I- MỞ ĐẦU:
Vua Lý Thái Tông (1028 - 1054), một vị vua sùng bái đạo Phật của thời Lý đã làm bài kệ truy tặng vị Thiền sư Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi (450 năm về trước) như sau:
"Sáng tự lai Nam quốc, Văn quân cứu tập thiền, Ly khai chư Phật tín, Viễn hợp nhất tâm nguyên, Hạo hạo Lăng Già nguyệt, Phân Phân Bát Nhã liên, Hà thời lâm diện kiến, Tương dữ thoại trùng huyền".
Dịch nghĩa:
"Mở lối sáng nước Nam, Nghe ông giỏi tập thiền, Mở bày niềm tin Phật, xa hợp một nguồn tâm.
Trăng Lăng-già vằng vặc, Sen Bát nhã ngát thơm, Bao giờ được gặp mặt, Cùng nhau bàn đạo huyền".
II. Thân thế:
Theo sách "Cổ châu pháp vân bổn hạnh ngũ lục" thì vào khoảng đời Ðông Tấn (317-419) có một Pháp sư tên là Tỳ Ni Ða Lưu Chi, người Ấn độ, nhận thấy ở Nam Việt đã hiểu đạo Phật liền qua trú ở tại chùa Pháp vân, giảng dạy Phật Pháp, và từ đó Phật giáo Việt Nam thịnh hành.
Theo sách "Thiền uyển tập anh" viết lại lời Thiền sư Thông Biện thì Ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi ở Nam Thiên Trúc, từ thuở nhỏ đã vân du Tây Ấn, nhưng pháp duyên chưa gặp. Ngài lại đi về phía Ðông Nam, rồi đến Trường an vào năm 562, là kinh đô nước Hán (Trung quốc). Vào năm 574, khi Phật giáo Trung quốc bị Võ Ðế Bắc Chu đàn áp, Ngài đi về đất Nghiệp (Hồ Nam). Lúc bấy giờ Tổ thứ 3 Thiền tông của Trung quốc là Tăng Xán cũng đang tỵ nạn tại núi Tư không (Hồ Nam). Khi Ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi gặp Tổ Tăng Xán thấy phong độ phi phàm của Tổ liền chắp tay, Tổ vẫn ngồi yên không nói gì cả, trong lúc đứng chờ, suy tư tâm mới mở ra, như đã sở đắc. Ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi liền lạy xuống 3 lạy, Tổ chỉ gật đầu ba cái mà thôi. Ngài liền lùi 3 bước mà thưa rằng:
"Ðệ tử từ trước tới nay chưa có cơ hội, xin Hòa Thượng từ bi cho đệ tử được hầu bên tả hữu".
Tổ liền nói:
"Ông mau mau đi về phương Nam mà tiếp xúc với thiên hạ, không nên ở lâu tại đây"
Ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi liền từ biệt Tổ đi về phương Nam, ở lại chùa Chế Chỉ Quảng Châu. Ở đây Ngài đã dịch được một số kinh, như kinh Tượng Ðầu, Nghiệp Báo Sai Biệt từ chữ Phạn ra chữ Hán. Tháng 3 năm Canh Tý (580), Ngài vào đến nước ta, trú trì chùa Pháp Vân, dịch thêm bộ kinh Tổng Trì. Trong thời gian này, Ngài đã thâu nhận đệ tử và truyền đạo, nhờ vậy mà giáo pháp mới hưng khởi tại Việt Nam và trở nên thịnh đạt.
Năm 594, trước khi tịch, Sư gọi đệ tử Pháp Hiển đến, nói xong bài kệ. Sư chấp tay tịch. Ngài Pháp Hiển làm lễ trà tỳ, thu xá lợi 5 sắc, xây tháp để thờ.
III. Sự nghiệp:
Ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi đã dịch được 3 bộ kinh: Tương đầu, Nghiệp Báo Sai Biệt và Tổng Trì.
Ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi là một Tăng sĩ người Ấn độ, nhưng lại được Ngài Tăng Xán là Tổ thứ 3 của Thiền tông Trung quốc truyền cho tâm ấn và được đặt tên Trung hoa là Diệt Hỷ.
Ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi là người đầu tiên truyền Thiền tông vào nước ta, và lập ra phái Thiền thứ nhất ở Việt Nam, mang đại bộ phận sắc thái Ấn độ mặc dù trước đó ở Việt Nam đã có một Thiền Sư Việt Nam là Quán Duyên đang dạy Thiền học, trong đó có môn đệ là Pháp Hiển, nhưng về sau Pháp Hiển lại theo học ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi, để rồi sau đó được truyền tâm ấn trở thành Tổ thứ 2 của Thiền Việt Nam.
Nhờ có ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Thiền học Việt Nam đã được truyền qua 19 đời, từ năm 580 đến 1213, tạo thành sắc thái Thiền tông Việt nam mà trong đó có những vị thiền sư như Vạn Hạnh, đã làm nên những trang sử vẻ vang cho đạo pháp và dân tộc Việt Nam.
