Không người dân Việt Nam nào mà chưa từng nghe qua cái tên “Vịnh Hạ Long”. Đây là một vịnh nhỏ nằm trên bờ tây vịnh Bắc Bộ thuộc khu vực biển Đông Bắc Việt Nam. Vịnh Hạ Long có tổng cộng 1.969 hòn đảo, bãi biển thơ mộng, hữu tình. Vịnh Hạ Long gây “thương nhớ” cho du khách bởi cảnh quan thiên nhiên kỳ vĩ tựa chốn bồng lai tiên cảnh.
Vịnh Hạ Long là 1 trong những di sản thiên nhiên nổi tiếng nhất của Việt Nam, đã lọt top 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới. Vì thế nhắc đến du lịch Hạ Long, chúng ta không thể nào bỏ qua vịnh biển tuyệt đẹp cùng vô số những trải nghiệm hấp dẫn tại đây.
Vịnh Hạ Long nằm ở phía Đông Bắc của Việt Nam, là nơi giao nhau của một phần phía tây Vịnh Bắc Bộ và phía Tây Nam giáp với đảo Cát Bà. Vẻ đẹp của vịnh biển này như một bức tranh đa sắc màu, từng đường nét hài hòa đến kì diệu.
Vịnh Hạ Long được công nhận là 1 trong 10 vịnh biển đẹp nhất thế giới, là sự kết hợp hài hòa giữa không gian bầu trời rộng lớn với sự mênh mang, bao la của sông nước. Tại đây có hàng nghìn đảo đá, bên trong là các hang động với nhiều hình thù kì diệu, tạo nên những nét chấm phá có một không hai. Đảo này nối tiếp đảo kia với những hình thù khác nhau được bàn tay tạo hóa cố tình càng khiến con người thêm say lòng. Vẻ đẹp kì diệu và hiếm có của vịnh Hạ Long được tạo nên từ ba yếu tố: Đá, nước và bầu trời. Tại đây du khách sẽ có cơ hội tìm thấy những cảnh sắc mà không một nơi nào trên thế giới có được. Bên cạnh đó những năm gần đây, Quảng Ninh cũng đang đầu tư rất mạnh tay để phát triển tiềm năng du lịch của vịnh Hạ Long. Vì thế nơi đây chắc chắn sẽ là điểm đến vô cùng hấp dẫn, hứa hẹn mang lại cho bạn những trải nghiệm khó quên.
Vẻ đẹp của vịnh Hạ Long
Vịnh Hạ Long có tổng diện tích tự nhiên lên đến hơn 1.500km2 với gần 2.000 hòn đảo lớn nhỏ, tạo nên những cảnh quan vô cùng kỳ vĩ. Bên trong hệ thống đảo của vịnh là những hang động với màu sắc và thạch nhũ đẹp nổi tiếng như: Hang Đầu Gỗ, Bồ Nâu, Trinh Nữ, Sửng Sốt…
Với những giá trị riêng biệt của mình, Vịnh Hạ Long đã hai lần được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới. Không chỉ bởi giá trị về mặt thẩm mỹ, mà còn có giá trị rất lớn ở địa chất và địa mạo, có giá trị to lớn với sự phát triển du lịch của địa phương. Đến năm 2011, một lần nữa Vịnh Hạ Long lại vinh dự được là một trong 7 kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới, khẳng định vẻ đẹp và giá trị của cảnh sắc Việt Nam. Sau những danh hiệu này, vịnh Hạ Long đã được nhiều bạn bè quốc tế biết đến, trở thành điểm đến hấp dẫn nhất của du lịch Việt Nam.
Quần thể đảo tại vịnh Hạ Long
Quần thể đảo ở vịnh Hạ Long có hai dạng chính là đảo đá vôi và đảo phiến thạch. Các đảo tập trung ở hai vùng chính, là vùng phía Đông Nam của vịnh Bái Tử Long và vùng phía Tây Nam của vịnh Hạ Long. Theo thống kê hiện nay trong 1.969 đảo của vịnh Hạ Long có khoảng 1.921 đảo đá, đa phần trong số đó có độ cao khoảng 200m. Theo nhiều nghiên cứu địa hình tại vịnh Hạ Long có tuổi kiến tạo địa chất khoảng từ 250 đến 280 triệu năm về trước, được tạo nên từ quá trình vận động nâng lên, hạ xuống của các mảng lục địa, khiến lục địa thành vùng trũng biển. Đồng thời quá trình carxtơ bào mòn, phong hóa sau hàng triệu năm đã biến vịnh Hạ Long thành độc nhất vô nhị, với địa hình địa thế riêng biệt.
Khu vực tập trung các đảo đá có phong cảnh đặc biệt và nhiều hang động đẹp là ở vùng lõi của vịnh Hạ Long, thêm một phần vịnh Bái Tử Long và vịnh Lan Hạ. Nơi đây trở thành cái nôi để phát triển du lịch đất mỏ, tạo nên sức hấp dẫn không thể chối từ.
Tuy số lượng đảo trên vịnh Hạ Long rất lớn, nhưng không đảo nào giống đảo nào. Đứng từ xa du khách sẽ thấy các đảo đá tại đây chồng chất lên nhau tạo thành những địa thế đặc biệt, có chỗ đảo lại xếp dọc ngang xen kẽ nhau, nối nhau đến hàng chục kilomet như một bức tường thành vững chắc.
Mỗi hòn đảo mang một hình thù khác nhau, tạo thành những màu sắc mới mẻ và đặc trưng mà chỉ có Hạ Long có được. Dựa vào hình dáng này cộng với sự tưởng tượng của con người, các hòn đảo ở đây đã được đặt những cái tên rất gần gũi bình dị như đảo Đầu Người, hòn Trống Mái, hòn Rồng, hòn Ông Sư, hòn Đũa…
Bên cạnh đó, một số đảo còn được đặt tên theo các sự tích dân gian như núi Bài Thơ, hang Trinh Nữ, đảo Tuần Châu hay các nét độc đáo trên đảo như hòn Ngọc Vừng, hòn Kiến Vàng, đảo Khỉ…
Những hòn đảo nổi tiếng nhất tại vịnh Hạ Long
Hòn Gà Chọi: Đây là một trong những hòn đảo nổi tiếng bậc nhất tại Hạ Long, hòn Gà Chọi còn có tên gọi khác là hòn Trống Mái, nằm gần hòn Đỉnh Hương cách cảng Bãi Cháy khoảng 5km. Đảo gồm 2 phần với hình thù giống như một đôi gà trống mái, chiều cao mỗi đảo khoảng hơn 10m, phần chân đảo bóp nhỏ lại nên trông đảo rất chênh vênh giữa mặt biển bao la.
Đảo Ngọc Vừng: Đảo Ngọc Vừng là hòn đảo cách cảng tàu du lịch khoảng hơn 34km, thuộc địa phận huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Hòn đảo nằm giữa rất nhiều những bãi biển đẹp, có núi Vạn Xuân cao đến 182m và có di chỉ khảo cổ với giá trị lịch sử lâu đời rộng 45.000m2. Đảo Ngọc Vừng có tổng diện tích 12 km2, thuộc hệ thống thương cảng cổ Vân Ðồn, được xây dựng từ thế kỷ 11. Ở phía đông của hòn đảo này là bãi cát dài, cát trắng tới hàng kilômét.
Khu vực đảo Ngọc Vừng trước kia có khá nhiều ngọc trai, đêm đêm lại rực sáng cả một vùng biển, từ đó mới có cái tên đảo Ngọc Vừng, có ý nghĩa là ngọc phát sáng. Trước kia cư dân trên đảo sống chủ yếu bằng nghề đánh bắt hải sản và khai thác ngọc trai còn ngày nay thì nghề nuôi trai phát triển mạnh hơn, người dân cũng ít đi biển.
Đảo Ti Tốp: Đảo Ti Tốp có tên cũ là hòn Cát Nàng vào thời Pháp thuộc. Hòn đảo này thuộc khu vực vịnh Hạ Long cách Bãi Cháy khoảng 14km về phía Đông. Tên đảo bắt nguồn từ tên của nhà du hành vũ trụ người Nga Gherman Titov khi ông đến Hồ Chí Minh và ghé thăm vịnh Hạ Long vào năm 1962.
Đặc trưng của đảo Ti Tốp là có bờ dốc đứng, bãi cát trắng phẳng với hình vầng trăng bao phủ chân đảo. Các tour du lịch, đặc biệt là tour du thuyền thường ghé lên đảo để du khách có cơ hội ngắm nhìn toàn cảnh vịnh Hạ Long, tắm biển, chèo thuyền kayak và tham gia nhiều hoạt động ngoài trời thú vị khác.
Đảo Tuần Châu: Đảo Tuần Châu có diện tích khoảng 3 km2, là hòn đảo gần bờ, ở phía Tây Nam vịnh Hạ Long. Đảo có làng mạc và dân cư sinh sống khá thưa thớt. Đây cũng là khu vực các nhà khảo cổ đã tìm ra nhiều di chỉ thuộc nền văn hóa Hạ Long. Từ năm 2001, một con đường lớn đã được Quảng Ninh xây dựng nối đảo với đất liền tạo thành một tổ hợp dịch vụ vui chơi, giải trí với đầy đủ các dịch vụ khách sạn, nhà hàng và bãi tắm. Từ đó đến nay đảo Tuần Châu đã có sự phát triển và lột xác chóng mặt, trở thành đầu não của du lịch Hạ Long, với sự đầu tư vô cùng bài bản và quy mô
Hệ sinh thái đa dạng, phong phú
Bên cạnh giá trị địa chất và giá trị thẩm mỹ độc đáo toàn cầu, trong khu vực Vịnh Hạ Long hiện nay còn lưu giữ được nhiều hệ sinh thái điển hình của vùng biển nhiệt đới như: đồi núi, hang động, rừng ngập mặn, tùng áng, rạn san hô, cỏ biển … Các hệ sinh thái đó được phân bố trong một khu vực có khí hậu tương đối ôn hòa, nhiệt độ nước biển trung bình từ 19 - 25 độ C, là môi trường sống rất thuận lợi đối với các loài sinh vật.
