I – Tam Quy
A. Dẫn nhập:
Một đứa con khờ dại hư đốn lìa bỏ cha mẹ đi hoang, sống đời phiêu bạt lang thang. Một phút giây nào đó, hồi tỉnh muốn quay về sống trong sự ấp ủ yêu thương của cha mẹ. Sự quay về này chính là thái độ tỉnh giác, dứt khoát làm lại cuộc đời, một cuộc đời tươi sáng trong tình thương và sự dìu dắt của cha mẹ. Tất cả chúng ta cũng là những đứa con phiêu lãng ấy, lâu nay chưa nhận ra được sự khờ dại của mình, mãi miết lang thang, đắm chìm trong chốn khổ đau. Biết chăng có người hằng thương yêu chúng ta, hằng mong mõi đưa chúng ta đi trên con đường tươi sáng không vướng bận phiền não đau thương. Phút chốc, tỉnh giác muốn trở về với NGƯỜI, hoặc có kẻ thức tỉnh chúng ta để chúng ta quay về nương tựa NGƯỜI. Ðó chính là sự QUY Y.
B. Chánh đề:
I. Quy y:
1. Thế nào là quy y? Quy là trở về, Y là nương tựa. Quy y là trở về nương tựa.
2. Quay về nương tựa đâu? Quay về với cội nguồn của mình. Quay về với người hằng yêu thương mình, yêu thương tất cả chúng sanh, muốn dẫn dắt chúng sanh đi vào con đường tươi sáng, hạnh phúc.
3. Vì sao chúng ta phải quay về? Chúng ta sống đầy mê mờ, dục vọng; đang lặn hụp trong chốn bùn nhơ, trôi lăn trong đau thương phiền não. Mà bản thể chúng ta từ vô thủy vốn thanh tịnh sáng suốt nhưng vì vô minh, vọng tưởng nên bị quay cuồng trong sanh tử đau thương. Chúng ta phải quay về với cội nguồn của chúng ta, quay về với ba ngôi quý báu nhất, gọi là Tam Bảo, mà lâu nay chưa biết đến.
II. Tam bảo:
1. Thế nào là Tam Bảo?
Tam bảo là ba ngôi quý báu tột bực quý hơn cả những gì quý báu nhất của thế gian (vàng bạc, ngọc ngà, danh vọng…) Vì những gì quý báu nhất của thế gian đâu có cứu được con người ra khỏi khổ não đau thương. Chỉ có ba ngôi này mới dìu dắt được con người, đưa con người thoát khỏi khổ đau. Ba ngôi đó là:
a. Phật: Tiếng phạn bà Bouddha, Tàu dịch là Giác giả là bậc vô cùng sáng suốt, hoàn toàn dứt hết dục vọng, dứt hết tham sân si nên an lạc trọn vẹn gọi là “tự giác”. Ngài đem sự giác ngộ ấy tuyền đạt lại cho mọi người để mọi người thực hành, để ai cũng được an lạc như Ngài, gọi là “giác tha”. Cả hai công hạnh ấy Ngài đã thực hiện một cách tích cực và trọn vẹn, gọi là “giác hạnh viên mãn”. Nói gọn lại, đức Phật là bậc Tự giác, Giác tha, Giác hạnh viên mãn. Người đời còn tôn xưng là đấng Ðại Giác. Chỉ có đức Phật mới dẫn dắt chúng ta ra khỏi đau khổ phiền não nên Phật là ngôi quý báu nhất.
b. Pháp: Tiếng Phạn là Dharma, phương pháp tu hành mà Phật đã dạy để trừ bỏ dục vọng. Là những chân lý mà Ngài đã chứng ngộ được (như Tứ đế, Vô Ngã, Vô Thường, Duyên Sinh…). Pháp gồm có:
1. Kinh: Là lời của đức Phật (hoặc các vị Bồ tát vâng lệnh theo lời Phật mà nói), như Kinh Bát Nhã, kinh Lăng Nghiêm …
2. Luật: Là những giới luật do đức Phật chế ra cho các thành phần xuất gia, tại gia, vâng theo đó mà tu tập, như 5 giới của Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, 10 giới của Sa di, 250 giới của Tỳ kheo, 348 giới của Tỳ Kheo Ni v.v…
3. Luận: Là lời luận giải về kinh điển của các vị Tổ sư, nói rộng các yếu nghĩa trong kinh cho chúng ta dễ hiểu. Như Luận Khởi tín, Luận Nhân Minh v.v…
Nhờ Pháp mà chúng ta hiểu được chơn lý, vận dụng để tu tập, trừ khổ được vui, dần dần chứng ngộ, giải thoát nên Pháp là quý nhất trên đời.
c. Tăng: Nói cho đủ là Tăng già, tiếng Phạn là Shanga, Tàu dịch là Hòa hợp chúng; là một đoàn thể xuất gia tu hành theo đạo Phật, gồm 4 người trở lên sống theo 6 phép hòa kính (Lục Hòa).
Ðây là một tập thể cách ly gia đình, sống theo lời Phật dạy, giữ gìn giới luật, oai nghi, luôn luôn nghiên cứu kinh điển, làm gương sáng cho mọi người. Nhờ quý vị này mà giáo lý của đức Phật (Pháp) được bảo tồn và cũng chính nhờ những vị này truyền lại giáo lý cho chúng ta sau khi đức Phật nhập diệt. Như vậy, chính nhờ quý vị Tăng già mà ta mới biết được Phật, biết được Pháp; biết được con đường giải thoát giác ngộ. Cho nên Tăng là ngôi quý báu nhất đối với chúng ta, những người thiết tha với sự tu tập giải thoát.
2. Các định danh Tam bảo:
a. Ðồng thể Tam bảo:
Mỗi chúng sanh đều có bản tánh thanh tịnh, sáng suốt; đều có khả năng giác ngộ, gọi là Phật tánh. Nhưng vì vô minh che lấp nên Phật tánh không thể hiện ra được. Vì mỗi chúng sanh đều có Phật tánh nên chúng sanh cùng như chư Phật đồng chung một thể tánh, gọi là “Ðồng thể Phật bảo”.
