"Phương tiện", nói cho đầy đủ là "phương tiện quyền xảo", tức là sự khéo léo về khả năng thuyết giáo, tùy căn tánh của mỗi chúng sanh để hướng dẫn tới địa vị của Phật thừa. "Đại" có nghĩa là bao quát. Tuy duy nhất chỉ có Phật thừa nhưng đức Phật đã khéo léo hướng dẫn chúng sanh đến đó qua ba thừa khác nhau, cho nên gọi là "Đại phương tiện".
Đây là bộ kinh thuộc hệ Đại thừa, đặc trưng của Đại thừa là không quá chấp chặt kinh điển nguyên thỉ để một mực khư khư giữ lấy Nguyên thỉ, mà không hề có sự tự lập hay sáng tạo nào mới, như vậy dễ khiến cho giáo lý Phật, đúng hơn là tinh thần Phật giáo càng lúc càng thiếu sinh động và dễ trở nên khô cứng.
Do đó, từ khi có sự phân chia nhiều bộ chúng, khoảng 500 - 600 năm sau Phật niết bàn. Đại chúng bộ (về sau gọi là Đại thừa) một mặt kế thừa và hoằng dương giáo lý căn bản của đức Phật, một mặt năng động trong tinh thần đoạn mê khai ngộ - Nhị không chân như - nhằm giúp mọi người tiến đến giác ngộ, bằng cách lập căn bản trên giáo lý Nguyên thỉ của đức Phật mà thêm vào sự kiến giải của mình qua sự tu chứng của bản thân, làm cho giáo lý Phật thêm phần sinh động và khế hợp với căn cơ con người; (đồng thời mở ra một biển đại giác mênh mông giải quyết tận gốc mọi nhu cầu hiếu tri về chân như và giác ngộ).
Điểm đặc trưng và nổi bật của Đại thừa giáo là lý tưởng Bồ tát: Độ cho hết chúng sanh, Bồ tát mới hoàn thành sứ mệnh. Còn một chúng sanh bị đọa vào địa ngục, Bồ tát thề quyết không thành Phật (Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ đề, địa ngục vị không, thệ bất thành Phật).Lý tưởng Bồ tát trên thực tế về mặt xã hội dường như khó trở thành hiện thực; nhưng trên bình diện cá nhân, lý tưởng Bồ tát gây phấn kích tâm lý và thôi thúc con người hướng đến sự hoàn thiện nhân cách một cách toàn bích ở mỗi một cá nhân cụ thể.
Xã hội ngày nay tuy văn minh tiến bộ, nhưng sự sống của con người cứ vẫn bất ổn. Một sự bất ổn một phần đến từ thiên tai như: động đất, bảo, lụt, hỏa hoạn. . . , một phần lại đến từ con người như: chiến tranh, dùng vũ lực khai thác thuộc địa, dùng tài lực, trí lực bóc lột đồng loại, chế tạo đủ thứ vủ khí giết hại hàng loạt. . . Chung qui là xuất phát từ Tham, Sân và Si. Có thể nói do Tham, sân, si nên con người không thực sự thương nhau; nếu có thì đó là thứ tình thương mang nặng tính thiên vị cục bộ. Tình thương như vậy rất dễ bị gãy đổ một khi mối quan hệ giữa người nầy với người kia không còn tốt đẹp.
Từ ngìn xưa những bậc hiền triết mỗi người đưa ra luận thuyết của mình về Nhân ái. Thời Xuân Thu ở Trung Hoa có Mặc Địch, Dương Chu, Khổng Tử. . . mỗi người chủ trương mỗi thuyết.
Mặc Địch thì chủ trương kiêm ái với câu:"Thân nhi thân thân". Theo Mặc Địch sự thương yêu không nên phân biệt thân, sơ; và hãy thương yêu người ngoài gia tộc trước, sau mới đến người trong gia đình. Theo ông, người không cùng tộc họ mà ta thương yêu được mới là quan trọng, mới thực sự là yêu thương, người trong gia tộc thương yêu nhau là điều tự nhiên không cần khuyến khích giáo dục.