Theo thống kê của Ban Quản lý Vịnh Hạ Long, ở đây tồn tại 10 kiểu hệ sinh thái rất đặc thù của quần đảo đá vôi vùng nhiệt đới.
Hệ sinh thái thảm thực vật trên đảo: Là nơi sinh sống và phát triển của 507 loài thực vật (thuộc 351 chi, 110 họ thực vật bậc cao có mạch). Đặc biệt là 21 loài thực vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng đã được ghi trong sách đỏ Việt Nam và 17 loài thực vật đặc hữu được các nhà khoa học ghi nhận chỉ phân bố trong khu vực vịnh Hạ Long mà chưa được công bố ở nơi nào khác.
Hệ sinh thái tùng áng: Là một kiểu hệ sinh thái đặc trưng, độc đáo của vùng biển có các đảo đá vôi như vịnh Hạ Long - Bái Tử Long - Cát Bà. Hệ sinh thái tùng áng nằm biệt lập với môi trường bên ngoài, xung quanh được bao quanh bởi các đảo đá vôi, trên bờ là các thảm thực vật xanh ngát bao phủ, dưới nước là thế giới sống động của các loài sinh vật biển tạo nên một kiểu sinh cảnh đẹp, yên bình, khác biệt nên rất hấp dẫn và mở ra nhiều bất ngờ thú vị.
Thành phần loài động, thực vật sống trong các tùng, áng đã phát hiện được có 21 loài Rong, 37 loài thân mềm, 8 loài Giáp xác, 6 loài Da gai và một số loài San hô. Những sinh vật này có thời gian dài thích nghi với môi trường sống biệt lập trong các tùng áng nên phát triển khá ổn định và có nhiều loài mang đặc điểm khác biệt, đặc hữu so với các loài sinh vật khác bên ngoài.
Hệ sinh thái Hang động: Hệ sinh thái hang động cũng là một hệ sinh thái đặc thù của vùng biển đá vôi. Môi trường sống trong hang động thường thiếu ánh sáng, độ ẩm không khí cao, nguồn thức ăn tự nhiên nghèo nàn, nhiệt độ ổn định quanh năm nên cấu trúc quần xã sinh vật nghèo hơn hẳn so với các hệ sinh thái khác, phần lớn đều là những loài đặc hữu cho khu vực. Tuy nhiên, đây lại là những nhóm sinh vật có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nghiên cứu quá trình tiến hóa của sinh vật. Một số loài tiêu biểu đã được phát hiện như: thạch sùng mí, cua hang Hạ Long, cá niếc hang, tôm gõ mõ...
Hệ sinh thái vùng triều đáy cứng: Hệ sinh thái vùng triều đáy cứng (hay còn gọi là Hệ sinh thái bãi triều rạn đá quanh các đảo) chủ yếu là các bãi triều có rạn đá phân bố quanh các chân đảo trong khu vực vịnh Hạ Long. Nền đáy chủ yếu là các vách đá, các ngấn biển, đôi chỗ là những nơi đá cuội, đá tảng trượt từ trên núi xuống trải rộng từ 5-10m. Do có nền đáy ít bị biến đổi nên môi trường trong hệ sinh thái này tương đối ổn định.
Vì có nhiều hang, hốc làm nơi trú ngụ và lẩn trốn kẻ thù nên thành phần loài của hệ sinh thái này rất phong phú và đa dạng với khoảng 423 loài sinh vật như rong biển, san hô, ốc, hai mảnh vỏ, bò sát, giáp xác... sinh sống và phát triển. Mặc dù thành phần loài phong phú nhưng diện tích nhỏ nên giá trị nguồn lợi (năng suất) của sinh vật biển trong khu vực này không cao. Đáng chú ý có loài Rong mơ (Sarrgassum spp), các loài ốc, hàu nhưng cũng chỉ có giá trị phục vụ bữa ăn hằng ngày tại các chợ địa phương.
Hệ sinh thái vùng triều đáy mềm: Hệ sinh thái vùng triều đáy mềm là các bãi triều thấp quanh các đảo ven bờ vịnh Hạ Long. Dựa vào đặc điểm của nền đáy có thể chia thành 2 kiểu: kiểu bãi triều là cát bột, bùn sét tiếp giáp với rừng ngập mặn; kiểu cồn cát, doi cát nổi lên ở phía ngoài cửa sông. Hệ sinh thái vùng thấp triều có môi trường sinh thái phức tạp, biến đổi theo mùa và theo thời gian trong ngày, theo con nước triều khá lớn. Do điều kiện môi trường của hệ sinh thái đáy mềm cửa sông phức tạp nên thành phần loài của quần xã sinh vật nghèo hơn so với vùng triều các đảo xa bờ.
Quần xã sinh vật ở đây được chia thành 2 nhóm khác nhau: Nhóm sống định cư trên bãi triều bao gồm các loài động vật đáy; rong biển, cỏ biển, cá biển, và nhóm sống trong tầng nước di cư theo thuỷ triều bao gồm: Thực vật phù du, Động vật phù du, Cá biển. Ngoài ra một số loài động vật có xương sống cũng sinh sống, kiếm ăn trên vùng bãi triều cửa sông khi triều rút như rắn nước, chim nước ...
Hệ sinh thái bãi triều cát: Hệ sinh thái bãi triều cát là bãi triều cát ven các hõm đảo nhỏ, một số vùng bãi cát được che chắn và có rạn san hô phát triển phía dưới. Mặc dù số lượng bãi triều cát khá nhiều nhưng do địa hình đảo đá vôi thường có vách đá dựng đứng nên các bãi đều nhỏ, độ dốc lớn, cấu tạo bởi cát vỏ sinh vật như san hô, thân mềm (ốc, ngao, trai…). Bãi thường bị phơi khi thủy triều xuống.
Thành phần loài sinh vật trên các bãi triều cát khá nghèo nàn so với các kiểu hệ sinh thái khác và giá trị nguồn lợi không cao. Đặc điểm cơ bản của các bãi triều cát là hầu như không có sự phân bố của sinh vật theo đới do nền đáy không ổn định. Một số loài động vật bắt gặp trong hệ sinh thái này như: cua ma, dã tràng, giun nhiều tơ, hai mảnh vỏ, ốc, giáp xác và da gai, tổng cộng đã phát hiện được 116 loài sinh vật trên các bãi triều cát trong vùng.
Hệ sinh thái rừng ngập mặn: Rừng ngập mặn là một hệ sinh thái quan trọng, là nơi sinh cư của nhiều loài hải sản có giá trị trong khu vực vịnh Hạ Long. Khu vực vịnh Hạ Long và vùng phụ cận có 30 loài, chiếm khoảng 32% thành phần loài của thực vật ngập mặn Việt Nam. Trong số 500 loài sinh vật sinh sống trong rừng ngập mặn tại vịnh Hạ Long có 3 loài ốc, 3 loài bò sát, 3 loài chim và 1 loài thú nằm trong Danh lục đỏ Việt Nam, một số loài hải sản có giá trị kinh tế cao như ngán, sá sùng, bạch tuộc (ruốc), sò, cua... tạo nên những món ăn hải sản đặc trưng riêng tại địa phương.
Hệ sinh thái thảm cỏ biển: Là một hệ sinh thái biển quan trọng. Các thảm cỏ biển là nơi ương nuôi ấu trùng và định cư của nhiều loài tôm, cua, cá; đồng thời, hệ sinh thái cỏ biển còn đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định nền đáy và xử lý nước thải. Theo một số nghiên cứu trước đây, khu vực vịnh Hạ Long - Cát Bà đã phát hiện được 5 loài cỏ biển. Tuy nhiên, hiện nay diện tích các thảm cỏ biển tại vịnh Hạ Long đã bị thu hẹp nhiều do các công trình lấn biển, các vùng ven bờ hầu như không còn các bãi cỏ biển, do đó, không phát huy được giá trị của hệ sinh thái này.
Hệ sinh thái vùng ngập nước thường xuyên ven bờ: Hệ sinh thái vùng ngập nước thường xuyên ven bờ là phần mặt nước có độ sâu 0 – 20 m. Đây là một khối nước tương đối đồng nhất, nên khu hệ sinh vật bao gồm nhiều nhóm loài khác nhau như Thực vật phù du, Động vật phù du, Động vật đáy, Cá biển, Bò sát, giáp xác, thân mềm... Trong đó rất nhiều loài có giá trị kinh tế như cua biển, tôm he, cá vược, …
Hệ sinh thái rạn san hô: Rạn san hô tại vịnh Hạ Long được cấu tạo chủ yếu bởi các loài san hô cứng. Khu vực tập trung nhiều san hô nhất là Cống Đỏ, Trà Sản, Hang Trai, Đầu Bê (có độ phủ từ 30% - 45%). Một số loài sinh vật biển có giá trị kinh tế quan trọng sinh sống của hệ sinh thái rạn san hô như tu hài, sò lông, cá song, cá mú, trai ngọc, tôm hùm... Ngoài các loài có giá trị kinh tế, trên rạn san hô còn phân bố nhiều loài bị đe doạ tuyệt chủng, quý hiếm nằm trong Danh lục đỏ Việt Nam như rong chân vịt nhăn, cá ngựa gai, cá ngựa nhật, cá ngựa đen, san hô sừng cành dẹp, san hô lỗ đỉnh, sam ba gai đuôi, ốc đụn đực, ốc đụn cái, ốc xoắn vách, trai ngọc môi đen, mực thước, mực nang vân hổ….
Thế giới sinh vật tại vịnh Hạ Long rất đa dạng và phong phú, tập trung đầy đủ thành phần các loài sinh vật trên cạn, dưới nước, bậc thấp, bậc cao cùng sinh sống trong 10 hệ sinh thái biển và rừng khác nhau. Đến nay đã thống kê được gần 3.000 loài động thực vật sống trong khu vực, trong số đó có 507 loài thực vật trên cạn, 278 loài thực vật phù du, 141 loài động vật phù du, 110 loài san hô, 156 loài cá biển, 71 loài chim, 53 loài thú... Sự đa dạng về thành phần loài trên cạn, dưới nước đã nói lên bức tranh đa dạng sinh học của vịnh Hạ Long, đưa vịnh Hạ Long trở thành khu vực có số lượng loài nhiều nhất đã biết ở Việt Nam.