Các giáo pháp không phải đức Phật đặt ra mà đó là chơn lý đức Phật chứng ngộ. Ðó là một thực tế hiển nhiên mà trí tuệ đức Phật đã nhìn thấy, thực tế đó là mọi sự vật, mọi hiện tượng trong vũ trụ, trong thế gian này, gọi là thế gian pháp. Chính từ thế gian pháp này làm đối tượng tư duy mà đức Phật đã giác ngộ chân lý nên người ta cũng thường nói: “Phật pháp bất ly thế gian pháp”.
Mỗi chúng sanh cũng là một trong vạn pháp của thế gian. Vì vậy, chúng sanh cũng là “Ðồng thế gian pháp bảo”. Ngày xưa, đức Phật cùng với Tăng chúng cũng sống trong lục hòa, đức Phật cũng là một vị Tăng già. Mỗi chúng sanh nếu xuất gia nghiệm thi giới luật dòng tam lục bảo cũng là một vị tăng già, tất cả chúng sanh cùng đức Phật đồng một thế gian thì chúng sanh cũng là “Ðồng thế Tăng bảo”.
b. Xuất thế gian Tam bảo:
Ðức Phật Thích Ca cũng như chư Phật trong mười phương đã tự giải thoát ra khỏi sự ràng buộc của thế gian, gọi là “Xuất thế gian Phật bảo”.
Chánh pháp của đức Phật có công năng làm cho chúng sanh thoát khỏi sự ràng buộc của thế gian nên gọi là “Xuất thế gian Pháp bảo”.
Các vị Thánh Tăng đã chứng ngộ thoát ra ngoài sự ràng buộc của thế gian như đức Quán Thế Âm, đức Văn Thù v.v… gọi là “Xuất thế gian Tăng bảo”.
c. Thế gian trụ trì Tam bảo:
Tức là Tam bảo hiện có trong thế gian:
§ Thế gian trụ trì Phật bảo: Xá lợi của Phật, các tượng Phật đúc hoặc vẽ…
§ Thế gian trụ trì Pháp bảo: Ba tạng kinh điển in chép bằng sách, vở hiện có trong thế gian.
§ Thế gian trụ trì Tăng bảo: Chư vị Tỳ Kheo chân chánh, giới luật trang nghiêm hiện tại.
3.Sự tướng quy y Tam bảo:
Sau khi hiểu rõ ý nghĩa quy y Tam bảo và nhận thấy cần có sự “quy y” tức là nguyện trở về nương tựa vào Phật Pháp Tăng để thăng hoa cuộc sống của chúng ta, để tu tập đi dần đến giải thoát giác ngộ, thì chúng ta cũng phải có buổi lễ đánh dấu biến chuyển lớn trong cuộc sống chúng ta, tức là “Lễ Quy Y”.
Chúng ta chọn một vị Tăng giới hạnh trang nghiêm, uyên thâm giáo pháp làm bổn sư cho chúng ta. Vị này chủ trì buổi lễ quy y. Trong buổi lễ quy y, chúng ta có phát nguyện: “Ðệ tử phát nguyện: Trọn đời quy y Phật, Trọn đời quy y Pháp, Trọn đời quy y Tăng”. Tiếp đó, cũng phát nguyện một cách thành khẩn:
§ Ðệ tử quy y Phật, nguyện trọn đời không quy y Thiên thần, quỷ vật.
§ Ðệ tử quy y Pháp, nguyện trọn đời không quy y ngoại đạo tà giáo.
§ Ðệ tử quy y Tăng, nguyện trọn đời không quy y tổn hữu, ác đảng.
(Thường kèm với lễ quy y có thọ trì 5 giới).
Sau khi phát nguyện quy y thì hằng ngày phải nhớ đến lời phát nguyện của mình:
- Luôn nhớ nghĩ đến đức Phật, nhớ nghĩ đến công hạnh của Ngài. Phải chí tâm lễ bái.
- Hàng ngày tụng đọc kinh, luật, luận (Luật ở đây là 5 Giới mà chúng ta đã phát nguyện thọ trì), luôn luôn học hỏi, suy gẫm giáo lý. Và cốt nhất là phải thực hành giáo lý trong cuộc sống của chúng ta. PHẢI TỤNG GIỚI (TẬP THỂ HAY CÁ NHÂN) MỖI THÁNG 1 HAY 2 LẦN.
- Chúng ta phải tôn kính chư Tăng. Hằng ngày tới lui thăm viếng các vị bổn sư của chúng ta, có điều gì vướng mắc trong cuộc sống cũng nhờ vị bổn sư chỉ dạy để có những ứng xử hợp giáo pháp. Những thắc mắc về giáo lý, nhờ vị bổn sư giảng giải để hiểu được tường tận. Xem vị bổn sư như người cha tinh thần của chúng ta. Chúng ta phải cúng dường chư Tăng (hay ít ra là vị bổn sư chúng ta) những phẩm vật, thuốc men hay đồ dùng để chư Tăng có đủ phương tiện tu hành.
4.Lý tánh của quy y Tam Bảo:
Tinh tấn làm những công việc trên hàng ngày cũng chưa đủ, ta cần luôn tự nhắc cho mình ý nghĩa của quy y Tam bảo và luôn luôn nhớ về “Ðồng thế Tam bảo”. Như trong “Ðồng thế Tam bảo” ta đã thấy rõ: Tam bảo đều có trong mỗi chúng ta, vì vô minh che lấp, chúng ta mãi đuổi theo dục vọng, sống cuộc sống đầy tham, sân, si. Vậy, quy y Tam bảo cũng còn có ý nghĩa quay trở về với tự tánh của chúng ta.
Tự quy y Phật: Tự trở về với Phật tánh của mình. Mỗi khi những đám mây vô minh được quét sạch thì mặt trăng trong sáng của Phật tánh sẽ được hiện rõ.
Tự quy y Pháp: Trong tâm ta cũng có đủ các Pháp (cụ thể như từ bi, trí tuệ, tinh tấn, hỷ xả v…) ta trở về với bản thể của chúng ta, phát huy những pháp tánh hằng có ấy trong mỗi chúng ta, lại nữa, những giáo pháp mà chúng ta đã học đã hiểu thì giáo pháp đó đã khắc sâu trong tâm chúng ta, chúng ta luôn luôn đem thực hành trong đời sống.
