I – ĐẠI CƯƠNG PHẬT PHÁP
1. Dẫn Nhập
Sau khi thành đạo, đức Thế Tôn nhận thấy các nguồn tư tưởng cũng như sự hiện diện của các tôn giáo đương thời đã không giải quyết được gì cho con người và xã hội. Ngài muốn đem giáo pháp mà Ngài đã chứng khai thị cho chúng sanh thoát khỏi khổ đau, đi đến an vui hạnh phúc thật sự. Nhưng giáo lý của Ngài quá thâm sâu, căn cơ chúng sanh cũng khó tiếp nhận, song rồi Ngài cũng quyết định hoằng hóa cứu độ chúng sanh.
Ðầu tiên Ngài đến rừng Lộc Uyển thuyết pháp cho 5 anh em ông Kiều Trần Như, trước đây Ngài đã có lần cùng tu với các vị này nhưng sau đó Ngài thấy cách tu ấy không thể nào đưa đến giải thoát khổ đau. Sau khi nghe pháp 5 anh em đều giác ngộ. Rồi suốt 49 năm không những Ngài đi khắp các miền Ấn Ðộ để thuyết pháp giáo hóa mà còn thuyết giảng cho hàng Chư Thiên nữa. Những lời chỉ dạy của Ðức Phật đại cương như sau.
2. Ðại Cương Phật Pháp:
Nói đến giáo lý (tức là Phật Pháp) thì rất là nhiều, đến 8 vạn bốn ngàn pháp môn. Vì đức Phật tại thế, Ngài tùy trình độ, tùy căn cơ của chúng sanh để thuyết giảng. Giáo lý ấy gồm 3 tạng kinh điển:
- Kinh:những lời đức Phật Thích Ca đã nói khi tại thế
- Luật:những giới luật mà Ðức Phật chế ra cho các hàng Phật Tử xuất gia và tại gia tu tập
- Luận:do các đệ tử của Phật–các vị tổ–làm ra để bàn giải rõ ràng những nghĩa lý mầu nhiệm
Ba tạng kinh điển đó lại nằm trong hai Ðại Tạng: Ðại tạng Bắc tông (quen gọi là Ðại Thừa) và Ðại tạng Nam Tông.Về sau người ta còn phân ra Ðại Thừa và Tiểu Thừa. Ðại Thừa là cổ xe lớn chở được nhiều người. Tiểu Thừa là cổ xe nhỏ chỉ chở được một người. Sở dĩ chia ra như vậy vì căn cơ nguyện vọng của chúng sanh không đồng nhau. Những người nào nhận thấy mình chỉ đủ sức giải thoát riêng cho mình thì đi cổ xe nhỏ. Những người nào cảm thấy giải thoát cho mình mà còn có thể giải thoát, cứu độ cho nhiều người khác và có hạnh nguyện lợi tha thì dùng cổ xe lớn. Phật Pháp tuy nhiều như vậy nhưng chủ yếu là: cho ta thấy rõ sự khổ đau của cuộc đời, nhưng không phải để bi quan chán nản, thất vọng mà để tìm cho ra nguyên nhân khổ đau.
Sau khi Phật Pháp đã cho ta thấy được nguyên nhân của khổ đau thì Phật Pháp lại giới thiệu cho ta cái cảnh giới an vui tự tại. Nhưng không phải để van xin sự cứu rỗi của Thượng Ðế hay một vị thần linh nào cho ta tới cảnh giới an vui mà Phật Pháp chỉ cho ta con đường đi đến an vui giải thoát. Không ai cứu rỗi được chúng ta mà phải tự mình cứu lấy mình. Biện pháp chính có tám điều (sẽ học kỹ trong bài Bát Chánh Ðạo).
- Thuộc về nhận thức, về trí tuệ:
+ Hiểu biết đúng đắn.
+ Suy nghĩ đúng đắn.