Sự đa dạng về nguồn gen đã khẳng định được sự khác biệt của Hạ Long so với các vùng khác trong khu vực. Rất nhiều loài sinh vật sinh sống tại vịnh Hạ Long mang nguồn gen đặc hữu, quý hiếm, nguồn gen dược liệu hoặc có giá trị kinh tế cao. Hiện nay, các nhà khoa học đã xác định được 102 loài đang bị đe dọa ở các cấp độ khác nhau (64 loài động vật và 38 loài thực vật). Một số nhóm sinh vật có số lượng ít nhưng hầu hết đều mang nguồn gen đặc hữu của vịnh Hạ Long, tiêu biểu trong số đó là: cá Niếc hang Hạ Long, cua hang Hạ Long, tôm Alpheoid, Rết chân dài... và 17 loài thực vật đặc hữu đã được công bố.
Bên cạnh đó, một số nguồn gen khác lại là kho dược liệu tự nhiên, sơ bộ ước tính khoảng 357 loài cây cỏ và gần 100 động vật có thể làm thuốc được. Một số nguồn gen có giá trị kinh tế cao, là đặc sản để làm thực phẩm, mỹ nghệ xuất khẩu như: Bào ngư, ốc đụn, ốc hương, ốc nhảy, sò, tu hài, tôm he, cua, hải sâm, trai ngọc, cá song...
Những dấu ấn văn hóa cổ xưa
Những kết quả nghiên cứu, khảo cổ học và văn hóa học cho thấy, sự hiện diện của những cư dân tiền sử trên vùng vịnh Hạ Long từ khá sớm, đã tạo lập được những hình thái văn hóa cổ đại tiếp nối nhau, bao gồm văn hóa Soi Nhụ(trong khoảng 18.000 - 7.000 năm trước Công nguyên), văn hóa Cái Bèo (7.000-5.000 năm trước Công nguyên) và văn hóa Hạ Long (cách ngày nay khoảng từ 3.500-5.000 năm).
Văn hóa Soi Nhụ có niên đại cách ngày nay 18.000-7.000 năm trước Công nguyên. Cư dân thời kỳ này cư trú chủ yếu trên các đảo đá vôi thuộc vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long và các hang động ven bờ. Phương thức kiếm sống của họ là săn bắt, hái lượm và khai thác nhuyễn thể nước ngọt với công cụ lao động được chế tác bằng đá có hình dáng không ổn định, kỹ thuật chế tác đơn giản bằng phương pháp ghè đẽo một mặt, phương pháp chặt bẻ và rất ít tu sửa, biết bắt cá mà chưa có nghề đánh cá.
Văn hóa Cái Bèo có niên đại cách ngày nay 7.000-5.000 năm trước Công nguyên. Cư dân thời kỳ này cư trú chủ yếu trên bờ vũng vịnh kín gió, tựa lưng vào núi, mà chủ yếu là núi đá vôi. Độ cao của các di chỉ này so với mực nước biển hiện tại vào khoảng 2-6m. Phương thức kiếm sống của họ trước hết là định hướng khai thác biển ven bờ và sau đó là kết hợp với các phương thức kiếm sống truyền thống như săn bắt thú rừng, thu lượm rau củ, hoa quả trong thiên nhiên.
Công cụ lao động rất đơn giản, chủ yếu là các công cụ mũi nhọn. Kỹ thuật ghè đẽo chủ yếu là ghè một mặt và có thể ghè những nhát cách quãng ở mặt đối diện để tạo rìa lưỡi. Gốm Cái Bèo ở giai đoạn đầu thì thô, dày, nặng và loại hình đơn giản. Giai đoạn sau là gốm mịn, văn thừng, loại hình phong phú hơn. Gốm xốp bắt đầu xuất hiện với số lượng ít thể hiện bước phát triển mạnh mẽ của người tiền sử.
Di chỉ Cái Bèo là một trong những bằng chứng đầu tiên để có thể khẳng định, tổ tiên của người Việt cổ, từ rất sớm đã đương đầu với biển khơi và đã phát triển ở đây một nền văn hóa rực rỡ, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố, sắc thái khác biệt vào một dòng văn hóa truyền thống rất lâu đời trong khu vực Việt Nam và Đông Nam Á: dòng văn hóa Cuội. Về phương thức cư trú và sinh sống của người Cái Bèo, ngoài săn bắt hái lượm, đã có thêm khai thác biển.
Hiện nay, trên vịnh Hạ Long có một số hang động đang lưu giữ các vết tích văn hóa của người tiền sử như là: hang Tiên Ông, hang Trống, hang Trinh Nữ, hang Bồ Nâu, động Mê Cung, động Thiên Long …Ngoài ra, hang Tiên Ông đang lưu giữ, bảo tồn những hố thám sát, hố khai quật khảo cổ với những trầm tích là vỏ ốc suối (Melania), ốc núi (Cyclophorus), là một trong những bằng chứng sinh động về phương thức cư trú, sinh sống trong hang động của người tiền sử Hạ Long thuộc văn hóa Soi Nhụ.
Vịnh Hạ Long còn là nơi lưu giữ rất nhiều chứng tích lịch sử qua các thời kỳ, từ phong kiến đến cận, hiện đại.
Với vị trí chiến lược quan trọng, ngay từ thế kỷ XII (năm 1149) dưới triều vua Lý Anh Tông, trong khu vực vịnh Hạ Long, thương cảng Vân Đồn đã được thành lập với nhiều bến thuyền thương mại trên các đảo quây quần trên vùng vịnh Bái Tử Long. Ngày nay những dấu tích về những bến thuyền cổ còn được tìm thấy khá dày đặc, phong phú tại các khu vực đảo Cống Đông, Cống Tây, Vân Hải, Quan Lạn… như hàng chục nghìn mảnh gốm sứ đặc trưng cho các thời kỳ Lý, Trần, Lê, Mạc cùng nhiều hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật.
Bên cạnh những dấu tích đồ sộ của các thuyền cổ, còn nhiều dấu tích của các công trình văn hóa vẫn tồn tại đến ngày nay như chùa Lấm, chùa Trong, chùa Cát và cụm di tích đình, đền, chùa Quan Lạn…
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, vịnh Hạ Long còn là nơi ghi dấu những chiến công hào hùng của dân tộc từ thế kỷ X đến thế kỷ XX, Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán (năm 938), Lê Hoàn đánh thắng quân Tống (năm 981), Trần Hưng Đạo đánh thắng quân Nguyên Mông (năm 1288).
Ngoài ra, Vịnh Hạ Long cũng là nơi lưu giữ các giá trị văn hoá phi vật thể mang đặc trưng của vùng biển như hò, vè, hát đám cưới, hát giao duyên, hò biển và nhiều lễ tục truyền thống như: lễ giở mũi thuyền, tục trồng cây nêu….
Vịnh cũng có nhiều di tích lịch sử cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ như hang Đúc Tiền: nằm ở phía Đông Nam đảo Vạn Gió (trên bản đồ có ký hiệu là hòn 376, dân gian gọi là núi Cánh Quít). Đây là căn cứ của nghĩa quân Đề Hồng, Cai Thái, nghĩa quân lập xưởng đúc súng, đúc tiền để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Pháp.
Đỉnh núi Bài Thơ cũng ghi dấu lá cờ đỏ búa liềm tung bay phấp phới trên đỉnh núi ngày 1/5/1930, đánh dấu một giai đoạn mới của phong trào đấu tranh cách mạng - của giai cấp công nhân vùng mỏ, góp phần đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp.
Ngoài ra, ngày 24/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh hội đàm với Cao ủy Pháp Georges Thierry d'Argenlieu trên chiến hạm Emin-bec-tanh trên vịnh Hạ Long.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đầu những năm 60, những chuyến tàu không số xuất phát từ khu vực Hạ Long tiến vào miền nam mang theo vũ khí, đạn dược…. góp phần vào chiến thắng vẻ vang của quân và dân ta (tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển).
Bên cạnh đó, Vịnh Hạ Long còn là nơi đầu tiên không lực Hoa Kỳ tập kích và thất bại khi mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại miền bắc ngày 5/8/1964 cùng với sự kiện bắt sống trung úy Alvarez, phi công Mỹ đầu tiên.
Các danh hiệu quốc tế
Di sản Thiên nhiên thế giới
Vịnh Hạ Long 2 lần được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới.
Lần thứ nhất: Ngày 17/12/1994, Kỳ họp thứ 18 tại Phuket, Thái Lan, Ủy ban Di sản Thế giới đã công nhận Vịnh Hạ Long vào danh mục Di sản Thiên nhiên thế giới với giá trị ngoại hạng toàn cầu về mặt thẩm mỹ.
Lần thứ hai: Ngày 2/12/2000, tại Kỳ họp toàn thể lần thứ 24 ở thành phố Cairns, Queensland, Australia, Ủy ban Di sản Thế giới đã công nhận Vịnh Hạ Long là Di sản Thiên nhiên Thế giới lần thứ 2 theo tiêu chí về giá trị địa chất - địa mạo.
Vịnh đẹp nhất thế giới: Vịnh Hạ Long là một trong ba thành viên sáng lập và tham gia Câu lạc bộ các vịnh đẹp nhất thế giới từ tháng 3/1997.
Kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới: Ngày 27/4/2012, tại sân vận động Mỹ Đình (Hà Nội, Việt Nam), tổ chức New Open World đã trao tặng danh hiệu kỳ quan thiên nhiên thế giới mới cho Vịnh Hạ Long.
Mở rộng ranh giới Di sản thiên nhiên thế giới
Ngày 16/9/2023, tại thủ đô Riyadh, Vương quốc Saudi Arabia, ranh giới di sản thế giới Vịnh Hạ Long của tỉnh Quảng Ninh được Uỷ ban Di sản thế giới tại kỳ họp lần thứ 45 phê duyệt mở rộng sang Quần đảo Cát Bà của thành phố Hải Phòng.
Sự kiện này đã đưa Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà trở thành di sản thế giới đầu tiên ở Việt Nam có ranh giới nằm trên địa phận hai tỉnh.