Tự quy y Tăng: Trở về nương tựa ông thầy trong tâm chúng ta. Tăng già là thể hiện sự hòa hợp, thanh tịnh, tự tại. Trong tâm chúng ta cũng sẵn có nhưng vì mê mờ chúng ta không thấy được, nay nhờ đức Phật chỉ dạy, ta mới trở về nương tựa ông thầy gần gũi ta nhất.
C. Kết luận:
Chúng ta đã hiểu ý nghĩa của Quy Y Tam Bảo, chúng ta cũng đã nhận thức được. Chỉ có nương tựa vào Tam bảo mới có thể thăng hoa cuộc sống, mới có thể giải thoát được khổ đau, tiến dần đến an vui, tự tại thì người Phật tử chúng ta phải quy y Tam bảo, nhưng phải đủ cả Lý lẫn Sự. Không nên hoàn toàn chỉ quy y Tam bảo bên ngoài mà quên mất Tam bảo của tự tâm chúng ta, nhưng cũng không vì thế mà rơi vào tự tôn, nếu tự tôn thì cũng gần kề với ngã mạn và ngã mạn cũng lại là cái lưới vô minh đưa chúng ta trong trầm luân thống khổ.
Câu hỏi:
1. Tại sao phải làm lễ quy y? Mục đích của lễ quy y là gì?
2.Tại sao chúng ta phải quay về nương dựa Tam Bảo? Cái gì đã đưa chúng ta vào phiền não?
3. Phân biệt Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng với Tự quy y Phật, tự quy y Pháp, tự quy y Tăng?
4. Lý tướng và sự tướng khác nhau thế nào? Theo anh chị thì tướng nào quan trọng hơn? Giải thích?
---o0o---
II - Ngũ Giới
A. Ðịnh nghĩa:
Ngũ giới là năm điều răn cấm mà đức Phật đã chế ra, để ngăn những ý tưởng ác, nói năng chẳng lành, hành động bất chánh. Năm điều răn ấy là:
1. Không được giết hại.
2. Không được trộm cắp.
3. Không được tà dâm.
4. Không được nói dối.
5. Không được uống rượu.
Sự giữ Giới hay không giữ Giới là hoàn toàn do chúng ta tự liệu lấy. Ðạo Phật khác với các tôn giáo khác chính là ở điểm: Ðức Phật không phải là một quan Tòa tối cao giữ quyền thưởng phạt. Một ý nghĩ, một lời nói, một hành động tốt hay xấu chính đã mang theo nó một cái mầm thưởng phạt rồi.
Ðức Phật chỉ là một vị dẫn đường rất từ bi và rất sáng suốt. Ngài chỉ cho chúng ta con đường nào là con đường sáng và con đường nào là con đường tối nguy hiểm không nên đi. Nếu chúng ta không theo con đường sáng mà lại mù quáng đi vào con đường tối tăm nguy hiểm thì tất nhiên chúng ta sẽ gặp tai họa, chứ Phật không tạo ra tại họa để trừng phạt chúng ta.
Năm giới chính là năm thành trì ngăn chận cho ta đừng đi lạc vào đường ác, là năm hàng rào ngăn chận cho ta khỏi rơi xuống vực sâu, trong khi ta đi trên đường giải thoát.
A. Năm giới:
1. Không được giết hại:
Ðiều răn cấm thứ nhất mà Phật khuyên chúng ta là không được giết hại sinh mạng từ loài người cho đến loài vật, sinh mạng có một giá trị quý báu, nhất là mạng người; giết sinh mạng kia để bồi dưỡõng sinh mạng này là không hợp lý, là một điều ác. Phật giáo cấm sát sanh bởi nhiều lý do:
a. Tôn trọng sự công bằng:
Chúng ta ai cũng coi sinh mạng mình là quý, là một của báu tuyệt đối. Nếu ai mưu hại là mình chống trả triệt để để bảo vệ sinh mạng. Mình đã quý trọng sinh mạng mình, tại sao lại chà đạp sinh mạng người khác? Phật dạy: ” … ai cũng sợ chết. Vậy nên lấy lòng mình suy lòng mình suy lòng người, chớ giết, chớ bảo giết”.
b. Nuôi dưỡng lòng từ bi:
Lòng từ bi của đức Phật xem mọi loài như con, nên Ngài không đồng ý cho đệ tử Ngài sát hại sanh vật, bất cứ trong trường hợp nào. Bởi vì đem tâm giết hại sinh mạng là lòng độc ác đã cao độ, tâm từ bi bị bóp chết. Nhẫn tâm vô cớ giết một con vật, tính bạc ác không kém giết một con người. Nghe tiếng kêu la của con vật, không nở ăn thịt nó, thấy nó sống không đành thấy nó chết. Vậy người có lòng từ bi không nở ăn thịt hay không nở giết hại người hay loài vật.
c. Tránh quả báo ứng oán căm thù:
Khi giết một người hay một con vật, thì sự oán hận của họ tràn trề khó dập tắt được. Bởi vì có thể, vì yếu đuối nên bị ta giết hại. Hơn nữa gây nhân giết hại thì chỉ lấy quả báo bị giết hại.
*Lợi ích của sự không giết hại: Vì những lý do trên, đức Phật cấm đệ tử không giết hại, đồng thời không giết hại sẽ có những điều lợi sau đây:
a. Về phương diện cá nhân:
Một người không tàn nhẫn sát nhân, hại vật, không độc ác làm đổ máu thì lòng không bức rức, hối hận, thân tâm được nhẹ nhàng thư thới, giấc ngủ được an lành, nét mặt được hiền hòa trong sáng.
b. Về phương diện xã hội:
Nếu tất cả nhân loại trên thế giới đều giữ gìn đúng giới thứ nhất của Phật dạy thì chiến tranh sẽ không có mà các nghiệp sanh tử luân hồi cũng được giải thoát. Cho nên xưa có câu:”Nhất thiết chúng sanh vô sát nghiệp. Thập phương hà xứ động đao binh. Gia gia hộ hộ đồng ta thiện. Thiên hạ hà tư bất thái bình”. Dịch nghĩa: Hết thảy mỗi chúng sanh không nghiệp sát. Mười phương nào có nỗi binh đao. Mỗi nhà mỗi chốn đều tu thiện. Lo chi thiên hạ chẳng thái bình.