Dương Chu thì khác, ông cho rằng trước khi thương yêu người khác, là phải biết thương yêu chính bản thân mình, ngay cả một sợi lông ! Theo ông, dù là sợi lông đi nửa thì nó cũng là một đơn vị của thân thể, nên không thể không bảo vệ. Có được như vậy mới nói đến chuyện thương yêu tha nhân, đương thời người ta cho ông chủ trương thuyết "vị kỷ".
Khổng Tử thì bình thản hơn, ông cho rằng cứ theo lẽ tự nhiên mà tuần tự thương yêu. Lẽ tự nhiên ấy là: con người ta ai cũng thương yêu ông bà, cha mẹ và anh chị em ruột thịt, và hãy đem tình thương ấy mà thương yêu mọi người, ý tưởng nầy được tóm gọn trong câu nói bất hủ của ông:"Thân thân nhi thân".
Về sau Mạnh Tử triển khai học thuyết của Không Tử và lên án thuyết vị kỷ của Dương Chu là "vô quân", thuyết kiêm ái của Mặc Địch là "vô phụ". Theo Mạnh tử, Dương Chu là người "nhổ một sợi lông để làm cho thiên hạ, không nhổ" (Dương Chu bạt nhất mao vi lợi thiên hạ, bất tác). Như vậy là cực kỳ vị kỷ và không biết gì đến đạo quần thần. Cũng theo Mạnh Tử, Mặc Địch là người không nghĩ gì đến tình huyết nhục cha con, nên chủ trương yêu thương gồm cả mọi người, không phân biệt thân, sơ. Như thế là "vô phụ"..
Phật giáo thì khác. Phật giáo không đề cập đến thương ai trước ai sau. Với tinh thần vô ngã, Phật giáo thấy kẻ oán, người thân đều như nhau: "Oán, thân bình đẳng". Theo đức Phật, kẻ oán hay người Thân, họ đều là những chúng sanh chưa giác ngộ, giải thoát. Do đó họ cần giúp đở. Cần được chỉ bày phương tiẹân tu tập để đạt đến giải thoát; chứ không hạn cuộc vào nhóm người này hay nhóm người kia.
Hơn nữa, theo đạo Phật, phụng sự chúng sanh chính là báo hiếu cha mẹ và cũng chính là cách báo ân chư Phật.
Đây cũng là nguyên ủy để đức Phật thuyết giảng kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân.
Trước khi đi vào bộ kinh này, chúng ta cần quan niệm rõ.
*Về chữ hiếu:
Hiếu là một khái niệm về bổn phận của kẻ làm con nên đối xử thế nào với cha mẹ cho hợp lẽ nhân luân. Khái niệm về hiếu xuất hiện rất sớm trong thi ca cổ đại ở Trung Hoa. Khoảng 3.000 năm trước, kinh Thi của Trung Hoa đã viết:
" Sinh ngã giã phụ mẫu.
Thành ngã giã phụ mẫu
Ai ai phụ mẫu
Sinh ngã cù lao
Dục báo thâm ân
Hiệu thiên vỏng lực".
Dịch: Sinh ra ta là cha mẹ,
Nuôi ta thành người cũng là cha mẹ.
Thương thay cha mẹ
Sinh ta khó nhọc,
Muốn báo ân sâu (như) trời cao khó sánh kịp.
Đối với các nước Á đông, Hiếu đã trở thành cái Đạo, trước tiên là đạo làm con, sau đó là đạo làm người. Con người mới có đạo, muôn thú không thể có đạo. Đạo là đường đi của lương năng. Lương tri, và hiếu đạo là con đường mà những kẻ làm con không thể không đi ! Kẻ làm con phải luôn luôn tâm niệm cha mẹ là người sinh ra ta, nuôi nấng ẩm bồng ta, cho ta bú bớm và lo lắng hy sinh cho ta đủ điều, có vậy ta mới lớn khôn thành người. Đã là Đạo thì không một phút giây có thể rời bỏ được, rời bỏ thì không còn là đạo làm người nữa.
