cách điệu, lấy sự ước lệ làm những tiêu chí nghệ thuật căn bản. Tất cả những yếu tố của sân khấu Tuồng từ phục trang, hóa trang, sân khấu đến những động tác, điệu bộ đều có những đặc trưng này. Giáo sư Hoàng Chương đã viết: “Nhìn vào khuôn diện điểm trang của một vai diễn, người xem đã có thể phân biệt được ngay đâu là kẻ sang, kẻ hèn, trung thần, nịnh thần, gian thần… Chỉ với một cái roi, khi thì được xem như vũ khí, khi thì biến thành ngựa cưỡi; hay một cái bàn, khi thì là tảng đá, khi thì trở thành ngai vàng nhà vua.”
Trong việc tái hiện lại cuộc sống, Tuồng không hề có xu hướng tả thực mà chủ yếu là chỉ tả cái thần. Đây là biện pháp nhằm miêu tả lại những giá trị cốt lõi căn bản nhất và lược bỏ đi những chi tiết vụn vặt không mang lại hiệu quả nghệ thuật cao. Tất cả những lời nói, động tác, sự đi lại trên sân khấu Tuồng đều được cường điệu hóa để trở thành những điệu hát, điệu nói, điệu múa có nguyên tắc và niêm luật cụ thể.
Nhờ tính tượng trưng và ước lệ này mà Tuồng đã có thể mang lại cho khán giả những cảm nhận nghệ thuật rất đặc biệt. Nó là một đặc điểm quan trọng, một nguyên tắc cơ bản chi phối, bao trùm sâu sắc đến các hoạt động của vở diễn.
* Các điệu bộ tiêu biểu trong Tuồng: Về điệu bộ cơ bản, nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Tráng đã phân chia điệu bộ Tuồng thành các phần chính sau: mắt, tay, chân, vuốt râu, cưỡi ngựa.
- Về đôi mắt.
Đôi mắt chính là nguyên tắc diễn xuất hàng đầu đối với các diễn viên Tuồng. Qua đôi mắt, qua từng cách nhìn, cách ngó, qua những cử chỉ như trợn, trừng, liếc, đảo, người diễn Tuồng có thể truyền tải cho khán giả những cảm xúc, suy nghĩ, tình cảm vô cùng cụ thể. Ví dụ như sau:
+ Ngó nghiêng xuống: tượng trưng sự suy nghĩ để mưu tính kế gỡ rối, giải ngu
+ Ngó mơ nhìn (đôi mắt mơ nhìn vào người khác): tượng trưng cho sự yêu đương, ái tình.
+ Đảo lộn không ngừng: tượng trưng bị tà ma nhập, loạn trí, điên.
+ Trợn to: tượng trưng cho sự giận dữ.
+ Liếc qua liếc lại: tượng trưng sự oai vệ, hùng dũng của các vai kép võ và các vai đào võ.
+ Ngó đằm, liếc chậm: tượng trưng cho sự hiền từ.
- Về tay:
Trong nghệ thuật Tuồng, ngón tay chỉ luôn có nghĩa. Dù là chỉ một ngón tay, chỉ hai ngón tay hay chỉ nghiêng, chỉ úp thì mỗi cử động đều có lý do riêng. Bộ tay rất thông dụng của Tuồng là bộ Khai. Dưới đây là một số những cách chỉ thông thường:
+ Chỉ hai ngón tay úp thẳng trước ngực: là chỉ người hoặc đồ vật ở gần, của cô đào, kép võ.
+ Chỉ một ngón tay úp thẳng trước ngực: là chỉ đồ vật hiện có, của đào, kép văn.
+ Chỉ hai ngón tay nghiêng thẳng chéo phía trước: chỉ người hoặc đồ vật ở xa, của kép võ hay đào võ.
+ Chỉ một ngón nhằm thẳng trước mặt người khác: là chỉ để dạy dỗ người ấy.
+ Chỉ một ngón cạnh tai: là đương lắng tai nghe.
+ Chỉ một ngón giữa miệng và cằm: là tỏ ra mình mắc cỡ, hổ thẹn.
Cách chỉ ngón tay, tùy từng vai Tuồng sẽ có những đặc điểm khác nhau (dịu dàng, ngộ nghĩnh, thô kệch, cộc cằn,…). Đặc biệt khi đối thoại, kẻ dưới không bao giờ được chỉ vào người trên; bầy tôi không được chỉ vào quan thượng và con cái thì không được chỉ vào cha mẹ. Ngoài ra, còn có một nguyên tắc chung dành cho cả đào và kép là phép “Chỉ”: hễ chỉ chỗ nào thì mắt phải ngó theo chỗ đó chứ không được tay chỉ một nơi mà mắt thì ngó đi một ngả.
- Vuốt râu
Râu không phải muốn vuốt sao cũng được, người nghệ sĩ phải biết vuốt theo quy tắc đã được định sẵn. Nếu vuốt nửa chừng rồi dừng lại mang nghĩa là nhân vật đang thắc, suy nghĩ thì vuốt thẳng râu xuống lại mang ý nghĩa là đã tìm ra biện pháp giải quyết rồi. Râu trong Tuồng thường có 3 màu chủ yếu là trắng, đen, hung (đỏ). Những nhân vật tuổi trung niên trở lên thường mang râu, không kể nhân vật chính hay phản diện. Không chỉ có vậy, các loại râu khác nhau còn có những cách vuốt khác nhau. Ví dụ như sau:
Râu ba hoặc năm chòm:
+ Hai tay vuốt chòm bên mép, nửa chừng ngưng: vẻ suy nghĩ.
+ Vuốt thẳng tay: đã suy nghĩ xong.
+ Hai bàn tay bợ trọn hàm râu thẳng xuống: đắc ý, tự mãn, vui vẻ.
+ Một bàn tay bợ trọn hàm râu quăng bổ qua một bên: giận dữ, thách đố người đối thoại.
Râu quắn: Chỉ có một cách vuốt, dúng ngón cái và hai ngón kế lật ngửa đẩy từ bên này sang bên kia, rồi lật úp ba ngón láy lại qua bên này.
+ Vuốt chậm: đắc ý, vui vẻ.
+ Vuốt mau nhiều lần liên tiếp: giận dữ, bất bình.
Râu liên tu (từ mép tai này qua mép tai kia):
+ Hai bàn tay ôm hàm râu vuốt xuống, nửa chừng ngưng: thắc mắc, đương suy nghĩ.
+ Vuốt thẳng xuống: ngụ ý xong rồi.
+ Một tay choàng quay vuốt kéo trở lại: ngụ ý ta đây ai ai cũng phải kiêng nể.
+ Lần hai tay phía trong, phất hàm râu ra: đang giận dữ.
Râu chuột (tức râu mép, hai chùm mỏng, dài thòng xuống chỉ bọn nịnh, hạ cấp): Chỉ có một cách vuốt: dùng ngón cái và ngón trỏ xe mép râu rồi búng lên cả hai bên khiến cho khán giả ghét con người tiểu nhân hèn hạ.
- Về chân:
Hai chân có những bộ: Niêm, Thinh, Ký, Cầu. Một nghệ sĩ đóng vai võ, tay có cầm vũ khí hay không, trong buồng bước ra trước phải dùng hai tay mà múa bộ Khai (có vẻ như mở ra), sau đó lấy chân mặt mà Niêm (đặt cái chân hơi nghiêng, gót chân hơi lỏng đất) sau bàn chân trái, rồi đặt chân Thinh lên (chân cong hơi đưa cao ngang gối) và liền đó Ký xuống (đặt gót chân xuống đất, ngón chân hơi đưa lên) trước bàn chân trái Cầu tròn lên cao (chân hơn cong đưa lên cao) xoay tròn cái mình ba vòng, xong rồi chân trái để xuống đứng hình chữ đinh. Đào võ khi buồng bước ra cũng phải làm y như vậy, có điều phải múa kín đáo hơn, chân không giơ lên cao và không hở hang như kép vậy. Mỗi vai lại phải có một dáng điệu đi khác nhau, tùy theo tính chất của nhân vật đó. Ví dụ:
+ Kép văn: đi đứng chữ đinh khít, nhẹ nhàng chậm rãi.
+ Đào văn: đi đứng chữ nhất, nhẹ nhàng chậm rãi.
+ Kép võ: đi đứng chữ đinh khít. Thinh cầu cao, múa vẻ mạnh dạn. Thường đội kim khôi.
+ Đào võ: đi đứng chữ đinh khít. Múa bộ oai vệ nhưng kín đạo, chân không giơ cao , không bước lớn.
* Cưỡi ngựa
Bộ cưỡi ngựa trong Tuồng rất khéo léo và tinh tế. Chỉ cần một cái roi mà nghệ sĩ Tuồng đã có thể làm cho người xem hiểu được rằng mình đang cưỡi ngựa. Trong một buổi biểu diễn hát bội, khi kép võ gọi “mã lai” (hãy mang ngựa đến cho ta). Mã phu (người giữ ngựa) cầm roi thò ra, thụt vô, té nhào ra như bị ngựa đá lộn ra sân khấu, tay vẫn cầm roi (trong cánh gà có tiếng ngựa hí). Mã phu vỗ vào cây roi ý kiềm dỗ rồi trao cho chủ tướng. Đỡ roi, chân trái Thinh lên cao, để xuống, tay cầm roi quất vào chân mặt (ngụ ý đã lên ngựa). Tay trái nắm lại giữ dây cương, tay mặt giơ roi lên cao (ngụ ý giục ngựa) hai chân đi lẹ: ngụ ý tế ngựa.
Muốn ra bộ Ngựa tế, nghệ sĩ co chân trái lên, chân mặt chắc đi đều đều một vòng sân khấu, hai chân nài bước lớn: sải ngựa. Khi xuống ngựa: bước qua một bên roi, ra bộ tháo dây cương cột vào cây, quăng roi ngựa xuống đất.
* Vào nhà, ra nhà:
– Bước vào: chân trái Thinh lên rồi bước qua. Ngụ ý bước qua ngạch cửa để vào trong nhà.
– Bước ra: chân mặt Thinh lên, bước lớn qua.
– Vào, ra một cái chòi: cúi đầu xuống thấp.
* Ngồi ghế:
Nhân vật vua ngồi dáng chữ Đinh trên sâu khấu Tuồng. (Ảnh: Báo Đài truyền hình tiếng nói Việt Nam).
Ngoại trừ vai hề, các vai khác phải ngồi hai chân chấm đất theo hình chữ Đinh (vai võ, hầu, công). Đào ngồi thẳng lưng, hai chân khép thẳng song song.
* Bộ chân lẫn tay:
Thường dùng cho phần múa. Ấy là những bộ: Xỏ léo, Dương oai, Lật, Thinh, Luông, Lia thuận, nghịch, Bê.
– Xỏ léo: bàn tay trái xỏ trong nách mặt. Tay mặt choàng lên tay trái, cuốn tròn luôn thân mình, chân múa tròn một vòng.
– Dương oai: xòe hai bàn tay tréo ngoe , quầy tròn trước ngực rồi dang ra hai bên trái, mặt, hai chân cũng tréo qua lại như hai tay.
– Lật: chân mặt co lên , để xuống. Niêm sau gót chân trái ngà úp mình thẳng lưng rồi Thinh chân trái lên cao, Lật cả mình ngừa dậy cho gọn. Lúc ấy hai tay chống nạnh. Khi Lật ngửa mình rồi thì tay chỉ theo hướng tùy vai Tuồng. Ba bộ Xỏ léo, Dương oai, Lật đều dùng trong Lôi Bạch của các kép võ. Đào Võ chỉ dùng hai bộ Xỏ léo, Dương oai khi Bạch.
– Thỉnh luông: chân trái Thịnh lên cao thẳng gối , chân mặt chấm đất cho Tề (vững). Tay trái xòe ấm (úp xuống) thẳng cánh, tay mặt giơ cong lên ngang trán, xòe dương (ngửa lên) phía bên mặt rồi ngồi xuống chấm đất.
– Lia thuận, nghịch: hai bàn chân chấm đất chúm lại, nhón gót lên ,cùng một lúc nhấc chân liên tiếp từ bên này qua bên kia.
– Lia thuận: một vòng tròn qua phía bên mặt.
– Lia nghịch: trở lại một vòng tròn qua bên trái. Trong lúc ấy, tay mặt cặp cây thương đứng sau lưng, còn tay trái cung tròn đưa ra phía trước. Cặp mắt trợn to, Lia như vậy đến ngay trước mặt kẻ địch, phun nước miếng hay hất cằm. Hoặc dùng ngón tay cái chỉ vào mình, ngón tay út chỉ vào kẻ địch, ngụ ý: khinh rẻ đối phương.
– Bê: đào, kép thường dùng khi nghe báo hung tin. Kép võ hay kép văn pha võ khi Bê phải chúm bàn chân lại, nhón gót cùng một lúc nhấc mau từ bên này qua bên kia, uyển chuyển. Như vậy thì bộ Bê cũng khá giống bộ Lia. Tuy nhiên nếu bộ Lia mang vẻ mạnh mẽ thì bộ Bê lại thể hiện sự yếu đuối....
4. NHẠC CỤ
Theo NSƯT Nguyễn Văn Quý thì dàn nhạc của Tuồng gồm có: trống chiến, trống cơm, trống chầu, kèn song hỷ, hầu cuổn, đàn nhị, đàn kìm, đàn đoán, đàn sến, ống tiêu, chập chõa, đổ đường, sanh, phách.
* Trống
– Trống chiến thường dùng hơn các loại trống khác. Dùng để khi đánh giặc, lúc múa hát. Trống chiến quan trọng vì nghệ sĩ nghe tiếng trống để múa và hát. Không có trống không hát được. Như vậy, trống chiến có công dụng đa dạng, phong phú, diễn tả được tình tiết, trạng huống tùy theo cảnh diễn biến của vở Tuồng.
– Trống cái là thứ trống nhỏ để ra hiệu trong ba nhịp đờn đưa hơi cho diễn viên biết đặng bắt qua Nói Lối hay bắt qua Hát Nam.
– Trống cơm dùng khi Hát Nam Xuân hay Nam Ai để đưa hơi phụ với đờn. Sở dĩ người ta gọi trống cơm vì trước khi đánh trống, người ta trét hai đầu trong mỗi đầu một miếng cơm dẻo để đánh cho ấm tiếng.
– Đặc biệt nhất là tiếng trống chầu. Không chỉ được dùng khi ra Tuồng đánh sáu tiếng, mãn xuất đánh chín tiếng mà trống trầu còn được dùng để khen thưởng, khiển trách, phạt diễn viên. Nghệ sĩ nếu diễn hát hay vừa thì chỉ đánh một tiếng “thùng” ngay giữa mặt trăng của trống. Khá hơn thì đánh hai tiếng gọi là “chầu đôi”. Xuất sắc: thưởng ba tiếng gọi là “chầu ba”. Khiển trách, phạt: đánh ngoài bìa (dăm) trống nghe tiếng “tang”. Lỗi nặng, cảnh cáo: gõ vào vành (tang trống nghe tiếng “cắc”. Như vậy , người cầm chầu có thể đánh vào giữa mặt trống , cạnh trống hoặc vành gỗ (tang trống). Các tiếng trống chầu đã được quy định sẵn. Các diễn viên đều hiểu khi nghe thấy tiếng trống phê phán đó mà cố diễn xuất cho thật hay và rất e dè, kiêng sợ, tránh tiếng trong phạt. Do đó, Tuồng có một quy ước bất thành văn rất quy củ là : diễn viên không được phép mà cũng không dám “hát ẩu”. Chỉ cần nghe một tiếng “tịch” (tiếng trống bị bịt lại) là diễn viên biết mình bị “chê”. Ngược lại, không phải ai cũng cầm chầu được. Phải là người có tài, có kinh nghiệm già dặn, biểu rõ âm luật, quy tắc , luật lệ cầm chầu.
– Trống lệnh có hai cái treo trong buồng trò, dùng lúc vua ra đại triệu hoặc lúc mới khởi diễn Tuồng.
– Trống bắc cấu phối hợp với chập chõa dùng lúc các quan ra lâm triều hoặc khi vẫn hát . Chiêng treo dưới giá để đánh phụ họa với trống chiến. Đánh chiêng dùng hai miếng tre hoặc hai miếng cây (dùi) gọi là “cặp sanh”.
Như vậy , trống là nhạc cụ chính , chủ yếu trong Tuồng. Các loại trống và các cách đánh trống (thường được gọi là Bài Trống) làm nhạc đệm, tòng theo các kiểu hát như:
– Trống chiến đánh lên giữ nhịp cho người Nói Lối.
– Trống đâm bang đánh lên là tướng sắp ra trận.
– Trống tẩu mã dùng khi tướng đuổi theo giặc chạy trốn.
– Trống giao chiến là khi hai bên xếp trận đánh nhau.
– Trống đồ đệm khi đào kép ngâm, xướng.
– Trống đổ chiêu nhịp khi đào kép đi vòng sân khấu.
– Trống rụp đổ sang dùng cho tướng Nói Lối.
– Trống đổ xây tá đệm nhịp lúc tướng say rượu.
– Trống cầm canh (còn gọi là tiếng trống thu không) dùng để báo hiệu về thời gian, đánh từng hồi ba tiếng một, thong thả, đều nhịp, âm thanh thưa, nhẹ.
* Các loại khác:
– Kèn: Ngoài trống ra, trong dàn nhạc Tuồng có một dụng cụ không thể thiếu được, đó là kèn dăm (kèn thao), một nhạc cụ thuộc bộ khí (hơi), phải dùng hơi để thổi. Dân chúng thường gọi kèn này là “kèn đám ma” vì các nhà đòn hay dùng trong các cuộc tang ma. Khi các diễn viên trình diễn các vai bi lụy, sầu oán, thương đau thì tiếng kèn dăm phụ họa nâng tiếng hát của diễn viên lên tuyệt đỉnh. Vì nếu tiếng trống tạo được bầu không khí sôi nổi thì âm thanh trầm của kèn dăm xoáy thẳng vào đáy tâm hồn của khán giả, dường như rút ruột người xem.