- Thuộc về đạo đức, luân lý, về lời nói, việc làm:
+ Nói lời đúng đắn.
+ Hành động đúng đắn.
+ Làm ăn sinh sống đúng đắn.
+ Siêng năng,phấn đấu khắc phục khó khăn một cách đúng đắn.
- Thuộc về định tâm:
+ Chú ý, chú tâm tưởng niệm đúng đắn.
+ Tập trung tư tưởng đúng đắn.
Tám cách, nói đúng hơn là con đường có tám ngành để đi đến an vui giải thoát, này có thể nhóm lại thành ba nhóm:
1. Giới: Ðạo đức, luân lý, thực hành qua lời nói, hành động.
2. Ðịnh: Ðịnh tâm, thực hành qua phép quán tưởng thiền định.
3. Huệ: Nhận thức, trí tuệ.
Ba nhóm này hổ tương lẫn nhau, có trí tuệ nhận thức đúng đắn mới thấy được giới luật là cần thiết, mới nghiêm trì giới luật. Có nghiêm trì giới luật thì tâm không buông lung, việc định tâm mới dễ dàng. Có định tâm thì trí tuệ mới phát chiếu (ví dụ: khi định tâm thì học bài mau thuộc dễ nhớ, còn khi để tâm buông lung thì học bài khó nhớ, lâu thuộc).
Phật Pháp còn cho ta thấy rõ sự biến đổi vô thường của vạn vật (trong đó có cả con người): vô thường. Ðạo Phật cũng nêu rõ vũ trụ quan: “Duyên khởi”. Mọi sự mọi vật, mọi hiện tượng (nói rộng ra là cả vũ trụ) đều do nhiều yếu tố tương quan với nhau mà thành chứ không thể tự nhiên mà có và cũng không phải do một ai sinh ra, nếu một nhân hay một duyên nào thay đổi thì sự vật, hiện tượng đó cũng thay đổi. Và một nhân sinh quan “Nghiệp báo con người không phải chết là hết mà là sự chuyển biến để rồi trở lại sống một kiếp khác. Sinh tử chỉ là giai đoạn chuyển biến của một chuổi dài luân hồi. Như thế, mọi hành động có ý thức (nghiệp) đều là nhân và là những gì ta nhận lấy trong kiếp sống của mình là quả và cứ thế nhân quả trùng trùng.
Vậy cuộc đời chúng ta do nghiệp nhân của chúng ta tạo ra chứ không có một đấng thần linh nào ban ơn giáng họa. Muốn an vui ta không phải cầu xin mà có, mà ta phải tạo lấy những nghiệp nhân “Thiện” để hưởng quả lành. Chúng ta không bao giờ buông xuôi tay cho số phận, trái lại cuộc đời chúng ta do chúng ta quyết định (sẽ được học kỹ trong bài nhân quả Nghiệp Báo).
3. Kết Luận:
Qua bài này, chúng ta đã có cái nhìn tổng thể toàn bộ giáo lý của đạo Phật, nắm được những nét rất đại cương. Trong chương trình tu học của HT, chúng ta sẽ đi sâu vào từng vấn đề một để tìm hiểu tường tận hơn.
4. Câu hỏi:
1. Mục đích của Phật Pháp là gì?
2. Kể tên những vị đệ tử đầu tiên của đức Phật tại vườn Nai.
3. Kinh là gì? Tam tạng Kinh điển là gồm những gì?
4. Tại sao sau Phật Niết bàn, Tăng Ðoàn chia thành hai phái Ðại thừa (Ðại Chúng bộ) và Tiểu thừa (Thượng Tọa bộ)?
5. Nghiệp là gì? Tại sao nói: “hạnh phúc hay đau khổ là ở trong tay ta”?Phân biệt “biệt nghiệp” và “cộng nghiệp” – “y báo” và “chánh báo”
6. Ðịnh nghĩa “Vũ trụ quan” Câu nói: “vũ trụ quan của Phật giáo là Duyên khởi” là có ý nghĩa như thế nào? Anh / Chị hãy giải thích câu nói ấy với những ví dụ cụ thể để nói về vũ trụ quan của Phật giáo.
