Mỗi miền quê, dân tộc ở Việt Nam đều sở hữu những nét văn hoá riêng nhưng vẫn đậm đà bản sắc tạo nên một đất nước độc đáo hấp dẫn du khách. Và một trong những điều mà khiến khách du lịch trong và ngoài nước thích thú đó chính là những làng nghề truyền thống. Vậy hãy cùng chúng tôi tìm điểm qua một số làng nghề nổi tiếng ở Việt Nam nhé:
Làng gốm Bát Tràng nay thuộc xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Làng gốm có bề dày lịch sử hơn 500 năm, qua các thế hệ tiếp nối. Đến ngày nay làng gốm sứ Bát Tràng nổi tiếng cả trong và ngoài nước. Tại đây các dòng họ vẫn giữ được chất nghề do cha ông truyền lại, khiến các sản phẩm đều có nét đặc trưng và tinh xảo riêng. Sản phẩm gốm sứ cũng từ đó được biết đến xa gần, xuất khẩu đi nhiều nơi trên thế giới.
Với lịch sử lâu đời, cùng với sự đa dạng về các sản phẩm gốm sứ thì hiện nay làng gốm sứ Bát Tràng hiện đang thu hút đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước tham quan, tìm hiểu cả về lịch sử cũng như quá trình sản xuất gốm sứ Bát Tràng.
Đến với làng gốm Bát Tràng, các bạn có thể tham quan làng gốm, tham gia làm gốm do các nghệ nhân hướng dẫn và ăn các món ăn truyền thống. Nếu bạn yêu thích lịch sử văn hóa dân tộc thì đây là một điểm du lịch rất nên đến.
Tranh Đông Hồ là các tên không hề xa lạ đối với mỗi con người Việt Nam, làng tranh này có lịch sử lâu đời hiện nay nằm ở xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Làng tranh Đông Hồ là Di sản văn hoa phi vật thể cấp quốc gia và có tên gọi đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ
Nét đặc trưng của tranh dân gian Đông Hồ nằm ở bố cục tranh, giấy in, màu sắc hài hòa và mang nét đặc trưng riêng. Người làng Hồ đã biết vận dụng, chắt lọc từ những chất liệu thiên nhiên để tạo nên những sắc màu truyền thống vừa tươi vừa có độ bền màu, như màu xanh chiếc ra từ gi đồng, màu chàm của cây chàm hay màu đỏ thẩm từ cây vàng
Tranh Đông Hồ được bày bán nhiều nhất vào dịp Tết Nguyên Đán. Những ngày cận Tết, khách thập phương tụ hội về chợ tranh để mua tranh rất nhộn nhịp. Đây cũng là một trong những điểm thu hút khách du lịch cả trong và ngoài nước của vùng đất Bắc Ninh.
"Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát. Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông". Lụa Hà Đông hay còn gọi là lụa Vạn Phúc là làng nghề dệt lụa tơ tằm lâu đời có lịch sử ngàn năm. Lụa Vạn Phúc có những mẫu hoa văn lâu đời nhất Việt Nam.
Ngày xưa, lụa Vạn Phúc được sử dụng nhiều trong cung đình nhờ chất lượng tốt và hoa văn đẹp. Hiện nay, có đến 800 hộ gia đình làm nghề, trong những gia đình đó người ta vẫn giữ lại những khung dệt cổ và những khung cơ khí hiện đại, điều này cho thấy người dân vẫn giữ những nét truyền thống vừa đầu tư phát triển làng nghề trong xu thế hội nhập
Mặt hàng dệt tơ lụa Vạn Phúc có nhiều loại: lua, là, gấm, vóc, vẫn, the, lĩnh, băng, quế, đoạn, sa, kỳ, cầu, đũi... Với thương hiệu nổi tiếng và nghề truyền thống lâu đời, một chuyến du lịch làng lụa Vạn Phúc hứa hẹn sẽ mang lại nhiều điều thú vị. Đến đây, du khách vừa có dịp mua sắm các sản phẩm lụa chính hiệu, vừa được dịp quan sát quy trình làm ra tấm lụa của các nghệ nhân tài hoa.
Khi nhắc đến nghề làm trống, chúng ta đều nhắc đến một làng nghề trống truyền thống Đọi Tam - Duy Tiên - Hà Nam.