– Hầu cuổn không có tòa lạ, hơi trầm, ấm để thổi theo giọng Quảng lúc khai màn, dâng rượu, vào trướng.
– Đàn cò (đàn nhị) và đàn chánh. Kế là đàn gáo, đàn kìm, đàn tam, đàn sến.
– Ống sáo dùng phụ họa các cây đàn khỉ Hát Nam hay Hát Khách (cho đào). Hát giọng Hồ Quảng thêm cây đàn “cuốn” để đưa hơi.
– Ống tiêu dùng thổi đưa hơi khi hát Nam Ai.
– Sanh, phách dùng để giữ nhịp theo các nhạc khí khác diễn tấu, đào kép hát.
- Hát ả đào
Theo Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên: Đời vua Lý Thái Tổ (1010-1028) có người ca nương tên là Đào Thị giỏi nghề ca hát, thường được nhà vua ban thưởng. Người thời bấy giờ ngưỡng mộ danh tiếng của Đào Thị nên phàm con hát đều gọi là Đào nương. Theo đó, Ả đào được coi là tên gọi cổ xưa nhất của thể loại âm nhạc ca trù.
- Hát cửa đình
Đây là hình thức sinh hoạt ca trù phục vụ cho nghi thức tế lễ thần thánh ở các đình hay đền làng.
- Hát ca trù
Xưa có lệ hát thẻ. Thẻ gọi là Trù, làm bằng mảnh tre ghi mức tiền ứng với giá trị mỗi thẻ, dùng để thưởng ả đào thay cho tiền mặt. Vì thế hát ả đào còn được gọi là ca trù, nghĩa là hát thẻ.
- Hát cửa quyền
Đây là hình thức sinh hoạt nghệ thuật ca trù trong nghi thức cung đình thời phong kiến.
- Hát nhà trò
Ả đào miệng hát tay múa uốn éo lên xuống, làm bộ điệu người điên, người say rượu, người đi săn… Vì vừa hát vừa làm trò nên gọi là hát nhà trò.
- Hát nhà tơ
Được gọi là Hát nhà tơ, nghĩa là hát ở trong ty quan.
- Hát cô đầu
Những ả đào danh ca dạy con em thành nghề, mỗi khi đi hát đình đám bọn con em phải trích ra một món tiền để cung dương thầy gọi là tiền Đầu. Sau người ta dùng tiếng cô thầy tiếng ả cho rõ ràng và tiếng đầu thay tiếng đào để tỏ ý tán tụng là bậc danh ca lão luyện đã dạy nhiều con em thành tài và được tặng nhiều món tiền đầu nên gọi là Cô đầu.
- Hát ca công
Ca công là danh từ được dùng để chỉ các nghệ sĩ chốn giáo phường. Theo đó, Hát ca công hàm ý là âm nhạc giáo phường.
- Ca nương – Ả đào
Ca nương – Ả đào là thành viên quan trọng của tiệc ca trù, vai trò của ả đào là làm ca sĩ cho tiệc hát nhưng khác với ca sĩ ở chỗ ả đào vừa hát vừa gõ phách.
- Kép, kép đàn
Kép cùng với đào là những thành viên quan trọng trong tổ chức hát ca trù, thông thường cũng được gọi chung là đào kép, hay thời nay gọi là ca nương.
Kép đàn, trong đó vai trò chính của kép là gảy đàn (nhạc công), đào là người hát.
- Quan viên, cầm chầu
Khái niệm quan viên trong ca trù dùng để gọi những người tham gia nghe hát. Trong một cuộc hát ca trù, quan viên cũng có thể tham gia cầm chầu. Họ có thể vừa là công chúng thưởng thức và cũng có thể là thành viên của ban nhạc.
Ngoài danh xưng các chủ thể văn hóa trong ca trù, để tạo nên giá trị nghệ thuật âm nhạc trong ca trù, cần có sự hòa quyện của nghệ thuật diễn xướng, các nhạc cụ và lời ca tiếng hát của đào nương, trong đó, cỗ phách, đàn đáy, trống chầu là linh hồn của nghệ thuật ca trù.
3. Các vùng ca trù trên cả nước
Hiện nay, cả nước có 15 tỉnh, thành phố có hoạt động của các CLB, giáo phường ca trù. Đại đa số nằm ở các tỉnh, thành Bắc Bộ đến Hà Tĩnh, Quảng Bình và Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhắc đến các vùng ca trù nổi tiếng từ xưa, có thể kể đến vùng ca trù Hà Tĩnh với cái nôi ca trù làng Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân; vùng ca trù Hà Tây cũ với các làng, giáo phường ca trù như Chanh Thôn, Ngãi Cầu; và đặc biệt là vùng ca trù khu vực phía Đông Hà Nội như Đông Anh, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương với mật độ dày đặc các làng, giáo phường ca trù cổ. Các vùng ca trù trên cả nước trước đây có tới hàng trăm làng, giáo phường ca trù. Hiện có tổng cộng hơn 60 CLB, giáo phường, nhóm ca trù đang hoạt động. So với trước khi được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể thế giới năm 2009 thì số lượng CLB ca trù đã tăng lên đáng kể, nhưng số lượng nghệ nhân ca trù lão làng đã tiếp tục giảm xuống do nhiều cụ đã mất.
Xét về các CLB, giáo phường thì Hà Nội có gần 20 CLB, giáo phường, nhóm, trung tâm ca trù đã và đang hoạt động ở cả nội và ngoại thành. Ở một số địa phương lân cận Hà Nội và trên cả nước, cũng có nhiều CLB đang hoạt động, có thể kể đến các CLB như: Hưng Yên có Làng ca trù Đào Đặng ở xã Trung Nghĩa, TP. Hưng Yên, CLB ca trù Giáo Phòng; Ninh Bình có CLB ca trù đền thờ Nguyễn Công Trứ, CLB ca trù Cố Viên Lầu; Hà Tĩnh có CLB ca trù Nguyễn Công Trứ, CLB ca trù Cổ Đạm, CLB ca trù TTVH huyện Nghi Xuân; Quảng Bình có CLB ca trù Đông Dương.
4. Giá trị di sản ca trù
* Giá trị âm nhạc, nghệ thuật trình diễn, văn học, giải trí
- Giá trị âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn: Có thể nói, về nghệ thuật âm nhạc, ca trù là tên gọi chung của rất nhiều điệu hát bài bản cần phân loại trong 46 điệu hát (Theo Đỗ Bằng Đoàn-Đỗ Trọng Huề trong Việt Nam ca trù biên khảo) cơ bản chia thành 3 lối: Hát chơi 15 điệu; Hát cửa đình 12 điệu; Hát thi gồm các điệu còn lại. Số lượng điệu hát đến nay vẫn chưa được xác định. Ca trù vô cùng kén khách, kén không gian biểu diễn, kỹ thuật thanh nhạc phức tạp, tinh vi và có thể nói hát ca trù là khó nhất. Chính vì vẻ đẹp trong tiếng hát ca trù như vậy nên dù nghệ thuật biểu diễn ca trù được thể hiện trong một không gian tĩnh lặng, khá nhỏ hẹp của các cửa đình, thì người nghe vẫn thấy hết sự trong trẻo, rõ nét qua từng nhịp phách, từng tiếng đàn và từng nhịp phách hòa với giọng ca của ca nương. Giá trị âm nhạc, giá trị trình diễn nằm ở chỗ đó.
- Giá trị giải trí, ngoại giao: Theo Nguyễn Xuân Diện trong Lịch sử và nghệ thuật ca trù thì ngày đó, giáo phường An Thanh huyện Lập Thạch đã được mời về kinh đô để hát xướng đón sứ bộ các nước, cho thấy các giáo phường trong dân gian xưa đã được góp phần tham gia vào các hoạt động lễ tiết ngoại giao của nhà nước. Giá trị di sản ca trù còn được thể hiện trên 8 khía cạnh giải trí. Thời xưa, hát ca trù để vua, quan và nhân dân thưởng thức, giao lưu và sinh hoạt cộng đồng làng xã. Thời Pháp thuộc, hát ca trù ở nội thành Hà Nội bị biến thể thành hát cô đầu, cô đầu rượu để phục vụ mục đích giải trí (theo khía cạnh giải trí không lành mạnh) của giới ăn chơi.
Hát nghi lễ
Đây là phần lễ hát múa phục vụ các nghi lễ. Những người hát nghi lễ phải được tuyển chọn kỹ càng thể hiện nghiêm túc từ trang phục, giọng hát, điệu múa. Khởi đầu hát nghi lễ là phải có mâm lễ dâng lên. Sau đó hát chào Vua và mời đức Vua về đình làng dự lễ hội. Khi các thủ tục dâng lễ đã hoàn tất. Đoàn kiệu bát công do 8 trai làng trẻ trung khôi ngô tuấn tú chưa vợ, nhà không có tang chế, với đầy đủ trướng, phướn, tiếng chiêng vang lên khởi kiệu rước Vua từ điện về đình. Khi rước có 4 đào Xoan trẻ tuổi chưa chồng, đi dưới gầm kiệu hát điệu phụ giá:
“Tám người trai kiệu bước vào
Tay lót khăn đào rước lấy vua lên
Vui lên thánh đức trị vì
Vua về nghe hát mừng làng sống lâu”
Sau nghi lễ khởi đầu rước kiệu Vua vào nội điện là đến giáo trống và giáo pháo thể hiện hai làn điệu múa và hát trình diễn thành liên khúc. Trong giáo trống được thể hiện hai âm, âm trầm và âm cao (âm trầm lá tầm); (âm cao gọi là vông) muốn thể hiện âm tầm và vông của trống phải có mâm cơm bưng lên mặt trống. Gọi là trống cơm do phường Xoan vỗ vang lên trong tiệc đình làng, cầu mong cho trăm họ no đủ, an hòa phúc lộc được thể hiện bằng lời ca như:
“Trống này be bé mà vẻ rồng vàng
Đôi tay tôi nâng cả đám làng
Trống tôi vỗ bên “tầm” thờ vua, thờ chúa
Trống tôi vỗ lên “Vông”
Thờ Đức Đại vương”
Sau giáo trống, giáo pháo là điệu thơ nhang. Thơ nhang là làn điệu hát dâng hương lên ban thờ Đại Vương, cầu xin vua giáng phúc cho dân làng. Khi múa hát các đoàn, Xoan tây cầm nhang vừa múa vừa hát có câu:
“Cầu vua lên ngự ngai vàng
Vua về nghe hát mừng làng sống lâu”
Trên đây là giới thiệu sơ lược một phần về hát Xoan và nghi lễ, còn hát quả cách thì đa dạng và phong phú hơn nhiều, được thể hiện từ các quan viên, đến mọi tầng lớp trong xã hội phong kiến, thuật ngữ quả cách có hai từ quả và cách, quả là làn điệu, còn cách là trình diễn.
Hát quả cách
Đây là phần hát đa dạng, phong phú của mọi tầng lớp xã hội hát và múa được thể hiện nhiều làn điệu và biến tấu. Hát quả cách xuất hiện sớm nhất bắt nguồn từ lao động nông nghiệp hình thành, có trước cả thời Hùng Vương dựng nước. Hát quả cách đa dạng và phong phú phản ảnh trong lao động thuộc các ngành nghề khác nhau. Theo thống kê chưa đầy đủ đã có 15 quả cách, đó là: Nhàn ngân cách, tràng mai cách, xoan thời cách, mục đồng cách, đồng dẫy cách, hồi liên cách, tứ mùa cách, thuyền chèo cách, từ dân cách, chơi dân cách, kiều giang cách…
Trong 15 quả cách được thể hiện hát Xoan thành 4 nhóm bổ sung:
Nhóm thứ nhất là: Những quả cách kể về các nhân vật lịch sử đó là: Kiều giang cách, hội liên cách và tứ dân cách.
Nhóm thứ 2 là: Những quả cách hát chúc các bậc thánh nhân tiên đế đã được dân chúng tôn vinh là những người đem lại hạnh phúc thịnh vượng cho muôn dân, đó là: Nhàn ngân cách, trùng mai cách, thuyền chèo cách.
Nhóm thứ 3 là: Các quả cách thể hiện những cảm xúc của con người trước thiên nhiên bốn mùa xuân, hạ, thu, đông đó là: Quả cách xoan thời, quả cách hạ thời, thu thời cách, đồng thời cách.
Nhóm thứ 4 là: Những quả cách miêu tả về 4 lớp người trong xã hội nông thôn thời phong kiến thể hiện trên các nghề (dạy học, nghề nông, làm ruộng, chăn tằm, đánh cá...): Đúc đồng, đóng thuyền, làm mộc, làm rèn và nghề thương (người làm nghề buôn bán) được thể hiện các quả cách: Ngư tiểu cách, canh mục cách, tứ dân cách, để thấy sự đa dạng và phong phú của quả cách.
Hát giao duyên
Đây là phần hát Xoan thể hiện tình cảm của con người với con người bằng tình yêu, bằng trí tuệ đó là hát Bỏ Bộ, hát Huề, đố Huề, đố chữ, hát Đúm và hát Bợm.
Hát múa Bỏ Bộ là múa hát minh họa muôn mặt của đời sống sinh hoạt của người nông dân thể hiện những động tác, những công việc, thậm chí từng công đoạn của công việc, nên lời hát đến đâu thì động tác múa trình diễn minh hoạ đến đấy.
Hát Huề là hát đố chữ được hát liền mạch, liền khúc như Huề đố chữ là những câu hát lắt léo để thử trí, thử tài, nhằm thôi thúc, khích lệ tinh thần hiếu học. Thí dụ trong lời ca đó có câu:
“Anh đố em biết chữ gì trên trời rơi xuống?
Anh đố em biết chữ gì làm ruộng nuôi ta?
Anh đố em biết chữ gì nên việc cửa, việc nhà?
Anh đố em biết chữ gì thấy người qua mà chẳng chào?
Một đào Xoan hát đáp lại rằng:
Anh đã đố thì anh phải giảng
Em chẳng biết thời anh giảng giải cho dân làng nghe
Chàng Xoan cất tiếng hát ơ hờ... em không biết thì anh xin giảng giải
Vũ là mưa trên trời rơi xuống
Ngưu là trâu làm ruộng nuôi ta
Thê là vợ nên giỏi việc cửa, việc nhà
Nộ là giận thấy người qua chẳng chào.
Hát đúm là một nhóm người tập trung làm việc với một nhóm người kia, có thể hát về công việc họ làm và kết quả đạt được khi mưa thuận, gió hòa là gieo trồng đúng ngày, đúng vụ nên có được những vụ mùa bội thu.
Hát Bợm là hát tỏ tình giao duyên một nhóm nam, nhóm nữ, đi lễ, đi trẩy hội, họ gặp nhau hai bên nam nữ thay nhau lúc đầu là hát thăm dò sau là hát tỏ tình rồi hẹn hò. Từ đây sẽ có những cuộc hẹn hò đôi lứa riêng để nên vợ, nên chồng. Bài khái lược diễn giải trên đây để chứng minh giá trị lịch sử văn hóa của người Việt cổ nói lên tầm quan trọng giá trị nghệ thuật phong phú, sâu sắc của hát Xoan trong đời sống cư dân nông nghiệp vùng đất Tổ cội nguồn. Hát Xoan xuất hiện rất sớm, như các nhà khoa học ở các nước tiên tiến trên thế giới đến nghiên cứu nguồn gốc dân tộc Việt Nam đã xác nhận.
Năm 1899, bác sĩ Gide nhà nghiên cứu người Pháp đã công bố quá trình nghiên cứu và nghệ thuật hát cổ ở Việt Nam. Năm 1889, Terrien do coperre, nhà nghiên cứu văn hóa người Anh đã nêu sự đa dạng phong phú của hát Xoan. Nhà khoa học Đức Robert von Heine Geldern cho rằng, những con người tạo ra nền văn minh Đông Sơn đã tạo nên sức sống được thể hiện bằng nghệ thuật điêu khắc và những âm hưởng ca hát dân gian phong phú.
Hai nhà khoa học Mỹ W.G Solheim Jorhman khẳng định văn hóa Hòa Bình ở Việt Nam là văn hóa bản địa, không hề chịu ảnh hưởng chi phối từ bên ngoài cả sản phẩm vật chất và sản phẩm tinh thần là hát Xoan. Nhà khoa học Nga: N.Vavilov, nhà khoa học Pháp Medeleine colani và nhà văn hóa Trung Quốc Trương Quang Trực sau khi khai quật ở vùng chân núi Lam Gran - Hòa Bình đã phát hiện và kết luận: “Việt Nam đã có một nền văn hóa tiền sử phát triển rực rỡ, tiên tiến sáng tạo và sống động chưa từng thấy ở nơi nào trên thế giới. Đây thực sự là nôi văn minh của nhân loại”.
Tổ tiên người Việt ngay từ thời tiền sử đã để lại cho thế hệ mai sau những tài sản vô giá, không chỉ có giá trị về mặt vật chất mà còn có cả một kho tàng văn hóa tinh thần phong phú đã ngấm vào xương tủy của dòng máu Lạc Hồng qua ngàn đời đã bồi đắp nên bản lĩnh Việt Nam để gìn giữ non sông gấm vóc bảo vệ nền độc lập dân tộc. Những cặp nam nữ múa hát sôi động ở mọi nơi, mọi chốn tồn tại hàng vạn năm. Chính là những bản tráng ca, bản hùng ca, nó không chỉ là tài sản vô giá của Việt Nam, mà còn là vốn quý của nhân loại đã được UNESCO công nhận.
Để bảo tồn và phát huy hát Xoan, bản trường ca của nhân loại thì mỗi người dân Việt Nam nói chung và mỗi người dân Phú Thọ nói riêng tự đặt ra câu hỏi cần phải làm gì đây để bản trường ca của nhân loại vang vọng mãi mãi muôn đời.
Then là một hình thức sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng lâu đời của người Tày Cao Bằng. Hát then và cây đàn tính bắt nguồn từ cuộc sống lao động tập thể, xuất hiện từ nhu cầu hưởng thụ văn hóa của cộng đồng người Tày cổ.