Đức Phật dạy rằng: "Bách hạnh, Hiếu vi tiên" (Trong trăm hạnh, hạnh Hiếu là hàng đầu). Ý niệm về chữ hiếu đã ăn sâu vào đời sống tinh thần của các dân tộc, nó chi phối con người về mặt đạo đức, luân lý; đồng thời nó cũng bó buộc con người trong ý thức hành xử với xã hội. Khi làm một điều lành, điều thiện, người ta nghĩ ngay đến cha mẹ sẽ vui, khi phạm một điều gì xấu ác, người ta lại sợ cha mẹ biết được sẽ buồn. Chính điều nầy là một ưu điểm góp phần làm cho xã hội con người trở nên hòa mục hơn, trật tự hơn, ổn định và an bình hơn. Với quan niệm chữ Hiếu là vô cùng lớn lao, chúng ta đi sâu tìm hiểu đạo Hiếu trong Phật giáo, qua bộ kinh "Đại Phương tiện Phật báo ân".
II- BỐ CỤC:
Toàn bộ kinh có bảy quyển, được chia thành chín phẩm, phân bổ như sau:
1. Phẩm tự, tức phẩm I: (là phần dẫn nhập)
Nhân việc Ngài A Nan nghe nhóm Lục sư Phạm chí chê bai chỉ trích đức Phật:"Thầy Cồ đàm của ngươi thực là người bội bạc, chẳng biết ân nghĩa, mới đành lòng dứt bỏ ra đi như thế ! Cho đến phụ vương, vì tạo lập cung điện, cưới nàng Cù Di làm vợ cho Cồ Đàm, nhưng ông cũng chẳng làm theo bổn phận của vợ chồng, khiến cho nàng phải sầu khổ, cho nên biết Cồ Đàm là người bất Hiếu".
Do đó, ngài A nan trình bày lại sự việc và thỉnh cầu đức Phật giải quyết vấn đề do nhóm Lục sư Phạm Chí đưa ra. Đây là phần duyên khởi của kinh.
2. Từ phẩm II: Hiếu dưỡng cho đến Phẩm VII: Từ bi - là phần trọng tâm của kinh
(gồm 6 phẩm, đi sâu phân tích sự hiếu thuận, sự đền ơn, báo ơn của những vị Phật cho đến các vị Bồ tát, không chỉ ở hiện tại mà cả trong vô lượng kiếp trước ở quá khứ)
3. Phẩm thứ Tám: Ưu Bà Ly, Phẩm thứ Chín: Thân cận là phần kết, hay còn gọi là phần Lưu thông. Hai phẩm này qui kết vào hai đặc điểm:
1- Kẻ bị xã hội cho là hạ tiện, đáng khinh bỉ nhất vẩn tu chứng Thánh quả trong giáo pháp của đức Phật.
2- Nữ giới vẫn được dự vào hàng Thánh đệ tử của Phật. Với điều kiện họ tự nguyện tuân thủ Bát kỉnh pháp, và tinh thần tu tập theo luật nghi do Đức Phật chế định.
III- SƠ LUỢC NỘI DUNG MỘT SỐ PHẨM TRỌNG YẾU:
Trên đây là bố cục của kinh; sau đây chúng ta tìm hiểu nội dung một số phẩm trọng yếu.
1- Phẩm Hiếu dưỡng (phẩm thứ hai):
Phẩm này nêu lên nguyên ủy do đâu mà đức Phật, và các hàng đệ tử của Ngài đều phải báo ơn, đền ơn những đấng sanh thành dưỡng dục. Đồng thời chỉ ra phương cách báo hiếu cho các hàng đệ tử.