2. Không được trộm cắp:
Ai cũng biết trộm cắp là lấy những vật thuộc quyền sở hữu của người khác, mà không có sự ưng thuận hay cưỡng ép người ta ưng thuận bằng võ lực hay quyền hành. Phật cấm trộm cắp vì những lý do sau đây:
a. Tôn trọng sự công bằng:
Chúng ta không muốn ai lấy của mình, tại sao mình lại chăm chăm muốn đoạt của người? Quyền sở hữu của ta, ta biết tôn trọng thì tại sao lại chà đạp lên quyền sở hữu của người? Làm như thế là trái lẽ công bằng. Một xã hội thiếu công bằng thì không thể tồn tại lâu dài.
b. Nuôi dưỡõng lòng từ bi:
Mỗi khi vô ý đánh mất một vật gì hay một số tiền, ta buồn khổ, ăn không ngon, ngủ không yên; tại sao ta lại nở nhẫn tâm lấy của người, để cho người khác phải khóc than, đau khổ vì ta? Không làm cho người khác đau khổ là nuôi dưỡng lòng từ bi
c. Tránh nghiệp báo oán thù:
Trong xã hội có tổ chức, tôn trọng lẽ công bằng, thì tội trộm cắp bao giờ cũng bị trừng phạt. Khi bị bắt, kẻ trộm cướp phải tìm trăm phương ngàn kế để trốn thoát, sống chui rúc trong bóng tối. Khi bị bắt phải bị tra khảo, ngồi tù, nhốt khám. Phận mình đã đành cực thân, khổ trí; lại làm cho gia đình, cha mẹ, vợ con cũng buồn rầu khổ sở xấu hổ và mất hết cả hy vọng ở tương lai. Nếu không bị luật thế gian trừng trị, thì người trộm cắp cũng không tránh khỏi luật nhân quả nghiệp báo, không sớm thì muộn cũng bị mất cắp lấy trộm. Hơn nữa, Phật dạy: Người tham luyến sắc tài không chịu rời bỏ, cũng như đứa bé luyến tiếc một chút mật trên lưỡi dao, thè lưỡi liếm, phải bị cái họa đứt lưỡi (Kinh Tứ Thập Nhị Chương).
d. Xây dựng xã hội thanh bình:
Một xã hội không có kẻ cắp trộm, người người sống an ổn không phập phồng lo sợ là một xã hội thanh bình.
3. Không được tà dâm:
Tà dâm là muốn nói về sự dâm dục không đoan chính, luật dạy người xuất gia ly tục phải dứt hẳn dâm dục, còn người tại gia thì không được tà dục. Khi đã có cưới hỏi thì gọi là chính, ngoài ra lén lút, lang chạ, phi pháp gọi là tà. Nói một cách vi tế hơn, thì phàm những sự đam mê người khác phái, nghĩ ngợi bất chính, chơi bời lã lơi, cũng đều thuộc về loại tà dâm cả. Phật cấm tà dâm vì những lý do sau đây: Tôn trọng sự công bình, bảo vệ hạnh phúc gia đình, tránh oán thù và quả báo xấu xa. Lợi ích về sự không tà dâm:
a. Về phương diện cá nhân:
Kinh Thập Thiện nói, người thế gian không tà hạnh thì được hưởng 4 điều lợi ích: Sáu căn đều được vẹn toàn Trọn đời được người kính trọng Ðoạn trừ hết cả phiền lụy quấy nhiễu Cuộc tình duyên trọn đời không ai dám xâm phạm.
b. Về phương diện xã hội:
Trong một xã hội mà ai cũng không tà hạnh thì gia đình được yên vui, những sự luân thường bại lý sẽ tiêu tan, những cảnh thù hiềm chém giết không xảy ra, con cái được chăm sóc chu đáo, được hưởng tình thương trọn vẹn của cha mẹ, xã hội sẽ cường thịnh. Nói tóm lại, cõi ta bà ô trược, đau khổ này sẽ biến thành thế giới thanh tịnh an vui.
4.Không được nói sai sự thật:
Nói sai sự thật có 4 cách: Nói dối, Nói hai lưỡi, Nói thêu dệt, Nói lời hung ác.
a. Nói dối hay nói láo là nói không thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có, việc phải nói trái, việc trái nói phải, hoặc giả trước mặt khen tốt sau lưng chê mạt. Tóm lại, ý nghĩ với lời nói, việc làm với lời nói trước sau mâu thuẫn trên dưới khác nhau, trong ngoài bất nhất, đều thuộc về nói dối cả.
b. Nói thêu dệt: là việc ít xít cho nhiều, làm cho người nghe nổi sân hận, hoặc trau tria lời nói, chuốt ngọt giọng hay cho êm tai mát dạ để cám dỗ người nghe; cũng có khi nói biếm, nói châm, nói chích làm cho người nghe phải khổ sở. Tóm lại, bao nhiêu lời nói không đúng nghĩa chân thật, thêm bớt, đều gọi là nói thêu dệt cả.
c. Nói hai lưỡi: Thành ngữ Việt Nam gọi là “Ðòn xóc nhọn hai đầu”. Nghĩa là đến chỗ này thì hùa với bên này để nói xấu bên kia, đến bên kia thì hùa với bên kia để nói xấu bên này, làm cho bạn bè đang thân nhau trở lại chống nhau, oán thù nhau.
d. Nói lời hung ác: Là nói những tiếng thô tục, cộc cằn, chưỡi rủa, làm cho người nghe phải đau khổ, buồn rầu, sợ hãi.
*Phật cấm nói sai sự thật vì những lý do sau đây:
a. Tôn trọng sự thật: Người theo đạo Phật phải tôn trọng sự thật. Người quen nói dối không thiết tìm sự thật thì khó có thể chứng quả được.
b. Nuôi dưỡng lòng từ bi: Cái động lực chính của sự nói dối là lòng ích kỷ, ác độc, muốn hại người để thỏa lòng dục vọng đen tối của mình. Người bị lừa dối sẽ chịu khổ vì mình, có khi phải mắc thù vương oán, có khi phải tan gia bại sản. Người tu hành như thế là đã tán tận lương tâm, không những đã bóp chết tình thương của mình mà còn làm đổ nát tình thương trong lòng người. Một khi lòng từ bi không còn nữa, sự chân thật không còn cần thiết nữa, nghĩa là động lực chính đã mất, thì sự tu hành chỉ còn là giả dối.
c. Bảo tồn sự trung tín trong xã hội: Trong một gia đình, một đoàn thể, một xã hội mà không ai tin ai thì mọi công việc từ nhỏ đến lớn đều thất bại và không thể nào sống hòa hợp với nhau.
d. Tránh nghiệp bào khổ đau: Lời nói tuy không phải là lưỡi kiếm, nhưng nó nguy hiểm hơn lưỡi kiếm, vì nó có hai mũi nhọn, một mũi đâm vào người khác, một mũi đâm vào chính mình.
