Vừa vào mùa Phật Đản, chúng tôi nhận được tin nhắn từ các anh chị em áo lam có nhả ý thỉnh chúng tôi viết bài cho tập kỷ yếu chu niên lần thứ 50 của Gia Đình Phật Tử Hà Cảng. Nhân đây, chúng tôi cũng xin nhắn nhũ vài hàng cho các em, một chút gì đó gọi là quà và gửi lời chúc tốt lành nhất đến với các em, chúc các em mãi luôn là những Phật tử chân chánh không dừng ở nơi tuổi tác, xứng đáng với sứ mệnh mình đang đeo mang, đem vào đời phụng sự xã hội và giúp ích cho muôn loài. Chúc tất cả anh chị em trong Gia Đình Phật Tử có một buổi lễ Chu niên thật dễ thương trong tình lam hài hòa ấm áp, thật đúng nghĩa với những vòng tay đã từng siết chặt, để cùng nhau chia sẻ, giúp đỡ, sách tấn lẫn nhau trên bước đường tu học, làm tròn sứ mệnh và lý tưởng của mình.
Nói Với Huynh Trưởng
Các anh chị em thân mến, nhắc đến chu niên lần thứ 50, vừa nghe xong chúng tôi chợt đánh thót giựt mình. Thắm thoát thời gian qua đi thật mau, mới ngày nao chúng ta còn bé nhỏ, thế mà đảo mắt một cái thì đã mươi năm.
Nhìn lại quãng đường của mình đi qua, thấy mình vẫn chưa làm gì cho mình, chưa làm được gì cho ai, chưa tạo nên thành tích gì trong đời sống này cả. Và nhìn ra, trong số chúng ta có nhiều người, đến khi tuổi già sức yếu, lực bất tòng tâm rồi mới hối tiếc: giá như ngày xưa…, đã thốt ra những lời ta thán nghe thật mủi lòng. Lẽ ra phải nên làm gì cho người đó, làm cái nọ cho người kia, hay chẳng nên gây tạo chi những thứ oan khiên như vậy. Nhưng thời gian thật chẳng cho phép để chúng ta đi ngược lại dòng đời mà vá lấp lại những lỗi lầm đó. Chúng tôi mỗi lần nghe được những lời như vậy, thường lấy đó làm lời cảnh tỉnh cho chính mình. Kinh Phật thường nói: “Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn”. Đây là câu nói không phải dễ gì nói ra được, nếu chẳng phải chư Phật lòng từ bi cùng cực nói ra cho chúng ta biết cái giá trị được làm người, thì chúng ta không thể nào thể hội được.
Và cũng vì những duyên do như thế nên chúng tôi muốn nhắc nhở cho các anh chị em biết, với lứa tuổi các anh chị em còn rất trẻ, rất khỏe, nhiệt huyết tràn đầy thì phải nên biết làm sao tiêu thụ chúng một cách xứng đáng, đừng lập lại vết mòn đổ nát như bao nhiêu người khác đã đi qua để rồi hối tiếc.