-Nguồn: Tổng hợp-
Phong Nha - Kẻ Bàng
Di sản thiên nhiên thế giới
Đây là vườn quốc gia có quy mô đồ sộ, rộng lớn, nằm tại huyện Bố Trạch, Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình. Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng là di sản thiên nhiên Việt Nam nổi tiếng với 300 hang động, kiến tạo đá vôi tuyệt đẹp.
Bên cạnh đó, nơi đây còn sở hữu các mạch sông ngầm và nhiều động thực vật quý hiếm. Không ngoa khi ví Phong Nha - Kẻ Bàng là “vương quốc hang động”, “bảo tàng địa chất lớn nhất Việt Nam”. Bởi vì nơi đây tập hợp hơn hàng trăm loại đá khác nhau như sa thạch, thạch anh, đá vôi chứa silic, đá mac-nơ…
Vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng nằm ở phía Bắc dãy núi Trường Sơn (tọa độ từ 17°21′ tới 17°39′ vĩ bắc và từ 105°57′ tới 106°24′ kinh đông), thuộc địa phận các xã Tân Trạch, Thượng Trạch, Phúc Trạch, Xuân Trạch và Sơn Trạch thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới theo tiêu chí địa chất, địa mạo năm 2003, và được UNESCO công nhận lần 2 là Di sản thiên nhiên thế giới với tiêu chí đa dạng sinh học, sinh thái vào ngày 3 tháng 7 năm 2015
Cách thành phố Đồng Hới khoảng 50 km về phía Tây Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng 500 km về phía nam. Vườn quốc gia này giáp khu bảo tồn thiên nhiên Hin Namno ở tỉnh Khammouan, Lào về phía tây, cách Biển Đông 42 km về phía đông kể từ biên giới của hai quốc gia.
Phong Nha Kẻ Bàng là một vùng khí hậu trong lành, mát lạnh quanh năm trung bình chỉ 20 – 240C được đánh giá là một trong hai vùng núi đá vôi rộng nhất thế giới, với diện tích trên 200.000 ha (trong đó, diện tích vùng lõi là 85.754 ha và một vùng đệm rộng 195.400 ha). Đặc trưng của khu vườn quốc gia này là những kiến tạo đá vôi dạng karst hàng triệu năm tuổi với hơn 300 hang động và hệ thống các sông ngầm. Hàng trăm loài động, thực vật quý hiếm đang tồn tại, trong đó có nhiều loài có tên trong sách đỏ Việt Nam và thế giới, chính là nguồn cảm hứng cho du khách và các nhà khoa học về đây khám phá.
Tên gọi vườn quốc gia này ghép từ hai thành phần: tên động Phong Nha và tên khu vực rừng núi đá vôi Kẻ Bàng. Theo Lê Quý Đôn thì Phong Nha là tên một làng miền núi ngày xưa (nay là thôn Phong Nha, xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch). Có ý kiến khác lại cho rằng tên gọi Phong Nha xuất phát từ hình ảnh những ngọn núi nằm thành từng dãy đều đặn như hình ảnh các quan đứng thành hàng trên sân chầu hay ở quan thự, người ta đã lấy chữ Phong Nha theo chữ Hán để đặt tên cho động Phong Nha. Động Phong Nha còn có tên khác như Động Thầy Tiên, Núi Thầy, Động Troóc, Hang Trùa (Hang Chùa).
Hệ thống hang động tại khu vực Phong Nha - Kẻ Bàng hình thành do những kiến tạo của địa chất xảy ra trong lòng dãy núi đá vôi Kẻ Bàng. Cụ thể, kiến tạo các-xtơ của Vườn Quốc Gia Phong Nha - Kẻ Bàng được hình thành từ 400 triệu năm trước, từ thời kỳ Đại Cổ Sinh do đó đây là cát-xtơ cổ nhất ở châu Á. Qua các thời kỳ kiến tạo quan trọng, các pha chuyển động đứt gãy, uốn nếp và phối tảng đã liên tiếp tạo ra các dãy núi trùng điệp do chuyển động nâng cao và các bồn trầm tích nhờ vào chuyển động sụt lún, đóng vai trò như nguyên nhân của mọi nguyên nhân tạo ra tính đa dạng về địa hình - địa mạo, địa chất, mạng lưới thủy văn và tính kỳ thú, đa dạng về hang động đối với các thành hệ đá vôi Phong Nha - Kẻ Bàng phát triển từ Devon đến kỷ Carbon - Trecmi.
Khu vực Phong Nha - Kẻ Bàng của hiện tại là kết quả tổng hợp 5 giai đoạn lớn trong lịch sử phát triển vỏ Trái Đất trong khu vực:
- Giai đoạn Kỷ Ordovic muộn - giai đoạn Siluri đầu (450 triệu năm)
- Giai đoạn Kỷ Devon giữa và muộn (khoảng 340 triệu năm)
- Kỷ Than đá - Kỷ Permi (300 triệu năm)
- Giai đoạn Orogen
- Giai đoạn Đại Tân sinh (250-65 triệu năm)
Nguyên nhân ban đầu có thể kể đến là sự hoạt động trồi lên của các khối xâm nhập núi lửa trẻ hơn đá vôi. Các khối cùng với việc nâng lớp đá vôi lên cao như ngày nay còn làm phát sinh động đất, đứt gãy và núi lửa. Tại giao điểm của các đứt gãy hoặc các đới đứt gãy lớn và núi lửa phun lên sẽ biến chất đá vôi, biến đá vôi thành vôi sống (CaO) dễ hoà tan trong nước, đồng thời mang vào các khe nứt, đứt gãy của đá vôi dăm, cuội, dung nham núi lửa và nước ngầm. Dung nham này ở trong môi trường nước sẽ bị biến thành bùn, sét - kaolin mềm nhão dễ bị tác động bởi nước cuốn trôi hoặc lắng chìm vào các khe nứt và lỗ hổng do mật độ nặng hơn đá vôi từ 0,3 - 0,4 g/cm3. Nước đã đóng vai trò dọn dẹp bên trong lòng hang, các thung lũng giữa núi đá vôi (cuốn trôi bùn, vôi sống, bùn, sét - kaolin) và tạo thành thạch nhũ cho chúng ta thấy như ngày nay.
Vườn Quốc Gia Phong Nha - Kẻ Bàng tiền thân là khu rừng đặc dụng Xuân Sơn được thành lập theo Quyết định số 194/CT ngày 09/8/1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (hiện nay là Thủ tướng Chính phủ) Quyết định thành lập Khu Văn hóa Lịch sử với tổng diện tích là 5.000 ha. Xuân Sơn là khu rừng đặc dụng đầu tiên của Quảng Bình nhằm bảo tồn hệ sinh thái rừng nguyên sinh trên núi đá vôi, đồng thời gắn liền với các di tích lịch sử của dân tộc Việt Nam.
- Năm 1993: Khu rừng đặc dụng Xuân Sơn được đổi thành Khu bảo tồn thiên nhiên Phong Nha theo Quyết định 964/QĐ-UB ngày 05/12/1993 của UBND tỉnh Quảng Bình với diện tích tổng là 41.132 ha.
- Năm 1999: Vườn Quốc Gia được đầu tư đề xuất mở rộng khu vực bao gồm vùng núi đá vôi Kẻ Bàng cho đến phía tây bắc và đề xuất để điều chỉnh phân hạng quản lý từ khu bảo tồn thiên nhiên lên Vườn Quốc Gia.
- Năm 2001: Vườn Quốc Gia Phong Nha - Kẻ Bàng được thành lập theo Quyết định 189/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 12/12/2001. Theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Vườn Quốc Gia có diện tích tổng là 85.754 ha, trong đó Phân khu Bảo vệ nghiêm ngặt có diện tích là 64.894 ha, Phân khu Phục hồi sinh thái diện tích là 17.449 ha và Phân khu Hành chính dịch vụ có diện tích là 3.411 ha. Sau khi điều chỉnh lên Vườn Quốc Gia, tổ chức bộ máy Ban Quản lý Khu bảo tồn cũng đã được điều chỉnh lại thành Ban Quản lý Vườn Quốc Gia theo Quyết định 24/QD-UB của UBND tỉnh Quảng Bình ngày 20/3/2002.
- Năm 2003: Tại cuộc họp toàn thể lần thứ 27 của Uỷ ban Di sản Thế giới tại Trụ sở UNESCO (Paris) từ 30/6 - 05/7/2003, UNESCO chính thức công nhận VQG Phong Nha - Kẻ Bàng là Di sản thiên nhiên thế giới với tiêu chí số VIII: là các giá trị địa chất, địa mạo và địa lý nổi bật toàn cầu.
- Năm 2009: VQG Phong Nha - Kẻ Bàng được công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt theo Quyết định 1272/QĐ-TTg 12/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ.
- Năm 2012: UBND Quảng Bình ban hành Quyết định số 36/2012/QĐ-UBND ngày 28/12/2012 về việc Quy định chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của BQL VQG Phong Nha – Kẻ Bàng (thay thế Quyết định 65/2003/QĐ-UB 28/11/2003 UBND Quảng Bình về việc tổ chức lại bộ máy Ban quản lý VQG Phong Nha – Kẻ Bàng).
- Năm 2013: Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 1062/QĐ-TTg ngày 05/7/2013 về việc điều chỉnh ranh giới VQG Phong Nha – Kẻ Bàng từ 85.754 ha lên tổng diện tích là 123.326 ha (tăng 30.570 ha).
- Năm 2015: Kỳ họp lần thứ 39 diễn ra vào ngày 3/7/2015, tại Bonn, Cộng Hòa Liên Bang Đức, với sự nhất trí của các quốc gia thành viên Ủy ban di sản thế giới (WHC), VQG Phong Nha – Kẻ Bàng đã được các Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO) lần thứ 2 ghi danh vào Danh sách Di sản thế giới với 2 tiêu chí mới: Có giá trị nổi bật đại diện cho tiến trình sinh thái trong tiến hóa và phát triển các hệ sinh thái trên cạn (tiêu chí IX); Sở hữu môi trường sống tự nhiên có ý nghĩa nhất với việc bảo tồn đa dạng sinh học (tiêu chí X).