Làng trống Đọi Tam đã quá nổi tiếng bởi lịch sử 1000 năm làm trống với bao thợ cả nổi tiếng khắp vùng. Nghề làm trống ở Đọi Tam là nghề cha truyền con nối, thế hệ này tiếp nối thế hệ kia để gìn giữ và phát triển nghề làm trống, ở đây người ta làm đủ làm đủ các loại trống, mỗi năm làm ra đến hàng nghìn chiếc trống các loại. Trống Đọi Tam nổi tiếng nhờ độ bền, đẹp, tròn,... đó là nhờ bí quyết riêng của làng nghề cùng tâm huyết của người làm trống.
Làng trống Đọi Tam đã được công nhận là làng nghề truyền thống tiêu biểu của toàn quốc. Sản phẩm trống Đọi Tam đã xuất bán qua các nước châu Âu, điều này chứng tỏ giá trị của các sản phẩm trống Đọi Tam.
Làng đá mỹ nghệ Non Nước đã rất nổi tiếng cả trong và ngoài nước về các sản phẩm đồ mỹ nghệ bằng đá cẩm thạch. Làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước thuộc phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Mỗi khi dừng chân ở Ngũ Hành Sơn thì ai ai cũng ghé thăm làng nghề và chọn mua những sản phẩm về làm quà tặng. Về lịch sử làng được hình thành vào thế kỷ XVIII do nghệ nhân người Thanh Hóa tên Huỳnh Bá Quát khai phá. Ngày nay, làng đá mỹ nghệ Non Nước đã được công nhận là đi sản văn hoa phi vật thể cấp Quốc gia.
Nguyên liệu để làm ra các sản phẩm mỹ nghệ là đá cẩm thạch trước đây được khai thác ở núi Ngũ Hành Sơn. Đá núi Ngũ Hành Sơn nhiều hoa văn ngũ sắc, vẻ đẹp cao sang, là mặt hàng được ưa chuộng trong xây dựng và kiến trúc. Người nghệ nhân làng đá mỹ nghệ đã thổi vào đó tâm hồn của con người để tạo ra những sản phẩm tinh xảo.
Tham quan làng đá, bạn sẽ được chiêm ngưỡng các tác phẩm nghệ thuật được chế tác từ đá. Mỗi tác phẩm đều thể hiện nét tài hoa, tinh tế của các nghệ nhân cùng với đó ta thấy sự đa dạng của các loại sản phẩm, từ những pho tượng phật, tượng người, tượng các danh nhân Việt Nam. Tất cả đều được chạm trổ hoa văn rất tỉ mỉ và rất tinh xảo. Vì vậy đây là một điểm đến hứa hẹn nhiều điều thú vị cho khách du lịch.
Làng nghề thúng chai ra đời đã lâu, chính xác từ bao giờ thì không ai nhớ người ta chỉ biết đây là nghề trở thành nguồn sống của dân làng từ thuở nào.
Những năm trước đây làng nghề còn xập xệ nhưng đến nay làng nghề đã phát triển và vươn ra cả thế giới. Trong xu thế hội nhập, không ít làng nghề truyền thống không chỉ đứng vững mà còn phát triển mạnh. Gần đây mọi người phấn khởi khi thúng chai bất ngờ xuất ngoại sang các nước như Thái Lan, Thụy Sỹ và các nước phương tây khác.
Thúng chai của Phú Yên có điểm đặc biệt là chỉ sử dụng nguyên liệu của địa phương. Theo người dân làng nghề, cây tre trồng trên đất Phú Yên có đặc điểm chịu nước tốt, dẻo dai và có nguồn dầu rái rất chất lượng khi trét thúng nên thúng giữ được độ bền. Được sự quan tâm của chính quyền cũng như sự nỗ lực của người dân, làng nghề ngày nay càng phát triển.
Tuyết Diêm có nghĩa là những hạt muối trắng tinh. Ở Phù Yên có 3 làng nghề sản xuất muối có truyền thống hơn 300 năm đó là Trung Trình, Lệ Uyên, Tuyết Diêm.