IV. Bảng liệt kê
19 thế hệ của Phái Thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi: Kể từ năm ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi vào Việt Nam (580) đến ngày mất của Ỷ Sơn (1213). Như vậy phái Thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi đã truyền được 563 năm với 19 thế hệ, theo bản liệt kê dưới đây:
Tỳ Ni Ða Lưu Chi
Pháp Hiển
Huệ Nghiêm
Thông Biện
Không rõ danh tánh
Không rõ danh tánh
Long Tuyền
Ðịnh Không và 2 người không rõ danh tánh
Thông Thiện và 2 người không rõ danh tánh
La Quý An Pháp Thuận Ma Ha Ma Ya và 2 người không rõ danh tánh
Thiền Ông và 2 người không rõ danh tánh
Vạn Hạnh Ðịnh Tuệ - Từ Ðạo Hạnh - Trì Bạt Thuần Chân
Huệ Sinh - Thiền Nhân - Minh Không - Bản Tịch và 2 người không rõ danh tánh
Khánh Hỷ
Giới Không - Pháp Dung
Chân Không - Ðạo Lâm
Diêu Nhân - Viên Học - Tinh Thiền
Viễn Thông
Y Sơn và 1 người không rõ danh tánh.
V. Nội dung cơ bản về Thiền học của Tỳ Ni Ða Lưu Chi:
Nội dung Thiền học của Ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi mang nhiều dấu ấn của Thiền tông Ấn độ lúc bấy giờ. Mặc dù đã đến Tổ thứ ba là Tăng Xán, Thiền Trung quốc vẫn còn mang dấu ấn Thiền Ấn độ mãi cho đến Tổ thứ 6 là ngài Huệ Năng, Thiền Trung Quốc mới mang sắc thái Trung quốc.
Ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi rất chú trọng tu Ðịnh và qua tiến bộ trong việc tu Ðịnh mà trí Bát Nhã hừng sáng và hành giả đồng thời cũng chung nhiều quyền năng siêu nhiên, mà các sách thường gọi là phép thần thông.
Bộ kinh đầu tiên do ngài dịch là kinh Tượng Ðầu, có thể xem như là kinh căn bản của Thiền học, mang tinh chất phá chấp của văn hệ Bát Nhã, nói về bản chất của giác ngộ.
Bộ kinh thứ ba mà ngài dịch là kinh Tổng Trì, là một kinh về Mật giáo; sự có mặt của yếu tố Mật giáo là một đặc điểm cơ bản của Thiền phái này.
Những thế hệ kế tiếp của Thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, đều bộc lộ tư tưởng Thiền của Sơ Tổ, và còn có những kiến thức siêu việt trong nước và nước ngoài như Pháp Hiển, Sùng Phạm, Từ Ðạo Hạnh, Vạn Hạnh. 6. Nội dung của Thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi rất có tính cách dân tộc Việt Nam, vừa biểu lộ được sinh hoạt tâm linh siêu việt của Phật giáo và biểu lộ đời sống thực tế đơn giản của quần chúng nghèo khổ.
VI. Kết Luận:
Là huynh trưởng, sau khi nghiên cứu thân thế và sự nghiệp của Ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi, chúng ta phải: Thấy được công to lớn của vị Sư người Ấn độ, tầm đạo ở Trung quốc và giảng dạy Thiền học tại Việt Nam, ngài mở ra phái Thiền đầu tiên ở Việt Nam từ năm 589 đến 1213, nối tiếp 19 thế hệ Thiền, ảnh hưởng quan trọng đến tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam cho đến hiện nay. Phải xác định cho được ngài Sơ Tổ Thiền VN, khác với Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma, Sơ Tổ của phái Thiền Trung Quốc. Có nên chăng các chùa Việt nam nên thờ ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi? Xưa nay chỉ thấy thờ ngài Bồ Ðề Ðạt Ma là Sơ Tổ Thiền Trung Quốc trong hầu hết các chùa Việt Nam mà không thấy thờ Sơ Tổ Thiền Việt Nam. Chú tâm nghiêm trì giới luật, thực hành Thiền học, áp dụng hữu hiệu trong cuộc sống hàng ngày, đó mới là tỏ lòng thành kính thù ân bậc thượng Tăng hữu công.
Tài liệu tham khảo:
1. Việt Nam Phật giáo sử lược của HT Thích Mật Thể
2. Việt Nam Phật Giáo sử luận của Nguyễn Lang
Câu hỏi:
1. Ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi đến Việt Nam bằng cách nào?
2. Nguyên nhân nào đã làm cho Ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi ở lại Việt Nam?
3. Ðặc điểm về Thiền của Ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi là gì? Tại sao lại thích hợp với Việt Nam?
4. Có nên thờ Ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi tại các Chùa không? Tại sao?