Lật lại dòng lịch sử, trở về thời gian của mấy mươi năm về trước, chúng ta thấy được sự khởi nguyên của Gia Đình Phật Tử, dụng ý của chư Tôn Đức Tăng-già là đem nguồn Phật pháp gieo trồng cho các em từ còn bé. Bởi theo lệ thường chúng ta thường chỉ nghĩ chuyện đi chùa, ăn chay niệm Phật là chuyện của ông già bà cả, chứ con nít, thanh niên còn trẻ thì lo đi học, đi làm, nổ lực trên con đường công danh lợi lộc, mở mang sự nghiệp. Còn chuyện đến chùa là chuyện của mấy người rảnh rỗi không việc gì, hay đợi đến khi về hưu rồi, muốn tiêu phí thời gian còn lại trong lời Kinh tiếng kệ để giải bớt đi phần nào những phiền muộn. Những lý do tương tự như vậy đại khái còn rất nhiều, không thể lược hết ra đây được, nhưng đại loại cũng đồng như thế. Còn như có nhãn quang thấy được cái giá trị chân thật trong lời Phật dạy thì thật không nhiều. Dựa trên nguyên lý đó, mà chư Tăng đã làm công cuộc chấn hưng, canh tân Phật giáo vào những năm 1931-1934. Trong công cuộc chấn hưng này, lược sử nói: “Không chỉ cải tổ lại vấn đề tổ chức quản trị, giới luật tu trì của tăng sĩ, mà còn có sự tham dự hộ pháp của cư sĩ tại gia, đồng thời đưa đạo Phật đến với tuổi trẻ. Từ đây bắt đầu xúc tiến hình thành Ban Đồng Ấu Phật Giáo để quy tụ thanh, thiếu, đồng niên đến chùa học Phật pháp, tụng kinh, nghe giảng giáo lý, vui hát, rước lễ dâng hoa,. ..” Cho nên chúng ta phải thấy được mục đích của chư Tăng ngầm nhắm vào những gì, đó là vấn đề giáo dục. Giáo dục có nhiều loại như: gia đình giáo dục, học đường giáo dục, xã hội giáo dục và tôn giáo giáo dục. Vấn đề giáo dục chúng ta đang nói đây chính là tôn giáo giáo dục, là thứ giáo dục được xem như là cuối cùng trong đời người, nhưng cũng phải được xem như là mở đầu cho mọi thứ giáo dục, chính là căn bản giáo dục. Bởi tôn giáo giáo dục là thánh giáo, là dạy cho con người ta về chân thiện mỹ tuệ đến chỗ rốt ráo viên mãn. Chúng ta thường thấy trong đạo Phật, cũng như các tôn giáo khác, cha mẹ thường đem con em mình đến chùa quy y, hay nhà thờ rửa tội trong khi còn rất nhỏ. Dụng ý là kết duyên với thánh hiền, hy vọng con em mình khi lớn lên không quên đi bản tánh thiện lương của chính nó. Khổng Tử nói: “nhân chi sơ tánh bổn thiện, tánh tương cận tập tương viễn”, chính là ý này. Giáo dục không chỉ văn giáo, khẩu giáo, mà quan trọng hơn hết là thân giáo.
Trở lại sự khởi nguyên hình thành của Gia Đình Phật Tử, bắt đầu từ Ban Đồng Ấu Phật giáo, đến Gia Đình Phật Hóa Phổ và kết thành Gia Đình Phật Tử, phải trải qua bao trở lực rất khó khăn mới đứng vững được. Chúng ta có một dòng chảy lịch sử kéo dài gần cả trăm năm, nếu chẳng phải nhờ sự giáo dục đúng đắn theo tinh thần Phật dạy, sự đùm bọc che chở của chư tôn đức Tăng-già thì làm sao có thể kéo dài tới ngày hôm nay. Hy vọng, các anh chị trưởng không quên nguồn gốc, không rời trách nhiệm, sứ mạng của mình mà không ngừng nổ lực làm rạng rỡ thêm cho Gia Đình Phật Tử ngày một vững tiến.
Nói Với Các Em Ngành Thiếu
Cổ đức nói: làm người phải biết luận cổ suy kim. Các em ngày nay thừa hưởng được gia tài quý báu mà người xưa đã để lại, cũng như được sự truyền trao từ các anh chị trưởng thì phải biết tri ân người đã tạo ra nó, cùng người đã giữ gìn và truyền nó lại cho chúng ta.
Phật dạy: “Biết ơn thì phải đền ơn, có đền ơn thì mới nói là biết ơn được”. Thế thì, muốn đền ơn những người có công trong công cuộc khai sáng Gia Đình Phật Tử, chúng ta phải làm gì? Điều đầu tiên đó là chúng ta không được vong bổn, tức không được quên đi nguồn gốc. Nguồn gốc Gia Đình Phật Tử là được khai sáng từ chư tôn đức Tăng-già, thế thì đối với Tam Bảo phải luôn một lòng tín phục.