Muối Tuyết Diêm còn được gọi là muối Cù Mông. Làng nghề làm muối Tuyết Diêm hình thành từ năm 1870, đến nay đồng muối Tuyết Diêm, xã Xuân Bình, Sông Cầu, Phú Yên đã 138 tuổi. Ngày nay, người dân ở đó vẫn giữ nghề làm muối dù vất vả, cực nhọc vì đó là cái nôi mà họ đã sinh ra và gắn bó.
Làng nghề làm muối là nét độc đáo, đặc sắc trong văn hóa làng nghề Việt Nam. Cũng là du lịch miền biển, nhưng thay vì chuyến du lịch nghỉ dưỡng, đến thăm làng nghề Tuyết Diêm bạn sẽ được trải nghiệm, tìm hiểu về một làng biển chứa đựng lịch sử văn hóa và nét đặc trưng của làng nghề xứ biển.
Làng cói Kim Sơn nằm ở huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình nổi tiếng với nghề trồng cói. Làng cói có lịch sử hơn 100 năm và đã trở thành làng nghề nổi tiếng trong và ngoài nước.
Qua bao nhiêu thăng trầm, cói Kim Sơn ngày càng khẳng định vị thế của mình. Với sản phẩm đa dạng, bắt mắt các sản phẩm của làng cói Kim Sơn càng được nhiều người ưa chuộng. Hiện nay, chiếu cói Kim Sơn đã có mặt ở hơn 20 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Ở huyện Kim Sơn hiện nay 100% xã đều tham gia làm cói vì vậy mà đã giải quyết việc làm cho hầu hết dân cư trong huyện. Hiện nay, làng cói Kim Sơn là địa điểm thu hút khách du lịch mới của Ninh Bình.
Làng nghề truyền thống Sơn Đồng tại Hà Nội đã có từ nghìn năm nay và gắn liền với sự truyền bá Phật giáo vào Việt Nam. Làng nghề nổi tiếng với nghề điêu khắc đồ gỗ, bên cạnh nghề tạc, sơn tạo ra những bức tượng như Phật bà nghìn mắt nghìn tay, Phật Thích ca, Phật A di đà... thì làng nghề còn nổi tiếng với các đồ thờ các loại. Đặc biệt nghệ thuật sơn son thiếp vàng chỉ có tại làng nghề Sơn Đồng. Hiện nay, sản phẩm của làng nghề Sơn Đồng chiếm đến 50% thị phần các đồ thờ sơn son thiếp vàng, thếp bạc phủ màu hoàng kim, phục vụ đời sống văn hóa tâm linh, tín ngưỡng của người dân.
Thành quả mà những người thợ Sơn Đồng thu được sau bao ngày đêm miệt mài bên xưởng gỗ là tiếng thơm không chỉ vang danh khắp mọi miền Tổ quốc, mà còn vang xa tới nhiều quốc gia trên thế giới, nhắc đến tượng Phật là người ta nghĩ ngay đến Sơn Đồng.
Làng nghề khảm trai Chuôn Ngọ nằm ở Hà Tây, nay là Chương Mỹ, Hà Nội. Đây là làng nghề truyền thống có từ thời nhà Lý. Trải qua gần nghìn năm nay, đời này qua đời khác, nghề khảm trai Chuôn Ngọ vẫn được lưu giữ và phát triển. Các sản phẩm của làng nghề rất tinh xảo và đa dang, mang lại giá trị nghệ thuật cao,
Nét nổi bật của tranh khảm trai Chuôn Ngọ là những mảnh trai không vỏ, luôn phẳng, đục gần xuống gỗ rất khít. Chi tiết trang trí trên khảm trai rất sinh động, đặc sắc. Người nghệ nhân bằng đôi tay khéo léo đã làm nên những sản phẩm tỉnh tùy làm nên thương hiệu của làng nghề khảm trai Chuôn Ngọ. Những mảnh trai vô tri, vô giác, đã trở thành sản phẩm có giá trị văn hóa, nghệ thuật cao.
Nghề khảm trai được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng cách cầm tay chỉ việc. Các nghệ nhân bằng lòng yêu nghề, quý trọng những tinh túy của cha ông để lại đã truyền thụ cho lớp lớp thế hệ sau gìn giữ và phát triển.