Giá trị của Di sản thiên nhiên thế giới Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng
Khu vực này chứa đựng các bằng chứng về lịch sử hình thành, kiến tạo của vỏ Trái đất với 5 quá trình kiến tạo từ Kỷ Ordovic đến Carbon - Permi. Phong Nha - Kẻ Bàng là 1 phần của cao nguyên rộng lớn bị chia cắt, bao gồm khu vực núi đá vôi Kẻ Bàng và VQG Hin Namno của Lào. Cao nguyên này là một ví dụ điển hình, mang nét đặc trưng nhất của dạng địa hình núi đá vôi phức hợp ở Đông Nam Á. Kiến tạo núi đá vôi được hình thành từ thời kỳ Đại Cổ sinh (cách đây hơn 400 triệu năm) và là khu vực núi đá vôi lớn, cổ nhất ở khu vực châu Á. Nơi đây có hai kiểu địa hình chính, bao gồm địa hình karst và phi karst. Đặc điểm của Vườn Quốc Gia Phong Nha - Kẻ Bàng là diện tích vùng lõi phần lớn là núi đá vôi (địa hình karst, chiếm 2/3 diện tích). Được mệnh danh là "Vương quốc hang động”, Phong Nha - Kẻ Bàng có hơn 368 hang động với tổng chiều dài trên 231km đã được khảo sát. Trong đó, Hang Sơn Đoòng được Đội thám hiểm hang động Anh - Việt (The British Vietnam Caving Expedition Team) đánh giá là hang động lớn nhất thế giới, đồng thời đã phát hiện một hố sụt Karst sâu nhất Việt Nam (với độ sâu hơn 255 m), thậm chí có thể sâu nhất Đông Nam Á.
Bên cạnh giá trị về lịch sử địa chất, địa hình, địa mạo, Phong Nha – Kẻ Bàng còn được thiên nhiên ưu đãi ban tặng cho những cảnh quan kì bí, hùng vĩ. Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng ẩn chứa bao điều bí ẩn của tự nhiên, những hang động như những lâu đài lộng lẫy trong lòng núi đá vôi được tạo tác từ hàng triệu năm trước.
Khu Phong Nha – Kẻ Bàng có một quần thể hơn 300 hang động lớn nhỏ phong phú, kỳ vỹ được mệnh danh là “ Vương quốc hang động”, nơi tiềm ẩn nhiều điều kỳ lạ và hấp dẫn, là thiên đường cho các nhà khoa học hang động, các nhà thám hiểm và du lịch.
Đến nay, 20 hang động với tổng chiều dài trên 70 km đã được Đoàn khảo sát Hoàng gia Anh phối hợp với Khoa Địa lý Đại học Quốc gia Hà Nội khảo sát có hệ thống, kỹ lưỡng và đã được công bố trên Tạp chí Toàn cảnh và Dư luận-số 48, tháng 7 năm 1994, được đánh giá là một trong những cảnh quan đẹp nhất với các đặc trưng: có sông ngầm đẹp nhất, có cửa hang cao và rộng nhất, các bãi cát, bãi đá ngầm đẹp nhất, có hồ nước ngầm đẹp nhất, có hang khô rộng và đẹp nhất, có hệ thống thạch nhũ kỳ ảo và tráng lệ nhất, là hang nước dài nhất.
Các hang động này có thể chia thành ba hệ thống chính: hệ thống động Phong Nha, hệ thống hang Vòm và hệ thống hang Rục Mòn.
* Hệ thống động Phong Nha có tổng chiều dài trên 45km bắt nguồn từ phía nam của vùng núi đá vôi Kẻ Bàng. Cửa chính của hệ thống động này là động Khe Ry và Hang En nằm ở độ cao khoảng 300m so với mặt nước biển, cuối cùng là Động Phong Nha với tổng chiều dài khoảng gần 45 km. Các hang trong hệ thống này phân bổ theo dạng cành cây chạy theo hướng đông bắc – tây nam . Bao Gồm:
- Hang Tối: nằm trên thượng lưu sông Son. Hang này có chiều dài 5.258 m và cao 83 m,dài 736 m.
- Hang Chà An: dài 667 m và cao 15 m.
- Hang Thung: có sông ngầm dài 3351 m.
- Hang Én: dài 1645 m và cao 78,6 m, có bãi cát bên trong, là nơi sinh sống của én.
- Hang Khe Tiên: tọa lạc phía nam Phong Nha, dài 520 m.
- Hang Khe Ry: tọa lạc ở phía nam Phong Nha.
Hang Khe Thi.
Động Phong Nha.
* Hệ thống hang Vòm có tổng chiều dài trên 30km bắt nguồn từ hang Rục Cà Roòng, nằm ở độ cao 360m so với mặt nước biển và kết thúc là hang Vòm. Hệ thống hang Vòm nằm trên trục có hướng chung là nam – bắc. Sông Rục Cà Roòng lúc ẩn mình trong núi đá, lúc lại xuất hiện trên những thung lũng hẹp và sâu, cuối cùng đổ ra sông Chày ở cửa hang Vòm. Bao gồm:
- Hang Vòm: dài 15,05 km và cao 145 m có nhiều thạch nhũ và măng đá đẹp.
- Hang Đai Cao: dài 1645 m và cao 28 m.
- Hang Duột: dài 3,927 m và cao 45 m, có bãi cát mịn.
- Hang Cá: dài 1.500 m cao 62 m.
- Hang Hổ: dài 1.616 m và cao 46 m
- Hang Over: dài 3.244 m và cao 103 vời chiều rộng trong khoảng 30–50 m.
- Hang Pygmy: dài 845 m.
- Hang Rục Caroòng: nơi sinh sống của người thiểu số Arem. Họ sống trong hang động và săn bắn hái lượm tự nhiên.
* Hệ thống hang Rục Mòn nằm ở địa phận huyện Minh Hóa cũng là một trong những hang động lớn nhưng chưa được khai thác nhiều. Hang Rục Mòn có chiều dài 2863m, có độ sâu vòm 49m, trong hang có sông ngầm chảy qua, nhiều nhũ đá được đánh giá rất đẹp và hoang sơ.
Xin giới thiệu đôi nét về các hang động nổi tiếng nhất ở đây:
Động Phong Nha (Động nước) là danh thắng tiêu biểu nhất của hệ thống hang động thuộc quần thể danh thắng Phong Nha-Kẻ Bàng. Tổng chiều dài 7.729 mét, có 14 hang, có dòng sông ngầm dài 13.969 mét lung linh kỳ ảo và rực rỡ nhất. Cửa động cao khoảng 10 mét, rộng 25 mét. Từ phía trên, nhũ đá nhỏ xuống trông như những giọt sương khổng lồ đang tan chảy…
Bên cạnh đó là Động Tiên Sơn ( Động khô) nằm ở độ cao 200m, theo các nhà địa lý học, từ xa xưa dòng sông ngầm đã cạn nước, chỉ còn lại những vòm đá trắng và cột đá xanh ngọc bích. Các thạch nhũ trong động Phong Nha trải qua hàng triệu năm kiến tạo từ đá vôi dạng karst, bị nước mưa thẩm thấu, hoà tan và chảy xuống từ nóc hang tạo thành những nhũ đá vô cùng lạ mắt như sư tử, ngai vàng, Đức Phật… Nước mưa tiếp tục rơi xuống đáy hang, kết canxi tạo ra măng đá. Những phiến đá, măng đá, nhũ đá, sông ngầm muôn hình muôn vẻ lung linh kỳ vĩ. Dường như Phong Nha là nơi hội tụ tất cả vẻ đẹp hoàn mỹ nhất của thiên nhiên và là nơi trí tưởng tượng được thăng hoa nhất.
Ngoài ra còn có động Thiên Đường được được Hiệp hội hang động Hoàng gia Anh đánh giá là hang động khô dài nhất Châu Á, một trong những hang động kỳ vĩ nhất mà đoàn từng khảo sát nhiều hang động trên thế giới.Động Thiên đường có cấu trúc kỳ vĩ, tráng lệ và huyền ảo khiến những người khám phá hang động liên tưởng về một thiên cung nơi trần thế (vì vậy mà động được đặt tên là Thiên đường).
Đặc biệt, gần đây, đoàn thám hiểm người Anh mới phát hiện ra một trong những hang mới nhất đó là Sơn Đoòng. Hang này được cho là hang động lớn nhất thế giới. Khoang lớn nhất ở Sơn Động có chiều dài hơn 5 km, cao 200 m và rộng 150 m Với kích thước này, hang Sơn Động vượt hang Deer ở vườn quốc gia Gunung Mulu ở Sarawak Malaysia, lớn gấp 4-5 lần động Phong Nha, lớn hơn Động Thiên Đường.
Hang Sơn Đoòng được đánh giá là một bức tranh “Hoành tráng, đẹp đến mức kinh ngạc” với nhiều thạch nhũ có hình thù kỳ lạ,điều đặc biệt nhất có điểm chứa cả rừng cây nguyên sinh đang phát triển ở trong lòng hang. Các nhà khoa học địa chất thế giới nhận định Sơn Đoòng là hang động kỳ vĩ nhất thế giới.
Cùng với hệ thống hang động kỳ diệu vườn quốc Phong Nha Kẻ Bàng còn một hệ thống sông ngòi trong vùng khá phức tạp và các sông ngầm dài nhất . Có 3 con sông chính: sông Troóc, sông Chày, sông Son trong khu vực Phong Nha-Kẻ Bàng với dòng nước trong xanh chảy giữa vùng núi đá có rừng tạo nên cảnh đẹp thơ mộng như bức tranh thuỷ mặc quyến rũ du khách.
Bên cạnh đó, khu vực Phong Nha – Kẻ Bàng còn có hàng chục con suối và thác nước đẹp như: Thác Gió, Thác Mệ Loan, Suối Nước Moọc phun lên từ chân một dãy núi đá vôi, Suối Trạ Ang…
Phong Nha Kẻ Bàng còn có hàng chục đỉnh núi cao trên 1.000 mét, hiểm trở, chưa từng có vết chân người, là các điểm hấp dẫn thể thao leo núi và thám hiểm. Điển hình là các đỉnh Co Rilata cao 1.128 mét, Co Preu cao 1.213 mét. Xen kẽ giữa các đỉnh núi trên 1.000 mét là những thung lũng phù hợp cho du lịch sinh thái.