Phải đem câu châm ngôn: Bi - Trí - Dũng lên hàng đầu và phải làm sao sống trọn vẹn với ý nghĩa nó. Đem câu châm ngôn đó lồng vào trong mục đích của Gia Đình Phật Tử là đào tạo thanh thiếu đồng nhiên trở thành những Phật-tử chân chánh, góp phần xây dụng xã hội theo tinh thần Phật giáo. Mà tinh thần Phật giáo là gì? Đâu không phải là tinh thần Bi - Trí - Dũng.
Chúng ta thường chào nhau bằng cách bắt ấn kiết tường, còn gọi là ấn tam muội. Ấn kiết tường, là gì? Đâu chỉ là cái chào như cái bắt tay người ta, mà chính là chào nhau trong sự an lành, chúc nhau luôn an lạc. Ấn tam muội là gì? Tam muội là chánh thọ, chánh là chánh định, thọ là thọ dụng. Sự thọ dụng trong chánh định an lành mà không vọng loạn. Hiểu được điều này thì khi chào nhau phải nghiêm cẩn, thành khẩn cung kính mà chúc lành cho nhau vậy.
Sự biểu hiện trong Gia Đình Phật Tử, cái nổi bật nhất mà cũng là cái phổ quát nhất chính là màu áo lam. Dù xưa hay nay, dù may theo kiểu nào chúng ta cũng vẫn giữ nguyên màu áo. Bởi màu lam mang được bản chất đặc thù của nó, trông điềm đạm, ngoan hiền, không khoe khoang sáng rỡ, không tối sẫm xấu xa. Một màu áo mà đứng trước bậc thanh cao không thấy mình thấp kém, đứng trước người thấp hèn chẳng lộ vẻ kiêu căng, mà luôn hòa đồng được tất cả và luôn giữ được nét khiêm cung. Hiểu rõ được ý nghĩa của màu lam như thế, thì khi chúng ta khoác chiếc áo lam lên người, phải biết rằng chúng ta không chỉ đơn thuần khoác lên mình một chiếc áo, mà là trang phục lên mình những tánh đức điềm đạm khiêm cung. Biết kính trên nhường dưới, biết nâng đỡ kẻ thua mình, biết học hỏi người đi trước. Vải là được dệt nên từ đường chỉ khéo léo đầy trí tuệ, mà màu sắc lại được nhuộm bằng lòng Từ Bi của chư Phật, tạo nên chiếc sống lưng ngay ngắn trong chánh hạnh với chiếc cầu vai gánh vác tiếp nối chí cha anh. Thế thì từ nay, chúng ta phải phục sức như thế nào để tạo nên nhân phẩm, tư cách xứng đáng của một người Phật tử.