Trước đây, nghề tiện chỉ chuyên tiện đồ gỗ thờ tự, gia dụng như: đài nến, ống hương, bát nhang, đấu đong thóc, chân bàn ghế, tủ... Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, nghề tiện giờ đây còn tham gia vào sản xuất các mặt hàng gia dụng cao cấp như: mành rèm cửa, đệm ghế ngồi ô tô, đồ trang trí nội thất, nhà cửa...
Để phù hợp với yêu cầu của thị trường, làng tiện gỗ Nhị Khê còn chuyển sang tiện các loại sản phẩm từ nguyên liệu đá sừng thành đồ trang sức, mỹ nghệ độc đáo và tinh xảo, cho giá trị kinh tế cao như: bình, lọ, hộp đựng tăm, gạt tàn thuốc lá, các con vật quý....
Nghề gốm ở Thổ Hà phát triển rực rỡ từ thế kỉ XIV. Đây là một trong ba trung tâm gốm sứ cổ xưa nhất của người Việt. Bên cạnh Phù Lãng (Quế Võ, Bắc Ninh) và Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội), Thổ Hà mang những nét đặc sắc riêng hiếm có: độ sánh cao, không thấm nước, tiếng kêu như chuông, màu men nâu đỏ mịn màng, ấm áp và gần gũi. Gốm có độ bền vĩnh cửu dù được chôn trong đất, ngâm trong nước.
Làng chỉ làm đồ gồm gia dụng, những chum vại, tiểu sành, chĩnh chỗ nổi tiếng một thời. Những mảnh gốm xưa còn sót lại trên các bức tường vẫn nguyên hình vẹn trạng, hồn gốm như còn đọng mãi.
Gọi gốm Chu Đậu là gốm đạo vì hoa văn tinh xảo của những sản phẩm này đều mang đậm những giá trị nhân văn của Phật giáo và Nho giáo.
Gốm Chu Đậu (huyện Nam Sách, Hải Dương) phát triển rực rỡ vào giai đoạn thế kỷ XIV đến thể kỷ XVII. Sau hơn ba thế kỷ thất truyền, nay gồm Chu Đậu hồi sinh, trở thành mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Sự phục hồi của làng gốm còn tạo nhiều tiềm năng phát triển du lịch làng nghề cho địa phương. Các sản phẩm gốm Chu Đậu đang được lưu giữ tại nhiều bảo tàng quốc gia trên thế giới như Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, Bỉ, Nhật Bản, Hà Lan... và trong sưu tập cả nhân của nhiều nước trên thế giới.
Một trong những điểm nổi bật của gốm Chu Đậu là các đường nét hoa văn. Hoa văn cổ của Chu Đậu phần nhiều là sen, cúc, dưới nhiều dạng khác nhau và hàng chục loại hoa văn cách điệu khác.
Tương truyền, từ năm 1285, khi vua Trần Thái Tông tròn 40 tuổi, nhường ngôi cho con lên làm Thái Thượng Hoàng đã về vùng núi Vũ Lâm tu hành (xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư), bà Trần Thị Dung là vợ Thái sư Trần Thủ Độ theo triều đình nhà Trần về đây đã truyền dạy cho nhân dân thôn Văn Lâm nghề thêu ren. Như thế, nghề này đến nay đã có trên 700 năm.
Ở Văn Lâm hiện nay, có rất nhiều gia đình trang bị các loại khung thêu, với nhiều kích cỡ khác nhau. Dưới bàn tay tài hoa của người thợ thêu, qua những sợi chỉ mảnh mai, nhiều màu sắc trên nền vải được chọn, những tác phẩm nghệ thuật tinh tế đã ra đời.
Đường nét thêu ren rất tinh xảo, uyển chuyến, mềm mại, thanh tú nhưng lại sống động mịn màng như nét vẽ của người họa sĩ. Sản phẩm thêu ren rất phong phú như ga trải giường, rèm cửa, gối, khăn bàn, khăn tay, tranh, ảnh.....
Tương truyền nghề chạm bạc Đồng Xâm đã có từ thế kỷ XV. Dân gian tương truyền, có một người đàn ông từ Châu Bảo Lạc (Cao Bằng) đi thuyền nan xuôi dòng, dừng bên bờ Trà Lý rồi truyền nghề chạm kim khí cho dân làng. Còn theo văn bia tại đền thờ tổ nghề chạm bạc, vào năm 1428, cụ Nguyễn Kim Lâu chính là người đã về đây truyền nghề cho dân, lập thành phường Phúc Lộc, theo mô hình, một trùm phường và 7 chi phường cai quản 7 hạng thợ với 149 người thuộc dòng họ Nguyễn, Triệu, Trần, Đinh, Vũ, Hoàng, Ngô, Đỗ...