Then tính xuất hiện từ lâu, song chúng ta vẫn chưa xác định chuẩn xác thời điểm sinh ra nó. Chỉ biết rằng, then tính phát sinh và phát triển gắn liền với quá trình lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, nơi quê hương biên viễn Cao Bằng.
Cao Bằng được coi là nơi khởi nguồn của phong cách then nam hay còn gọi là then võ; nơi có nhiều thầy then giỏi nghề, hát hay, đàn giỏi, thực hành các nghi lễ then đúng quy cách cổ truyền. Nghi lễ then cúng ở Cao Bằng có nhiều loại khác nhau, nhưng các loại thường gặp là: then kỳ yên, then pây sử, then cái cấu, cầu bjoóc, then hỉn ẻn (hỉn én)... Nội dung và hình thức then ở Cao Bằng mang những đặc điểm chung của then Tày, Nùng; đồng thời lại có những nét riêng của then Cao Bằng thể hiện ở một số chi tiết trong cách đàn, hát, múa, y phục...
Ra đời và phát triển lâu dài trong lòng dân tộc, then chứa đựng trong nó những dấu ấn về lịch sử xã hội người Tày. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua diễn xướng then và đặc biệt là văn bản lời hát then. Trải qua những thăng trầm của thời gian và sự biến cải bởi phương thức truyền miệng, nhưng về cơ bản, diễn xướng then trong đó có lời hát then vẫn giữ được những nội dung phản ánh ban đầu.
Then là tích hợp các giá trị văn hoá, phản ánh được trong nó nhiều nét đẹp trong truyền thống của người Tày. Đó là tinh thần cộng đồng, sự đoàn kết tương trợ giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và rộng ra là trong làng bản. Sự cổ vũ nhiệt tình và trân trọng của cộng đồng đối với thầy then đã chứng tỏ rằng then có vị trí quan trọng trong đời sống xã hội của người Tày. Qua đó, có thể thấy rằng, đối với đồng bào Tày nói chung thì nghề thầy cúng trong đó có then là nghề cứu nhân độ thế, những người làm nghề chân chính luôn nhận được sự trân trọng của mọi người.
Đối với các lễ then thường (then đi hành nghề) thì còn thấy được ở đó các giá trị thuộc về đạo đức, lối sống gắn với những truyền thống văn hoá lâu đời của người Tày. Chẳng hạn như truyền thống yêu già kính trẻ là một trong những nét đẹp nổi bật trong văn hoá ứng xử được thể hiện khá rõ trong nghi lễ giải hạn. Với mong muốn trẻ em sinh ra được khoẻ mạnh, thông minh, trong lễ đầy tháng, gia đình thường làm lễ thôi nôi và đồng thời làm lễ cúng Mẹ Hoa. Ngoài ra, trong then có khá nhiều nghi lễ liên quan đến người già như lễ mừng thọ cho cha mẹ là tục thể hiện sự cầu mong ông bà cha mẹ trường thọ với con cháu.
Mặt khác, then là sự hội tụ những tài hoa nghệ thuật trong dân gian. Những thầy then bằng công việc của mình đã góp phần đắc lực vào việc phổ biến và lưu truyền nghệ thuật biểu diễn then từ đời này sang đời khác. Nếu như trong lễ then thường, các nghệ nhân chỉ biểu diễn chính là đàn và hát thì trong then cấp sắc, họ đã thực sự thể hiện hết mình thông qua các hình thức biểu diễn như múa, diễn trò, nhập đồng... Đặc biệt, ở đây phải kể đến các điệu múa trong then. Chỉ có thông qua lễ cấp sắc, người xem mới thực sự được thưởng thức hết vẻ đẹp tinh tế, sự phong phú và cuốn hút của các điệu múa dân gian Tày. Và vì vậy, cũng có thể nói rằng then đại lễ trong đó có then cấp sắc là một diễn xướng góp phần lưu giữ những giá trị văn hoá nghệ thuật tinh túy của người Tày.
Then nói chung và đặc biệt là then cấp sắc nói riêng là sự tập trung cao độ nghệ thuật nguyên hợp của người Tày với sự tham gia của nhiều thành tố nghệ thuật khác nhau mà tiêu biểu là nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật biểu diễn cộng với môi trường diễn xướng mang đậm màu sắc tâm linh. Sự phối kết hợp của các thành tố trong nghệ thuật biểu diễn như hát, đàn tính, xóc nhạc, múa... một cách đan xen, hoà nhập đã tạo nên một hình thức nghệ thuật biểu diễn then khá đặc trưng của người Tày. Có thể tìm thấy sự phong phú đa dạng từ ngay trong mỗi thành tố của nghệ thuật biểu diễn. Âm nhạc trong then là sự hội tụ các làn điệu dân ca của từng địa phương dân tộc Tày. Vì vậy, then của mỗi địa phương là sự phản ánh những sắc thái và phong cách biểu diễn của từng địa phương. Do đó, thông qua diễn xướng then, người thưởng thức sẽ dễ dàng nắm bắt được đặc trưng cũng như phong cách biểu diễn của từng dòng then. Chẳng hạn, phong cách biểu diễn của các thầy then nam miền Đông Cao Bằng mạnh mẽ, tự tin với những tiết tấu âm nhạc nhanh mạnh, phóng khoáng trong khi then miền Tây giàu nữ tính nên nhẹ nhàng, sâu lắng, thiên về tâm tình tự sự.
Thông qua nhãn quan của những người làm nghề then, thế giới ba tầng được hiện lên thật rành mạch với cõi trời, cõi đất và cõi nhân gian mà ở đó với tư cách là người thông quan được với thần linh, người làm then đã đi lại được một cách dễ dàng từ cõi này sang cõi khác. Thông qua thầy then, cõi trời được cụ thể hoá, hiện thực hoá như là một hình ảnh lý tưởng của cõi nhân gian. Hay nói cách khác, then đã nhân hoá cõi trời. Ngoài cung phủ nguy nga tráng lệ, cõi trời của then cũng rất gần gũi với đời thường: có rừng, có biển, có ruộng vườn, chợ búa... Điều đó phản ánh sự nhận thức một cách hồn nhiên, thô mộc trong thế giới quan của người Tày, Nùng.
Ví, giặm được hình thành, phát triển trong lao động và đời sống của người dân Nghệ - Tĩnh, đã được UNESCO ghi danh vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại năm 2014. Những ca từ, giai điệu mộc mạc, dân dã được thể hiện trong ngữ âm, xứ Nghệ đã làm nên chất riêng của dân ca ví, giặm thắm đượm tình yêu quê hương, đất nước, con người và tình yêu đôi lứa, góp phần gìn giữ các tập tục, truyền thống tốt đẹp trong ứng xử xã hội ở làng xã.
1. Đôi nét về dân ca ví, giặm Nghệ - Tĩnh
Trong kho tàng văn hóa xứ Nghệ, ví và giặm là hai thể hát dân ca độc đáo của tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh với những nét riêng không thể lẫn với dân ca của bất cứ vùng miền nào. Ra đời cách đây hàng trăm năm, dân ca ví, giặm Nghệ - Tĩnh bắt nguồn từ chính cuộc sống lao động, nên từng làn điệu, câu hát đều tương ứng với mỗi ngành nghề. Đây là hai lối hát dân ca không nhạc đệm, được cộng đồng xứ Nghệ sáng tạo ra, ca từ có nội dung đa dạng, phản ánh mọi mặt của cuộc sống. Nhiều bài hát mang tính giáo dục sâu sắc: kính trọng cha mẹ, chung thủy, nghĩa tình, trung thực, góp phần gìn giữ các tập tục, truyền thống tốt đẹp trong ứng xử xã hội ở làng xã. Dân ca ví, giặm được thực hành rộng khắp trong cộng đồng người Việt ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Theo kết quả kiểm kê của Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam (năm 2013), có 260 làng, trong đó 168 làng ở tỉnh Nghệ An và 92 làng ở tỉnh Hà Tĩnh có người thực hành dân ca ví, giặm.
Ví, giặm có đặc tính địa phương về thang điệu, điệu thức, tiết tấu, giai điệu và giọng hát. Các kỹ năng hát đúng tiết tấu, cao độ, trường độ, luyến láy chủ yếu được trao truyền giữa các thế hệ bằng truyền khẩu, trực tiếp từ các nghệ nhân, đảm bảo thể hiện được giọng hát, ngữ điệu của phương ngữ Nghệ - Tĩnh. Ví, giặm được diễn xướng theo ba hình thức: hát lẻ, hát đối, hát cuộc. Mỗi cuộc hát thường có ba chặng: hát dạo, hát đối và hát xe kết, nổi bật nhất là hát giao duyên. Ca từ bằng thể thơ lục bát, song thất lục bát, lục bát biến thể (hát ví), 5 chữ (hát giặm), cô đọng, súc tích, dễ thuộc, dễ nhớ, dễ hát. Hát ví có âm điệu tự do phụ thuộc vào lời ca, bối cảnh và tâm tính của người hát, âm vực không quá một quãng 8. Hát giặm có tiết tấu rõ ràng, có phách mạnh, phách nhẹ, nhịp 3/4 và 6/8. Hai lối hát này luôn xen kẽ cùng nhau.
2. Đặc điểm của dân ca ví, giặm
* Không gian hình thành văn hóa dân ca ví, giặm Nghệ - Tĩnh
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử của dân tộc, vùng đất Nghệ - Tĩnh đã nhiều lần đổi tên, đến thời nhà Nguyễn, trở lại tên gọi trấn Nghệ An. Đến thời vua Minh Mệnh, năm 1831, trấn Nghệ An được chia thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Từ năm 1976-1991, hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh được sáp nhập thành một tỉnh là Nghệ Tĩnh. Năm 1991, tỉnh Nghệ Tĩnh lại tách ra thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh như ngày nay.
Trong công trình nghiên cứu của mình, GS Ngô Đức Thịnh đã chỉ ra những yếu tố cấu thành văn hóa vùng gồm: hoàn cảnh tự nhiên, nguồn gốc dân cư, điều kiện lịch sử, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, giao lưu văn hóa. Như vậy, không gian đặc định của tiểu vùng văn hóa xứ Nghệ có lẽ phải tính đến những cơ duyên lịch sử đã tác động đến vùng đất này để tạo nên một cái nôi văn hóa mà từ đó con người và văn hóa xứ Nghệ được hình thành và phát triển. Chính tính chất biên viễn và những mối quan hệ qua lại khá phức tạp giữa ngoại vi với trung tâm, giữa người Việt và các dân tộc thiểu số trước đây với người Chăm chính là những nhân tố tác động mạnh mẽ để hình thành nên những đặc điểm về tính cách của con người và đặc trưng văn hóa của vùng đất này.
Có thể nói, tính cách của người xứ Nghệ được hình thành bởi thế ứng xử của con người trong môi trường chính trị, lịch sử, xã hội của vùng đất này. Đã có nhiều nhận xét và ý kiến trái chiều nhau về tính cách của con người nơi đây, bởi có nhiều nhân tố hợp thành và tương tác với nhau trong nguồn gốc cư dân. Tính cách người xứ Nghệ mang nhiều nét đa dạng và cả nhiều đối cực, do đó, khó có thể nhận xét một chiều. Đặc điểm nổi trội trong tính cách con người nơi đây là tính cộng đồng cao. Họ sử dụng một phương ngữ hết sức đặc biệt, một thứ phương ngữ đã biến họ thành một cộng đồng có bản sắc độc đáo, nó đi vào dân ca ví, giặm, làm nên một thế giới nghệ thuật đậm chất nhân văn.
* Nguồn gốc tên gọi
Tên gọi là một yếu tố ngôn ngữ được sử dụng có ý thức để cho đối tượng có một cái tên nhất định và thể hiện văn hóa - tư tưởng của người đặt tên. Với những đối tượng mang tính tập thể, là sản phẩm của cả một cộng đồng thì tên gọi lại càng cần phải có lý do, ý nghĩa phù hợp với tri nhận của cộng đồng. Ở một góc độ nào đó, tên gọi thể hiện một cách cô đúc nhất, khái quát nhất những đặc điểm cơ bản của đối tượng. Qua tên gọi, người ta có thể hình dung được phần nào về đối tượng được gọi tên. Về tên gọi ví, giặm: ví và giặm là hai thể hát của dân ca xứ Nghệ, bao gồm hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Người dân nơi đây vẫn thường gọi là hát ví và hát giặm.
Hiện nay, trên địa bàn hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh vẫn tồn tại hai cách gọi về ví, giặm và dân ca nói chung là dân ca xứ Nghệ, ví giặm xứ Nghệ, dân ca Nghệ - Tĩnh, dân ca ví giặm Nghệ - Tĩnh. Vì sao có những cách gọi này, có lẽ là do về mặt địa giới, Hà Tĩnh và Nghệ An chỉ ngăn cách nhau bởi con sông Lam. Phía Nam sông Lam là Hà Tĩnh, phía Bắc sông Lam là Nghệ An. Mặc dù thuộc hai đơn vị hành chính, song về đặc điểm địa hình, khí hậu cả hai tỉnh đều có những điểm giống nhau. Về thổ âm, thổ ngữ và các phong tục, nếp sống của cư dân hai tỉnh cũng tương đồng. Có thể nói, tuy hai mà là một. Với việc gắn liền tên gọi địa danh các vùng, xứ Nghệ trở thành một danh từ, đơn vị để chỉ riêng một vùng văn hóa được kết tụ các giá trị về vật chất và tinh thần, về tự nhiên và xã hội, về phong tục tập quán, lễ nghi tín ngưỡng, về địa lý, dân cư… Dù trải qua nhiều thay đổi về tên gọi, cách gọi và sự chia cắt về mặt hành chính, song những giá trị văn hóa truyền thống không hề mất đi, mà ngược lại còn tồn tại và in đậm trong tâm thức của mỗi người, trở thành một nét văn hóa riêng có của vùng miền. Cũng bởi vậy mà tên gọi xứ Nghệ với dân ca xứ Nghệ, ví, giặm xứ Nghệ được hình thành và in sâu trong các thế hệ người dân, có tác động sâu sắc đến đời sống văn hóa xứ Nghệ và trở thành một định danh gắn bó với cộng đồng hai tỉnh dù đã có sự chia tách về địa giới và tổ chức hành chính. Tuy nhiên, dù thế nào, vùng văn hóa Nghệ An và Hà Tĩnh vẫn là một thể thống nhất không thể tách rời.
* Sự hình thành và phát triển
Cũng như nhiều loại hình văn hóa dân gian khác, ví, giặm xứ Nghệ được hình thành và phát triển trong môi trường văn hóa nông nghiệp lúa nước. Không gian văn hóa của ví, giặm trải dài, phủ rộng trên địa bàn hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, từ miền núi đến đồng bằng ven biển và hai bên bờ sông Lam. Ra khỏi vùng đất xứ Nghệ, chia tách khỏi người xứ Nghệ, ví, giặm khó tồn tại, phát triển. Đây là một nét rất riêng, cho thấy bên cạnh khung cảnh thiên nhiên, tâm hồn điệu sống, sinh hoạt văn hóa của cư dân xứ Nghệ có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành, phát triển của loại hình này. Nói cách khác, sinh quyển của ví, giặm được tạo nên từ tâm hồn, nhịp sống của đất và người xứ Nghệ. Mất những yếu tố đó, nó không có cơ sở để tồn tại, phát triển.
Ví, giặm trở thành một hình thức sinh hoạt văn hóa phổ biến ở xứ Nghệ từ TK XVIII. Đến nay, nó đã có một lịch sử tồn tại và phát triển hơn hai thế kỷ. Đó là khoảng thời gian chưa dài, song cũng đủ để định hình, thấm sâu vào đời sống tinh thần của con người. Phương thức diễn xướng của ví, giặm vừa có hát lẻ, vừa có hát cuộc. Dù hát trên sông, trên đồng ruộng, trên bến dưới thuyền hay bên khung cửi sau lũy tre làng... thì không gian diễn xướng vẫn là không gian làng quê, gắn với ba yếu tố cơ bản là nông thôn, nông nghiệp, nông dân. Ca từ của ví, giặm mộc mạc, dân dã, gần với ngôn ngữ đời sống được “Nghệ hóa”, “dân gian hóa” từ vốn ngôn ngữ có sẵn, tạo nên một hệ thống ca từ phong phú, đặc sắc vào loại bậc nhất trong kho tàng dân ca Việt Nam.
Có thể thấy, ví, giặm thực sự đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành và bảo tồn các giá trị văn hóa làng quê xứ Nghệ. Nếu văn hóa, văn học dân gian là sự thể hiện khát vọng và ý thức dân chủ thì ví, giặm xứ Nghệ là điển hình cho tính dân chủ ấy. Ở đó không có luật lệ nghiêm ngặt, không phân biệt trên dưới, sang hèn và không có những điều cấm kỵ. Sự phóng túng trong tư tưởng được thể hiện ở ngôn từ, sự bình đẳng, gần gũi trong hình thức xưng hô. Có thể nói, đó là một phương thức giao tiếp độc đáo, đặc sắc ở các làng quê xứ Nghệ truyền thống. Nhờ đó, nhiều giá trị tinh thần được lưu giữ và phát triển.
* Dân ca ví, giặm là sản phẩm sinh hoạt cộng đồng của người dân xứ Nghệ
Ví, giặm là thể loại dân ca mang đậm bản sắc xứ Nghệ cả về điệu hát, ca từ, nội dung và không gian, thời gian thể hiện. Đó là sản phẩm tinh thần, phản ánh trung thực những khía cạnh độc đáo của cuộc sống con người nơi đây. Người xứ Nghệ vốn có năng khiếu sáng tác, ứng khẩu, kết hợp với chất giọng lạ nhưng đậm đà, man mác đến da diết, chính là chủ thể sáng tạo và trao truyền ví, giặm. Loại hình dân ca này chủ yếu diễn ra trong sinh hoạt cộng đồng với quy mô và không gian đa dạng, gắn kết với sinh hoạt cộng đồng, chính điều đó đã tạo nên những đường nét cơ bản, những chiều kích chủ yếu trong nguồn gốc ra đời, chủ nhân sáng tác, sáng tạo và môi trường tồn tại, phát triển của nó.