Nói đến huy hiệu hoa sen, chúng tôi nhớ lại hồi còn nhỏ, những ngày được sống trong Gia Đình Phật Tử. Ngày xưa, yêu cầu đòi hỏi gia nhập vào Gia Đình Phật Tử cũng không gì khó khăn lắm, nhưng muốn trở thành đoàn sinh chính thức cũng không phải là dễ. Sau khi gia nhập vào Gia Đình Phật Tử một thời gian, theo học hỏi cho rành rẽ những quy tắc, nội quy cùng ý nghĩa từ chiếc áo, huy hiệu hoa sen cho đến những giáo lý căn bản nhất mới được khoác chiếc áo lam để làm lễ trở thành đoàn sinh chính thức. Còn đến việc được cài lên áo chiếc huy hiệu hoa sen thì lại khó hơn nhiều, bởi chẳng phải ai trong Gia Đình Phật Tử cũng có được một cái để đeo như bây giờ, mà hầu như chỉ một vài huynh trưởng và đoàn sinh xuất sắc mới có được mà thôi. Vốn cũng chẳng phải là ghê gớm gì, mà chỉ là hồi đó kiếm được chiếc huy hiệu hoa sen thật chẳng dễ. Người ta thường nói, cái gì hiếm là quý, cho nên chiếc huy hiệu hoa sen đối với chúng tôi rất quý, bởi chỉ những ai là đoàn sinh nổi bật qua các trại huấn luyện và thi cử mới có được hoa sen để cài. Chính chúng tôi hồi còn làm đoàn sinh trong Gia Đình Phật Tử cũng chưa được cái hân hạnh cài chiếc huy hiệu hoa sen đó, mặc dù đã rất cố gắng. Chẳng như ngày nay, huy hiệu hoa sen chỉ là cái phù hiệu đeo vào cho có, áo lam chỉ là một loại đồng phục mặc vào trông cho đều, cho đẹp. Vì thế mà áo lam mặc trong ngày sinh hoạt xong, thậm chí chưa ra khỏi chùa đã cởi vứt bỏ đầu này, quăng liệng đầu kia trông rất tội nghiệp. Và mọi người trông riết rồi cũng trở thành quen mắt, chẳng thấy được những hành động như vậy là sai quấy cả. Nên nhân dịp này, chúng tôi cũng xin nhắc cho anh chị huynh trưởng phải nhận thức được chiếc áo lam chúng ta đang mặc đây, không chỉ là một thứ đồng phục, mà nó mang một ý nghĩa rất cao quý. Còn chẳng bằng vậy, sao người xưa lại phải dùng màu lam, là màu mà quý chư Tăng, Ni đều thường dùng mặc. Và chúng ta cũng có thể tùy tiện thay đổi bất cứ màu gì chúng ta muốn, nào cứ phải khăng khăng giữ mãi chiếc màu lam này. Vì vậy xin những ai đã mặc áo lam vào người rồi thì xin hãy giữ gìn cho đúng với ý nghĩa màu áo của nó vậy, được như thế thì chẳng gì đáng quý hơn! Còn huy hiệu hoa sen thì ôi thôi càng không cần phải nói. Nhìn các em liệng mất lung tung, chẳng biết phải tiêu phí bao nhiêu huy hiệu hoa sen cho một đoàn sinh, nghe đau lòng làm sao.
Ý nghĩa huy hiệu hoa sen,
Huy hiệu hoa sen không chỉ là biểu tượng riêng cho Gia Đình Phật Tử, mà thỉnh thoảng vẫn được biểu tượng dùng chung cho đạo Phật, nhất là Phật giáo Việt Nam.
Nói đến hoa sen, thì trong kinh được đức Phật nhắc đến rất nhiều, nhất là được dùng làm ví dụ điển hình cho sự thanh tịnh, giải thoát, đặc biệt là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Là quyển kinh đại thừa được xem là kinh viên đốn tối trọng yếu của tông thiên thai. Tông phái này lấy Kinh Diệu Pháp Liên Hoa làm tông chỉ tu hành, mà được làm nổi bật nhất là bắt đầu từ ngài Trí Giả đại sư. Hoa sen được ví dụ như diệu pháp nhiệm mầu của chư Phật, mà phải đợi đến nhân duyên căn cơ chúng sanh thành thục rồi mới nói.
Nói đến hoa sen, chúng ta ít nhiều đều đã biết đến, hoặc cũng có người đã từng tự thân cầm nắm được hoa sen trong tay. Cái kỳ diệu của hoa sen là sống trong bùn lầy nước đọng, không những không bị nhiễm ô bởi cái tanh hôi của mùi bùn, mà ngược lại nó còn tỏa ra được mùi thơm thanh khiết. Cho nên ca dao có câu: “trong đầm gì đẹp bằng sen, lá sanh bông trắng lại chen nhị vàng, nhị vàng bông trắng lá xanh, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Vì thế mà Phật giáo chúng ta lấy hoa sen làm biểu tượng cho sự giải thoát giữa cõi đời uế trược này.