Thời kỳ hưng thịnh nhất của làng nghề là các nghệ nhân tỏa ra 4 phương, mang tinh hoa đến khắp mọi miền đất nước. Vào thời Nguyễn, chính các nghệ nhân Đồng Xâm đã vào tận Huế để chạm trổ cung kiếm, đồ trang sức cho triều đình. Và cũng chính họ cùng các thợ bạc ở Châu Khê, Định Công lập ra phố Hàng Bạc ở Hà Nội ngày nay.
Làng Kế Môn thuộc huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế là làng nghề kim hoàng nổi tiếng hơn 300 năm nay. Vị tổ của làng nghề này là ông Cao Đình Độ, người làng Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa, di cư vào làng Kế Môn vào cuối đời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Đến đời vua Quang Trung, ông Độ được triệu vào cung lập cơ vệ ngành ngân tượng chuyên làm đồ trang sức cho Hoàng gia. Đến đời vua Gia Long, Cao Đình Độ và Cao Đình Hương (con trai ông) vẫn được giữ lại làm ngân tượng cho đến khi mất (1810; 1821).
Sản phẩm kim hoàn ở Kế Môn nổi tiếng có chất lượng tốt so với nhiều nơi khác với kỹ thuật tay nghề tinh xảo và chạm khắc cầu kỳ được làm ra bởi những người thợ có kinh nghiệm, khéo tay và giàu khiếu thẩm mỹ sáng tạo, thể hiện rõ nhất là trên các đồ trang sức như vòng, kiềng, nhẫn, lắc, dây chuyền, khuyên tai bằng vàng hoặc bạc
Làng nghề Tây Hồ nằm bên dòng sông Như Ý, thuộc xã Phú Hồ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế và cách trung tâm thành phố khoảng chừng 12 km. Làng nghề truyền thống làm nón hình thành cách đây hàng trăm năm và những chiếc nón bài thơ xuất hiện trong khoảng từ những năm cuối thập kỷ 50 – đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX.
Nón lá Tây Hồ nổi tiếng bởi độ mỏng, thanh, màu sắc nền nã và đường kim, mũi chỉ đều, đẹp nên người tiêu dùng rất yêu chuông. Nón là là vật trang sức làm duyên thêm nét đẹp của những thiếu nữ và là vật che nắng hữu hiệu của nhiều người. Người dân quê đi chợ, đi làm ruộng không thể thiếu chiếc nón lá đội đầu. Nón là đã gần bỏ với cuộc sống của người nông dân Tây Hồ một nâng hai sương trên đồng ruộng một cách tự nhiên và bền bỉ dù cuộc sống đã có nhiều đồi thay. Không chỉ nổi tiếng với nón lá bài thơ, dân làng Tây Hồ còn rất khéo léo khi tạo ra những chiếc nón lá kẻ hai lớp bền, đẹp, đội mát.
Về thăm làng nghề truyền thống Tây Hồ, du khách du lịch xứ Huế sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp độc đáo, đặc sắc của từng chiếc nón bài thơ và ngắm nhìn quá trình làm nón trải qua 15 công đoạn khéo léo và tinh tế.
Kim Bồng là làng nghề chạm trổ điêu khắc gỗ nổi tiếng từ xa xưa. Kim Bồng thuộc phường Cấm Kim, thành phố Hội An. Làng nghề được sáng lập từ thế khỉ XV do ông Tổ là người Thanh Hóa di cư vào Nam dừng chân tại đất Kim Bồng tức tại Cẩm Kim - Hội An thời bấy giờ. Đi cùng ông có 4 tộc Phan, Trương, Huỳnh, Nguyễn. Cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17 nghề mộc Kim Bồng bắt đầu phát triển nhờ sự phồn thịnh của thương cảng Hội An. Đến thế kỷ XVIII, nghề mộc Kim Bồng đã phát triển mạnh mẽ và thịnh đạt thành làng nghề với ba nhóm nghề rõ rệt: nghề mộc xây dựng các công trình kiến trúc đô thị, nghề mộc dân dụng và nghề đóng tàu thuyền mộc.