* Trang phục biểu diễn dân ca ví, giặm
Trang phục là một nhu cầu thiết yếu trong đời sống con người, thể hiện trình độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân, dân tộc và thời đại. Dân ca ví, giặm đã lưu giữ một phần lớn linh hồn, bản sắc văn hóa, phong tục tập quán cũng như lối sống của người dân, không chỉ qua ca từ, làn điệu mà còn thể hiện rõ nét qua trang phục. Nó tuy đơn sơ, giản dị nhưng lại rất hài hòa với môi trường, thiên nhiên, mang vẻ đẹp mạnh mẽ, khỏe khoắn của tâm hồn người dân xứ Nghệ như: kiểu cách thường đơn giản, thực dụng, đa dùng; màu sắc nghiêng về trầm ấm hoặc trung tính. Chất liệu thường mộc mạc và lấy “ăn chắc, mặc bền” làm chính.
Phụ nữ xưa trình diễn ví, giặm thường mặc áo dài tứ thân, bên trong mặc áo yếm, áo cánh, váy dài, thắt dải lưng, bao tượng; đầu vấn tóc độn khăn hình bầu dục; chân đi guốc, dép hay hài cỏ. Áo tứ thân, phần lưng gồm 2 mảnh ghép lại, phía trước có 2 thân tách rời nhau. Áo này thường làm bằng lụa, vải phin và có các màu nâu thẫm, nâu non, xanh cốm và vạt buông xuống. Tuy đơn giản hơn nhưng nó vẫn không làm giảm đi nét đẹp yêu kiều, duyên dáng của phụ nữ xứ Nghệ. Về sau, người ta đã sáng tạo ra chiếc áo dài ngũ thân dành cho cả nam và nữ. Áo này có kiểu giống áo tứ thân, mỗi thân trước và sau đều có hai tà khâu lại với nhau dọc theo sống áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm và khép kín nhờ 5 chiếc khuy tròn bằng vải hoặc đồng. Như vậy, áo ngũ thân không những tôn vinh giá trị cao quý của con người trong mối tương quan với gia đình và xã hội mà còn thể hiện đạo làm người, gói ghém nhân sinh quan của dân tộc. Bởi vậy, tùy từng đối tượng, tầng lớp mà người ta may kiểu áo nào cho phù hợp và nhìn vào trang phục ta cũng có thể biết nghệ nhân là của vùng nào.
Ngoài hai loại áo trên, trang phục phổ biến của nghệ nhân còn có áo ngắn ngũ thân và áo cánh. Hai loại áo này được sử dụng rộng rãi vì nó đơn giản, gọn gàng, tiện cho sinh hoạt và làm việc. Chất liệu thường bằng vải mộc, diềm bâu, phin, lụa. Nghệ nhân nam mặc áo ngắn ngũ thân với quần ống rộng, đũng sâu, buộc dải lưng ngoài áo, thắt nút để múi so le ở dưới hông phía bên phải, đầu chít khăn mỏ rìu, đi chân đất hoặc dép cỏ. Nghệ nhân nữ thì mặc áo cánh với váy hoặc quần dài, bên trong mặc yếm, vừa lao động vừa hát. Kiểu trang phục đặc biệt không thể không nhắc đến đối với nghệ nhân chính là chiếc áo yếm. Áo yếm thường được các bà, các cô dùng để mặc bên trong, kết hợp với áo cánh hoặc áo dài.
* Phương ngữ với đặc trưng của dân ca xứ Nghệ
Nhắc đến văn hóa xứ Nghệ không thể không nhắc đến dân ca và ngược lại, khi nói đến dân ca xứ Nghệ là đang nói đến một biểu hiện đặc trưng của văn hóa truyền thống nơi đây. Một trong những yếu tố quan trọng khi nói đến đặc trưng dân ca của một vùng đó là ngôn ngữ. Cùng với nhạc, lời ca làm nên giá trị, đặc trưng của dân ca xứ Nghệ, trong đó, nhân tố tạo nên dấu ấn, sắc thái riêng đó là tiếng Nghệ với giọng nói, từ ngữ địa phương.
Hình thức, nội dung của ví và giặm có phần khác nhau, nhưng đó đều là thơ, những câu hát dân ca độc đáo nhất. Những từ ngữ được sử dụng trong hát giặm rất mộc mạc, chân chất như trong đời sống hằng ngày. Phần nhạc ít mượt mà và lời lẽ cũng ít trau chuốt so với hát ví, bởi nó là bài hát gồm nhiều lời hát, nặng tính tự sự, phản ánh cuộc sống thường ngày với những câu chuyện, những biến cố, bày tỏ thái độ, tình cảm, tư tưởng riêng của người xứ Nghệ.
Sự biến đổi của hàng loạt âm chính trong tiếng Nghệ - Tĩnh so với tiếng Bắc Bộ có tính hệ thống, đã tạo nên sắc thái riêng biệt trong phát âm, tạo nên đặc trưng giọng Nghệ, tiếng Nghệ và đó cũng là một yếu tố tạo nên nét đặc trưng vùng miền trong ví, giặm, làm cho dân ca vùng này không trộn lẫn với các vùng khác. Đối với người Nghệ - Tĩnh, âm thanh, giọng nói ấy đã thấm sâu vào máu thịt, cho nên, nghe dân ca ví, giặm là nghe thấy sự gần gũi, tha thiết, thân thương như tiếng lòng mình. Bởi vậy, ngôn ngữ của dân ca Nghệ - Tĩnh hồn nhiên, tự nhiên, rất gần với khẩu ngữ, không mang vẻ đẹp của một công trình chế tác công phu. Ngoài đặc điểm dùng từ theo thói quen thì cái riêng của dân ca Nghệ - Tĩnh có lẽ ở sự lựa chọn dùng từ địa phương thay cho từ toàn dân trong những hoàn cảnh mà bản thân sự lựa chọn đó là phù hợp về một phương diện nào đó cả về nội dung và nghệ thuật biểu hiện.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường hiện nay, nhu cầu cảm thụ về văn hóa tinh thần của người dân ngày một cao. Việc giữ gìn, phát huy các giá trị của di sản văn hóa dân ca ví, giặm Nghệ - Tĩnh là vấn đề cần được các ngành, các cấp quan tâm một cách sâu sắc, toàn diện. Bởi với đặc trưng về không gian và phương ngữ, dân ca ví, giặm vượt ra khỏi ranh giới xứ Nghệ sẽ khó tồn tại và phát triển. Với tình yêu quê hương, đất nước chứa đựng trong từng ca từ, làn điệu, dân ca ví, giặm đã truyền cảm hứng để người dân nơi đây vượt lên những khó khăn, thử thách khắc nghiệt của tự nhiên và cuộc sống.
Hát Xẩm là một nghệ thuật dân gian truyền thống của Việt Nam, được biểu diễn chủ yếu ở các khu vực ven sông, đồng bằng sông Hồng và các tỉnh miền núi phía Bắc. Với tiếng hát thuần Việt, phong cách biểu diễn đặc trưng và những câu chuyện đời thường gắn liền với cuộc sống của người dân nghèo, Xẩm đã và đang trở thành một phần không thể thiếu trong văn hoá truyền thống của dân tộc.
Tuy nhiên, với sự phát triển của xã hội hiện đại, nghệ thuật Xẩm đang gặp nhiều khó khăn trong việc duy trì và phát triển, cần được quan tâm và bảo tồn hơn để truyền lại cho thế hệ sau.
1. Hát Xẩm là gì?
Hát Xẩm được coi là loại hình nghệ thuật cổ truyền của Việt Nam ra đời từ rất lâu và đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể quốc gia cần được bảo tồn.
Nghệ thuật hát Xẩm là gì?
Nghệ thuật hát Xẩm là một trong những loại hình nghệ thuật truyền thống của Việt Nam. Nó thường được biểu diễn bởi các nghệ nhân đường phố, thường là những người mù, đàn ông hoặc phụ nữ, và được thực hiện bằng cách hát kèm theo các nhạc cụ như đàn nhị, đàn đáy và đàn tranh.
Tiếng anh hát Xẩm là gì?
Hát Xẩm trong tiếng anh được gọi là songs of a strolling blind musician tức là bài hát dạo của một nhạc sĩ mù.
Nhưng cái trên này không còn đúng 100% cho đến ngày nay vì dòng nghệ thuật này được truyền dạy và giữ gìn với các nghệ sĩ không bị khiếm thị. Một từ khác trong tiếng anh để chỉ được loại hình nghệ thuật này mà vẫn giữ được nét đẹp và văn hoá của nó, đó là Xam singing.
2. Lịch sử – Nguồn gốc của hát Xẩm
Truyền thuyết kể rằng vào đời vua Trần Thánh Tông có hai người con trai là Trần Quốc Toán và Trần Quốc Đĩnh, vì muốn tranh giành quyền lực nên Trần Quốc Toán đã hãm hại Trần Quốc Đĩnh khiến ông Đĩnh bị mù loà, bỏ lại giữa rừng sâu. Vì buồn đau mà ông chỉ biết than khóc đến thiếp đi và trong mơ đã được bụt chỉ cho cách làm ra cây đàn từ dây thừng và que nửa có thể phát ra âm thanh thần kỳ khiến chim muông mang đến hoa quả cho ông ăn. Về sau thì Trần Quốc Đĩnh đi dạy đàn cho những người nghèo, người khiếm thị, dù ông được cha đưa về cung nhưng vẫn không quên truyền dạy lại cho người đời. Ông cũng được coi là ông tổ của nghề hát Xẩm.
Tuy nhiên đây chỉ là tích truyện vì theo sử sách ghi thì hoàn toàn không có hai hoàng tử tên như vậy. Theo nghiên cứu trên các tài liệu thì hát Xẩm ra đời vào khoảng thế kỷ 14 – 15 (những năm 1500 – 1600), ban đầu chúng được gọi coi là hát rong, hát dạo của người nghèo, người mù.
Xẩm là một món ăn tinh thần của rất nhiều người trong quá khứ, nó không chỉ phục vụ riêng cho một nhóm người nào, biểu diễn cũng rất linh hoạt ở bất cứ nơi đâu và hơn cả, là cốt cách những người nghệ sĩ: không ủ vào tật nguyền để xin bố thí mà lo trau dồi lời ca tiếng hát của mình để kiếm sống.
Xẩm trở thành một mắt xích vô cùng quan trọng trong việc tuyên truyền, vận động chống Pháp, chống Mỹ trong cuộc kháng chiến của Việt Nam. Nó đã dùng chính sự thân thuộc với người dân của mình để gửi gắm ý chí, đề cao khát vọng dân tộc. Sau cách mạng tháng Tám, hát Xẩm tiếp tục được chính quyền sử dụng trong tuyên truyền phong trào bình dân học vụ.
Tuy nhiên, từ thập niên 60 của thế kỉ XX trở lại đây, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, Xẩm đã dần mất đi vị thế trong đời sống tinh thần của người dân. Các nghệ nhân Xẩm tài danh dần bước vào tuổi xế chiều, rồi ra đi, lặng lẽ đem theo những giá trị to lớn mà họ từng cất giữ vào thực hành.
Ngày nay, với các chính sách quan tâm đến bảo tồn văn hoá, Xẩm đang từng bước nhận được sự quan tâm từ mọi người bởi nó không chỉ dấu ấn to lớn của những người khiếm khuyết mà còn là một chứng nhân lịch sử quan trọng trong suốt nhiều thế kỉ. Việc bảo tồn và phát triển Xẩm sẽ giúp duy trì và phát huy giá trị văn hóa truyền thống đặc biệt này của Việt Nam.
Hát Xẩm là một thể loại nhạc cổ truyền của Việt Nam, được trình diễn bởi các nghệ sĩ Xẩm trên các bến đò, chợ, hoặc tại nhà hàng, quán cà phê. Đặc điểm của hát Xẩm bao gồm:
- Nhịp điệu: Hát Xẩm có nhịp điệu đa dạng, thường là nhịp chậm và êm dịu, tạo cảm giác thư giãn cho người nghe.
- Cách diễn đạt: Xẩm thường được trình diễn bằng giọng hát mềm mại, ngọt ngào, kèm theo những cử chỉ tay, đầu và mắt để thể hiện tình cảm trong bài hát.
- Nội dung: Những bài hát Xẩm thường chứa đựng những ca dao, tục ngữ, tâm tình của nhân dân, thể hiện những góc nhìn về cuộc sống và xã hội. Nội dung của các bài hát Xẩm thường mang tính nhân văn, đậm chất dân tộc và phản ánh thực tế xã hội.
- Đội ngũ nghệ sĩ: Xẩm là một nghệ thuật đặc sắc và đòi hỏi kỹ năng, sự tinh tế trong việc lựa chọn bài hát, kết hợp với kỹ thuật đàn đáp ứng nhịp điệu của bài hát. Do đó, đội ngũ nghệ sĩ Xẩm phải có kỹ năng ca hát, đánh đàn tốt, kiến thức về âm nhạc, văn hóa và lịch sử để có thể trình diễn các bài hát Xẩm một cách chuyên nghiệp và ấn tượng.
4. Những làn điệu của hát Xẩm
Ban đầu, những giai điệu đơn giản, gần gũi với cuộc sống hàng ngày của người dân như Xẩm Chợ, Xẩm Thập Ân,… đã xuất hiện trong nghệ thuật hát Xẩm. Tuy nhiên, về sau, hát Xẩm đã tiến hóa với nhiều giai điệu phù hợp hơn với đời sống hiện đại của con người. Thường thì các giai điệu Xẩm sẽ được đặt tên theo tên bài hát, nơi biểu diễn, mục đích và nội dung.
Xẩm tàu điện là loại Xẩm xuất hiện vào đầu thế kỉ XX trong môi trường đô thị Hà Nội, khi những chuyến tàu điện đã trở thành một ‘sân khấu’ cho những nghệ sĩ Xẩm biểu diễn bằng cách đi qua các toa tàu.
5. Nhạc cụ của hát Xẩm
NSND Mai Thuỷ vốn được biết tới là một trong những nghệ sĩ chèo trụ cột của nhà hát chèo Ninh Bình nhưng cô cũng là người đưa hát Xẩm phát triển trong giai đoạn mới, khi mà những nghệ nhân cũ dần vắng bóng.
Trong nhiều di sản văn hóa phi vật thể của Hà Nội thì hát Dô (xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, TP. Hà Nội) có nét đặc sắc không thua kém gì ca trù Lỗ Khê, chèo tàu Tân Hội. Hát Dô gắn liền với việc thờ thánh Tản Viên Sơn, ngày càng được quan tâm và lan tỏa trong cộng đồng.
Thể hiện một tác phẩm hát Dô cho chúng tôi nghe, nghệ nhân nhân dân Nguyễn Thị Lan cho biết, hát Dô có 3 kiểu hát gồm hát thờ (hát trong đền), hát chúc, hát múa bỏ bộ (hát ngoài sân đền). Hát chúc gồm 36 làn điệu phải trên một tiếng mới xong một bài. Hát thờ chỉ hát trong đền và không được đem đi đâu, còn hát múa bỏ bộ thì ngắn chỉ vài phút là xong thường là hát đối đáp, giao lưu thể hiện nét đẹp sinh hoạt hàng ngày, tình làng nghĩa xóm, tình nghĩa vợ chồng...
Điểm đặc sắc và độc đáo của hát Dô là không có nhạc, chỉ có phách và quạt để làm đạo cụ. Tuy mộc mạc, giản dị như vậy nhưng hát Dô vẫn truyền tải đến người nghe những giai điệu ngọt ngào, đầm ấm và thanh thoát của quê hương xứ Đoài. Theo tục lệ xưa, người tham gia hát Dô phải thuộc dòng dõi con nhà gia giáo, phải là những cô gái chưa chồng, trai chưa vợ và không vướng tang. Nội dung diễn xướng hát Dô phản ánh nhận thức của người dân lao động về thiên nhiên, mơ ước một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Cùng tồn tại song song với lời ca là các động tác múa phụ hoạ của các “con” (còn gọi là bạn nàng, chỉ một vai nữ) được kết hợp nhuần nhuyễn trong lúc diễn. Một canh hát Dô gồm có “cái” (một vai nam) xướng và “con” hoạ lại. Khi hát “bạn nàng” vừa hát vừa múa theo nội dung từng đoạn như: hái hoa, múa quạt, bắn cung, hái chè, dệt cửi. Hát Dô mang những đặc điểm chung của các thể loại dân ca liên quan trực tiếp đến văn hóa sản xuất nông nghiệp, truyền thống thờ các vị thần và ca ngợi công lao của một trong tứ bất tử của Việt Nam, cũng như những bài ca về lao động, về cuộc sống bình dị của nhân dân.
Những làn điệu độc đáo của hát Dô dần rơi vào quên lãng, đứng trước nguy cơ bị “chôn vùi” trong một thời gian dài gần 70 năm. Người còn lưu giữ các bản nhạc, làn điệu hát Dô cổ đã ở tuổi xưa nay hiếm hoặc đã mất. Năm 1989, Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Hà Tây (cũ), Trung tâm Văn hóa huyện Quốc Oai và chính quyền xã Liệp Tuyết triển khai sưu tầm, thu thập, phục hồi di sản hát Dô. Người được phân công trực tiếp thực hiện nhiệm vụ này không ai khác là Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Liệp Tuyết Nguyễn Thị Lan – nghệ nhân nhân dân bây giờ.
Năm 1989, nghệ nhân nhân dân Nguyễn Thị Lan tình cờ được một cụ cao niên truyền dạy hát Dô. Được cụ cao niên hát cho nghe những bản hát cổ, bà Lan lấy giấy bút ra ghi lại. Chép 3 ngày 3 đêm thì xong những bản hát Dô mà cụ cao niên còn nhớ. “Con nhớ phải bảo quản và giữ gìn cẩn thận vì đây là di sản của ông cha để lại. Sau đó không lâu thì cụ ra đi thanh thản” - nghệ nhân nhân dân Nguyễn Thị Lan chia sẻ.