7. Giới là gì ? Công dụng của Giới?
8. Theo ý kiến của Anh / Chị , bài học này đã đầy đủ chưa? Cần đưa thêm vào / bỏ bớt ra những vấn đề gì / những phần nào? Lý do?
---o0o---
II – MỤC ĐÍCH PHẬT PHÁP
Mục đích của GÐPT là đào tạo những phật tử chân chính và cải tạo đời sống theo tinh thần Phật giáo. Nhưng lấy gì để đào tạo? Dựa vào đâu để cải tạo? Là huynh trưởng, mang trách nhiệm giáo dục các em chúng ta phải nắm vững vấn đề này hơn ai hết. Dĩ nhiên là lấy Phật Pháp để đào tạo, dựa vào Phật pháp để cải tạo. Vậy chúng ta phải thông suốt mục đích của Phật pháp thì việc tu học của bản thân và giáo dục các em mới đúng hướng. Nhưng trước khi tìm hiểu mục đích của Phật Pháp ta cũng cần biết Phật Pháp từ đâu mà hình thành?
1. Sự hình thành Phật Pháp:
Phát xuất từ lòng thương vô biên của Thái tử Tất Ðạt Ða, khi thấy chúng sanh quằn quại trong đau khổ, trong sự giành giựt cấu xé nhau để mưu cầu sự sống, trong đau đớn thảm khốc của già yếu bệnh tật, chết chóc.
Tình thương rộng lớn ấy khiến thái tử phải suy tìm cho ra nguyên nhân khổ đau và phương pháp diệt trừ đau khổ.
Qua thực nghiệm, tu hành, lòng từ bi càng mở rộng, công năng tu tập càng lớn lao vượt qua những cam go chướng ngại thì trí tuệ càng phát chiếu sáng ngời.
Ðến lúc thái tử tập trung tư tưởng, chuyên tu thiền định thì trí tuệ càng sáng chói tuyệt đối (gọi là trí tuệ Bát Nhã), nhìn rõ được nguyên nhân đau khổ và phương pháp diệt trừ nó. Tức là đã tu chứng giác ngộ, đạt quả vị Phật (sẽ được rõ hơn qua bài ‘Cuộc đời đức Phật’) Phật pháp được hình thành qua công năng tu chứng giác ngộ ấy.
Vậy ta phải hiểu rằng: Ðức Phật không phải là đấng thượng đế tối cao hay vị thần linh nào cả mà chỉ là một con người.
Nhưng con người đã giác ngộ và giải thoát, nên vượt lên trên tất cả. Như vậy, đạo Phật không phải là đạo thần quyền thì người theo đạo Phật không phải cốt mong sự cứu rỗi. Do đó, lời dạy của đức Phật (Phật Pháp) không phải là những giáo điều bắt tín đồ phải tuân theo để được sung sướng, để được an vui như những tôn giáo khác mà Phật Pháp chỉ là những lời truyền đạt kinh nghiệm tu chứng của một con người đã hoàn toàn giác ngộ. Ðức Phật đã mở rộng con đường tu tập cho mọi người.
Ngài không đứng trên mây cao vút, tuyệt đối của an lạc mà nhìn chúng sanh quằn quại trong bể khổ trầm luân để rồi độc quyền ban phát những ân huệ. Ðức Phật dìu dắt chúng sanh lên đỉnh cao của an lạc ấy, để ai cũng trở thành Phật cả (nếu biết theo đúng lời dạy của Ngài).
Ðức Phật đã từng nói trong những lúc thuyết pháp:
“Ta là Phật đã thành chúng sanh là Phật sẽ thành”.