Ở đây có hai vấn đề cần nhất trí trước khi đề cập đến báo hiếu.
a- Thuyết luân hồi - Samsàra
b- Phát bồ đề tâm và hành bồ tát hạnh.
a) Thuyết Luân hồi:
Thuyết này kỳ thực không hoàn toàn xuất phát từ Phật giáo, mà trong truyền thống tín ngưỡng Vệ Đà của Ấn độ cổ xưa đã có nói nhiều đến thuyết luân hồi. Đức Phật, và nhất là Đại thừa giáo đã hệ thống thuyết luân hồi được hoàn chỉnh hơn trước thời Vệ đà. Thuyết luân hồi cho rằng đời sống của mọi loại sinh vật nói chung, và loài người nói riêng, từ vô thỉ đến nay luôn luân chuyển trong sáu nẻo là: Thiên, nhân, Atula, địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh. Cứ như vậy mà lăn như bánh xe đến vô cùng. Kinh Tâm địa quán nói: "Các loài hữu tình, sinh trong sáu đường, như chiếc bánh xe quay lăn không có sau trước.
Kinh Đại phương tiện Phật báo ân, phẩm Hiếu dưỡng: "Như lai khi còn ở trong đường sinh tử, ở trong tất cả các loài chúng sanh, cũng đã phải chịu đủ mọi thân hình nhiều như hạt bụi, không thể lấy lòng nghĩ miệng bàn cho xiết được. Vì phải chịu thân như thế, cho nên tất cả chúng sanh, cũng đã từng làm cha mẹ của Như lai, Như lai cũng đã từng làm cha mẹ của tất cả chúng sanh… Vì cha mẹ, Như lai thường làm những khổ hạnh khó làm, thường xả bỏ những thứ khó xả bỏ như đầu, mắt, tủy, não, quốc thành, thê tử, ngựa quý, xe sang, y phục, thuốc thang. . . Và luôn luôn tinh tấn tiến tu, bố thí, trì giới, đa văm, thiền định, trí tuệ, cho đến đầy đủ tất cả vạn hạnh không dừng nghỉ. Hiếu dưỡng cha mẹ đền đáp công ơn cha mẹ như thế chóng thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì vậy, Phụng sự tất cả chúng sanh là báo trọng ân đối với chư Phật, nên Như lai không bỏ chúng sanh.. . "
Trong kinh Ngài cũng nói rõ:"Kinh điển vi diệu này không phải bằng lời mà bằng hành động cụ thể, ngàn đời lưu truyền mãi mãi khiến chúng sanh thường được an lạc".
Đức Phật kể câu chuyện về đời quá khứ rất xa xưa vô lượng kiếp: Thái tử Tu xà Đề đã tình nguyện róc thịt mình để nuôi sống phụ vương là La Xà nước Ba La Nại và mẫu hoàng trong những ngày đói khát bôn tẩu tìm đường sang lân bang lánh nạn vì tên đại thần La Hầu phản nghịch giết tiên đế để soán ngôi, giết luôn cả đệ nhất và đệ nhị Thái tử (nhà Vua là con út đang làm vua ở một tiểu quốc) cho đến khi không còn đủ sức sống nữa, Thái tử lập nguyện "Nguyện đời trước tôi có gì oán ác, từ đây xin trừ sạch và không tái phạm nữa. Nay xin đem thân nầy cúng dường cha mẹ tôi, nguyện cha mẹ tôi được 11 điều phúc đức
1- Khi ngủ được yên vui 2- Không thấy ác mộng
3- Khi thức được an vui 4- Chư Thiên ủng hộ
5- Mọi người đều ái kính 6- Không gặp phải những sự kiện tụng
7- Không bị trộm cắp 8- Không bị giặc giã
9- Không bị mưu hại 10- Không bị tiêu diệt 11- Gặp việc gì cũng được tốt lành.