Cùng với quá trình thu thập, sưu tầm làn điệu, nghệ nhân nhân dân Nguyễn Thị Lan đã đi vận động các cháu thanh thiếu niên cùng các gia đình cho phép các cháu tham gia học hát. Dù mọi người xì xào bàn tán “bị ma làm” và “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” nhưng nghệ nhân Nguyễn Thị Lan quyết không bỏ cuộc.
Kết quả đến năm 1999, Câu lạc bộ hát Dô xã Liệp Tuyết được thành lập, với với 30 thành viên từ tuổi trung niên trở lên, do nghệ nhân nhân dân Nguyễn Thị Lan làm Chủ nhiệm. Các thành viên dù tuổi đã cao nhưng nỗ lực hết sức truyền dạy cho con cháu, góp phần làm sống lại làn điệu hát Dô của quê hương. Nghệ nhân nhân dân Nguyễn Thị Lan cho biết, đến nay có khoảng 60% người dân trên địa bàn hiểu về ý nghĩa, biết về một số làn điệu hát Dô. Câu lạc bộ hát Dô xã cũng đã được trẻ hóa, hiện nay gồm 30 em nhỏ tuổi từ 11 đến 16 tham gia sinh hoạt tại Câu lạc bộ.
“Chúng tôi cũng tổ chức nhiều lớp truyền dạy và đến nay đã đào tạo được hơn 1.000 em thanh thiếu nhi biết hát Dô. Các em sáng đi học, chiều ra bãi trồng ngô, nhưng tối về lại í ới gọi nhau tập hát. Ngoài ra, Câu lạc bộ hát Dô đã được mời tham gia biểu diễn ở tại các chương trình nghệ thuật, trong đó năm 2008, cá nhân tôi từng được mời sang Malaysia giới thiệu về nghệ thuật hát Dô.
Trong nước, Câu lạc bộ hát Dô cũng biểu diễn Lễ hội chùa Thầy, Nhà hát Lớn Hà Nội, khu vực tượng đài Lý Thái Tổ; biểu diễn phục vụ du khách tại khách sạn La Thành, Dewoo hay một số tỉnh, thành khác như Thanh Hóa, Bắc Ninh...”, nghệ nhân nhân dân Nguyễn Thị Lan giọng tự hào.
Theo người đứng đầu Câu lạc bộ hát Dô xã Liệp Tuyết, thời gian qua TP. Hà Nội cùng Sở Văn hóa – Thể thao; Phòng Văn hóa – Thông tin huyện Quốc Oai, chính quyền địa phương đã quan tâm, có những hành động nhằm bảo vệ và phát huy giá trị hát Dô. Chính vì thế, từ nguy cơ bị “chôn vùi”, đến nay hát Dô đã, đang lan tỏa, cho thấy sức sống mãnh liệt. Đầu năm 2023, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch đã ghi danh “Nghệ thuật trình diễn dân gian hát Dô” vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, dự kiến Lễ đón bằng ghi danh di sản văn hóa phi vật thể quốc gia hát Dô vào Lễ hội đền Khánh Xuân năm 2024.
Đờn ca tài tử Nam Bộ là loại hình nghệ thuật vừa mang tính bác học vừa có chất dân gian gắn liền với mọi sinh hoạt của cư dân Nam Bộ, được cải biên từ nhạc cung đình Huế và sáng tác mới trên nền tảng âm nhạc dân ca, hát đối, hò vè của vùng đất Nam Bộ.
1. Nguồn gốc hình thành đờn ca tài tử
Đờn ca tài tử hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ 19, khởi thủy là thú tiêu khiển trong thời gian nhàn rỗi của người dân Nam Bộ. Trên hành trình phát triển, Đờn ca tài tử đã nhâm nhập vào mọi ngõ ngách của đời sống. Đờn ca tài tử là nghệ thuật của đờn (đàn) và ca, chữ “tài tử” có nghĩa là người chơi nhạc có biệt tài, giỏi về cổ nhạc. Lúc đầu chỉ có đờn, sau xuất hiện thêm hình thức ca nên gọi là đờn ca.
Đờn ca tài tử là loại hình diễn tấu có ban nhạc gồm bốn loại là đàn kìm, đàn cò, đàn tranh và đàn bầu (gọi là tứ tuyệt), sau này, có cách tân bằng cách thay thế độc huyền cầm bằng cây guitar phím lõm. Những người tham gia đờn ca tài tử phần nhiều là bạn bè, chòm xóm với nhau. Họ tập trung lại để cùng chia sẻ thú vui tao nhã nên thường không câu nệ về trang phục
Là loại hình nghệ thuật có môi trường diễn xướng rất phong phú và đa dạng, Đờn ca tài tử không phụ thuộc vào các không gian văn hóa hoặc các không gian trình diễn theo mùa vụ nên có thể được chơi ở bất kỳ hoàn cảnh, thời gian nào, miễn người chơi có cảm hứng. Sàn diễn có thể là bất kỳ nơi nào từ biểu diễn dưới bóng mát của cây, trên con thuyền hay đơn giản trên chiếc chiếu trước sân nhà…
2. Dân ca Nam Bộ
Ca nhạc tài tử , Đàn ca tài tử, Đờn ca tài tử, tài tử miệt vườn là một trong những cái tên dùng để nói về dân ca Nam Bộ nói chung và Đờn ca tài tử nói riêng.
Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ không ngừng được sáng tạo nhờ tính “ngẫu hứng”, “biến hóa lòng bản” theo cảm xúc, trên cơ sở của 20 bài gốc (bài Tổ) và 72 bài nhạc cổ. Nhạc cụ tham gia trình diễn gồm: đàn kìm, đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn bầu, đàn cò, sáo, tiêu, song loan và hai nhạc cụ của phương Tây là violon và ghi ta, đã được “cải tiến” – violon được lên dây quãng 4, còn ghita được khoét phím lõm, để tăng sự nhấn nhá trong điệu đàn.
3. Lịch sử Đờn ca tài tử Nam Bộ
* Lịch sử hình thành
Sau biến cố Kinh đô Huế thất thủ năm 1885 của triều đình Hàm Nghi, ông Nguyễn Quang Đại cùng nhiều quan lại, dân lính triều đình chạy về phương Nam lánh nạn, với vốn ca nhạc Huế sẵn có ông đã cải biên một số bài bản trở thành đặc trưng âm nhạc Nam Bộ và tạo nên phong trào Đờn ca tài tử Nam Bộ ở miền Đông do ông đứng đầu. Nhóm miền Tây (Vĩnh Long, Sa Đéc, Mỹ Tho) do ông Trần Quang Quờn đứng đầu, nhóm Bạc Liêu, Rạch Giá do ông Lê Tài Khị (1862 – 1924) quê ở Bạc Liêu đứng đầu và ông được tôn là hậu tổ nhạc Khị.
Sau nhiều năm, ông Nguyễn Quang Đại (Ba Đợi), Trần Quang Quờn, nhạc Khị và nhiều nghệ nhân khác ở Nam Bộ đã cải biên, sáng tạo bổ sung một số bài bài từ điệu thức Bắc, Nam. Đặc biệt điệu thức Oán Chánh, Oán Phụ là hoàn toàn do những người sống ở vùng đất Nam Bộ sáng tạo nên. Tất cả các bài bản được cải biên, sáng tạo bổ sung đều thể hiện được tính đặc trưng Nam Bộ. Đờn ca tài tử Nam Bộ ra đời vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ XIX (khoản năm 1885)
Đờn ca tài tử Nam Bộ bao gồm Đờn và ca: Đờn theo dòng nhạc tài tử Nam Bộ: Nhạc tài tử Nam Bộ gồm có 05 nốt nhạc chính: Hò, xự xang, xê cóng. Nốt nhạc phụ: Phạn, tồn, là, oan.
Ca tài tử Nam Bộ là ca theo bài bản có sẵn, người viết chỉ dựa vào đó mà đặt lời ca sao cho phù hợp với âm nhạc
- Nửa đầu thế kỉ XIX
Nhà Nguyễn lên ngôi, kinh đô đặt ở miền Trung. Các thể chế chính trị, xã hội và văn hóa nghệ thuận, trong đó có âm nhạc – đặc biệt là nhạc lễ, của triều đại này có ảnh hưởng không nhỏ tới cả nước, đặc biệt là vùng đất phía Nam – nơi mà những ảnh hưởng của họ Nguyễn đã hiện diện từ trước đó trên hai trăm năm khi các chúa Nguyễn cát cứ ở Đàng Trong.
- Nửa cuối thế kỉ XIX
Đờn ca tài tử ra đời trong giai đoạn thực dân Pháp xâm lược nước ta và trở thành nguồn động viên tinh thần cho nhân dân trong cuôc̣ chiến chống ngoại xâm, đồng thời kiên cường chống chọi với những trào lưu nghệ thuật, âm nhạc mới du nhập từ phương Tây. Từ sau khi sân khấu cải lương “lên ngôi” cho tới nay Đờn ca tài tử vẫn tiếp tục con đường của mình: thích ứng với thời đại, sẵn sàng tiếp nhận cái mới để phát triển, nhưng kiên cường gìn giữ bản sắc cố hữu của mình. Nó tồn tại song song dưới cả hai hình thức: sinh hoạt thính phòng như thuở xưa và những hình thức trình diễn mới như trên sân khấu, trước đông đảo công chúng hoặc tách biệt hẳn với công chúng qua phương thức thu, phát trên các phương tiện truyền thông mới du nhập và các đĩa hát…
Đờn ca tài tử không những không bị hình thức hát mới thay thế hay làm lụi tàn mà còn tiếp tục là chổ dựa vững chắc và là nguồn hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển của sân khấu cải lương sau này.
4. Tiền thân của ca ra bộ và cải lương
Trải qua hàng trăm năm hình thành và phát triển, nhưng ít ai biết Đờn ca tài tử chính là tiền thân của 2 loại hình nghệ thuật độc đáo sau này: ca ra bộ và cải lương. Đặc biệt, người có công đầu trong việc chuyển thể Đờn ca tài tử thành 2 loại hình nghệ thuật này là một chí sĩ yêu nước Tây học, ít am hiểu về Đờn ca tài tử Nam Bộ…
- Chuyển thể thành ca ra bộ
Thuở nhỏ, cụ Trương Duy Toản (tự: Mạnh Tự, hiệu: Đổng Hồ, SN 1885 ở quận Tam Bình, tỉnh Cần Thơ, nay là tỉnh Vĩnh Long) học tại Sài Gòn, giỏi chữ Hán và tiếng Pháp.
Năm 1905, cụ làm Thư ký văn phòng Tòa Khâm sứ Nam Vang, đến năm 1907 đổi về Sài Gòn. Lúc này, phong trào Duy Tân của cụ Phan Bội Châu lan vô Nam (gọi là phong trào Minh Tân) do Trần Chánh Chiếu, Nguyễn An Khương (cha của nhà chí sĩ Nguyễn An Ninh) và Đặng Thúc Liêng bí mật tổ chức.
Năm 1908, cụ Toản gia nhập Hội Minh Tân, tham gia thành lập “Chiêu Nam Lầu” của Nguyễn An Khương ở Mỹ Tho. Sau đó, cụ sang Nhật hoạt động trong phong trào Đông Du, làm thư ký cho Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, rồi về nước (khi phong trào Đông Du bị giải tán).
Năm 1913, Trương Duy Toản theo Cường Để sang Pháp đưa Giác thư phê phán chính sách cai trị của thực dân Pháp ở Đông Dương, bị bắt giam ở khám La Santé (Paris). Đến tháng 4.1916, cụ được trả tự do và trục xuất về Sài Gòn, quản chế tại làng Nhơn Ái (quận Phong Điền, tỉnh Cần Thơ).
Làng Nhơn Ái là đất mới khai phá cuối thế kỷ XIX do cư dân miền Trung – đa phần là người Phong Điền (Thừa Thiên – Huế) vào đây mở đất (tên gọi huyện Phong Điền, TP.Cần Thơ ngày nay bắt nguồn từ đây). Tại đây, có phong trào ĐCTT phát triển rất mạnh. Hòa mình vào cuộc sống của người dân quê thống khổ, từ những bản ĐCTT, cụ Toản sáng tác những bài ca rút từ truyện thơ Lục Vân Tiên theo điệu Tứ đại oán (Lão quán ca, Vân Tiên mù, Khen chàng Tử Trực…) hoặc Kiều oán, Từ Hải… rút từ Truyện Kiều cho ban tài tử Ái Nghĩa (Phong Điền) biểu diễn.
Điểm đặc biệt của những bài ca này là người biểu diễn vừa hát, vừa tạo cử chỉ, điệu bộ với những sắc thái đa dạng theo giai điệu và nội dung bài ca nên rất nhộn nhịp. Chính vì vậy, những sáng tác của cụ Toản được gọi là ca ra bộ (vừa hát vừa tạo cử chỉ, điệu bộ). Theo những tài liệu còn lưu lại, cụ Toản là một chí sĩ yêu nước, chịu ảnh hưởng Tây học, ít am hiểu ĐCTTNB.
* Ông tổ của sân khấu cải lương
Những bài ca ra bộ của cụ Toản sau đó được nhóm Amis Sa Đéc của André Thận dàn dựng và biểu diễn. Cụ Toản lại viết thêm các bài ca ra bộ: Bùi Kiệm mê sắc Nguyệt Nga (3 vai Bùi Kiệm, Bùi Ông và Nguyệt Nga); Kim Kiều hạnh ngộ (2 vai)… Dần dần, ca ra bộ lan qua Vĩnh Long. Ông Tống Hữu Định lại dàn dựng và biểu diễn…
Năm 1910, ở Mỹ Tho, ông Nguyễn Tống Triều (Tư Triều) thành lập ban ca ra bộ Tư Triều với Tư Triều (đờn kìm), Chín Quán (đờn độc huyền), Năm Diệm (đờn tỳ bà), Bảy Võ (đờn cò), Mười Lý (thổi tiêu), cô Hai Nhiễu – con ông Tư Triều (đờn tranh) và cô Ba Đắc (ca).
Khi biểu diễn, tất cả các nhạc công đều ngồi trên bộ ván; còn người ca thì đứng cạnh đó. Bài “ruột” của ban ca ra bộ Tư Triều là bản tứ đại oán Bùi Kiệm ghẹo Nguyệt Nga. Mỗi khi trình diễn bản này, cô Ba Đắc vừa ca vừa ra điệu bộ của 3 nhân vật (Bùi Ông, Bùi Kiệm và Nguyệt Nga). Lối diễn tấu mới này đã chinh phục đông đảo khán giả bởi sự mới mẽ, sinh động và hấp dẫn. Ban được mời đi biểu diễn ở nhiều nơi; kể cả ở Pháp…
Năm 1920, thầy Năm Tú dàn dựng vở cải lương Kim Vân Kiều của cụ Toản, đánh dấu sự ra đời của loại hình cải lương ở Nam Bộ. Cụ Toản để lại cho hậu thế một số vở tuồng nổi tiếng để hình thành loại hình cải lương ở Nam bộ như: Lục Vân Tiên, Kim Vân Kiều, Trang Châu mộng hồ điệp, Lưu Yến Ngọc cứu cha đại hiếu…Theo nhiều nguồn tin, cụ Toản mất năm 1957, được an táng tại quê nhà. Tuy nhiên, sau thời gian cất công đi tìm, người viết phát hiện nơi an nghỉ của cụ nằm trong khuôn viên nghĩa địa Chiếu Minh Tam Thanh, ngay chân cầu Hưng Lợi (phường Hưng Lợi, quận Ninh Kiều, TP.Cần Thơ).
5. Đặc điểm nghệ thuật của Đờn ca tài tử
Các bài bản của Đờn ca tài tử được sáng tạo dựa trên cơ sở nhạc Lễ, nhạc Cung đình, nhạc dân gian miền Trung và Nam. Các bài bản này được cải biên liên tục từ 72 bài nhạc cổ và đặc biệt là từ 20 bài gốc (bài Tổ) cho 4 điệu (hơi), gồm: 06 bài Bắc (diễn tả sự vui tươi, phóng khoáng), 07 bài Hạ (dùng trong tế lễ, có tính trang nghiêm), 03 bài Nam (diễn tả sự an nhàn, thanh thoát) và 04 bài Oán (diễn tả cảnh đau buồn, chia ly).
Nhạc cụ được sử dụng trong Đờn ca tài tử gồm: đàn kìm, đàn tranh, đàn cò, đàn tỳ bà, đàn tam (hoặc đàn sến, đàn độc huyền), sáo, tiêu, song loan... Từ khoảng năm 1930 có thêm đàn ghita phím lõm, violon, ghita Hawaii (đàn hạ uy cầm).
Người thực hành Đờn ca tài tử gồm: người dạy đàn (thầy Đờn) có kỹ thuật đàn giỏi, thông thạo những bài bản cổ, dạy cách chơi các nhạc cụ; người đặt lời (thầy Tuồng) nắm giữ tri thức và kinh nghiệm, sáng tạo những bài bản mới; người dạy ca (thầy Ca) thông thạo những bài bản cổ, có kỹ thuật ca điêu luyện, dạy cách ca ngâm, ngân, luyến,...; người đờn (Danh cầm) là người chơi nhạc cụ và người ca (Danh ca) là người thể hiện các bài bản bằng lời.
Đờn ca tài tử được thực hành theo nhóm, câu lạc bộ và gia đình, ít khi nhạc công độc tấu, mà thường song tấu, tam tấu, hòa tấu. Dàn nhạc thường cùng ngồi trên một bộ ván hoặc chiếu để biểu diễn với phong cách thảnh thơi, lãng đãng, dựa trên khung bài bản cố định gọi là “lòng bản”. Khán giả có thể cùng tham gia thực hành, bình luận và sáng tạo.