Nghệ nhân làng mộc Kim Bồng từng tự hào với việc cha ông họ đã được vua chúa nhà Nguyễn mới ra kinh đô xây dựng và tôn tạo các công trình thành quách, lăng tẩm. Nghề mộc ở đây có nguồn gốc xuất xứ từ miền Bắc, được các nghệ nhân mộc làng Kim Bồng học hỏi, phối hợp với nghệ thuật chạm khắc của người Chăm, Trung Hoa và Nhật Bản để tạo nên những tác phẩm điêu khắc gỗ mang tính mỹ thuật và triết học cao
Sản phẩm điêu khắc gỗ của Kim Bồng đã hiện diện ở nhiều gia đình, nhiều địa phương trong nước và nhiều quốc gia ở 5 châu lục.
Làng nghề đúc đồng Phước Kiều thuộc xã Điện Phương, huyện Điện Bàn. Làng đúc đồng Phước Kiều là một trong số những làng nghề truyền thống nổi tiếng trong số những làng nghề truyền thống của đất Quảng. Đi dọc theo quốc lộ 1A thuộc địa phận xã Điện Phương, dọc hai bên đường du khách có thể nhìn thấy rất nhiều các cửa hàng trưng bày rất nhiều sản phẩm của làng nghe.Theo ghi chép lịch sử (Việt Nam gia phả), làng nghề được hình thành từ thế kỷ thứ XVI, khi ông Dương Không Lộ, quê xã Đề Kiều, Tổng Bình Quân, châu Thất Truyền, phủ Tường Khánh, tỉnh Lạng Sơn, Trên bước đường đi làm ăn đã đặt chân đến phủ Điện Bàn khai khẩn 10 mẫu đất hoang để làm nghề đúc đồng, đổi tên là làng Phước Kiều. Và từ đó đến này cùng với bao biến động, thăng trầm của đất nước làng nghề vẫn được duy trì và phát triển cho đến ngày nay. Danh tiếng của làng nghề không còn bó hẹp trong địa phận của Quảng Nam - Đà Nẵng mà nó đã vươn ra xa khắp các tỉnh thành trong cả nước, từ niềm trung du phía Bắc cho đến vùng rừng núi xa xôi.
Làng nghề cổ truyền gốm Bàu Trúc là làng gốm cổ ở Đông Nam Á, tại thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, cách Phan Rang-Tháp Chàm khoảng 10 km về hướng Nam. Tại đây du khách có thể xem những nghệ nhân người Chăm trực tiếp thao tác làm ra những sản phẩm gốm bằng đôi bài tay khéo léo của mình, xem những bãi nung gốm lộ thiên và mua sâm sản phẩm gốm làm quà lưu niệm.
Sản phẩm gồm rất độc đáo, được làm hoàn toàn bằng tay khéo léo cùng những công cụ thô sơ như vòng tre, vỏ sò để tạo ra những đường nét hoa văn trên sản phẩm gốm. Nghề làm gồm rất công phu, vật liệu đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm gốm ở Bàu Trúc. Đó là một loại đất sét đặc biệt được lấy bên bờ sông Quao, đem về đó đập nhỏ và trộn với cát mịn nhào nhuyễn. Lượng cát được trộn vào tuỳ thuộc theo kích thước và công dụng của mỗi loại sản phẩm. Do đó gốm Bàu Trúc hoàn toàn khác so với gốm của những nơi khác.
Rời làng gốm Bàu Trúc, đi về hướng Đông Nam khoảng 3 km, du khách sẽ đến thăm làng dệt thổ cẩm Mỹ Nghiệp-Chung Mỹ, người Chăm gọi là Chakleng.
Nét độc đáo của làng nghề dệt là dệt theo dạng thủ công truyền thống, những sản phẩm thổ cẩm làm ra vẫn còn lưu giữ gần như nguyên vẹn trong từng công đoạn, bí quyết, chất liệu, hoa văn của thời xa xưa để lại. Đến đây, du khách sẽ được chứng kiến đôi bàn tay thuần thục của những người thợ, sự khéo léo của các nghệ nhân để làm nên sản phẩm thổ cẩm tuyệt đẹp.