Và, còn bao nhiêu máu thịt sót lại nơi thân thể nầy xin bố thí cho các loài ruồi muỗi…”
Nhờ vậy mà nhà vua và hoàng hậu mới đến được nước láng giềng, được vua nước nầy tiếp đón nồng hậu và cử đạo binh hùng mạnh trở về diệt trừ bọn phản nghịch gian ác La Hầu.
Thái tử lúc trút hơi thở cuối cùng thì liền có Thiên Đế Thích hiện thân các loài ác thú xuống thử lòng nhưng tinh thần Thái tử lúc ấy không nao núng chao đảo.
Thiên Đế Thích mới hỏi Thái Tử:
- "Nhà ngươi ngày nay đem cả thân thể, xương thịt cúng dường cha mẹ để tạo công đức nguyện sinh làm Thiên ma vương, Phạm vương, Thiên vương, Nhân vương, hay Chuyển luân thánh vương ?"
- Tu Xà Đề đáp: "Tôi chẳng nguyện sinh làm các vị đó mà chỉ muốn cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng, Chánh giác - độ thoát chúng sanh mà thôi". Và Thái tử lập nguyện: "Nếu tôi dối lòng thì thân thể tôi sẽ mãi mãi bị chia lìa rời rã, còn không thì nguyện sẽ bình phục như cũ".
Bây giờ Thiên Đế Thích liền ca ngợi: "Quý hóa thay, quý hoá thay, ta không thể bì kịp người, người tinh tiến dũng mãnh, chẳng bao lâu sẽ chứng đạo vô thượng Chánh đẳng, Chánh giác, lúc ấy xin độ cho tôi trước".
Đức Phật nói tiếp:" Phụ vương lúc bấy giờ hiện nay là Tịnh Phạn vương cha ta, hoàng hậu hiện nay là mẹ ta, Thái tử Tu Xà Đề chính là ta đây. Còn Thiên Đế Thích chính là A Nhã Kiều Trần Như".
Nhân đấy Phật dạy: "Bồ tát vì tất cả chúng sanh, làm những khổ hạnh khó làm, hiếu dưỡng phụ mẫu, đem thân thể, huyết nhục cung cấp cho cha mẹ".
2- Phẩm ác hữu (phẩm thứ sáu):
Phẩm nầy đức Phật kể về Đề Bà Đạt Đa, không những trong kiếp nầy đã rắp tâm hãm hại dức Phật như chuyện âm mưu với vua A Xà Thế nước ma Kiệt Đà thả 500 voi say hăng tiết, hung dữ để chà nát đức Phật và 500 vị A la Hán, nhưng Thế Tôn đã vận dụng sức Từ Bi mà hàng phục bầy voi.
Lại có lần lăn đá trên đồi cao xuống làm chảy máu chân Phật và nhiều sự việc mưu hại Thế Tôn nữa nên đã bị đọa vào địa ngục A Tỳ. Thế Tôn vẫn thương xót sai A Nan đến thăm hỏi.
Nhiều kiếp xa xưa về trước Đề Bà Đạt Đa vẫn theo sát đức Phật tìm cách ám hại. Trong những tiền kiếp ấy, có một lần làm con của Vua Ma Ha La Xà nước Ba Tư Nặc tên là Aùc Hữu, con đẻ của đệ nhị phu nhân và là em của Thiện Hữu, con đẻ của đệ nhất phu nhân. Năm 14 tuổi Thiện Hữu Thái tử tỏ ra rất thông minh nhân từ, thường bố thí cho những người đói khổ. Thái tử được mọi người quý mến. Một hôm Thái tử tâu với vua cha xin tất cả những kho tàng của cải, lương thực để bố thí cho hết thảy mọi người. Vua cha chìu ý con không hối tiếc nhưng khi lương thực các kho tàng gần hết sạch, quý vị đại thần giải thích, khuyên can. Thái tử nhận ra rằng, là một người con hiếu thảo không nên phát tán của cải của cha mẹ mà phải tự mình làm ra của cải để bố thí. Thái tử hỏi thăm xem có nghề gì làm ra được nhiều tiền để bố thí ? Được những người có kinh nghiệm cho biết chỉ có lặn xuống biển tìm các thứ châu báu và nếu tìm được ngọc Ma Ni thì tha hồ mà cấp dưỡng cho hết thảy chúng sanh.