Ngoài ra, đặc tánh của hoa sen không như bao nhiêu loại hoa khác. Các loài cây cỏ khác, loại thì hoặc có hoa rồi có quả, loại có quả rồi có hoa, loại thì chỉ hoa mà không quả, loại thì có quả mà chẳng có hoa. Riêng hoa sen thì chẳng vậy, hoa quả đồng thời, vừa có hoa thì nhụy sen, đài sen và hạt của nó cũng đồng thời hiện hữu, không hề có trước sau. Đấy là đặc tánh kỳ diệu của hoa sen, mà cũng chính là Phật tánh kỳ diệu trong mỗi chúng ta.
Nếu các em, những ai đã từng đọc qua Pháp Bảo Đàn Kinh thì đều có thể biết được cơ duyên ngộ đạo của Lục tổ Huệ Năng, và sau khi ngộ ra được bản tánh chân thật của mình rồi, ngài liền thốt lên rằng: “Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ, đâu ngờ tự tánh vốn không lay động, đâu ngờ tự tánh hay sanh ra muôn pháp”. Đây chính là chỗ kỳ diệu của tự tâm bổn tánh của mỗi chúng ta, cũng là Phật tánh, và cũng chính là cái đặc tánh kỳ diệu của hoa sen vốn vừa nở ra là tròn đủ như vậy. Bài viết này vốn lẽ ra chúng tôi đề tựa là hoa sen trong Gia Đình Phật Tử, vì muốn chỉ ra cho các em thấy rõ cái ý nghĩa cao quý của hoa sen, có đầy đủ tánh đức biểu trưng cho tinh thần Phật giáo là từ bi hỷ xả và tuệ giác cao độ, mà cũng chính là tánh đức sẵn có trong mỗi chúng ta.
Để hiểu thêm giá trị đặc thù của Hoa sen, chúng tôi xin lấy ví dụ điển hình trong Kinh Pháp Hoa phẩm Bồ-tát Thường Bất Khinh. Vị Bồ-tát này dụng tâm lương khổ vì mọi người lay gọi, đánh động cho họ biết rằng Phật tánh sẵn có nơi mỗi người mà chúng ta không tự biết. Vì vậy mà vị tỷ-kheo đó phàm khi ngó thấy hoặc tỷ-kheo, tỷ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di thảy đều lễ lạy khen ngợi mà nói rằng: “Tôi rất kính quý ngài, chẳng dám khinh mạn. Vì sao? Vì quý ngài đều tu hành đạo Bồ-tát sẽ được làm Phật”. Mà vị tỷ-kheo đó chẳng chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ chuyên đi lễ lạy, nhẫn đến xa thấy hàng tứ chúng cũng cố qua lễ lạy ngợi khen mà nói rằng: “Tôi chẳng dám khinh quý ngài, quý ngài đều sẽ làm Phật”. Trong hàng tứ chúng có người lòng bất tịnh sinh giận hờn buông lời ác mắng nhiếc, nhẫn đến có chúng nhân hoặc lấy gậy cây ngói đá để đánh ném. Ông liền chạy tránh đứng xa mà vẫn to tiếng xướng rằng: “Tôi chẳng dám khinh quý ngài, quý ngài đều sẽ thành Phật”.