2. Phật pháp có phải là một hệ thống học thuyết không?
Phật pháp cũng là một hệ thống học thuyết. Nhưng như đã nhận định trên thì ta có thể khẳng định rằng: Phật pháp khác hẳn các học thuyết cổ kim, cả về căn bản lẫn danh từ và văn tự. Cho nên chớ đem từ ngữ học thuyết khác mà thay cho Phật Pháp.
3. Tại sao Phật Pháp cho ta thấy được nguyên nhân của khổ đau rồi giới thiệu cảnh giới an vui tự tại?
Sau khi Phật Pháp đã cho ta thấy được nguyên nhân của khổ đau thì Phật Pháp lại giới thiệu cho ta cái cảnh giới an vui tự tại. Nhưng không phải để van xin sự cứu rỗi của Thượng Ðế hay một vị thần linh nào cho ta tới cảnh giới an vui mà Phật Pháp chỉ cho ta con đường đi đến an vui giải thoát. Không ai cứu rỗi được chúng ta mà phải tự mình cứu lấy mình.
4. Mục đích của Phật Pháp:
Trong bài trước chúng ta hiểu đại cương Phật Pháp, đến đây chúng ta lại thấy được sự hình thành Phật Pháp thì chúng ta cũng thấy mục đích của Phật Pháp là đưa con người từ khổ đau đến an vui, từ mê lầm đến giác ngộ, từ chỗ trói buộc phiền não đến chỗ giải thoát tự tại.
Nếu nhận định đúng cuộc đời là vô thường biến dịch không ngừng, là khổ đau chồng chất, vì vô minh mê lầm, cái “Ta” cũng không tồn tại, là uế nhiễm, là vọng động, (Bài Ðại Cương Phật Pháp) thì mục đích của Phật Pháp là:
a. Ðưa chúng ta đến “chơn thường”: Người tu hành để đạt đến quả vị là không bao giờ bị luật vô thường chi phối. (sẽ được học kỹ ở các bậc sau).
b. Ðưa chúng ta tới “chơn lạc”: sự an vui trọn vẹn và bất tận.
c. Ðưa chúng ta tới “chơn ngã”: Người tu hành được giải thoát hoàn toàn ra khỏi những trói buộc, làm cho con người đày đủ năng lực để thực hiện ý nguyện tốt đẹp của mình.
d. Ðưa chúng ta tới “chơn tịnh”: Người tu hành gạn lọc được bao nhiêu ô trọc của cuộc đời để sống một cuộc sống trong trắng tinh khiết không vướng chút bợn nhơ của trần tục, được an nhiên tự tại. Nếu nhìn sự tác dụng thực tiễn mà nói, thì Phật Pháp với căn bản Từ Bi, làm cho nhân loại yêu thương nhau hơn.
Nhờ ánh sáng trí tuệ, làm cho nhân loại bớt si mê lầm lạc. Thấy được đâu là giá trị thật, đâu là lừa dối. Nhờ tinh thần bình đẳng tuyệt đối của đạo Phật, Phật Pháp san bằng những bất công của xã hội, của nhân loại, và làm cho cảnh giới Ta Bà được hòa vui trong tình nhân loại đại đồng.
Nếu nói cô đọng lại thì mục đích Phật Pháp là diệt trừ tham dục vì tham dục là cội gốc chính của đau khổ mê lầm. Kinh Dhammapada (Pháp Cú) có nói:
“Những người ái dục đắm chìm
Xuôi dòng ái dục vào miền khổ đau
Lọt vòng dây trói trước sau
Tựa như con nhện mắc vào lưới giăng.
Ai mà dứt mọi buộc ràng
Không còn ái dục, chẳng vương não phiền.”
Nói tóm lại, mục đích của Phật Pháp là đưa Ðạo vào Ðời “khai thị chúng sanh” để chúng sanh được “ngộ nhập Phật tri kiến”.