Lòng thương con, phụ vương và mẫu hoàng không thể nào để con ra đi với vô vàng hiểm nguy nầy nhưng vì quá cương quyết, không ngăn cản nổi mà phải để cho Thiện Hữu thỏa mãn. Nhà vua tuyển một nhà hàng hải tài giỏi với 500 người tùy tùng. Trong khi đó, Aùc Hữu vốn tính khí hung hăng không ai ưa thích, thường ganh tỵ với Thiện Hữu, phen nầy sợ Thiện Hữu tìm được ngọc Ma Ni thì mọi người đều sùng kính hơn nữavà sẽ xem Aùc Hữu không ra gì. Nghĩ vậy Aùc Hữu dùng mưu, xin vua cha cho đi tiếp sau theo anh. Qua vô vàn khó khăn nguy hiểm và kéo dài nhiều ngày, biết bao nhiêu người đã kiệt sức, ngay cả vị hàng hải tiếng tăm cũng không tài nào tiếp tục, thế mà Thiện Hữu vượt qua tất cả gian nguy xuống đến Long Vương xin Ngọc Ma Ni đem về để tạo ra vô vàn của cải bố thí cho mọi người. Thế nhưng trên đường về bị Aùc Hữu đón đường, lừa gạt. Rồi nhân lúc Thiện Hữu thiếp ngủ, Aùc Hữu lấy hai thanh tre nhọn đâm vào mắt rồi cướp ngọc chạy về. Trong lúc đó Thiện Hữu kêu gào không có em, cứ ngỡ là giặc cướp bắt đi nên vô cùng thương xót.
Thiện Hữu chính là đức Thế Tôn bây giờ. Thế nhưng khi A Nan đến thăm Đề Bà Đạt Đa trong ngục thì tâm trạng của Đề Bà Đạt Đa đã khác hẵn. Oâng ta nói rằng:"Tôi ở trong cõi địa ngục A Tỳ nầy cũng như một vị Tỳ kheo đã thể nhập được cái thú vui ở cõi trời Tam thiền".
Nhân đấy Phật dạy:"Các bậc Đại Bồ tát tu các pháp phương tiện để tiếp dắt chúng sanh thì có phải chịu sanh tử và các nỗi thống khổ cũng không lấy thế làm lo. Nếu ai bảo Đề Bà Đạt Đa là kẻ ác nhân phải đọa địa ngục A Tỳ thì người đó chưa hiểu gì vì chính Như lai thường gặp Đề Bà Đạt Đa nên mới chứng được đạo Bồ đề. Bởi nhớ trọng ân ấy nên ta thường đem lòng thươngyêu tha thứ".
Khi A Nan hỏi Phật kinh này nên gọi là kinh gì ? thì Ngài đáp: "Nên gọi là KINH PHẬT BÁO ÂN PHƯƠNG TIỆN CẤP TÚC NHẤT THIẾT CHÚNG SANH"
3- Phẩm Ưu Bà Ly (Phẩm thứ tám):
Nhân trong hội chúng thắc mắc khi Thế Tôn nhận Ưu Bà Ly là người hạ tiện theo Phật Xuất gia, làm nhục nhã cho hàng đệ tử Phật và khiến các dòng vương tôn quý tộc sinh lòng bất kính. Thế Tôn giải bày:
"Các ngươi có thể nói, Như lai là người còn phiền não thay đổi không thường nhưng các ngươi không được nói Ưu Bà Ly là người hạ tiện xuất gia. Ưu Bà Ly cũng theo Phật xuất gia, chứng được tam minh, lục thông và đầy đủ tám món giaỉ thoát. Ưu Bà Ly là người giữ giới luật bậc nhất, có tinh thần hộ trì chánh pháp. . . Ưu Bà Ly là một vị Đại bi Bồ tát, Tu hạnh vi diệu ở những kiếp quá khứ xa xưa".
