Ngoài việc dạy dỗ, rèn luyện đức hạnh người lại có lúc ân cần dịu dàng như người mẹ hiền ấp ủ cho chúng ta đỡ những lúc gió sương, vỗ về an ủi khi vấp ngã, lỗi lầm, săn sóc từng giấc ngủ bữa ăn, quan tâm đến những vui buồn của mọi người . Có khi cũng cứng rắn, nghiêm khắc như người cha, che chở cho ta những lúc bão giông, rầy la quở phạt khi chúng ta sai lầm, ương bướng, khi ta bước thấp bước cao gập ghềnh nghiêng ngã.
Nhưng dù ở hình thức nào thì cũng đều phát xuất từ tấm lòng thương tưởng của vị Thầy dành trọn vẹn cho những người học trò non nớt . Mong mỏi chúng ta trưởng thành để khỏi phụ cái chí hướng ban đầu mà chính chúng ta tự chọn. Vì vậy, Ôn đối với chúng con nghĩa cao như núi tình sâu như đại dương, ân nghĩa ấy chúng ta lấy gì đền đáp?
Người xưa nói: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”
Nghĩa là “Một chữ là thầy, nữa chữ cũng là thầy”, huống chi Ôn đã cho ta giới thân tuệ mạng, trọn vẹn một ân tình.
Thế mà hôm nay khi chúng con còn chưa hoàn thành quá trình tu học mà Ôn đã cất bước ra đi, vẫn biết cuộc đời là vô thường nhưng sao quá đột ngộ đến nỗi chúng con vẫn chưa thể tin đó là sự thật rằng Ôn đã ra đi mãi mãi, rời xa ngồi chùa, rời xa chúng con.
Đúng là khi mất đi con người ta mới thấy hối hận và thật sự chúng con hối hận rằng trước kia đã không nghe lời ôn, lì lợm phá phách, ồn ào.
Giá như thời gian có thể quay trở lại để chúng con không phải nuối tiếc vì những thứ đã qua, không phải nuối tiếc vì chỉ làm cho ôn thêm buồn thêm lo.
Ôn biết không, giờ đây ngay tại ngôi chùa này đâu đâu cũng toàn là hình bóng của ôn. Thời gian thật đáng sợ phải không ôn? Con sợ, sợ một mai con sẽ dần quên đi giọng nói của người, quên đi gương mặt hiền từ đầy khí chất trang nghiêm, thậm chí có thể mai này đây bóng dáng của ôn sẽ phai dần đi trong tâm trí của chúng con.Con sợ sẽ quên đi những lời dạy của ôn. Con sợ lắm, ôn ơi!
Dù biết dòng chảy thời gian sẽ bào mòn đi mọi thứ kể cả trí nhớ con người nhưng những kỉ niệm bên ôn chúng con sẽ luôn luôn khắc sâu trong tâm trí.
Giờ đã quá muộn để chúng con có thể làm gì cho Ôn, chúng con nhất định nghe theo lời Ôn dạy tu tập cho thật tốt, trở thành một người con ngoan trong gia đình, một người Phật tử Tinh tấn, một công dân có ích cho xã hội để mai đây khi Ôn nhìn xuống sẽ rất tự hào về chúng con.
Nguyện cầu Giác Linh Ôn Cao Đăng Phật Quốc
-----------------------------------------------
Nam mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Tứ Thế
Thời gian quả thật là nhanh như phi mã, chớp mắt một cái thôi mà đã hơn 100 ngày chúng con không còn thấy được bóng dáng Ôn, không được nghe những lời nói của Ôn.Nhiều lúc con nghĩ rằng đó chỉ là một giấc mơ, trong tâm thức chúng con Ôn chỉ như đang đi Hoằng Pháp ở một phương xa nào đó.
Người ta nói thời gian sẽ cuốn trôi tất cả, ấy thế mà mọi thứ về Ôn cứ ngỡ như chỉ là ngày hôm qua. Mọi thứ trôi đi một cách chớp nhoáng hay chỉ vì con ôm trọn hình bóng Ân Sư?