Phật dạy: “Phù sĩ xử thế phú tại khẩu trung, sở dĩ trảm thân do ký ác ngôn” (nghĩa là: Phàm kẻ ở đời, lưỡi quá bén nằm trong miệng, sở dỉ chém mình là do lời nói ác). Ðã đành nói ly gián, nói xuyên tạc là để hại người thì thế nào cũng hại lại mình. Ác lai ác báo là thế. Ðể tránh sự thù oán, chúng ta không nên dối trá, điêu ngoa.
Lợi ích của sự không nói dối:
a. Về phương diện cá nhân: Ðược người trọng nễ, tin cậy, không ai oán hận thù hiềm. Trong nghề làm ăn, người chân thật được nhiều thân chủ và được tin cậy giao phó cho nhiều trọng trách.
b. Về phương diện quần thể: Gia đình, xã hội đoàn kết trong sự tin cậy, không ai oán hận thù hiềm, anh em thương yêu thông cảm nhau hơn.
5. Không được uống rượu:
Tất cả những thứ có chất men làm say người hay chất độc hại người đều không được dùng. Chính mình không uống đã đành, mà cũng không được ép nài người khác uống. Ép nài, khuyến khích người khác uống tội lại nặng hơn cả chính mình uống nữa. Lúc lâm bệnh nặng, uống các thứ thuốc không lành. Thầy thuốc bảo phải dùng rượu hòa với thuốc, thì tạm dùng được, nhưng trước khi dùng phải bạch cho chúng Tăng biết. Khi hết bịnh, không được tiếp tục uống thuốc có hòa với rượu nữa.
Phật cấm uống rượu vì những lý do sau đây:
a. Bảo toàn hạt giống trí tuệ:
Rượu còn nguy hiểm hơn thuốc độc. Một chén thuốc độc ta uống vào chết ngay, nhung chỉ chết một thân hiện tại, chớ uống rượu vào làm mất giống trí tuệ, phải chết đi sống lại vô số kiếp. Vì thế, để bảo tồn hạt giống trí tuệ quý báu, Phật cấm uống rượu. Chúng ta cũng thấy thực tế những người say rượu mất cả lý trí, nói xàm, nói bậy, hành động hung ác. Có khi đâm chém nhau.Ngày nay, khoa học cũng chứng minh rượu đốt cháy những tế bào thần kinh.
b. Ngăn ngừa những nguyên nhân sanh ra tội lỗi:
Uống rượu, chính nó không phải là một tội lỗi như sát sanh, trộm cướp, nhưng nó có thể làm động lực cho những tội lỗi nào cũng có thể phạm được. Dưới đây là một câu chuyện để chứng minh điều đó:
Một thanh niên nọ, không biết sao đã làm cho một hung thần phẩn nộ đòi giết anh ta. Anh ta van xin thần tha cho tội chết, vì anh còn một mẹ già không ai nuôi dưỡng, chàng sẵn sàng nhận lãnh một hình phạt khác. Vị hung thần bảo:
” Vậy người phải về nhà giết mẹ ngươi, ta sẽ trả mạng sống cho ngươi.” Anh ta van xin:
“Con chỉ có một bà mẹ già yêu quý nhất trong đời. Mẹ con đã suốt đời khổ cực, hy sinh cho con. Làm thế nào con có thể giết được? Xin ngài cho một hình phạt khác. ”
“Ngươi hãy về nhà châm lửa đốt nhà ngươi.”
‘Vậy thì mẹ con còn chỗ nào nương trú? Con thì không kể nhưng mẹ con già nua làm sao chịu nổi với sương gió năng mưa? Xin ngài ban ân, cho một hình phạt khác.”
“Bây giờ ta cho ngươi một hình phạt rất đơn giản: Ngươi hãy uống hết bình rượu này.”
Chàng thanh niên nghĩ rằng: Việc này thì dễ dàng, dẫu có say đi nữa cũng chẳng sao. Sau đó, quả thật anh say tít chẳng còn biết gì nữa, trở về châm lửa đốt nhà, bà mẹ chạy ra níu kéo lại, anh đẩy mẹ ngã vào lửa, chết thiêu. Khi tỉnh dậy, đau đớn quá, mẹ đã chết, nhà không còn nên anh tự tử theo mẹ. Thế là chỉ nhận một hình phạt nhẹ nhàng uống hết một bình rượu mà lại đã nhận thêm một lúc ba hình phạt: giết mình, giết mẹ, đốt nhà. Ngoài ra rượu còn làm mất tư cách con người.
Người uống rượu vào thì nói năng bừa bãi, nham nhỡ, đi đứng xiêu vẹo, khi say quá thì té nhào xuống đất … không còn tư cách gì cả. Tóm lại rượu gây ra nhiều tội lỗi.
Sau đây là 10 điều tai hại của uống rượu mà trong kinh đã nói:
1. Tăng trưởng lòng giết hại
2. Trí tuệ kém dần.
3. Sự nghiệp chẳng thành.
4. Thâm tâm nhiêu khê.
5. Thân hay tật bệnh.
6. Tâm sầu hận, bồng bột, ưa cãi lẫy.
7. Phước đức tiêu mòn.
8. Tuổi thọ giảm bớt.
9. Mạng chung đọa vào địa ngục
10. ………..
Lợi ích của sự không uống rượu:
a. Về phương diện cá nhân: (Người không uống rượu thì tránh được 10 điều hại kể trên):
1. Vun trồng được hạt giống trí tuệ.
2. Tâm trí được tỉnh táo.
3. Giữ gìn được sức khoẻ, tránh bệnh tật.
b. Về phương diện quán thể: Gia đình được yên vui, con cái ít bệnh tật, xã hội được an hòa, nòi giống được hưng cường.