Đức Như Lai vì Nan Đà nói bài kệ:
"Nan Đà ngươi nên biết
Chớ khinh người nghèo cùng
Đừng cậy mình giàu sang
Xuất gia không phân biệt".
Bây giờ Nan Đà đãnh lễ sát chân Ưu Bà Ly.
Nhân đây Phật bảo ngài Ưu bà Ly hãy thuyết pháp nói rõ sự sai khác về Tam Bảo, về Tứ đế, về Tam Quy, Ngũ Giới, giới làm lơị ích chúng sanh, giới diệt trừ phiền não, giới điều trị thân tâm, giới Thiền định, giới Vô lậu. . .
Tuy ngài Ưu Bà Ly không trực tiếp thuyết pháp nhưhg Ngài rất thông minh, sâu sắc, biết đặc vấn đề, biết nêu những câu hỏi để đức Phật triễn khai cụ thể rõ ràng, đại chúng đều hiểu thông suốt. Tỏ ra Ưu Bà Ly nắm rất vững các vấn đề ấy.
Cũng nhân đây, đức Phật dùng phương tiện để cho Đại chúng thấy rõ: Vị vua cõi trời thì rất khó lòng mà tu được vì có vô số sự vui sướng, trăm nghìn Thiên nữ, trăm thức thiên thức, trăm vị hương thơm, bị trói buộc bởi trăm thứ lục dục làm sao buông bỏ tự tại một cách dễ dàng được.
4- Phẩm thân cận (phẩm thứ chín):
Đức Phật kể những câu chuyện tiền kiếp của Như Lai để vừa cứu được bạn đồng hành vừa cứu được bọn cướp và phương tiện để chuyển hóa bọn cướp cải tà quy chánh, dù phải làm một việc mà hậu quả sẽ đưa đến sự thống khổ trong 3 đường dữ. Khi ở Trúc Lâm có một vị Tỳ kheo mắc bệnh lỡ lói khắp thân thể, máu mũ chảy thường xuyên, ai cũng sợ hải không dám lại gần và phải ở cách ly trong một ngôi nhà dột nát thế mà đức Phật tự tay tắm rử a chăm sóc cho vị Tỳ kheo một cách chu đáo với tất cả lòng thương của mình. Vị Tỳ kheo nầy kiếp trước chính là Ngũ Bá được giữ trách nhiệm trừng phạt các tội phạm, ông ta rất tàn nhẫn ai không có tiền đút lót thì bị đánh đập đến chết và xem đó là việc thường. Nhưng có một lần có một vị Ưu bà tắc vi phạm lỗi nhỏ nhưng Ngũ Bá nghĩ vị nầy hiền lành phúc đức không nỡ đánh đập - Vị Ưu bà tắc ấy chính là Như Lai bây giờ - chuyện ân nghĩa tương quan nhiều đời nhiều kiếp.
Nhân đây đức Phật dạy: "Nếu người thiện nam, thiện nữ biết ơn nghĩa muốn báo đền ơn nghĩa phải làm 4 việc như sau:
a- Phải gần gủi bạn hiền
b- Phải dốc lòng nghe Pháp
c- Phải suy nghĩ nghĩa lý
d- Phải tu hành đúng như Pháp.
Và 4 việc cần theo:
a- Theo Pháp chứ không theo người
b- Theo nghĩa không theo chữ
c- Theo trí không theo thức
d- Theo kinh liễu nghĩa, không theo kinh không liễu nghĩa.
Bạn hiền, ở đây phải hiểu là những người am hiểu giáo lý và sống theo giáo lý.