Phong Nha - Kẻ Bàng sở hữu 15 kiểu sinh cảnh với 10 kiểu thảm thực vật quan trọng. Rừng kín thường xanh che phủ 93,5% diện tích, trong đó, trên 90% diện tích VQG là hệ sinh thái rừng nhiệt đới trên núi đá vôi điển hình hiếm có còn sót lại mà hầu hết chưa bị tác động. Đây là một trong những VQG có tỷ lệ rừng nguyên sinh và độ che phủ lớn nhất trong hệ thống các rừng đặc dụng ở Việt Nam. Đặc biệt, sự tồn tại của quần thể Bách xanh đá 500 tuổi, diện tích khoảng 4.000 ha, mọc chủ yếu trên núi đá vôi ở độ cao hơn 600 m, được xem là sinh cảnh rừng độc đáo nhất, có tầm quan trọng toàn cầu và giá trị bảo tồn. Bách xanh đá là loài thực vật cổ và đặc hữu của Việt Nam, hiện chỉ còn sót lại chủ yếu ở VQG Phong Nha - Kẻ Bàng.
Nơi đây có 1.394 loài động vật thuộc 835 giống, 289 họ, 68 bộ, 12 lớp, 4 ngành, trong đó có 82 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam; 116 loài được liệt vào Sách đỏ IUCN; 39 loài được ghi trong Nghị định số 64/2019/NĐ-CP; 66 loài có tên các phụ lục CITES. Ngoài ra, trong khoảng 20 năm qua, đã có thêm 42 loài mới lần lượt được ghi nhận và công bố trên toàn thế giới, bao gồm 38 loài động vật và 4 loài thực vật.
Nơi đây ghi nhận 2.952 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 1.007 chi, 198 họ, 63 bộ, 12 lớp, 6 ngành, trong đó có 111 loài nằm trong Sách đỏ Việt Nam; 121 loài được ghi trong Sách đỏ IUCN; 3 loài có tên trong Nghị định số 64/2019/NĐ-CP ngày 16/7/2019 của Chính phủ.
Du lịch Phong Nha Kẻ Bàng, bạn sẽ phải ấn tượng với Hang Vòm - hang nước dài nhất với chiều dài lên tới 28km. Trong khối đá vôi Phong Nha - Kẻ Bàng, hệ thống hang Vòm có quy mô khá đáng kể, bắt đầu từ hang Rục Cà Roòng nằm ở độ cao trên mực biển khoảng 360m, trải dài từ Nam lên Bắc.
Cửa hang có chiều rộng lên tới 20m và chiều cao 10m, trông giống như một cái bát to úp trên mặt nước, giúp thuyền bè dễ dàng đi qua. Đây cũng là nút giao của ánh sáng khi con thuyền lênh đênh trên mặt sông trong veo và phẳng lặng như mặt gương, dần dần đi vào bóng tối và khám phá những điều huyền bí.
Những khối đá ngầm trong động được thiên nhiên tạo nên hình hài như sư tử, kỳ lân, tượng phật, cung đình, vô chầu... là một trong những nét độc đáo, khiến du khách tò mò nhất để dự đoán đúng hình dạng tự nhiên và tên gọi của chúng.
Hồ nước ngầm với sắc nước xanh thăm thẳm, chiều dài lên tới 13.969m là một điểm quyến rũ khi du lịch động Phong Nha. Tại đây, du khách có thể trải nghiệm chèo thuyền khám phá để thong dong ngắm nhìn thế giới thần tiên trước mắt.
Không chỉ sở hữu những bãi đá ngầm, hồ ngầm tuyệt đẹp, nơi đây còn khiến bao du khách choáng ngợp bởi cảnh tượng tráng lệ, huyền ảo của hệ thống thạch nhũ đồ sộ. Bàn tay kỳ diệu của tự nhiên cũng tô vẽ nên nhiều kiệt tác với vô số hình ảnh kỳ lạ và hấp dẫn.
Dòng sông ngầm trong lòng động có độ dài lên tới 1.500m, là hành trình mà du khách sẽ được khám phá những vẻ đẹp kỳ vĩ, hoang sơ, tận mắt chứng kiến quang cảnh kỳ diệu khi mà ánh sáng lung linh kỳ ảo hòa quyện cùng bóng tối.
Thăm thú động Thiên Đường với chiều dài 31.4km, bạn có thể dọc theo hành lang gỗ được bố trí sẵn tại điểm nghỉ để chiêm ngưỡng hệ thống thạch nhũ kỳ vĩ nơi đây. Càng đi sâu vào bên trong, những tín đồ phiêu lưu mạo hiểm càng có cơ hội được đích thân khám phá thế nào là tuyệt tác của tự nhiên, nhìn từng măng đá, vú đá với đa dạng kiểu dáng và lấp lánh những sắc màu riêng.
Bao quanh Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng là vùng đệm có diện tích 219.855,34 ha thuộc 13 xã (gồm các xã Dân Hóa, Hóa Sơn, Trung Hóa, Thượng Hóa, Trọng Hóa thuộc huyện Minh Hóa; các xã Tân Trạch, Thượng Trạch, Xuân Trạch, Phúc Trạch, Sơn Trạch, Phú Định, Hưng Trạch thuộc huyện Bố Trạch và xã Trường Sơn thuộc huyện Quảng Ninh). Dân số trên 47.000 người với 3 dân tộc chính là Kinh, Bru – Vân Kiều và Chứt. Đa số là người Kinh sinh sống (chiếm hơn 90% tổng số dân).
Trong vùng lõi và vùng đệm của Vườn Quốc gia có 2 dân tộc thiểu số sinh sống: dân tộc Bru – Vân Kiều với các nhóm tộc: Vân Kiều, Trì, Khùa, Ma Coong và dân tộc Chứt với các nhóm tộc: Sách, Mày, Rục, A Rem, Mã Liềng. Đời sống của người Chứt và Bru – Vân Kiều có nhiều sắc thái văn hoá đặc sắc, cho đến nay họ còn lưu giữ nhiều đặc điểm sinh hoạt của thời nguyên thuỷ. Mỗi tộc người trong vùng đều có những tập quán sinh sống và bản sắc văn hoá như: Lễ Đập trống của người Ma Coong, hát Tuồng bội của người Kinh ở Khương Hà… Văn hoá vật thể và phi vật thể của họ là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học và đồng thời là địa chỉ hấp dẫn của loại hình du lịch văn hoá dân tộc ít người ở vùng Phong Nha-Kẻ Bàng.
Trong những năm qua, Khu du lịch Phong Nha – Kẻ Bàng đã trở thành địa chỉ yêu thích của du khách. Số lượng khách du lịch đến du lịch Quảng Bình để khám phá vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng ngày càng đông, nhất là từ khi Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng được UNESCO công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới. Cùng với Thánh địa Mỹ Sơn, Phố cổ Hội An, Cố đô Huế, Di sản Thiên nhiên Thế giới Phong Nha-Kẻ Bàng, tuyến du lịch Miền Trung độc đáo “Con đường Di sản Miền Trung” hình thành và lan rộng, tạo nên sức hấp dẫn đối với khách du lịch.
-Nguồn: Tổng hợp-
Quần đảo Cát Bà - Vịnh Hạ Long
Di sản thiên nhiên thế giới
Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào tháng 9/2023, bởi nơi đây chứa đựng các khu vực có vẻ đẹp thiên nhiên bao gồm các đảo đá vôi có thảm thực vật che phủ và các đỉnh nhọn núi đá vôi nhô lên trên mặt biển cùng với các đặc điểm karst (núi đá vôi) liên quan như các mái vòm và hang động.
Theo UNESCO, vịnh Hạ Long – quần đảo Cát Bà được xem là bảo tàng địa chất, chứa đựng những di sản với giá trị nổi bật toàn cầu, nơi chứng kiến những thay đổi đặc trưng trong lịch sử phát triển của Trái Đất. Việc tổ chức thành hồ sơ di sản liên tỉnh thành phố vịnh Hạ Long – quần đảo Cát Bà được thực hiện dựa trên khuyến nghị của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) vào năm 2014. Sau khi thẩm định, IUCN khuyến nghị Việt Nam xem xét khả năng đề xuất gộp vịnh Hạ Long và quần đảo Cát Bà thành một hồ sơ di sản thế giới mới. Ngày 16/9/2023, Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà được UNESCO công nhận là Di sản thế giới.
Quần đảo Cát Bà thuộc H.Cát Hải (TP.Hải Phòng) gồm 367 hòn đảo lớn nhỏ nằm trên diện tích rộng khoảng 300 km², giữa vịnh Bắc Bộ, cách trung tâm TP.Hải Phòng khoảng 30 km, cách TP.Hà Nội khoảng 140 km.
Đảo Cát Bà là đảo lớn nhất, có diện tích 153 km², là đảo lớn thứ 3 ở Việt Nam sau Phú Quốc và Cái Bầu, có đỉnh núi cao nhất lên đến 331m. Đây là khu vực địa hình karst nhiệt đới bị ngập chìm, có cảnh quan độc đáo tương tự vịnh Hạ Long (Quảng Ninh). Các hòn đảo là các chóp hoặc tháp karst đơn lẻ hoặc thành cụm, vách bờ dốc đứng nổi trên mặt nước biển trong xanh. Trên đảo Cát Bà có nhiều hang động đẹp, các thung lũng karst như: Trung Trang, Hùng Sơn, Gia Luận, Tai Lai (nay gọi là Việt Hải)…
Quần đảo Cát Bà có rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, các rặng san hô, thảm rong - cỏ biển, hệ thống hang động, tùng áng (hồ nước), là nơi hội tụ đầy đủ các giá trị bảo tồn đa dạng sinh học, bảo đảm các yêu cầu của khu dự trữ sinh quyển thế giới theo quy định của UNESCO.
Sở hữu khu rừng trên biển lớn nhất, hệ động thực vật rừng - biển đa dạng nhất với 7 hệ sinh thái rừng - biển phong phú, Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà không chỉ là nơi có vẻ đẹp, cảnh quan ngoạn mục kỳ thú, mà còn là kho báu thiên nhiên trên biển với những giá trị hết sức to lớn.