B. Kết luận:
Chúng ta đã thấy rõ: Giới chính là để “Phòng phi, Chỉ ác” (ngăn ngừa những hành động phi pháp, những ý nghĩ độc ác), chính đó là căn bản của giải thoát. Người tu theo đạo Phật nói chung, người Huynh trưởng nói riêng phải tinh tấn hành trì Giới luật, vừa là để trở thành một con người có nhân cách, hiền thiện làm gương cho đàn em; vừa để tiến dần đến giải thoát cho tự thân. Không những thế, nếu mọi người trong xã hội ai ai cũng thực hiện 5 Giới này thì quốc gia nào mà không phồn thịnh, xã hội nào lại không hòa bình.
Câu hỏi:
1. Theo anh chị, năm giới cấm được sắp xếp như thế nào để đúng vị trí của nó? Cho giải thích?
2. Có người bảo, vì cuộc sống hàng ngày của chúng ta, sự việc giữ giới “Không sát sanh” là một giới không thể nào giữ được. Do đó, chúng ta chỉ cần giữ giới này trong giới hạn “con người” thôi, có nghĩa là chúng ta không giết người là được rồi ! Theo anh chị nghĩ thế nào? Và cũng theo anh chị thì làm sao giữ được giới không sát sanh?
3. Phân biệt tà dâm và dâm dục?
4. Có người đề nghị, trong các buổi lễ quy y cho các em oanh vũ, chúng ta nên cho các các em phát nguyện giữ 3 giới (không sát sanh, không trộm cắp, không nói dối) thôi, còn lại hai giới (không tà dâm, không uống rượu) thì nên để các em đến bậc Thiếu mới phát nguyện. Anh chị nghĩ sao?
---o0o---
III - Năm Hạnh
A- Dẫn nhập
Các đức Phật, các vị Bồ tát đều có đầy đủ năm hạnh lành: Từ bi, Hỷ xả, Tinh tấn, Thanh tịnh và Trí tuệ.
Là phật tử chúng ta phải học tập năm hạnh đó. Hơn nữa, đã là một huynh trưởng, chúng ta trước hết phải trau dồi năm hạnh, tập sống theo năm hạnh để rồi khuyến hóa nhắc nhở các em của chúng ta thực hành năm hạnh.
B- Nội dung.
I- Năm hạnh:
1 - Ý nghĩa của năm hạnh:
A - Từ bi:
Đúng ra là gồm 2: từ và bi. Từ là đem vui, bi là cứu khổ. Bằng mọi cách đem lại nguồn vui cho kêu khác gọi là "từ", bằng mọi cách làm vôi đi nỗi khổ cho người khác gọi là "bi". Không những cho người mà còn cho cả loài vật. Nhưng thường đem lại nguồn vui thì cũng vơi đi nỗi khổ.
Một người đang khổ vì đói khát, không cơm ăn, mình đem thức ăn đến cho họ, trong cơn đói mà có được thức ăn thì chắc chắn cảm thấy vui sướng. Vậy, giúp cho người đang đói một bát cơm là một lúc hành động cả từ lẫn bi.
Một người đang đau khổ vì mất mẹ, chúng ta dùng lời lẽ ơn toàn an ủi, giải thích cho người ấy hiểu "chết" chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp từ trạng thái nầy sang trạng thái khác hoặc từ thân này sang thân khác, giống như đám mây kia gặp lạnh thì chuyển thành mưa, phàm có sinh ắt có tử, có thành ắt có hoại, ta còn có cách để báo hiếu chứ không phải là tuyệt vọng. Nhờ hiểu được như vậy, người kia đã vôi bớt nỗi khổ đau tức là giảm được nỗi buồn, đã có được niềm vui len lỏi vào trong nỗi buồn.
Một em bé đang bị kêu du đảng uy hiếp, em hốt hoảng sợ hãi, ta đến can thiệp bênh vực cho em bé, em bé thoát khỏi sự hành hung của tên du đảng. Em không còn đau khổ vì sợ hải và em vui mừng trong cơn nguy hiểm được có người cứu thoát. Trong khi cứu khổ lại vưà đem đến an vui. Chính vì vậy mà từ thường
Ghép với bi. Người có hạnh từ bi, cõi lòng luôn rộng mở, mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý nghĩa đều đem tới vui tươi cho kẻ khác, làm vôi nỗi khổ cho kẻ khác.
B - Hỷ xả:
Hỷ xã cũng là hai hạnh: hỷ là vui mừng, người có hạnh hỷ tính tình vui vêu. Xả là buông bỏ không chấp, không tham đắm.
Ví dụ: có người chưởi mắng ta nhưng ta không chấp, không lấy đó làm nhục, không vì lời chưởi mắng ấy mà nổi sùng, ta vẫn điềm nhiên.
Ta có một chiếc honđa mới, ta giữ gìn cẩn thận luôn luôn lau chùi sạch sẽ, nhưng ta sẵn sàng cho bạn mượn khi bạn cần chứ không bo bo ôm giữ: dù bạn có làm trầy chợt hay hư hỏng đôi chút ta cũng không lấy gì làm tiếc nuối. Nói rộng ra, mọi của cải tài sản, ta đừng quá lệ thuộc vào nó, đừng quan niệm là "của ta" (khi xuôi tay nhắm mắt có đem theo được không ? Khi đó còn của ta nữa không?).mỗi khi hư hỏng, mất mát chúng ta đừng tiếc nuối đau khổ (phải hiểu lẽ vô thường). Nếu cừ chấp chặt: phải là "của ta" thì ta đâu dám cho ai vật gì
Dù là nhỏ nhoi. Cả thân mạng chúng ta cũng coi thường, có phải sỡ hữu của ta đâu? Chỉ cần một tai nạn là thân mạng này không còn nữa. Một luồng gió độc cũng có thể cướp mất thân mạng ta. Thân ta chỉ toàn tại trong từng hôi thở, thở ra mà không thở vào thì..người có hạnh "xả" thì tâm bao giờ cũng bình thản tươi vui, tính tính trở nên vui vêu, nên "hỷ" thường ghép với "xả".
C - Tinh tấn:
Tinh tấn là tinh cần và vững tiến. Luôn luôn siêng năng và có chí vượt khó. Trên đường học đạo dù gặp bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu cực nhọc cũng bền chí tiến bước. Người có hạnh "tinh tấn" bao giờ cũng mong cầu học hỏi giáo lý, mong cầu tu tập giải thoát, không bao giờ lui bước khi gặp khó khăn, khi đối đầu với nghịch cảnh.