Đoạn kinh văn trên dạy cho chúng ta điều gì? Các em có thể nhìn thấy Thường Bất Khinh Bồ-tát hiện thân như một vị đại lương y đứng trước những người bệnh nan y khốn khổ. Những người trông qua hình dáng bên ngoài của họ, cùng những thứ họ kể lể tưởng chừng như đang tuyệt vọng, nên họ đều nghĩ rằng mình đã vô phương cứu chữa. Họ đối với thân thể mình chẳng còn dám suy nghĩ hay mong đợi gì nữa, nên cũng có người sanh lòng chán nản và nói với nhau rằng: đã đến nước này sớm muộn gì cũng chết, thôi thì cứ xả láng ăn uống hưởng thụ cho đã rồi chết. Cho nên chẳng còn biết thương xót đối với bản thân mình nữa. Đến khi gặp được vị đại lương y, biết rõ được căn nguyên của bệnh và phương pháp cứu chữa. Nên quả quyết rằng các vị không sao cả, chẳng chết được đâu, chỉ cần điều trị thích đáng thì bệnh này có thể chữa khỏi, không nên phóng túng như vậy, cần kiêng cử theo yêu cầu thì bệnh nhất định lành. Nhờ vào sự quả quyết của vị đại lương y đó mà khiến cho những người bệnh sắp chết có lòng tin mãnh liệt, ý niệm cầu sanh sống dậy, họ y theo lời chỉ dạy của vị đại lương y mà được cứu khỏi. Ở đây cũng vậy, ngài Thường Bất Khinh Bồ-tát nói: “Các ngài đều tu hành đạo Bồ-tát và sẽ thành Phật”. Vì sao ngài phải nói những lời như thế? Vì do chúng sanh tự thấy mình là chúng sanh, cam phận làm chúng sanh, nên tự ti mặc cảm, rồi mặc tình phóng túng trầm luân tạo nghiệp. Đã thấy mình thấp kém lại tầm thường nên không tin rằng mình có khả năng làm Phật, để vươn lên đạt đến tuệ giác viên mãn như đức Thế Tôn. Cho nên nếu mình đủ gan dạ dám tin mình là Phật thì ngay đó mình làm Phật. Cổ đức nói: “Thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật”. Vì vậy chớ nên tự cho mình là thấp hèn rồi sống trong bê tha trụy lạc, đúng như câu: “Thân lươn bao quản lấm đầu” nghĩa là đã làm thân con lươn rồi thì còn lo ngại gì đến cái đầu bị lấm thêm bùn nữa, thì thật là oan uổng. Vì thế mà Lục Tổ Huệ Năng nói: “Vô minh bổn vô, bản giác bổn hữu”. Vì vô minh vốn không nên mới có thể trừ diệt, bản giác bổn hữu nên có thể thành tựu được tuệ giác như đức Thế Tôn.
Vì thế khi mang hoa sen trên người, các em phải biết tự sách tấn chính mình, ý nghĩa của hoa sen và biểu trưng của hoa sen là gì? Nó nhắc nhở chúng ta có đủ tất cả đức tánh cao đẹp như đức Phật không khác, chúng ta phải biết khéo vận dụng nó phải để phát huy tuệ giác cao độ của mình, phát huy tinh thần tự lợi, lợi tha của mình, để đem khả năng của mình thành tựu cho mình, giúp đỡ người khác, thành tựu cho người khác. Nhưng phải biết đó cũng chẳng phải việc dễ làm. Thí dụ như ngài Thường Bất Khinh Bồ-tát dù bị đánh ném mà ngài vẫn không sanh lòng hờn giận, vẫn hoài niệm từ bi thương xót kêu gọi, lay động cho mọi người biết được tánh đức tròn sáng sẵn có của mọi người, mà không biết nhàm mỏi. Ở đây chúng tôi dẫn dụ thêm phẩm Đề-bà-đạt-đa trong Kinh Pháp Hoa để các em thấy. Sự thành tựu tuệ giác của đức Thế Tôn thật chẳng phải bằng không mà có được, ngài có được phước báu vô lượng nên đời đời sanh ra và nhà tôn quý, hoặc bậc đế vương. Thế mà ngài đối với danh vị, quyền