Có Câu:
“Sinh như thể đắp chăn bông
Tử như cởi áo hạ nồng khác chi
Xưa nay các pháp hữu vi
Không sao tránh khỏi biệt ly Vô Thường”
Ân dạy bảo của Ôn suốt cuộc đời hông sao quên được, nhưng mấy ai có thể biết được nhiều về cuộc đời của Ôn – 55 Năm Hoằng Hóa Độ Sanh.
Trong giờ phút Thiên liêng giữa những ngày những ngày Trung Thu, chúng con ngậm ngùi vân tập tại ngôi nhà tổ, thắp lên ngọn nến để cùng hoài niệm về cuộc đời Ôn – Người thầy đáng kính của chúng con.
...Trụ Ta Bà, xuân thu tám chục năm vừa đủ
Cộng chúng tu học, năm mươi lăm mùa hạ an cư.
Lý kinh nghĩa luật, tiếng pháp tỏ rõ ngọn ngành,
Tăng ni - tỳ khưu, thấm nhuần ân triêm công đức.
Chỉ lối mở đường, đưa chúng con về bảo sở,
Gia Đình Phật Tử tiếp nối cơ đồ - hộ pháp vương gia...
Ôn sanh vào ngày mồng 3 tháng 11 năm Tân Tỵ 1941 trong gia đình có truyền thống kính tin Tam Bảo, Tại Làng Cư Chánh – Hương Thủy , quê ngoại là làng Thế Chí Tây – Phong Điền, là con thứ tư trong gia đình có 7 anh chị em
Nhờ được học tập Giáo Lý của các bậc Cao Tăng, Ôn càng thâm nhập giáo lý vô thường của Phật đà.
Năm 19 tuổi, Ôn xin phép song thân được xuất gia, Quy Y với Cố Hòa Thượng Thích Mật Hiển – Trú Trì Chùa Trúc Lâm
Kể từ buổi sơ tâm xuất gia hướng Phật, Ôn đã nổ lực hôm sớm kệ Kinh, siêng năng học đạo, sau 3 tháng đã học thuộc hai thời công phu và bốn cuốn Luật tiểu.
Năm Nhâm Dần (1962), Nhận thấy Ôn là người đệ tử siêng năng chất phát, tính tình hoà nhã, thiết tha cầu đạo, nên Ôn đã được làm lễ thế phát và trao truyền Sa-di thập giới với Pháp danh Nguyên Tịnh, Pháp tự Lưu Thanh, thuộc đời thứ 44 dòng Thiền Lâm Tế và đời thứ 10 Thiền Phái Liễu Quán - Nam Hà.
Trong thời kì Pháp Nạn (thập niên 60 của thế kỉ XX) Từng có nhiều lần Ôn có duyên về quê của Thầy Lưu Huy là Làng Hà Cảng, được tiếp xúc với hành Phật Tử Hà Cảng nhất là đối với Gia Đình Phật Tử Hà Cảng.
Với tinh thần cần mẫn tiến tu, oai nghi đĩnh đạt xứng đáng bậc pháp khí đại thừa, Ôn đã được cho phép đăng đàn thọ Tỳ-kheo Bồ tát giới tại Đại giới đàn Vạn Hạnh tổ chức tại Tổ đình Từ Hiếu năm Ất Tỵ (1965).
Năm 1965-1966, với sức trẻ của mình, với bầu nhiệt huyết tràng đầy trí dũng của một đại đức trẻ trung mới hai mươi mấy tuổi, một lòng vì đạo pháp và dân tộc đã rạch ngực lấy máu của mình đòi quyển bình đẳng tôn giáo, quyền tự do tín ngưỡng dưới chế độ miền nam Việt Nam
Gần cuối năm Ất Tỵ (1965), Ôn là 1 trong 20 vị của phái đoàn Sứ giả Như Lai đi về các huyện để thành lập Khuôn hội và diễn giảng Phật pháp
Năm Đinh Mùi (1967), Ôn học tại lớp học Cao đẳng Phật học Liễu Quán nội trú trong 4 năm tại chùa Linh Quang.
Năm 1968, Ôn được mời về làm Bổn Sư Truyền Giới và Cố Vấn Giáo Hạnh GĐPT Đồng Quang – Phú Lộc
Giữa năm Kỷ Mùi (1969), Ôn được vào miền Nam theo học lớp bồi dưỡng Sứ giả Như lai và là 1 trong 15 vị được Giáo hội Thừa Thiên tuyển chọn.