Đối với bất kỳ người Việt Nam nào, Hạ Long - Cát Bà lâu nay vẫn là một điểm du lịch quen thuộc với phong cảnh biển, thiên nhiên hùng vĩ, nhưng không phải ai cũng hiểu hết những giá trị mà di sản thiên nhiên độc đáo này đang sở hữu.
Hồ sơ đề nghị đưa vào danh sách Di sản Thiên nhiên thế giới đối với Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà của Cục Di sản Văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) nêu rõ: Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà được UNESCO công nhận Di sản Thế giới, bởi nơi đây chứa đựng các khu vực có vẻ đẹp thiên nhiên bao gồm các đảo đá vôi có thảm thực vật che phủ và các đỉnh nhọn núi đá vôi nhô lên trên mặt biển cùng với các đặc điểm karst liên quan như các mái vòm và hang động. Cảnh trí ngoạn mục không bị tác động của các đảo có thảm thực vật che phủ, hồ nước mặn, đỉnh nhọn núi đá vôi với các vách dựng đứng nhô lên trên biển.
Quần đảo Cát Bà là một quần đảo gồm 367 đảo, trong đó có đảo Cát Bà ở phía nam vịnh Hạ Long, ngoài khơi thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 30 km, cách thành phố Hạ Long khoảng 25 km. Quần đảo thuộc huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng. Nơi đây đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới vào ngày 2/12/2004.
Tổng diện tích khu dự trữ sinh quyển Cát Bà rộng hơn 26.000 ha, với 2 vùng lõi (bảo tồn nghiêm ngặt và không có tác động của con người), 2 vùng đệm (cho phép phát triển kinh tế hạn chế song kết hợp với bảo tồn) và 2 vùng chuyển tiếp (phát triển kinh tế). Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà là vùng hội tụ đầy đủ cả rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, các rạn san hô, thảm rong và đặc biệt là hệ thống hang động.
Với 1.133 hòn đảo đá vôi muôn hình, muôn vẻ (775 đảo đá vôi thuộc Vịnh Hạ Long và 358 đảo đá vôi thuộc Quần đảo Cát Bà) được bao phủ bởi thảm thực vật phong phú trên mặt nước lấp lánh màu ngọc bích, Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà hiện lên như một bàn cờ bằng đá quý; nước non trùng điệp, thanh bình; những bãi cát trắng mịn, tinh khôi.
Với sự giao thoa của núi rừng và biển đảo, Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà là một khu vực tiêu biểu, có mức độ đa dạng cao của Châu Á khi sở hữu 7 hệ sinh thái biển - đảo, nhiệt đới, cận nhiệt đới liền kề, kế tiếp nhau phát triển bao gồm: hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới nguyên sinh; hệ sinh thái hang động; hệ sinh thái rừng ngập mặn; hệ sinh thái bãi triều; hệ sinh thái rạn san hô; hệ sinh thái đáy mềm; hệ sinh thái hồ nước mặn. Các hệ sinh thái này đại diện cho các quá trình sinh thái và sinh học vẫn đang tiến hóa và phát triển, thể hiện qua sự đa dạng của các quần xã động thực vật.
Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà còn là nơi chứa đựng một môi trường sống của nhiều loài động, thực vật quý hiếm. Sở hữu khu rừng trên biển lớn nhất Việt Nam với diện tích hơn 17.000ha cùng các hệ sinh thái đa dạng, Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà là điểm cư ngụ của 4.910 loài động thực vật trên cạn và dưới biển, trong số này có tới 198 loài thuộc Danh mục Đỏ IUCN, 51 loài đặc hữu.
Diện tích rừng nguyên sinh khoảng 1.045,2 ha trên đảo Cát Bà là một trong những nhân tố quan trọng làm nên giá trị sinh thái và đa dạng sinh học của di sản. Đặc biệt, Voọc Cát Bà (Trachypithecus poliocephalus) là loài quý hiếm, nằm trong danh sách các loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất và được ghi vào Sách Đỏ thế giới. Đến nay, còn khoảng 60-70 cá thể phân bố duy nhất ở Cát Bà, không còn nơi nào khác trên thế giới xuất hiện loài này.
Tại đây đã nhiều loài thực vật đặc hữu, chỉ thích nghi sống ở các đảo đá vôi, mà không nơi nào trên thế giới có được, đó là: thiên tuế Hạ Long (Cycas tropophylla), khổ cử đài tím (Chirita drakei), cọ Hạ Long (Livistona halongensis), móng tai Hạ Long (Impatiens verrucifera), ngũ gia bì Hạ Long (schefflera alongensis), hài vệ nữ hoa vàng (Paphiopedilum concolor)... Các loài cây lá mọng hoặc trông xù xì như xương rồng Euphorbia antiquorum (Euphorb.), huyết giác Dracaena cambodiana (Liliac.), chi tuế Cycas sp. (Cycad.), và dây leo không lá tiết căn Sarcostemma acidum (Apocyn.) mang lại cho thảm thực vật ở đây một dáng vẻ chống chịu hạn của thực vật sa mạc.
Cũng trong khu vực Vườn quốc gia Cát Bà, một bồn trũng gần bến tàu Việt Hải bị che phủ phần lớn bởi một đầm lầy nước ngọt với các tán cây hỗn hợp. Men theo đường vào làng, thảm thực vật rừng nhường chỗ cho những cánh đồng lớn với cây lau sậy Phragmites karka (Poac.). Mặc dù có tầm quan trọng thứ yếu và nhỏ bé về mặt kinh tế, nhưng mỗi đầm lầy nước ngọt dường như có những đặc điểm khác nhau, nhiều đầm còn hoàn toàn nguyên sơ, một số là nơi cư ngụ cho những loài đặc biệt như Combretocarpus, đây là điểm hiếm có tại các vùng đất ẩm ướt nước ngọt.
Nằm cheo leo trên đỉnh núi Vườn Quốc gia Cát Bà tại khu vực “Ao Ếch” là sự xuất hiện của kiểu thảm cây ngập nước đặc thù và khá hiếm hoi. Loài cây và nước thường chỉ phát triển, phân bố ở Tây Nam Bộ, Việt Nam lại xuất hiện ở Cát Bà với quần thể gần như thuần loại. Thảm và nước dù có diện tích khiêm tốn, nhưng chứa đựng một nguồn gen loài thực vật vô cùng độc đáo.
Ngoài ra, nằm rải rác trong khu vực là 138 hồ nước mặn được hình thành từ các hố sụt, phễu karst và thung lũng kín. Các hồ nước này, chiếm khoảng 1/3 tổng số hồ nước mặn trên thế giới, là nơi lưu giữ những loài cổ xưa, quý hiếm, có giá trị lớn cho việc bảo tồn và nghiên cứu khoa học, vừa là môi trường thuận lợi cho các loài sinh vật tiến hóa.
Vịnh Hạ Long - Quần đảo Cát Bà được UNESCO công nhận tại Kỳ họp lần thứ 45 của Ủy ban Di sản Thế giới (tháng 9 năm 2023), trở thành Di sản Thế giới liên tỉnh, thành phố đầu tiên ở Việt Nam, là bài học kinh nghiệm hữu ích trong việc kết hợp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị Di sản thế giới nói riêng, di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh nói chung ở Việt Nam trong những năm tới.
-Nguồn: Tổng hợp-
Bên cạnh 2 di sản thiên nhiên thế giới đã kể trên, Việt Nam còn sở hữu di sản hỗn hợp duy nhất tại Đông Nam Á. Đó là quần thể danh thắng Tràng An. Quần thể di sản thế giới Tràng An thuộc tỉnh Ninh Bình. Quần thể này có diện tích rộng đến 2.000 ha, tất cả đều được tạo nên bởi hang động đầy màu sắc, núi đá vôi bao quanh. Bên cạnh đó, quần thể danh thắng Tràng An còn sở hữu các di tích văn hóa như đền thờ, chùa chiền.
Vào năm 2014, quần thể danh thắng Tràng An chính thức được UNESCO vinh danh là di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, gọi đơn giản là di sản thế giới hỗn hợp.
Là di sản hỗn hợp đồng thời là di sản thế giới kép đầu tiên và duy nhất ở Đông Nam Á, Quần thể danh thắng Tràng An sở hữu cảnh sắc thiên nhiên độc đáo, ấn tượng. Đến đây, bạn chắc chắn sẽ bị choáng ngợp khi đứng trước khung cảnh thiên nhiên trùng điệp với nào đá núi, hang động, hệ sinh thái động thực vật đa dạng cùng một loạt các di tích lịch sử nổi tiếng khác.
Nằm cách thủ đô Hà Nội gần 100 km về phía Nam và cách trung tâm thành phố Ninh Bình 7km theo hướng tây dọc đại lộ Tràng An. Quần thể danh thắng Tràng An trải rộng hơn 2.000 ha, bao gồm khu du lịch sinh thái Tràng An ở vị trí trung tâm, khu du lịch Tam Cốc – Bích Động ở vị trí phía bắc cách 8km, cố đô Hoa Lư ở vị trí phía nam cách 3km..Liên kết giữa các khu du lịch này là khu rừng đặc dụng và những thung lũng, sông ngòi uốn lượn, hòa quyện vào nhau.
Chỉ khi được tận mắt ngắm nhìn toàn cảnh nơi đây, du khách mới thực sự cảm nhận được sự ví von Tràng An như một vịnh Hạ Long trên cạn. Ngoài ra, khu du lịch này còn rất gần các địa điểm hút khách du lịch khác như Chùa Bái Đính, Hang Múa, đầm Vân Long…
Thành Nam Tràng An là hệ thống phòng thủ phía Nam của kinh thành Hoa Lư nên nơi đây còn nhiều đền phủ, dấu tích của các quan lại triều Đinh và Nhà Trần sau này. Tại đây còn khá nhiều di tích lịch sử nằm sâu trong rừng mà du khách sẽ gặp trên chặng đường hành hương tiêu biểu như:
Đền Trình: Đền Trình là nơi thờ 4 công thần Nhà Đinh là 2 vị Tả Thanh Trù và 2 vị Hữu Thanh Trù. Đương triều họ là Giám sát Đại tướng quân cai quản kho vàng, két bạc của vua. Tương truyền, khi vua Đinh Tiên Hoàng băng hà, triều đình rối ren, họ đã mang giấu Đinh Toàn tại đây để tránh sự truy bắt của Lê Hoàn. Khi Thái hậu Dương Vân Nga trao mũ áo long bào nhường ngôi vua cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, các ông đã không khuất phục và tuẫn tiết tại khu vực này, nhân dân đã xây dựng ngôi Phủ bên sườn núi để thờ các ông.