lợi, ngôi báu chẳng tham trước, chỉ một lòng cầu đạo giải thoát. Nên Ngài lìa bỏ địa vị đế vương, xả thân mình để cầu kinh Pháp Hoa, theo hầu vị Tiên Nhân trải qua 1000 năm đem thân làm giường ghế, lượm củi hái rau hầu hạ cho Tiên Nhân chỉ vì đạo Bồ-đề. Chúng ta noi theo tinh thần đó, thì không khó khăn nào, không có trở lực nào có thể ngăn cản nổi lòng dấn thân vì sứ mệnh, mục đích của chúng ta. Ở đây, đức Thế Tôn chia sẻ câu chuyện bổn sanh của mình không phải là để nói lên nỗi khó nhọc của mình khi cầu kinh Pháp Hoa, mà để nói lên tinh thần xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo. Và vì sợ chúng ta sẽ sợ hãi trước những khó khăn đó, nên liền ngay sau đó, đức Phật chia sẻ với chúng ta câu chuyện tiểu long nữ thành Phật. Để cho chúng ta thấy được sự diệu kỳ của Kinh Pháp Hoa, một khi liễu giải được thì không cần tốn một chút công phu, không cần thời gian, không luận thân tướng. Long nữ không chỉ là thân gái, tuổi nhỏ, mà còn lại là súc sanh nữa. Nên chuyện tiểu long nữ thành Phật như là tiếng sấm sét vang rền giữa trời không. Lúc bấy giờ cả ngài Trí Tích Bồ-tát và ngài Xá-Lợi-Phất cũng đều sanh nghi, vì thân nữ có 5 thứ chướng làm sao có thể thành Phật được. Nhưng một khi long nữ kia đã đạt được tuệ giác từ kinh Pháp Hoa, thì nàng ấy liền xả bỏ lòng tham ái nhiễm trước, thành tâm đem viên minh châu giá trị bằng cõi tam thiên đại thiên dâng lên cúng dường đức Thế Tôn. Tức thời biến thành nam tử, đủ hạnh Bồ-tát, liền qua cõi Vô Cấu ở phương nam, ngồi tòa sen báu thành Phật, đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, khắp vì tất cả chúng sanh trong mười phương mà diễn nói pháp mầu. Qua câu chuyện trên, các em thấy long nữ kia không chỉ riêng là thân gái, mà còn là súc sanh hãy còn làm Phật được thay, huống chi chuyện chúng ta nói đây nào phải to tát gì, chỉ là đào tạo, rèn luyện cho chính bản thân và biểu hiện làm gương cho các em khác noi theo, thành những Phật-tử chân chánh, góp phần phụng sự đạo pháp và xây dựng xã hội. Thì luận chi già trẻ, luận chi nam nữ mà tỵ hiềm sợ mình không gánh vác nổi.
Nói Với Các Em Oanh Vũ
Đến đây các em hiểu được chân giá trị của hoa sen rồi, biết được đức tánh đầy đủ vốn có của hoa sen, cũng tức là tánh đức đủ đầy của chính mỗi chúng ta. Và qua đoạn dẫn Kinh văn Pháp Hoa, tiểu long nữ kia là loài súc sanh mà còn có thể làm Phật, thì các em là người, có 6 căn: tai, mắt, mũi, miệng, thân và ý đầy đủ, lại được nương gần Tam-bảo, được quý anh chị, quý Thầy hướng dẫn Phật pháp cho nghe thì tại sao không dám tin mình sẽ thành Phật. Nếu có thể tin mình sẽ làm Phật, thì phải tập làm Phật. Làm Phật không luận già trẻ tuổi tác, không luận nam nữ, thảy đều có thể làm Phật, và các em có thể tập làm Phật ngay từ bây giờ. Các em có biết làm sao để tập làm Phật không? tập làm Phật thì phải học bắt chước theo Phật, phải đi như Phật, phải đứng như Phật, ngồi như Phật, nằm như Phật, nói năng hành động như Phật, và nhất là phải biết suy nghĩ như Phật. Thế nào là đi như Phật đi, Kinh nói: Phật đi như tượng vương, tức bước đi đều đặn và