Đờn ca tài tử được truyền dạy theo hai hình thức: truyền ngón, truyền khẩu trực tiếp tại nhà, câu lạc bộ, gia đình, dòng họ; truyền ngón, truyền khẩu kết hợp với giáo án, bài giảng tại một số trường văn hóa nghệ thuật địa phương và quốc gia. Người học đàn cần ít nhất 3 năm để học những kỹ năng cơ bản như: rao, rung, nhấn, khảy, búng, phi, vê, láy, day, chớp, chụp…; học chơi độc chiếc, tam tấu, tứ tấu, ngũ tấu, lục tấu với các nhạc cụ khác nhau. Người học ca (đơn ca, song ca) học những bài truyền thống, trên cơ sở đó sáng tạo cách nhấn nhá, luyến láy tinh tế theo nhạc điệu và lời ca của bài gốc.
Người miền Nam coi Đờn ca tài tử là sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu trong các dịp lễ hội, tết, giỗ, cưới,sinh nhật, họp mặt,… Lễ giỗ Tổ được tổ chức vào ngày 12/8 âm lịch hàng năm.
6. Giá trị nổi bật của Đờn ca tài tử
Có lịch sử khá lâu đời và được bắt nguồn từ truyền thống văn hóa đa dạng của miền Trung và miền Nam Việt Nam, Đờn ca tài tử luôn khẳng định rõ vai trò không thể thiếu của mình trong đời sống xã hội người Việt, được cộng đồng cư dân ở vùng miệt vườn, sông nước Nam bộ tự nguyện chấp nhận, tự do tham gia thực hành, sáng tạo, góp phần tạo nên sự đa dạng của văn hóa Việt Nam.
Đờn ca tài tử luôn được bổ sung, làm mới bằng cách kế thừa, kết hợp giá trị âm nhạc Cung đình, dân gian; đồng thời giao lưu, tiếp biến các yếu tố văn hóa của người Khmer, Hoa và phương Tây.
Đờn ca tài tử là loại hình sinh hoạt văn hóa gắn kết cộng đồng, phản ánh tâm tư, tình cảm và phù hợp với lối sống cần cù, phóng khoáng, cởi mở và can trường của người dân Nam bộ. Thông qua việc thực hành Đờn ca tài tử, các tập quán xã hội khác như: lễ hội, văn hóa truyền khẩu, nghề thủ công,… cũng được bảo tồn và phát huy.
Hát Chầu văn hay còn được gọi là hát Văn hay hát hầu đồng là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền và một phần tín ngưỡng thờ Mẫu của văn hóa Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (Đạo Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Đức Thánh Vương Trần Hưng Đạo), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Nhờ sử dụng lời ca trau chuốt, nghiêm trang và âm nhạc mang tính tâm linh mà chầu văn được coi là hình thức âm nhạc mang ý nghĩa thần thánh.
Thời kỳ thịnh vượng nhất của Chầu văn rơi vào khoảng cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, với các cuộc thi được mở ra thường xuyên nhằm lựa chọn người hát cung văn. Tuy nhiên, từ năm 1954, hát Chầu văn dần dần bị mai một vì hầu đồng bị coi là mê tín dị đoan và bị cấm. Tưởng chừng như dấu chấm hết cho Chầu Văn sẽ đặt tại đây, tuy nhiên, vào năm 1990, loại hình nghệ thuật này lại phát triển mạnh mẽ trở lại, cùng với các trung tâm hát văn như nam Định, Ninh Bình, Hà Nam,…
Hiện tại, hát Chầu Văn đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ
Giai điệu, cùng với tone là một trong những thành tố quan trọng của âm nhạc. Các nhà nghiên cứu đi trước đã có nhiều định nghĩa khác nhau về giai điệu. Theo tác giả V.A.Vakhrameev trong cuốn Lý thuyết âm nhạc cơ bản do Vũ Tự Lân dịch, cho biết: “Giai điệu là sự nối tiếp các âm thanh một bè, có tổ chức về phương diện điệu thức, nhịp điệu và tiết tấu”.
Học giả Willi trong cuốn từ điển Harvard Dictionary of Music đã viết: Theo nghĩa rộng, giai điệu là một chuỗi các nốt nhạc, trái ngược với hòa âm là các nốt nhạc vang lên cùng một lúc. Giai điệu và hòa âm là đại diện cho chiều ngang và chiều dọc của cấu trúc âm nhạc. Tuy nhiên, giai điệu rất tự nhiên không thể tách rời nhịp điệu. Mỗi âm thanh có 2 đặc tính cơ bản, cao độ và trường độ, và cả hai đặc tính này nằm trong chuỗi các giá trị cao độ và trường độ được gọi là giai điệu. Xem xét giai điệu và nhịp điệu tách biệt hoặc thậm chí là hiện tượng loại trừ lẫn nhau như chúng ta thường làm là việc sai lầm. Cơ bản có thể coi hát chầu văn là một trong những dòng nhạc acoustics cổ truyền của Việt Nam.
Qua các nhận định trên, các nhà nghiên cứu đều thống nhất khi tìm hiểu về giai điệu thì không chỉ phân tích về cao độ mà phải gắn liền với nhịp điệu. Bởi vậy, giai điệu hát văn sẽ bao gồm hai vấn đề: âm điệu và nhịp điệu.
Để có thể hiểu sâu sắc hơn về hát chầu văn là gì? Các bạn cần phải hiểu về âm điệu của chầu văn. Vấn đề đầu tiên là về âm điệu, âm điệu bao gồm âm vực, hướng tiến hành, trang điểm âm. Trong đó âm vực được hiểu là khoảng cách từ âm thấp nhất tới âm cao nhất trong một làn điệu. Đối với hát chầu văn, mỗi làn điệu không phải lúc nào cũng có sự thống nhất về mặt âm vực.
Trong hát văn hầu có rất nhiều quãng âm vực khác nhau của 38 làn điệu, các giai điệu chuyển động chủ yếu từ quãng 8 tới quãng 13. Lấy đơn cử như âm vực quãng 10, âm vực quãng 10 có nhiều nhất trong các làn điệu hát văn. Nếu âm vực quãng 9 là kết quả của việc mở rộng khung tựa âm điệu quãng 8 lên trên hoặc xuống dưới một quãng 2 trưởng thì âm vực quãng 10 lại là sự kết hợp giữa khung tựa âm điệu quãng 8 với quãng 3 thứ ở trên hoặc ở dưới. Chỉ khi nghe hát chầu văn là gì bằng các loại loa karaoke cao cấp thì bạn mới có thể cảm nhận được hết giai điệu của các bài chầu văn được mà thôi.
Các làn điệu quãng 3 thứ mở rộng lên phía trên (phú nói, phú bình, phú rầu, hãm chuốc rượu nhịp ba, kiều bóng, xá dậy bằng, bỏ bộ nữ thần, sa mạc, sai), chiếm ưu thế hơn quãng 3 thứ mở rộng xuống phía dưới (kiều dương, xá quảng). Âm vực quãng 10 còn được hình thành trên khung tựa âm điệu quãng 8 được mở rộng cả trên và dưới quãng 2 trưởng, như trong cờn luyện, luyện tam tầng. Có thể coi âm vực quãng 10 là phổ cập nhất, vì nó có trong nhiều làn điệu nhất, do thuận tiện cho việc phổ nhạc vào nhiều loại thơ, lại phù hợp với âm vực giọng hát của nhiều cung văn. Cơ bản các bài hát trong hát chầu văn đều có trong các dòng đầu karaoke cao cấp hiện nay, bạn có thể mua về để hát karaoke rất tốt đó.
Về hướng tiến hành, trong hát văn hướng tiến hành giai điệu chủ yếu là hướng đi xuống dần, đầu tiên là xoay quanh âm chủ trên, sau đó lại quay quanh âm chủ dưới. Cùng với đó là lối tiến hành theo hình chữ A, chữ V rồi cả hướng đi ngang, tuy nhiên những hướng đi này là rất ít. Còn trang điểm âm, đối với hát văn trang điểm âm là điều khá quan trọng, nó giúp cho giai điệu của các bài văn trở nên sinh động hơn. Những kỹ thuật chính dùng để trang điểm âm trong chầu văn đó là các kỹ thuật luyến, rung, nhấn vuốt,… Đây được coi là cách để cung văn thể hiện trình độ, trổ tài của minh để góp phần làm đẹp cho giai điệu bài văn.
Có rất nhiều đặc điểm để giải thích có thể hiểu chi tiết về hát chầu văn là gì
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về cấu trúc làn điệu. Tuy nhiên, tóm lại có thể hiểu cấu trúc là quan hệ các yếu tố bên trong có sự sắp xếp tổ chức nhất định tạo lên một chỉnh thể hoàn chỉnh.
Khác với các loại hình nghệ thuật hát văn thờ, hát văn thi khác hát Chầu văn thường ghi nhận cấu trúc 2 phần, rất hiếm gặp cấu trúc ba phần
- Phần thân hát theo lối có nhịp
- Phần mở hát theo lối hát ngâm trên nhịp dồn phách
Có thể thấy cấu trúc trong hát chầu văn có mối quan hệ rất chặt chẽ với lời thơ của mỗi bài văn, nó góp phần định hình được cấu trúc nhạc. Còn cấu trúc hai phần trong chầu văn gồm phần mở và phần thân. Phần mở được ngâm trên nhịp tự do ứng với hai cặp lục bát (6/8/6/8). Phần thân chuyển sang lối hát có nhịp vào nửa sau của trổ hát nghĩa là hát câu 2 và bộ phận đóng, sang trổ tiếp sau mới hát trọn vẹn cả trổ… như vậy có thể thấy đối với cấu trúc hai phần thường được hát theo lối hát ngâm trên nhịp tự do tạo ranh giới với phần thân hát theo lối có nhịp. Về cấu trúc ba phần, là làn điệu gồm ba phần với phần mở, phần thân, phần đóng. Có thể thấy cấu trúc làn điệu ba phần trong hát văn hầu đồng không phải là dạng phổ biến, chủ yếu xuất hiện trong lối hát chèo đò.
Tóm lại cấu trúc làn điệu trong hát văn rất đa dạng và phong phú với những đặc điểm chung và riêng có. Nhưng nhìn chung có ba dạng phổ biến nhất đó là dạng cấu trúc một phần, cấu trúc hai phần và cấu trúc ba phần.
Thông thường có hai nhịp được quan tâm trong hát Chầu văn:
- Nhịp nội là cách gọi dạng âm hình tiết tấu trong âm nhạc cổ truyền mà ở đó các từ, các chữ được nhấn vào đầu nhịp (phần mạnh của phách mạnh).
- Nhịp ngoại là cách gọi dạng âm hình tiết tấu trong âm nhạc cổ truyền mà ở đó các từ, các chữ không nhấn vào đầu nhịp (phần mạnh của phách mạnh) mà được nhấn ở phần yếu của phách mạnh hay ở phách yếu hoặc trường độ của nốt nhạc (chữ hay từ) được nối từ phách yếu nhịp trước sang phách mạnh nhịp kế tiếp.
Trong Chầu văn, đa số các làn điệu thường sử dụng nhịp ngoại, tạo cảm giác mông lung, huyền ảo cho người nghe/xem. Một số nghệ nhân cũng cho biết, nhịp ngoại là “tính” đặc thù trong nghệ thuật hát chầu văn. Sự ứng tác tài tình của các cung văn “thời xưa”, có lẽ chính là nguyên nhân của việc xuất hiện nhịp ngoại trong chầu văn.
Phách là đơn vị cơ bản để tính thời gian trong âm nhạc. Khi vừa hát vừa gõ một cách đều đặn thì thời gian của mỗi cái gõ như vậy được gọi là một phách. Thời gian của phách được tính từ khi đầu bàn tay (hoặc đầu bàn chân) ở trên cao đưa xuống điểm gõ cho tới khi nó lại được đưa lên cao để gõ tiếp
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, Tam Phủ- Tứ Phủ, người ta chia ra làm các hàng các bậc khác nhau, mỗi nhân vật thuộc cấp bậc có những đặc điểm chung, điểm riêng dựa vào đó người ta có thể nhận biết trang phục đó là của vị nào. Đối với hàng Thiên phủ thường thì trang phục sẽ có màu đỏ, Nhạc phủ màu xanh, Thoải phủ màu trắng. Hay các các hàng Đệ nhất thường là màu đỏ, Đệ nhị màu xanh lá, đệ tam màu trắng, đệ tứ màu vàng, tiếp đó là các màu xanh lục, màu lam và các màu trung gian khác. Ví như Giá hàng Ngũ vị tôn ông, mỗi vị có một màu sắc chủ đạo khác nhau, Quan Lớn Đệ Nhất – Đệ Nhất Tôn Ông có trang phục màu đỏ, Quan Lớn Đệ Nhị – Đệ Nhị Giám Sát màu xanh lá, Quan Lớn Đệ Tam – Tam Phủ Vương Quan màu trắng, Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai trang phục màu chủ đạo là màu vàng, quan lớn đệ ngũ Tuần Tranh màu xanh lam.
* Bên cạnh trang phục thì phụ kiện hay các đạo cụ đi kèm cũng tạo nên những đặc điểm nhận diện các giá đồng. Giá các quan hoàng thể hiện sự chững chạc uy nghiêm, quyền quý còn thêm cờ, kiếm, hèo, quạt, bút đề thơ, hoặc thêm bình trà, ngọc trân, thuốc lá,… để biểu lộ thú hưởng lạc rong chơi. Các giá Cô thì y phục dân tộc có thêu thùa, trang sức đỏm dáng cùng các đạo cụ hái hoa, hái quả thể hiện quyền uy lại bộc lộ cá tính hồn nhiên, 32 do vậy trang phục còn thêm kiềng bạc túi trầu cau, dao quai, dao quắm,… giá các cậu cũng thể hiện quyền quý, trẻ thơ nên có khăn quấn đầu, quần thun bó đùi, giáng điệu rất tự nhiên thể hiện khi lễ cũng như khi ban phát tiền, lộc
Giá chầu là nữ thường mặc quầy (váy), áo chẽn theo lối dân tộc, đảm bảo sự trang nghiêm cốt cách. Tất nhiên trang phục do từng cá nhân thanh đồng sắm, phần màu sắc hoa văn tùy thuộc, nhất là khăn chầu theo lỗi cổ củ ấu, nhưng không hẳn khi trang điểm đã giống nhau
Hoạt động hát chầu văn được diễn ra ở nhiều không gian khác nhau. Đó có thể là nơi linh thiêng như đền thờ, phủ, chùa, điện,… những nơi có thờ thánh thờ Mẫu, đó cũng có thể là ở trên các hệ thống âm thanh sân khấu,… Không gian là điều rất quan trọng tạo lên sự thăng hoa trong mỗi buổi lên đồng của các thanh đồng. Cùng với những lời ca tiếng hát của cung văn tại các nơi linh thiêng có tượng các vị thánh, có mùi hương, có ánh nến,… tạo nên một không gian thăng hoa giúp cho các thanh đồng dễ dàng được “nhập” hơn.
Tại các buổi diễn xướng sân khấu với ánh đèn điện, với việc dàn dựng sân khấu với sự hào hứng của khán giả tạo ra không gian linh thiêng, mờ ảo không kém tại các đền phủ.
Nhìn chung, có thể thấy hát chầu văn thường gắn với các không gian linh thiêng, không gian thể hiện sự giao tiếp giữa người trần và các vị thánh và thanh đồng được coi là người trung gian thể hiện sự giao tiếp đó.
Trong hát chầu văn, hệ thống nhạc khí với biên chế cổ điển bao gồm đàn nguyệt, phách, cảnh, trống ban, thanh la và trống cái. Dàn nhạc trong chầu văn lớn nhỏ tùy thuộc vào từng địa phương, vào mức độ của buổi lễ và yêu cầu của người làm lễ nhưng không thể thiếu ba nhạc cụ chính yếu là đàn nguyệt, trống nhỏ và cảnh đôi. Âm thanh, tiết tấu, nhịp điệu của ba nhạc cụ trên tạo nên tính cách riêng biệt và đặc thù của hát văn. Điểm đặc sắc trong dàn nhạc của chầu văn ở chỗ sử dụng đàn nguyệt là nhạc cụ mang tính âm, nhạc cụ chính mang tính dẫn dắt trong cả dàn âm thanh.
Thông thường, cung văn chơi đàn nguyệt đảm nhiệm vai trò hát chính. Nhưng trong các lễ hầu đồng, cả cung văn đánh nhịp (phách, cảnh, trống) cũng phải hát. Trống ban, trống cái (thuộc Cách) là các nhạc khí bán âm. Trong diễn tấu, phách và cảnh đảm nhiệm nền nhịp điệu chu kỳ, dẫn dụ, nâng đỡ giai điệu đàn nguyệt với sự điểm xuyết của trống ban hay trống cái. Phách, cảnh, trống ban và thanh la do một cung văn đảm nhiệm. Trống cái chỉ sử dụng trong những lễ lớn với vai trò hỗ trợ của một cung văn cầm chầu. Đây được coi là biên chế chính thức của dàn nhạc hát văn cổ truyền với 2 hoặc 3 cung văn.
Hệ nhạc khí trong hát văn, đáng chú ý nhất là bộ nhạc khí tiết tấu. Khi diễn tấu, cung văn tay trái cầm 1 dùi vừa đánh phách vừa gõ trống ban. Tay phải cầm 2 dùi, 1 dùi kẹp giữa ngón cái và ngón trỏ để đánh phách, 1 dùi kẹp giữa ngón trỏ và ngón giữa để đánh cảnh. Phách và cảnh luôn diễn tấu những mô hình nhịp điệu chu kỳ làm nền cho giai điệu tiếng đàn, giọng hát. Đây chính là thành phần xác định tính vũ khúc của âm nhạc hát Chầu văn.