D - Trí tuệ:
Hiểu biết sáng suốt. Tức là hiểu biết đúng đắn, nhận rõ được sự thật (chúng ta đừng lầm hiểu biết ở đây là hiểu biết thế gian - thế trí - vì có thể những hiểu biết về khoa học, những phát minh lớn lao mà không phải là hiểu biết sáng suốt. Ví dụ: như phát minh bom nguyên tử để tiêu diệt loài người thì đâu có "sáng suốt" người có hạnh "trí tuệ" bao giờ cũng muốn tìm hiểu đúng sự thật, trước bất cứ` vấn đề gì cũng muốn hiểu cho thấu đáo và thích nghiên cứu học tâp giáo lý, thích bàn luận về giáo lý chứ không thích phung phí thời giờ trong các câu chuyện phù phiếm.
E - Thanh tịnh:
Thanh tịnh là trong lặng. Thanh tịnh thường chỉ về tâm hoàn. Một tâm hoàn trong sạch tức là không có một ý nghĩ hay hành động xấu xa, độc ác. Thanh tịnh còn có nghĩa sâu hơn, tâm thanh tịnh tức là tâm trong lắng, không vấy lên một tạp niệm nào. Người có hạnh "thanh tịnh", không những là người không
Bao giờ có những ý nghĩ xấu ác, những mưu đồ đen tối mà còn là người luôn luôn tìm cách giữ tâm mình trong lắng, không vọng động.
2 - Cần hiểu đúng về năm hạnh:
Như trong bài "mục đích phật pháp" có đề cập đến phải cẩn thận khi tìm hiểu một từ ngữ trong phật giáo. Không thể hiểu từngữ phật giáo qua từ ngữ thong thường của ngoài đời. Lắm lúc ngoài đời thường vay mượn danh từ phật giáo nhưng dùng không thật đúng nghĩa của nó. Chẳng hạn từ "giác ngộ" từ "tự giác" đã trở thành từ đầu môi của nhiều người, nhưng những người dùng nó lại không phải là phật tử nên đâu có đúng nguyên nghĩa của no,ù "hoan hỷ"ù bây giờ cũng đã trở thành từ quen thuộc ở ngoài đời vàngười ta cũng đã dùng nó để diễn đạt một cách lịch sự ("kính xin ơng hoan hỷ chấp thuận..."). Thật là quá lạm dụng từ ngữ phải không ? Vì vậy chúng ta thấy: từ bi không thể đồng nghĩa với "nhân từ" hay "bác ái". Từ bi có nghĩa sâu hơn và rộng ra đến vạn loại chúng sanh chứ không phải chịu hạn định đối với "người". Nhiều tự điển (chẳng hạn như tự điển việt nam của ban tu thư khai trí) chỉ giải nghĩa "thanh tịnh":
1- trong sạch
2- yên tỉnh.
Mà đúng vậy, ngoài đời chỉ hiểu rằng: khoảng không gian vắng lặng, không có tiếng oàn ào là thanh tịnh. Còn từ "hỷ xả"(cũng tự điển nói trên) giải thích: xả thân một cách vui vêu. Thế cũng đúng, nhưng chỉ một khía cạnh "xả thân". Đúng nghĩa của nó là buông bỏ tất cả. Trí tuệ ở đây phải hiểu là phật trí chứ không phải là thế gian trí (như đã giải thích).
Vậy có người có thể có bằng cấp văn hóa cao: cử nhân, tiến sĩ mà không hiểu gì về giáo pháp, không xây dựng sự hiểu biết của mình trên nền tảng "tình thương" thì cũng là người "không có trí" (đối với đạo phật). Trái lại người không có bằng cấp văn hóa, nhưng lại là người từng nghiên cứu sâu sắc về đạo phật đem giáo lý thực hànhtrong đời sốngthì lại là người "có trí" (dĩ nhiên thế gian trí cũng có thể là phương tiện giúp cho chúng ta để mở mang phật trí).tinh tấn không chỉ có nghĩa tiến tới một cách sáng suốt mà còn phải bao hàm cả nhẫn nại hy sinh. Khi tìm hiểu một từ ngữ phật giáo ta phải biết tầm nguyên.
3 - Tương quan của năm hạnh:
Thật ra năm hạnh đều có tương quan với nhau. Người có hạnh từ bi làm gì cũng cân nhắc xem việc mình sắp làm có tác hại gì đến ai không ? Nếu biết dựa vào giáo pháp để cân nhắc thì chính sự cân nhắc này đã thể hiện đước tính trí tuệ.(phân tích thật kỹ càng, tìm hiểu cho chu đáo). Và ngước lại, người có trí tuệ (phật trí) thì hành động phải phù hợp với giáo pháp bao giờ cũng lợi mình, lợi người vậy hành động ấy mang tinh thần từ bi.
Cũng vậy, người có hạnh hỷ xả mới dễ dàng thực hiện sự bố thí, tức là có lòng từ bi(người nào cứ khư khư chấp chặt vào tiền của, bo bo ôm giữ mãi, có một muốn sinh sản thành hai, ba,bốn muốn nẩy nở thành năm sáu thì làm sao bố thí được?). Khi chúng ta đã giúp cho aimột ít tiền bạc hay vật dụng là chúng ta đã buông bỏ nó một cách vui vêu rồi. Vậy, có "hỷ xả" dễ dàng tăng trưởng hạnh "từ bi", và có từ bi dễ dàng xây dựng hạnh "hỷ xả". Nhữngngười có tâm hoàn trong lắng không vọng động thì trí tuệ dễ phát chiếu. Vậy hạnh thanh tịnh hổ trợ cho hạnh trí tuệ và ngược lại người có trí tuệ mới thấy được "thanh tịnh" là cần thiết trong cuộc sống. Khi đã thấy được như vậy thì không có gì có thể làm cản trở bước đường tu học. Vì có trí tuệ ta đã nhìn rõ "chỉ có giáo pháp là ngọn đèn soi sáng trên con đường giải thoát" mà chúng sanh thì đang lặn hụp trong bể khổ trầm luân, cho nên chúng ta thiết tha mong cầu giải thoát... Thế thì có sự nguy nan nào có thể làm chùng bước ta được trên con đường học đạo và hành đạo thì làm sao mà không phát triển được từ bi, trí tuệ.vậy thì ngược lại tinh tấn cũng tương quan với các hạnh khác.