ngay ngắn như voi chúa, từng bước đi rất vững chãi, không nghiêng lệch, không rối, không loạn, không ngã về phía trước chẳng lệch về phía sau. Đứng phải như bảo trụ, ngay ngắn không ưỡn tới ngã lui. Ngồi thì thường xếp bằng cho ngay ngắn, không quạy cọ. Nằm nghiêng hông bên phải, cong như cây cung, hay giống như tướng nằm của sư tử chúa. Nói thì phải nói lời chân thật, không nói lời dối trá, không nói lời thô ác mắng nhiếc, không đem lời đâm thọc khiến người chia rẽ. Cư xử với người phải dùng lòng bình đẳng, không thiên vị. Mỗi lần làm việc gì phải luôn biết nghĩ đến người khác, không tính toán ích lợi riêng mình, làm tổn hại cho người, thương yêu tất cả mọi người, mọi loài mà không có lòng sát hại. Không gian tham trộm cắp, không cờ bạc, không trêu ghẹo người khác. Không dùng xì-ke, ma túy làm tổn thương mình, làm hại cho người. Luôn luôn nghĩ đến giúp đỡ cho người khác, khiến người đạt được tâm tỉnh giác hướng đến con đường giác ngộ, giải thoát. Bởi Phật nghĩa là đấng giác ngộ, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Những ai giác ngộ đều có thể làm Phật.
Các em chớ cho rằng mình còn nhỏ, rồi không thể làm gì. Còn nhỏ thì làm Phật nhỏ! thế nào là Phật nhỏ? tức ở nhà phải ngoan ngoãn, vâng lời cha mẹ, biết tự chăm sóc mình, giúp đỡ nhiều việc cần thiết khi cha mẹ cần, vì Phật là người con đại hiếu thảo với cha mẹ. Ở trường phải biết vâng lời Thầy cô giáo, học cho giỏi, bởi Phật là đấng đại trí tuệ, nên các em tập làm Phật cũng phải có đại trí tuệ, muốn có đại trí tuệ thì phải học cho giỏi mới được. Ra đường không sát hại loài vật, mà phải biết thương yêu chúng, vì Phật là đại từ bi, thương yêu tất cả. Bây giờ các em đã biết cách học làm Phật thế nào rồi, thì từ nay phải sống và hành động giống như một vị Phật con! Sen búp xin tặng người, một vị Phật khai sinh.
…Các anh chị em thân mến,… quý vị đã chịu khó đọc đến đây, thì xin hãy xem những dòng chữ này như là những lời tâm sự của người ở lớp đàn anh đi trước nhắn nhủ lại cho các em, cũng coi đây như là những niềm ưu tư khắc khoải của người đã đi qua, hy vọng ở nơi các em hiện đã và đang gánh trọng trách tiếp bước trên sứ mạng của mình, mong rằng các em làm được cái gì đó cho chính mình, cho mọi người. Làm được những điều đó, chính là không cô phụ chí nguyện ban đầu của mình, đã thực hiện được tinh thần mục đích mình nhắm đến, sống đúng với tinh thần từ bi của đức Phật, tự độ độ tha, tự hành hóa tha. Hy vọng những ai đọc được bài này, dù trực tiếp hay gián tiếp, hay đã từng sinh hoạt trong với GĐPT, xin nhắc nhở tự mình, cũng như có lời khuyến cáo đến với người khác đừng quên lý tưởng ban đầu, đừng quên đi mình đã từng là Phật tử. Xin tạm mượn lời thơ thô thiển để đúc kết lời nhắn nhủ:
Xin đừng làm ố hoa Sen trắng
Xin đừng làm bẩn Áo lam xinh
Xin đừng làm lệch nón Tứ ân
Xin đừng làm buồn Người mở lối.
Chúc tất cả anh chị em Gia Đình Phật Tử luôn thực hiện đúng với điều luật của mình, “... Phật tử sống trong sạch từ thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm. Phật tử sống hỷ xả để dũng tiến trên đường đạo.”