Trong những năm gần đây sản phẩm thổ cẩm Mỹ Nghiệp - Chung Mỹ ngày càng đa dạng và phong phú: ngoài chăn, áo, người ta còn làm các loại khác như cà vạt, túi xách, bóp, ví... để phục vụ khách mua quà lưu niệm trong chuyến du lịch về Ninh Thuận..
Bình Dương là một tỉnh khá nổi tiếng với hệ thống các làng nghề thủ công truyền thống như sơn mài, gốm, đúc đồng, chạm khắc,... trên khắp các địa bàn của tỉnh. Trong số các làng nghề kế tên ở trên thì làng nghề gốm sứ Bình Dương là một trong những thương hiệu gốm nổi tiếng trong và ngoài nước. Nhờ đôi bàn tay khéo léo cùng với óc sáng tạo tuyệt vời đã tạo ra vô số các sản phẩm gốm với đầy đủ các mẫu mã khác nhau.
Các sản phẩm gốm sứ sản xuất ở đây đều mang những đặc điểm riêng biệt, bóng, bền, đẹp, mẫu mã phong phủ được người tiêu dùng ưa chuộng. Nghề làm gốm sứ Sông Bé trước đây và Bình Dương ngày nay đã phát triển đến trình độ cao từ đồ gia dụng, đồ trang trí mỹ nghệ đến đồ sử công nghiệp. Trong những năm vừa qua, gốm sứ Bình Dương ngày một phát triển không chỉ xuất được hàng đi nước ngoài mà còn giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động tại địa phương. Tạo nên một nét đẹp văn hóa, lịch sử truyền thống của người dân Tân Phước Khánh từ bao đời nay.
Nổi tiếng nhất ở làng tranh sơn mài Bình Dương là làng tranh Tương Bình Hiệp, nằm cách thành phố Thủ Dầu Một 7km về phía bắc. Đến đây, du khách sẽ được chứng kiến từng công đoạn của nghề truyền thống sơn mài chỉ có ở Việt Nam. Với hàng trăm hộ làm tranh sơn mài, có hộ chỉ làm một hai công đoạn của tấm tranh rồi giao lại cho các hộ khác làm những công đoạn tiếp theo.
Có thể nói ở Tương Bình Hiệp, nghề làm tranh sơn mài đã được công nghiệp hóa với những dây chuyền sản xuất rạch ròi nhưng hoàn toàn mang tính gia đình, tinh xảo nhẹ nhàng mang đậm phong cách Á Đông. Những sản phẩm tranh sơn mài Bình Dương được người yêu tranh Việt Nam và thế giới ưa chuộng mua về treo trong nhà một cách trang trọng.
Dệt Thổ Cẩm là một nghề truyền thống lâu đời của người Chăm ở Tân Châu (An Giang). Những người phụ nữ Chăm ở đây đều thành thạo, nhuần nhuyễn. Từ nhỏ, họ đã được học dệt và đến khi trưởng thành thì trở thành những người thợ dệt chuyên nghiệp của vùng.
Đây là làng nghề mang nét đẹp và chiều sâu văn hoá giàu bản sắc của thổ cẩm dân tộc Chăm. Thổ cẩm Châu Giang không những mang nét đẹp truyền thống của thổ cẩm mà còn mang nét đặc sắc của văn hoá Chăm với các đường nét lạ độc đáo với nhiều loại sản phẩm thổ cẩm đa dạng như: xà rông, khăn choàng, nón, áo khoác... Nguyên liệu để dệt là tơ sợi và nhuộm bằng màu tự nhiên từ mủ cây, vỏ cây và trái cây, làm cho màu sắc trên sản phẩm rất đặc biệt và bền. Hoa văn được dệt lên các đồ vật đều có ý tưởng sáng tạo từ truyền thống đến hiện đại càng làm tăng thêm giá trị nghề dệt nơi đây.
Nếu có dịp về thăm miền Tây, hãy ghé thăm Làng dệt thổ Cẩm Châu Giang ở An Giang để ngắm nhìn các sản phẩm truyền thống vô cùng đẹp mắt của những nghệ nhân nơi đây và hiểu nhiều hơn về một nét văn hóa khác của làng nghề này
Thông tin làng nghề