Cuối năm 1969, sau khi theo học lớp bồi dưỡng giảng sư, Hoà thượng đã được cử đi thuyết giảng tại các vùng thuộc Cao Nguyên Trung Phần
Năm 1970, Ôn được cử về tỉnh Quảng Trị đảm nhận vai trò Giảng sư hoằng pháp phụ tá Cố Trưởng lão Hoà thượng Thích Chánh Trực
Từ năm 1972 – 1992, Ôn tiếp tục làm giảng dạy Phật pháp tại một số lớp học nội điển, các Đạo tràng tu học tại các tỉnh miền Trung.
Năm 1974, Sau khi Hòa Thượng Lưu Huy ra đời, Ôn một mình ra Hà Cảng, và từ đó Hòa Thượng gắng bó với GĐPT Hà Cảng và cùng các anh chị Huynh Trưởng GĐPT Hà Cảng lên kế hoạch cho buổi lễ "Công Nhận Chính Thức GĐPT Hà Cảng"vào ngày 6/9/Giáp Dần (20/10/1974) và Ôn cũng trở thành Cố Vấn Giáo hạnh của GĐPT Hà Cảng
Ngày Rằm tháng Tư năm Nhâm Thân, mùa Phật đản PL.2536 (1992) Đức Cố Đại Lão Hoà thượng Bổn Sư - Thích Mật Hiển viên tịch, Ôn trở về chốn Tổ cư tang
Khoảng năm 2009, Với hạnh nguyện Giáo Hóa của mình, Ôn Y Bát một mình ra ngôi Chùa quê Hà Cảng này, hướng dẫn tu tập cho hàng Phật Tử, hướng dẫn Quá Đường mỗi Mùa An Cư, và từ đó mỗi mùa hạ về, đệ tử chúng con GĐPT Hà cảng đều nhớ buổi trưa vân tập tại chùa, Qua Đường với Ôn
Con vẫn luôn biết rằng:
Với cuộc đời vì Đạo Pháp - Dân Tộc, vì Tương Lai Đạo Pháp là GĐPTVN, Ôn được cung thỉnh làm thành viên của Hội Đồng Tăng Già Chứng Minh (Hội Đồng Tăng Già Bản Thệ), và từng tham dự rất nhiều đợt trại, Đại Hội Huynh Trưởng của GĐPTVN Truyền Thống.
Vào ngày Mùng 3 tháng 10 năm Mậu Tuất Ôn được cung thỉnh lên ngôi vị Phương Trượng Tổ đình Trúc Lâm
Mùa Phật Đản cuối cùng của Ôn là Mùa Phật Đản PL2564 tại Chùa Hà cảng khi mà Bệnh tình của Ôn vẫn còn rất nặng, chân vẫn rất đau, và trí nhớ của Ôn đã kém dần
Dòng thời gian dần trôi, nhật nguyệt đắp đổi, bước chân Ôn ngày càng mệt mỏi, thân tứ đại hiện lý vô thường.
Ôn Khai Hạ cho Đạo Tràng Chùa Hà Cảng vào ngày rằm tháng tư nhuận, sau đó bệnh tình trở nặng, Ôn về Trúc Lâm và nói mai mốt sẽ về lại Hà Cảng và ngày hôm đó Ôn đã đi mãi với Ngôi Chùa hà Cảng Chúng Con và Ôn vẫn còn rất nhiều dự định.
Sau thời gian lâm bệnh, mặc dầu đã được sự tận tình lo lắng săn sóc chư tăng ni và chúng đệ tử cũng như sự nhiệt tâm chữa trị của quý vị Y Bác sĩ nhưng do tuổi cao sức yếu, Ôn đã thuận thế vô thường thâu thần viên tịch đúng vào lúc 11giờ 45 phút ngày 28 Tháng Tư Nhuận năm Canh Tý (nhằm ngày 19.06.2020), tại Tổ đình Trúc Lâm trụ thế 80 năm, 55 Hạ lạp.
Những tưởng:
Cơn trọng bệnh sẽ qua – cho tuổi đời trăm năm tròn đủ
Sẽ tiếp tục – thắp đuốc soi đường dẫn hậu lai
Đạo đời viên dung – sứ mạng hoằng dương chánh pháp