Múa Rối là một loại hình nghệ thuật sân khấu lâu đời của thế giới, với những dấu tích đầu tiên được phát hiện vào thế kỷ V trước công nguyên tại Hy Lạp cổ đại. Trong lịch sử và cho đến ngày nay, múa rối đã được hình thành và có mặt tại rất nhiều quốc gia; tuy nhiên, múa rối nước là bộ môn nghệ thuật độc đáo chỉ có ở Việt Nam, là một di sản văn hoá đặc sắc của dân tộc ta.
1. Nguồn gốc hình thành
Một trong những vết tích đầu tiên và hiếm có của múa rối nước Việt Nam là đoạn khắc trên bia Sùng Thiện Diên Linh (ngày nay được đặt tại Chùa Long Đọi, tỉnh Hà Nam) được dựng vào năm 1121 trong thời gian trị vì của Nhà Lý. Trên bia có đoạn ghi: ‘Thả rùa vàng đội ba ngọn núi, trên mặt sóng dập dờn. Phơi mai vân để lộ bốn chân, dưới dòng sông lờ lững, liếc mắt nhìn lên bờ, cúi xét bầu trời lồng lộng. Trông vách dựng cheo leo, dạo nhạc thiều réo rắt. Cửa động mở ra thần tiên xuất hiện. Ðều là dáng điệu thiên cung, há phải phong tư trần thế. Vươn tay nhỏ dâng khúc Hồi phong, nhăn mày thúy ngợi ca vận tốt. Chim quý từng đàn ca múa, thú lành từng đội xênh xang’– trò mùa rối nước mừng thọ nhà vua. Điều này thể hiện rằng múa rối nước đã được ra đời từ trước đó, và đến thời nhà Lý đã đạt đến trình độ cao và tiếp tục phát triển.
Sự hình thành của con rối tại Việt Nam bắt nguồn từ những tín ngưỡng dân gian của người dân Bắc Bộ. Những hình nhân thế mạng, tượng gỗ, hay hình nộm đã được sử dụng ở ruộng đồng để xua đuổi chim chóc, trong nhà hay chùa chiền để chống tà ma, hoặc trong các nghi lễ cầu cúng để cầu nguyện thần linh cho vụ mùa bội thu, một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Từ những con rối riêng lẻ của những cá nhân nghệ nhân, các Phường rối đã được hình thành với những tích trò biểu diễn đẹp và lạ mắt để đem ra thi tài, biểu diễn phục vụ cho nhân dân trong các hoạt động cầu cúng và lễ hội.
Đó là nghệ thuật rối nói chung, còn cơ sở hình thành của Rối Nước là cuộc sống trong các làng, xã gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước và các hoạt động dân gian phong phú của người dân Bắc Bộ. Nước từ lâu đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của người nông dân nơi đây: nước trong ruộng trồng lúa gạo, cho tưới tiêu, nước từ những ao làng, sông ngòi, hay những trận lũ lụt gây mất mùa – nước đã trở thành một yếu tố cộng sinh, cộng hưởng mà con người gửi gắm bao nhiêu tâm tư, tình cảm, và sự tôn thờ. Với cuộc sống gắn liền với nước và nghệ thuật rối đã có sẵn, các nghệ nhân và nông dân đã liên tưởng, tìm tòi và sáng tạo ra Rối Nước.
Rối Nước từ đó được hình thành như một phương tiện để con người truyền tải chân thực cuộc sống lao động gần gũi với thiên nhiên, thể hiện qua các trò diễn như Cày Cấy, Chăn Trâu, Bắt Cá, Chăn Vịt,… Đồng thời, người dân sử dụng Rối Nước trong các hội lễ và nghi thức tín ngưỡng để cầu xin thần linh cho lũ lụt không tàn phá ruộng đồng và vụ mùa như ý. Mỗi dịp Tết đến xuân về, sau các vụ mùa bội thu, nhân dân Bắc Bộ lại nô nức mở hội làng vui chơi, nhảy múa và thi đua. Những hoạt động dân gian này đã tiếp tục truyền cảm hứng cho người nghệ nhân sáng tạo nhiều trò rối như Múa Lân, Đua Thuyền,… Từ đó, Rối Nước đã trở thành một phần trong cuộc sống sinh hoạt dân gian của người dân, được biểu diễn trong các lễ hội truyền thống, chùa chiền để phục vụ mục đích giải trí cho người xem cho đến ngày nay. Xem ‘Triển lãm 13 Trò Rối Nước’
Nghệ thuật Rối Nước xưa được tổ chức trong các Phường, đứng đầu bởi các ông Trùm. Đây là nơi nhân dân sáng tạo, trao đổi, tập luyện và biểu diễn để đưa múa rối nước đến công chúng trong các dịp lễ hội hay các hoạt động văn hoá khác. Sau bao thăng trầm lịch sử, nhiều Phường và làng rối nước vẫn còn tồn tại đến ngày nay, tiếp tục bảo tồn và phát huy nghệ thuật Rối Nước đặc sắc của nước nhà.
2. Lịch sử phát triển
Về lịch phát triền của Rối Nước, ta có thể tóm tắt một số giai đoạn chính như sau:
– Nhà Lý và Trần (TK XI đến XIV): Nghệ thuật Rối Nước phát triển mạnh, được biểu diễn trong cung đình làm phương tiện giải trí cho vua chúa cũng như các sứ giả của nước ngoài.
– Nhà Lê, Tây Sơn và Nguyễn (TK XV – XIX): Nghệ thuật Rối Nước tuy không được biểu diễn trong cung đình nhưng tiếp tục phát triển với nhiều sáng tạo độc đáo và kĩ thuật tinh tế trong cuộc sống của nhân dân, các hoạt động văn hoá, xã hội. Múa Rối Nước trong thời gian này tiếp thu từ nghệ thuật Chèo và Tuồng và thêm nhiều lời ca, lời thoại.
– Kháng chiến chống Pháp (nửa cuối TK XIX đến đầu thế kỷ XX): trong bối cảnh đất nước loạn lạc, nhà Nguyễn bán nước, Rối Nước được bị coi là trò vui để câu khách. Tuy nhiên, loại hình nghệ thuật này vẫn tồn tại trong xã hội, trong tư tưởng của Nho sĩ yêu nước thời bấy giờ.
– Sau Cách Mạng Tháng Tám (1945) đến kháng chiến chống Pháp lần thứ 2 (1954): Rối nước có sự mai một khi kẻ thù xâm lược tàn phá các di sản văn hoá, cuộc sống hoà bình của người dân tan rã. nhân dân cả nước nổi dậy đấu tranh giành độc lập dân tộc.
– Tháng 3/1956: Bác Hồ ra chỉ thị thành lập ngành Rối chuyên nghiệp của Việt Nam, với mong muốn ‘cần có đoàn múa rối chuyên nghiệp để các cháu thiếu nhi thêm niềm vui, thêm tiếng cười’. Múa Rối Nước cũng từ đó mà phát triển, thoát ra khỏi các làng xã và được phổ cập rộng rãi trong nhân dân cả nước.
– Kháng chiến chống Mỹ (1955-1975): Cả nước rơi vào giai đoạn chiến đấu khó khăn, sự phát triển của rối nước tuy chậm lại nhưng vẫn được tiếp tục.
– Từ năm 1984: Rối nước Việt Nam được biểu diễn ở nhiều nơi trên thế giới và ngày càng được biết đến rộng rãi cho đến ngày nay, khẳng định giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc.
3. Nội dung
Nội dung biểu diễn của Rối Nước khá đa dạng, phản ảnh nhiều mặt của đời sống bình dân, những tín ngưỡng thờ thần linh và những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết và lịch sử được truyền qua bao thế hệ người dân Bắc Bộ. Để thể biểu diễn và truyền tải nội dung của mình, Rối Nước sử dụng các tích trò. Tích ở đây là những điển tích, điển cố văn học hay lịch sử được lưu truyền qua thời gian và được biết đến rộng rãi trong người dân; còn trò là việc sử dụng những nhân vật, hình ảnh và cách thể hiện lặp đi lặp đi lặp lại để diễn tả các tích. Các tích trò Rối Nước quen thuộc có thể được tìm thấy ở nhiều buổi diễn khác nhau. Ngày xưa, Rối Nước thường không đi kèm lời thoại mà chỉ tập trung vào những tích trò và âm nhạc; tuy nhiên, sau này rối nước tiếp thu một chút từ nghệ thuật Chèo và văn học, nên đã thêm lời thoại vào.
Như đã nêu trên, đề tài mà Rối Nước thể hiện có thể được chia làm 4 chủ đề chính như dưới đây. Các bạn có thể xem ‘Triển lãm 13 trò Rối Nước dân gian’ để xem các tích trò cụ thể cho các chủ đề này.
- Phản ảnh cuộc sống lao động của nhân dân: Điều này được thể hiện qua các nhân vật Rối Nước khắc hoạ những hình tượng quen thuộc với đời sống nông nghiệp (người nông dân, con trâu, con cá, con vịt, con ếch,…) cùng với những trò rối thể hiện các hoạt động lao động như Đi cấy, Chăn trâu, Chăn vịt, Câu cá, Kéo vó, Sĩ nông công thương, Xay lúa, Giã gạo,…
- Phản ánh chân thực đời sống sinh hoạt và vui chơi của con người: Những thú vui, trò chơi dân gian của người dân được thể hiện qua các trò như Đua thuyền, Đấu vật, Múa lân,… và sự tái hiện lại các hình ảnh lễ hội vui chơi. Ngoài ra, Rối Nước còn dùng để ca ngợi những phẩm chất tốt và quý giá của con người, cũng như châm biếm, phê phán các thói hư tật xấu một cách hóm hỉnh và hài hước – rối nước mang tính mua vui, giải trí. Một trò diễn nổi bật chính là Tễu giáo trò với nhân vật Chú Tếu – một người nông dân nghèo nhưng lực điền, thật thà, chất phác, hồn hậu và hóm hỉnh. Chú Tễu dẫn chuyện, tự sự, đả phá quan lại tham nhũng, phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội nhưng cũng không quên cung chúc cho người dân, làng xã được an lành.
- Ca ngợi các nhân vật lịch sử và thể hiện những điển tích cổ: Rối Nước nêu gương các anh hùng dân tộc như Lê Lợi (tích trò Sự Tích Hồ Gươm), Đinh Tiên Hoàng (điển cố Đinh Tiên Hoàng bình thập nhị xứ quân), Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo,… Ngoài ra Rối Nước cũng thể hiện các điển tích cổ như Thạch Sanh, Tấm Cám,...
- Thể hiện tín ngưỡng tâm linh của nhân dân: Điều này được thể hiện qua các hình ảnh nhân vật, nghi lễ mang ý nghĩa thể hiện, cầu nguyện thần linh cho một cuộc sống an lành, hạnh phúc như Hát Văn, Chạy đàn, Múa tiên,… Các linh vật cũng là các tích trò nổi tiếng, có thể kể đến các trò như Long, Ly, Quy, Phụng (Múa tứ linh), Múa Rồng, Múa Phượng,…
4. Con rối
Hình ảnh những con rối đã xuất hiện từ xa xưa trong đời sống nhân dân, gắn liền với nông nghiệp (bù nhìn xua đuổi động vật phá hoại hoa màu), các tín ngưỡng tâm linh (các hình nhân thế mạng, múa ông Địa,…) – nhiều loại rối đa dạng như rối tay, rối que, rối dây, rối mặt nạ,… dần dần được tạo nên cho các mục đích dân gian khác nhau của người dân, trong đó có Rối Nước.
Việc tạo nên một con Rối Nước có thể được chia thành các bước:
- Chọn gỗ và tạo mẫu: Những con rối thường được làm bằng gỗ sung, mít hoặc vông (có thể được tìm thấy nhiều ở xung quanh các làng quê Bắc Bộ) với các ưu điểm là nhẹ, dai, và bền khi tiếp xúc với nước. Những người nghệ nhân thường cắt gỗ thành các khối hình trụ dễ tạo hình cho con rối.
- Đục đẽo và tạo hình: Những khúc gỗ thô được gọt giũa thành các hình hài, đường nét thô sơ bởi đôi bàn tay tài hoa của những người nghệ nhân; nhiều khi, phần gỗ bên trong phải được đục rỗng để làm giảm trọng lượng, giúp con rối trôi nổi dễ dàng hơn trên mặt nước. Các chi tiết tay, chân thường được làm riêng biệt và sau đó gắn với thân rối bằng dây hoặc đinh tạo nên những khớp nối, giúp cho việc biểu diễn các chuyển động ‘cơ thể’. Nhiều con rối được cắt thành từng phần rồi cố định lại, giúp cho các cử động được được linh hoạt hơn.
- Làm nhẵn: Tiếp đến, con rối được chà nhám, tạo nên bề mặt nhẵn để sau đó thuận lợi cho việc quét sơn và trang trí.
- Hong sơn ta: Tiếp theo, những con rối được quét một lớp hỗn hợp đất sét và sơn ta (loại sơn giúp chống thấm nước để giữ độ bền) và phơi cho khô lớp sơn. Quy trình này thường được lập lại 3 lần để đảm bảo sơn ta bám màu tốt trên bề mặt quân rối.
- Tô vẽ và trang trí: Quân rối sau đó được thếp vàng, thếp bạc và tô vẽ bằng nhiều lớp sơn màu đa dạng mang đậm hơi hướng dân gian như đỏ, đen và xanh lục. Người nghệ nhân tiếp tục quét những lớp sơn khác lên con rối để giữ độ bền và bóng cho chúng. Mỗi lớp sơn đều phải được phơi cho khô mới tiếp tục quét được lớp tiếp theo. Thời gian cho sơn khô tuỳ thuộc vào các yếu tố thời tiết như độ ẩm.
Những con rối sau khi đã được hoàn thiện cao khoảng 30-70cm, mang những đường nét và hơi thở của cuộc sống đương đại giản dị, gắn liền với cuộc sống nông thôn và làng quê. Qua những con rối, ta có thể thấy được phần nào cái “hồn” chân chất, ngộ nghĩnh, hóm hỉnh, và vui tươi của con người năm xưa.
Lắp máy: Sau công đoạn tạo hình, con rối được lắp máy dây và máy sào – những bộ máy này được giấu dưới nước khiến cho khán giả không thể nhìn thấy. Từ 2 loại máy nếu trên, người nghệ nhân đã chế tạo thêm máy kìm, máy ngang, đem đến những chuyển động tinh xảo cho con rối. Để biểu diễn, người nghệ nhân phải ngâm mình trong nước và đứng đằng sau một tấm màn mỏng ngăn cách giữa khu vực sân khấu chính và buồng điều khiển. ‘Cái độc đáo của sân khấu Rối Nước là con rối cử động được không chỉ nhờ những bộ dây, sào, mà còn nhờ sức nước tác động và thông qua các bánh lái và phao [đã] được lắp đặt trong ‘bộ máy’ điều khiển các con rối’ – tác giả của bài viết ‘Lịch sử múa rối Việt Nam’ trên trang Nhà Hát Múa Rối Thăng Long đã viết. Như vậy, có thể coi Rối Nước là một tạo tác của sáng tạo nghệ thuật cũng như vận dụng thành thạo khoa học của những người nghệ nhân.
2. Hội họa dân gian
1. Lịch sử:
Tranh dân gian Việt Nam có lịch sử rất lâu đời, đã từng có thời gian phát triển rất mạnh mẽ, ngày nay nó có phần giảm sút nhưng vẫn còn được giữ gìn bảo tồn trong một số làng nghề và một số gia đình làm tranh. Về cơ bản có hai loại tranh chính là tranh Tết và tranh thờ. Sở dĩ chúng xuất hiện rất sớm là bởi vì nó với hai loại chính là tranh tết và tranh thờ xuất hiện gần như cùng lúc với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt và việc thần thánh hóa các hiện tượng tự nhiên.
Vào thời nhà Lý (thế kỷ 12) đã bắt đầu xuất hiện những gia đình hay thậm chí là cả một làng chuyên làm khắc ván, làm tranh. Đến cuối đời nhà Trần nhiều nơi đã in được tiền giấy (là một cách thể hiện của tranh dân gian) và sang đời nhà Hồ tiền giấy đã được phát triển mạnh.
Tới thời kỳ Lê sơ việc in khắc tranh đã được tiếp thu thêm kỹ thuật khắc ván in của Trung Quốc và sau khi vào Việt Nam đã được cải tiến thêm cho phù hợp. Cùng với đó là sự phân hoá của tranh dân gian xuất hiện ngày càng rõ nét.
Đến đời nhà Mạc (thế kỷ 16) một thay đổi đặc biệt đã xảy ra, tranh dân gian không còn là sản phẩm riêng của những người nông dân nghèo khó nữa, mà đã được cả tầng lớp quý tộc ở kinh thành Thăng Long ưa thích, thường sử dụng vào dịp Tết Nguyên Đán.
Sang thế kỷ 18 - 19, tranh dân gian đã dần đi vào giai đoạn ổn định và phát triển mạnh mẽ. Nghề làm tranh đã lan truyền rộng rãi hầu khắp cả nước. Cùng với đó là sự phân hóa, những dòng tranh mới xuất hiện, được gọi tên theo địa danh nơi sản xuất, đã có những phong cách riêng của mình. Nét riêng của mỗi dòng tranh được thể hiện ngay từ quy trình làm tranh cũng như trong mỗi đường nét của tranh. Đó là sự khác biệt giữa kỹ thuật khắc ván in, kỹ thuật vẽ, nguyên liệu làm tranh, cách pha chế tạo màu sắc riêng...
2. Đặc điểm:
Tranh dân gian Việt Nam dù có nhiều dòng tranh khác nhau nhưng nhìn chung đều được dựng hình theo kiểu lấy các nét khoanh, lấy các mảng màu và bao lại toàn hình. Các thành phần trong tranh không có một điểm nhìn cố định mà hầu hết được thiết kế để có thể quan sát di động, từ nhiều góc độ khác nhau. Cách tạo màu cũng vậy, tất cả đều nhằm làm cho bức tranh thật dễ nhìn.