Đền Tứ Trụ: Đền Tứ Trụ nằm cạnh đền Trình, là di tích thờ 4 vị đại thần Nhà Đinh gồm Tể tướng Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền, Thái sư Lưu Cơ và Thượng thư Trịnh Tú.
Đền Trần Ninh Bình: do vua Đinh Tiên Hoàng xây dựng cùng thời với đền Hùng, sau này vua Trần Thái Tông về đây lập hành cung Vũ Lâm tiếp tục cải tạo bề thế hơn nên được gọi là đền Trần.
Đền Trần là nơi thờ thần Quý Minh, vị thần trấn cửa ải phía nam Hoa Lư tứ trấn. Đền còn có tên là đền Nội Lâm (ngôi đền trong rừng). Đền Trần Nội Lâm cùng với Vũ Lâm, Văn Lâm hợp thành Tam Lâm dưới triều đại Nhà Trần. Lễ hội đền Trần Ninh Bình diễn ra vào ngày 18 tháng 3 âm lịch hàng năm, cùng với lễ hội cố đô Hoa Lư, lễ hội chùa Bái Đính là những lễ hội lớn ở Ninh Bình.
Phủ Khống: Nằm trên một dải đất hẹp, lưng tựa vào hang Khống, bên phải là dãy núi đá dựng đứng, trước mặt là thung lủng nước mênh mông. Phủ Khống là nơi thờ 7 vị quan trung thần triều Đinh, gắn với các truyền thuyết khi vua Đinh Tiên Hoàng băng hà, 7 vị quan trong triều đình mang nhiều quan tài chôn theo các hướng rồi cùng tự sát để giữ kín những bí mật về ngôi mộ thật. Một vị tướng trấn giữ thành nam vô cùng cảm kích trước nghĩa khí của 7 vị trung thần liền lập bát nhang thờ cúng ở đây. Sau khi vị tướng này mất, nhân dân trong vùng đã lập đền thờ và trồng cây thị ngay trước cửa Phủ để tưởng nhớ các bậc trung thần. Cây thị nghìn năm tuổi mà quả có hai loại: 1 tròn và 1 dẹt
Hành cung Vũ Lâm: Khu du lịch Hành cung Vũ Lâm nằm sâu trong khu vực rừng núi của Quần thể di sản thế giới Tràng An, để đến khu du lịch Hành cung Vũ Lâm, du khách sẽ được ngồi trên các con thuyền truyền thống do người dân địa phương chèo lái, trải nghiệm sự gắn kết gần gũi với thiên nhiên, cảm nhận vẻ đẹp thuần khiết, lộng lẫy của hang kỳ, đá lạ và trở về nét vàng son của lịch sử dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước Tại đây, Viện khảo cổ học Việt Nam đã khai quật, thám sát thung đã tìm thấy hàng nghìn hiện vật ở trên bề mặt và trong những hố đào. Trung tâm hành cung Vũ Lâm thờ vua quan Nhà Trần. Dưới triều của Nhà Trần có danh thần Trương Hán Siêu, ông gốc là người Ninh Bình, là một danh sĩ nổi tiếng thời Trần, và là môn khách đắc lực của Trần Hưng Đạo. Trương Hán Siêu có tính tình cương nghị, học vấn uyên thâm, có công lớn trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai và thứ ba. Trong giai đoạn vua Trần Nhân Tông về vùng đất này để tu hành thì sau đó danh thần Trương Hán Siêu cũng đã lui về ẩn tu và lập am tu tập tại quê hương Ninh Bình. Chính vì vậy mà Trương Hán Siêu cũng được nhân dân thờ tại khu di tích này.
Đền Cao Sơn: thờ thần Cao Sơn trấn Tây Hoa Lư tứ trấn. Thần Cao Sơn khi đi tuần tra vùng núi Vũ Lâm (Ninh Bình) đã tìm ra loại cây búng báng sử dụng thay gạo cứu đói, được nhân dân tôn thờ. Ngôi đền nằm trên 1 tuyến du lịch trong khu du lịch sinh thái Tràng An, cùng với các điểm tham quan khác là đền Suối Tiên và Hành cung Vũ Lâm.
Đền Suối Tiên: nằm ở thượng nguồn dòng sông Ngô Đồng, thực chất là điểm kéo dài của tuyến du lịch Tam Cốc nhưng lại được kết nối trong tuyến du lịch thứ 2 trong Khu du lịch sinh thái Tràng An. Đền thờ thần Quý Minh trấn Nam Hoa Lư tứ trấn. Đền nằm giữa vùng rừng núi hoang vắng, thượng nguồn của suối Tiên và chỉ có thể đi vào được bằng thuyền.
Hang Địa Linh: dài khoảng 1500m và là hang đầu tiên trong cuộc hành trình xuất phát từ bến thuyền sông Sào Khê tham quan tuyến số 1. Hang còn có tên là hang Châu Báu vì khi vào đây du khách sẽ có cảm giác như lạc vào kho báu của những nhũ đá hóa thạch. Ra khỏi cửa hang là một khung cảnh sơn thủy hữu tình của mây trời, núi non và sông nước.[28] Hang dài 260 m với nhiều nhũ đá rủ xuống kì ảo.
Hang Nấu Rượu: Trong hang Nấu Rượu có mạch nước ngầm sâu hơn 10m, tương truyền xưa kia các bậc tiền bối đã vào đây lấy nước để nấu rượu tiến vua
Hang Ba Giọt: có nhiều nhũ đá với đủ màu sắc xuất hiện. Có loại gọi là cây bụt mọc xuyên từ trần ngược xuống. Điểm đặc biệt là các nhũ đá ở hang Ba Giọt không khô như những hang trước mà ướt đẫm và tiếp tục biến hình, hình thành nên những hình dáng, sắc thái mới…
Hang Sính, hang Si và hang Ba Giọt gắn liền với truyền thuyết một câu chuyện tình buồn. Xưa có chàng công tử yêu tha thiết một nàng công nương. Khi chàng gánh sính lễ đến hang Sính để cầu hôn thì nàng đã bị cống nạp cho nước láng giềng. Chàng sang hang Ba giọt tắm gội, sau đó ôm khối tình riêng trầm mình ở hang Si. Tương truyền ai đi qua hang Ba Giọt mà đón được ba giọt nước từ nhũ đá nhỏ vào lòng bàn tay sẽ may mắn trong cuộc đời và hạnh phúc trong tình yêu.
Hang Bói: là một di chỉ khảo cổ học có giá trị trong quần thể di sản thế giới Tràng An. Lối vào hang sâu thăm thẳm, rậm rạp với nhiều loài cây mọc ken dày, ánh nắng không thể chiếu xuống đất được nên con đường đầy rêu và thảm lá cây. Hang Bói được phát hiện năm 2002. Lúc đó lòng hang có nhiều vỏ nhuyễn thể, xương động vật và một vài mảnh tước, bằng chứng cho thấy dấu ấn người tiền sử thuộc Văn hóa Hòa Bình sớm cách ngày nay khoảng một vạn năm. Các nhà nghiên cứu thống nhất đặt tên hang Bói vì nó ở trong khu thung Bói gắn với truyền thuyết vua quan Nhà Trần từng gieo quẻ bói tại đây.
Từ năm 2007, khu này đã được các nhà cổ sinh, địa chất, khảo cổ của Việt Nam và Đại học Tổng hợp Cambridge- Anh quốc nghiên cứu khảo sát. Hố thám sát và cửa hang được rào kín bằng lưới sắt. Di chỉ khảo cổ học hang Bói gồm hai phần: hang trên rộng khoảng 200m2, hang dưới rộng 150m2. Từ cửa hang, phải cầm đèn pin lần theo cầu thang sắt cheo leo đi xuống.
Phim trường ‘Kong: Skull Island’
Bối cảnh phim trường làng thổ dân trong phim Kong: Skull Island nằm tại khu du lịch Tràng An đã mở cửa cho du khách tham quan từ ngày 15/4/2017.
Phim trường làng thổ dân được phục đựng với diện tích khoảng 10 hecta, gồm 36 túp lều chóp nhọn cùng sự tham gia của hơn 50 người đóng vai thổ dân. Đây là mô hình do ban quản lý sinh thái Tràng An và Doanh nghiệp Xuân Trường thực hiện.
Lễ hội Tràng An diễn ra trong 3 ngày, từ 17 đến 19/3 âm lịch hàng năm để tôn vinh 2 vị thần Quý Minh, Cao Sơn trấn trạch Hoa Lư tứ trấn và các vua đầu Nhà Trần đã lập ra hành cung Vũ Lâm. Phần lễ với nhiều nghi thức truyền thống được diễn ra trên sông như: rước nước, rước kiệu và rồng để tỏ lòng tri ân các bậc tiền nhân có công giữ yên bờ cõi, bảo vệ giang sơn. Các đoàn rước đi thành đoàn trên những chiếc thuyền, khởi đầu từ bến thuyền Tràng An đoàn đi dọc theo dòng sông Sào Khê rước nước qua hành cung Vũ Lâm, đền Cao Sơn vào đền Suối Tiên và thực hiện các lễ tế tại đây.
Lễ hội Tràng An trải qua hành trình trên sông nước qua các hang động hàng nghìn năm kiến tạo địa chất như: Hang Mây dài hơn 1 km, hang Vạng, hang Đại La, hang Vân và các điểm di tích lịch sử đền Trình, đền suối Tiên, phim trường Kong: Skull Island, hành cung Vũ Lâm. Phần hội là biểu diễn các tiết mục văn nghệ đặc sắc, các trò chơi dân gian ở hai bên dòng sông trong suốt hành trình rước.