5. Học Phật Pháp như thế nào? Ðã rõ mục đích của Phật Pháp thì ta nên học Phật Pháp như thế nào?
1) Người Phật tử đã có ý thức được đạo Phật là đạo của Từ Bi, đạo giải thoát những con người đau khổ mà không trông chờ một sự cứu rỗi nào thì chúng ta học Phật Pháp với tâm niệm mong tìm hạnh phúc riêng mình, cầu sự an ổn cho mình, giải quyết cái chết cho mình … là hoàn toàn trái với Phật Pháp. Ta không nên chỉ nghỉ đến lợi ích riêng mà còn phải nghĩ đến những ngườI, những chúng sanh đang đau khổ xung quanh mình (chúng ta thường nguyện trước bàn thờ; “Từ Bi gia hộ cho chúng đệ tử tâm Bồ Ðề vững chắc, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, cùng chúng sanh trong Pháp giới tội chướng tiêu trừ, căn lành tăng trưởng, một thời đồng chứng Vô Thượng chánh đẳng, chánh giác”).
2) Là Phật tử, chúng ta phải học Phật Pháp không chỉ bằng lý thuyết mà còn học qua đời sống, qua đức hạnh, qua hành động của đức Phật nữa.
3) Học Phật Pháp không phải là học suông, học phải suy nghĩ để hiểu rốt ráo. Hiểu để thực hành thấu đáo và tự mình tu chứng.
4) Một điều cần thiết nữa, như ta đã biết, Phật Pháp khác hẳn với các học thuyết khác, vậy đừng nên lệ thuộc vào từ ngữ mà ta thường gặp để hiểu Phật Pháp một cách nông cạn, hoặc hiểu Pháp qua học thuyết khác. Chẳng hạn như chữ “Nghiệp” cũng tương đồng với chữ “động tác” nhưng chữ động tác không thể mang cái nghĩa hành động có ý chí, có tính cách chữ “nghiệp”. Chữ “quán đãi”, nếu chỉ hiểu qua thì ai cũng tưởng tương đồng như chữ “đối đãi” nhưng sự đối đãi chỉ là do ý niệm. Chữ “thị hiện” trong đạo Phật cũng khác xa chữ “giáng sanh” của các tôn giáo khác. Chữ “Tự Giác”, “Giác Ngộ” mà chúng ta thường dùng ngoài đời với chữ “tự giác”, “giác ngộ”, trong đạo Phật cũng khác nhau xa. Còn những chữ “vọng động”, “chơn như” v.v... Thì phải đi sâu vào Phật Pháp mới hiễu đúng đắn được. Vậy ta phải hiểu đúng đắn từ ngữ Phật giáo để hiểu vấn đề không sai lệch.
6- Câu Hỏi:
1. Phật Pháp là gì? Phật Pháp có phải là một hệ thống học thuyết như những học thuyết khác không? Ðiểm khác biệt giữa Phật Pháp và các học thuyết khác ?
2. Ðại Cương Phật Pháp gồm những vấn đề gì? Hãy trình bày.
3. Mục Ðích Phật Pháp là gì?
4. Có người nói: Phật Pháp là pháp ly dục, có đúng không? (dùng kiến thức đã học để chứng minh)
5. Người HT học Phật Pháp như thế nào?
6. Như ta đã biết, Phật dạy: “đời là khổ, mọi sự vật hiện tượng đều vô thường, cảm thọ là khổ”. Thế nhưng hôm nay chúng ta lại được biết “thường, lạc, ngã,tịnh” (phần 3 của bài). Như vậy Anh/Chị có nghĩ là có chỗ mâu thuẩn trong Phật Pháp hay không? tại sao?
7. Tương tự, đức Phật dạy: “Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành”. Mặt khác, Ngài cũng nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Thiền sư Bankei lại thêm: “Phật tánh ở nơi đức Phật không tốt hơn cũng không xấu hơn Phật tánh ở mỗi chúng sanh”. Theo Anh/Chị hai điều này có mâu thuẩn nhau không? hãy giải thích.