Do đặc điểm của tranh dân gian là để phục vụ đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, phục vụ việc thờ cúng, trang hoàng cho ngày Tết cho nên cần phải có số lượng lớn mà giá cả không được đắt. Vì thế mà người làm tranh đã sử dụng phương pháp khắc ván rồi từ đó sao in ra nhiều bức tranh.
Nhìn chung cách in tranh chủ yếu là sử dụng ván khắc. Các bản ván khắc chủ yếu làm từ gỗ. Đầu tiên nghệ nhân sẽ khắc lên bản gỗ đường nổi thể hiện những đường nét chính của tranh, sau này khi in tranh ra giấy, người làm tranh lại tiếp tục tô vẽ để hoàn thiện bức tranh đó, còn đối với một số tranh đơn giản thì người thợ không cần tô vẽ thêm nữa mà tranh được đưa ra khi in xong. Nghệ thuật in tranh qua các bản gỗ khắc nổi xuất hiện từ xa xưa, được lưu truyền từ đời nay qua đời khác.
Ngoài các dòng tranh sử dụng phương pháp khắc thì còn có những bức tranh vẽ tay của các nghệ nhân. Phương pháp vẽ tranh trực tiếp này chủ yếu được dùng ở vùng các dân tộc thiểu số ở vùng núi miền Bắc như người: Tày, Nùng, Dao...
Tranh thường được in hoặc vẽ trực tiếp lên giấy. Loại giấy phổ biến thường được các dòng tranh dùng hơn cả là giấy dó. Từ loại giấy này có thể làm ra giấy điệp, loại giấy mà tranh Đông Hồ sử dụng in hình. Đặc điểm của loại giấy này là độ bền rất cao, mà lại xốp nhẹ, không nhoè khi viết vẽ, ít bị mối mọt, hoặc giòn gãy, ẩm nát. Với đặc tính chống ẩm rất cao, giấy dó giúp cho các bức tranh không bị ẩm mốc, trường tồn cùng thời gian.
Mỗi dòng tranh thường có cách tạo màu, pha chế màu sắc riêng, nhưng nhìn chung thì màu sắc cho những bức tranh thường được tạo nên từ những nguyên liệu đơn giản, dân dã bằng rất nhiều phương pháp khác nhau.
Ví dụ như trong tranh Đông Hồ, thường chỉ có 3 đến 4 màu mà thôi, màu sắc được tạo nên từ:
- Than xoan tạo màu đen,
- Rỉ đồng tạo màu xanh,
- Hoa hòe tạo màu đỏ,
- Lá chàm tạo màu xanh mát,
- Màu vàng ấm lấy từ hoa hoè hay quả dành dành,
- Màu trắng óng ánh thì dùng vỏ trai điệp ở biển nghiền mịn
- Màu đen của tranh được làm từ tro rơm nếp hay tro lá tre được đốt và ủ kỹ,
- Màu vàng cũng tạo nên từ hoa hoè,
- Màu son của sỏi đồi tán nhuyễn.
Những màu sắc đó lại được pha với dung dịch hồ nếp cổ truyền tạo cho tranh Đông Hồ một vẻ óng ả và trong trẻo. + màu sắc trong tranh Hàng Trống: thường chỉ có 3 đến 5 màu, màu sắc dùng phẩm màu để vẽ.
Hầu hết tranh dân gian được vẽ theo quan niệm "sống" hơn "giống". Đường nét của mỗi bức tranh hết sức gạn lọc, thuần khiết, cốt sao rung cảm thẩm mỹ cho người xem hơn là vẽ đúng luật. Các thành phần trong tranh không có một điểm nhìn cố định mà hầu hết được thiết kế để có thể quan sát di động, từ nhiều góc độ khác nhau.
3. Đề tài và nội dung
Do ra đời để đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của người dân, gắn bó chặt chẽ với đời sống thường nhật của người dân nơi thôn dã cho nên đề tài của tranh hết sức phong phú. Tranh phản ánh từ những gì gần gũi, thân thiết nhất với người dân cho đến những điều thiêng liêng cao quý trong các tranh thờ.
Những truyện Nôm như Truyện Kiều và Nhị Độ Mai cũng được dùng làm đề tài tranh. Truyện Kiều thì có cảnh ba chị em đi tảo mộ gặp Kim trọng. Nhị Đọ Mai thì vẽ cảnh Hạnh Nguyên đi cống Hồ.
Những đề tài dân dã như: cóc, chuột, đàn gà, hái dừa, đánh ghen, khiêng trống, đánh vật... Cùng tồn tại với những đề tài như: Phú Quý, Tố Nữ,...
Lịch sử Việt Nam cũng là một đề tài được tranh dân gian đề cập đến rất nhiều, như: bà Trưng Trắc cưỡi voi xung trận, Ngô Quyền đánh quân Nam Hán, Đinh Bộ Lĩnh cờ lau tập trận... rồi sang thời kỳ lịch sử hiện đại có Việt Nam độc lập, bình dân học vụ, bắt sống giặc lái máy bay, Bác Hồ về thăm làng...
Nội dung của tranh cũng hết sức phong phú, đa dạng. Mỗi bức tranh đều mang một ý nghĩa nhân sinh riêng, biểu hiện nhiều góc độ tâm trạng của con người, mang trong nó là cả những ước vọng của người dân, từ những ước mong giản dị cho tới những điều cao quý. Đó có thể là mong ước về một cuộc sống no ấm của nhà nông với sự thể hiện của tranh "Mẹ con đàn lợn", hay sự thể hiện ý chí kiên cường bất khuất của đấng nam nhi với "Tranh gà trống" sặc sỡ và oai vệ, và nó cũng thể hiện cho 5 đức tính quý của con người: văn (vẻ đẹp – mào gà), vũ (cứng rắn – cựa gà), nhân (lòng thương yêu đồng loại – khi kiếm được mồi luôn gọi đàn đến cùng ăn), dũng (sức mạnh – gặp kẻ thù thì kiên quyết chống lại), tín (hàng ngày báo giờ rất đúng). Tranh gà đẹp và ý nghĩa như thế, nên nhà thơ Đoàn Văn Cừ đã viết trong bài thơ Chợ têt: "Lũ trẻ còn mải ngắm bức tranh gà/ Quên cả chị bên đường đang đứng gọi".
Còn tranh "Đám cưới chuột" lại là một minh chứng sống động và hóm hỉnh cho quan hệ mạnh hiếp yếu trong xã hội. Chuột làm đám cưới phải lo lễ vật cống cho mèo, cầu xin mèo để yên cho đám cưới được tiến hành.
Dù được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng tranh dân gian của các dòng tranh đều có điểm giống nhau là luôn đề cao cái đẹp, đề cao đạo lý làm người, giáo dục những phẩm chất tốt và cầu mong những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Về nội dung, tranh dân gian Việt Nam có thể chia 4 nhóm:
- Tranh thờ: được các trung tâm làm tranh dân gian dành một tỉ lệ lớn. Sử dụng ở các chùa, đền, điện, phủ và nhà dân để canh gác, trừ tà, yểm quỷ ("Vũ Đình - Thiên Ất", "Tiến Tài - Tiến Lộc", "Táo quân - Thổ công", "Ngũ Hổ"...). Tranh làng Sình (Huế), Đồ Thế (Nam Bộ) - theo mê tín để đốt thế mạng cho người sống;
- Tranh chúc tụng: chủ yếu là tranh Tết ("Gà - Lợn", "Thất Đồng", "Tam Đa"...);
- Tranh sinh hoạt: phong phú, vui vẻ, đôi khi có tính châm biếm nhẹ nhàng ("Tứ quý", "Tứ dân", "Đánh ghen", "Hứng dừa"...);
- Tranh minh hoạ - lịch sử: được chọn lọc để miêu tả lý thú ("Truyện Kiều", "Trê - Cóc", "Bà Triệu cưỡi voi", Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo...).
4. Những dòng tranh chính
Cùng với những đổi thay của đất nước, tranh dân gian cũng vậy, có nhiều dòng tranh xuất hiện. Có dòng tranh thì phát triển mạnh mẽ nhưng cũng có những dòng tranh nhanh chóng biến mất. Ngày nay, dù thời gian đã làm mai một đi, các dòng tranh dân gian hiện không còn ở thời kỳ cực thịnh, nhưng những giá trị to lớn của mỗi dòng tranh vẫn còn đó, như là một chứng tích của xã hội Việt Nam một thời, nó sẽ vãn mãi là di sản của dân tộc Việt Nam.
Có một số dòng tranh dân gian chính đã một thời cực thịnh và ngày nay còn lưu giữ được một phần, như:
Trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, nhiều loại hình nghệ thuật kiến trúc, đặc biệt là nghệ thuật điêu khắc đã phát triển và tạo nên những tác phẩm đặc sắc với giá trị vượt thời gian. Điêu khắc Việt Nam mang đặc trưng của văn hóa Việt Nam kết hợp với điêu khắc Trung Hoa và văn hóa Chăm. Tư duy nghệ thuật chịu ảnh hưởng của ba tôn giáo truyền thống là Đạo giáo, Nho giáo và Phật giáo từ các nước láng giềng Trung Quốc và Ấn Độ. Các phẩm điêu khắc sớm của Việt Nam có thể được tìm thấy trong các ngôi nhà chung, đền thờ và chùa chiền.
Các học giả cho rằng điêu khắc Việt Nam bắt đầu khi người Việt biết chế tạo công cụ, lúc đầu bằng đá, sau bằng đồng. Những bức tượng tí hon (cao từ 2cm đến 20cm) từng được gắn vào các đồ vật sử dụng hàng ngày. Những bức tượng thiếu nữ hay trưởng tộc nữ cầm dao găm mang dáng vẻ uy nghiêm và lộng lẫy, với tinh thần “Sắc đẹp đi liền với sức mạnh!”
Nếu nhìn vào bức ảnh điêu khắc trên, liệu bạn nghĩ đây là hình ảnh Hai Bà Trưng không? Ngày nay, tìm đâu ra những chân đèn đẹp và tinh xảo như vậy? Chúng ta sẽ không thể tìm thấy những giá trị trường tồn theo thời gian như vậy nếu so với những món đồ thời trang và trang sức ngày nay.
Mỹ nhân ngư trong thần thoại phương Tây khiến chúng ta liên tưởng đến những nàng tiên đánh trống phương Đông với thân hình giống chim. Điêu khắc Việt Nam có sự giao lưu văn hóa rất gần gũi với điêu khắc Trung Hoa thời Đường và điêu khắc Chăm ở Nam Bộ. Những thay đổi trong hoàn cảnh đó đã dẫn đến những thay đổi trong nghệ thuật. Dưới thời Trần, Hồ – thế kỷ 13 – 15 – nghệ thuật điêu khắc đã có nhiều biến đổi. Sự chuyển biến được quan sát thấy rõ ở chùa Thái Lạc (tỉnh Hưng Yên). Các nhân vật thực tế hơn, ngây thơ và mạnh mẽ hơn. Tượng gỗ thời Trần là những tượng cổ nhất còn lưu giữ được ở Việt Nam. Hãy nhìn con hổ đơn giản và mạnh mẽ này và những con rồng uy nghi và mạnh mẽ của thời Trần. Chúng khác rất nhiều so với đối tác trang nhã hơn nhiều của triều đại nhà Lý trước đó.
Giai đoạn này rất có thể là giai đoạn ảnh hưởng cuối cùng của nghệ thuật Chăm đối với điêu khắc Việt Nam. Đá cứng, gỗ, đất nung trở thành chất liệu chính của mỹ thuật từ thời Trần trở đi. Vua Lê Thái Tổ và phò tá Nguyễn Trãi rất coi trọng Nho giáo. Phật giáo không còn là quốc giáo. Do đó, tác phẩm điêu khắc thiên về Phật giáo đã bị lùi lại phía sau. Rồng thời kỳ này trông uy nghiêm còn ngựa trong lăng chỉ cao 45cm, như đồ chơi, xuề xòa như chó đá trước cổng nhà thường dân. Điêu khắc và Phật giáo phải chuyển từ thủ đô về làng.
Bức tượng bên phải mở ra thời vàng son của điêu khắc làng quê miền Bắc Việt Nam. Tượng Quan Thế m là hình ảnh của một người phụ nữ xinh đẹp, từ bi và toàn năng, có quyền năng “nghìn mắt nghìn tay” xuyên thấu mọi nỗi khổ của con người để cứu độ chúng sinh. Tượng Quan Thế m chùa Bút Tháp là tác phẩm điêu khắc độc bản được ký tên họ của nghệ nhân (ông Trường) và ghi năm tạo tác (1656). Đây là một kiệt tác của nghệ thuật Phật giáo thế giới.
Vào thế kỷ 19 , nghệ thuật điêu khắc Việt Nam đạt đến đỉnh cao qua các công trình kiến trúc cung đình. Lăng vua Khải Định (1885-1925) với tượng đá, ngựa, voi được chạm khắc tinh xảo. Lăng mộ vua Đồng Khánh (1864-1889) mang nét Á Đông đặc trưng ở mặt trước với biểu tượng hai cá chép, hai rồng chầu mặt trời ám chỉ cuộc đời ngắn ngủi của ông. Qua bàn tay tài hoa của mình, các nghệ nhân điêu khắc đã thể hiện những đường nét thẩm mỹ riêng, tạo nên những tác phẩm nghệ thuật sống động.
Nghệ thuật chạm khắc trên bia những bài thơ, văn do các vua sáng tác cũng thể hiện nét độc đáo của nghệ thuật điêu khắc thời Nguyễn. Tiêu biểu là bia Hiêm Cung ở lăng vua Tự Đức (1829-1883). Tấm bia lớn nhất Việt Nam này mang phong cách trang trí cung đình thời Nguyễn. Được chạm khắc công phu, bề mặt chạm nổi và khắc hình rồng, mây...
Chùa làng thực sự là bảo tàng điêu khắc. Các bàn thờ chính ít nhất phải có 60 pho tượng. Số tượng trong một ngôi chùa có khi lên đến hàng trăm pho tượng lớn nhỏ. Vô số pho tượng trong hàng ngàn ngôi chùa trên khắp Việt Nam cần được bảo vệ và gìn giữ. Bức tượng có thể thể hiện vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Những cô gái nông dân xinh đẹp và quyến rũ có lẽ đã từng làm người mẫu cho các nghệ sĩ. Hoặc được điêu khắc để miêu tả nét quyến rũ của một “hoa hậu” thời xưa: “Cổ tay em trắng ngà, sắc như dao ăn trầu là mắt em. Hoặc đó là một bông hoa sen lay động”, với ý nghĩa không có gì cao quý hơn tình mẹ. Chúng ta cũng có thể thấy nhiều bức điêu khắc kiệt tác của một người mẹ Việt Nam lý tưởng với vẻ đẹp thuần khiết, công chính, bác ái.
Tượng Bà Trắng che nửa ngực, hiếm có trong mỹ thuật Việt Nam, Thiện Pháp, Ác Pháp, và các chiến binh của Đức Phật là các Thiên tử mang dáng vẻ trang nghiêm. Các tư thế võ thuật và sức mạnh nam nhi của họ được các bức tượng khắc họa sống động và tráng lệ. Chỉ còn lại những bộ sưu tập tượng chân dung của người bình dân trong các ngôi chùa. Họ bao gồm các vị sư trụ trì trong các ngôi chùa Phật giáo, những người có công với chùa, chẳng hạn như những người xây dựng, trùng tu, v.v.
Nhà sư mập đang ngoáy tai và nhà sư gầy đang gãi lưng. Các pho tượng Tổ sư chùa Tây Phương (thường bị gọi nhầm là La Hán) cũng “cực giống thật”, ngoại trừ đôi tai cách điệu. Những bức tượng ngoài trời, tuy không phổ biến và ít uy nghiêm hơn nhưng vẫn là những tác phẩm có giá trị trong các lăng mộ hoàng gia. Điêu khắc cổ Việt Nam thực sự đặc sắc, phong phú, hiện thực và trôi chảy. Màu sắc rất tinh tế và quyến rũ.
- Phù điêu: Phù điêu là loại điêu khắc được thể hiện trên mặt phẳng, có sự gắn kết khăng khít với mặt phẳng. Mặt phẳng đóng vai trò là nền tảng cơ bản và là phông nền của hình khối tạo hình trên nó.
- Tượng tròn: là dạng tượng mà người ta có thể đi vòng xung quanh để xem; khác với kiểu tượng hoặc phù điêu gắn lưng vào tường.
- Tượng đài: Là tượng tưởng niệm nhân vật lịch sử hoặc một sự kiện lịch sử. Hình thức tượng đài thường rất đồ sộ, chiếm không gian rộng lớn, có nội dung chính trị, lịch sử hay huyền thoại. Tầm cỡ và quy mô quốc gia hay thậm chí quốc tế; tối thiểu là cấp tỉnh, huyện hay vùng. Không có tượng đài tư nhân.
- Điêu khắc gốm: Một tác phẩm điêu khắc gốm được tạo nên từ đất sét và nước, thường được nung trong lò nung trước khi hoàn thành. Có nhiều kỹ thuật để chế tác nên mỗi tác phẩm, phổ biến nhất là kỹ thuật đổ khuôn, cho phép các họa sĩ tạo ra bất kỳ hình dạng hoặc kích thước nào theo mong muốn. Bên cạnh đó, nhiều đặc tính độc đáo khác khiến điêu khắc gốm trở nên khác biệt so với những cách thức điêu khắc nghệ thuật khác.
- Điêu khắc dây thép uốn, căng, treo: Là loại tạo hình có giới hạn không gian đặc biệt nhưng bên trong hoàn toàn rỗng. Khi treo thì tạo ra thành phần điêu khắc chuyển động theo ý đồ sáng tạo.
- Điêu khắc thiên nhiên: Là điêu khắc hoặc tạo dáng trực tiếp từ các vật thể sống, tồn tại trong thiên nhiên như cây, đá, băng, cát, sỏi…
- Điêu khắc địa hình: Là loại hình điêu khắc khổng lồ, người sáng tạo có thể dùng các phương tiện và cách thức hiện đại tạo hình vào núi, đồi, bờ biển, đảo, mặt đất…