II-Trau dồi năm hạnh:
Đã là "hạnh" tức là phải thuộc trong con người chúng ta, trong tâm chúng ta, trongthân chúng ta chứ không còn là một từ ngữ trống rỗng bên ngoài và cũng không còn chỉ là một thái độ. Chẳng hạn nói hạnh "từ bi" không phải chỉ là một thái độ "từ bi" nữa. Đó là "hạnh". Vậy nó có sẵn trong tâm, trong thân nên mỗi lời nói, một hành động, một ánh mắt, một nụ cười đều có chất liệu từ bi. Người huynh trưởng chúng ta không còn nói là "thực hành" năm hạnh nữa. Đối với các em, 5 hạnh này có ở các đức phật, các vị boà tát, các em phải học và
Tập tức là hiểu và thực hành trong đời sống các em.là huynh trưởng chúng ta phải đưa năm hạnh này vào trong tâm, trong thân của chúng ta. Là 5 hạnh của người phật tử (dĩ nhiên không sao sung mãn như các đức phật, chư vị boà tát, nhưng ít ra cũng thoang thoảng đôi chút chứ). Đành rằng: hạnh thì còn có căn duyên nhưng nếu không biết trau dồi thì cũng khó mà toàn tại.
1- Trau dồi hạnh Từ bi:
Tùy căn cơ của mỗi người. Có người khi thấy một bạn đau buồn khổ sở, không có một lời để vôi bớt nỗi khổ của bạn mà ngược lại, nói ra lời nào thì chỉ gợi thêm sự đau khổ của bạn thôi, nhưng người đó lại có thể bỏ tiền để hổ trợ cho công cuộc in ấn kinh sách, thế cũng là có tâm từ, cũng là pháp thí ; một quyển sách, giáo lý cũng là một vị thầy đấy. Lại có người không thể nhịn được sự vu khống nhục mạ của kêu khác mà phải nổi cơn thịnh nộ mắng cải, đánh đập nhưng họ lại có thể bỏ tiền gạo giúp cho những người nghèo đói.
Vậy tùy căn cơ mà làm phát triển tâm từ của mình. Ta phải biết quán - người vu khống, chưỡi mắng ta, ta không nhịn được, nhưng ta thử đặt mình vào địa vị của người ấy, vì phải sợ hãi một sự kiện gì đo nên vu không cho ta, chưỡi mắng ta, ta im lặng để họ có thể đổ vào ta mà không còn sợ hải thì đó là tâm của người từ bi. Hoặc ta giả sử người đó là cha mẹ ta, ta có chưỡi rủa đánh đập lại không ? Vậy xem người đó là cha, làmẹ ta đi.
Ăn một bát cơm ta nghĩ đến những moà hôi nước mắt của người nơng phu đổ xuống cho có hạt gạo để nuôi sống ta... Trong từng hơi thở:ta nhắc nhủ mình: "nhớ tìm cách cho vui - nhớ làm vôi nổi khổ" (từ bi).
2- Trau dồi hạnh Hỷ xả:
Ta phải quán vô thường có sự việc gì, có hiện tượng gì trong vũ trụ này mà thường còn mãi mãi đâu ? Một luồng gió độc, một tai nạn đột xuất, ta có níu kéo được mạng sống không ? Tài sản, thân mạng có giữ mãi được không ? Thế thì tiếc gì mà không buông bỏ, tiếc gì mà không vui tươi trước mọi biến cố.
3- Trau dồi hạnh Tinh tấn:
Biết ta không chủ động được mạng sống của mình thì ta phải biết dùng than xác này làm phương tiện tu học, giải thoát. Làm được kiếp người là quý hóa lắm, giả như mang thân kiếp súc sanh, ngạ quỷ thì làm sao biết được chánh pháp để tu tập giải thoát (kể cả thân kiếp chư thiên, biết đâu chỉ lo vui hưởng dục lạc mà chẳng thấy được con đường giải thoát). Mà kiếp người này thì phải tranh thủ từng phút, từng giây, từng sát na, vì ai biết được cái giờ phút "không còn hôi thở". Vậy mỗi phút tim còn đập, phổi còn thở là mỗi phút tinh tấn học đạo, hành đạo.
4- Trau dồi Trí tuệ:
Ta phải luôn luôn nghiên cứu, học hỏi giáo lý, kinh điển ; tìm một minh sư hướng dẫn tu tập. Tìm bạn "trí" để trau dồi mạn đàm, thảo luận. Đừngphí thì giờ trong các chuyện phiếm vô bổ hoặc bỏ phí thì giờ trong các buổi xem phim, vidéo, nhữn g phim thiếu tính cách giáo dục. Việc tĩnh tâm rất cần thiết cho sự phát huy trí tuệ.
5- Trau dồi hạnh Thanh tịnh:
Biết tĩnh tâm, biết cách gạn lọc những ý nghĩa không trong sạch, biết đình chỉ những vọng niệm. Phương pháp đơn giản nhất là theo dõi hôi thở. Hàng ngày dành một số thời gian (15 phút - it nhất) tập thiền định - hoặc trong khi đi đứng...cũng có thể theo dõi hơi thở::
- hơi thở:1: thở ra "nhớ tìm cách cho vui", thở vào "nhớ tìm cách cho vui"
- hơi thở:2: thở ra "nhớ làm vôi nỗi khổ", thở vào "nhớ làm vôi nỗi khổ".
- hơi thở:3: thở ra "nhớ giữ lòng hoan hỷ", thở vào "nhớ giữ lòng hoan hỷ"
- hơi thở:4: thở ra "nhớ tập hạnh xả buông", thở vào "nhớ tập hạnh xả buông"
Cứ tập mãi như thế.
C- Kết luận:
Đã là hạnh của người phật tử thì huynh trưởng chúng ta phải luôn luôn trau dồi. Khi đã "hạnh" thì mỗi lời nói, mỗi hành động, mỗi cử chỉ đều đượm tính chất năm hạnh một cách tự nhiên. Chưa đòi hỏi một mức độ cao, nhưng phải tùy căn cơ mà rèn luyện để được phát triển dần đến chân thiện mỹ