Dốc lòng nghe Pháp, khi nghe pháp phải nghe bằng cái tâm định tĩnh của mình, tập trung tư tưởng vào việc nghe pháp, không vọng động không lãng xao và cũng phải dẹp bỏ những thành kiến trước đây của mình để lãnh hội giáo pháp. Có câu chuyện trong thiền môn: Một nhà bác học đến thỉnh vấn một Thiền sư, Thiền sư vui vẻ rót trà tiếp khách, tách nuớc đã đầy tràn mà Thiền sư vẫn tiếp tục rót. Nhà Bác học:"Bạch thầy, nước đã tràn rồi", Thiền sư đáp:"Cũng vậy, trong đầu Ngài đã chứa đầy kiến thức, còn chỗ nào để chứa giáo pháp". Vị bác học đã hiểu ý ngay.
Khi lãnh hội rồi phải suy nghĩ, và phối kiểm với thực tế, khi thấy đúng như thật thì phải áp dụng vào cuộc sống của mình (Văn - Tư - Tu, sẽ học kỹ hơn trong bài "Văn - Tư - Tu" ở bậc Trì). Làm theo tám việc ấy gọi là biết ơn.
Lại làm theo 8 pháp sau đây mà không nhiễm trược gọi là báo ân:
1- Lợi 2- Suy 3- Hưng 4- Khen
5- Tán thán 6- Chê bai 7- Khổ 8- Vui.
Người tu hành thấy lợi không màn, lại nữa, người thực hiện hạnh Bồ tát bao giờ cũng nghĩ đến cái lợi chính đáng cho kẻ khác, làm những việc lợi lạc cho chúng sanh với cái tâm bình thản. Hưng, suy cũng là lẽ vô thường, tâm không nao núng. Được khen không tự mãn, bị chê (dù chê đúng hay sai) cũng không phiền trách. Dấn thân vào sự nghiệp độ tha dù gặp gian nguy mà không cảm thấy là khổ, gặp những điều phỉ chí không lấy gì làm vui. Không có gì là khổ, thì cũng chẳng vó gì là vui. Được như vậây mới gọi là không nhiễm trược.
Và làm theo 4 việc sau đây lại vừa biết ơn, vùa báo ơn:
1- Thấy người độc ác lòng sinh thương xót để khởi lòng Từ bi.
2- Thấy người đau khổ mắt không thể rời để khởi lòng thương.
3- Thấy Sư trưởng, cha mẹ và những bậc có đức thì vui vẻ khởi lòng quý mến.
4- Thấy những người thù oán không tức giận để tu hạnh hỹ xã.
Trong phẩm nầy đức Phật có thuật lại chuyện Sư tử Kiên Thệ, vì trọng pháp mà mắc mưu thợ săn bị thợ săn giết chết. Nhân đấy đức Phật dạy thế nào là Bồ tát dốc lòng nghe Pháp ?
1-Tâm thành tín 2- Tâm chuyên chú 3- Tâm cung kính 4- Tâm hiền thiện
Bồ tát nghe pháp hết lòng vì mong cầu chính pháp được hoàng dương, Phật pháp được trường tồn, nhớ nghĩ đến trọng ân đức Phật, nghĩ đến vô lượng chúng sanh, muốn chúng sanh khởi tín tâm.
Cũng trong phẩm nầy đức Phật dạy người tu hạnh Bồ tát phải biết vận dụng ngũ minh pháp.
IV- KẾT LUẬN:
Trong phần tổng luận, chúng ta đã nêu rõ: Đặc trưng của Đại thừa là "Lý tưởng Bồ tát". Con đường chúng ta đi là "Bồ tát đạo". Khi tìm hiểu qua kinh Đại phương tiện Phật báo ân, chúng ta cũng nhận ra được: Đây là những bước Thế Tôn hướng dẫn chúng ta đi trên "Bồ tát đạo".
Bồ tát xã thân cứu giúp mọi người không kể nguy khốn, buông bỏ tất cả tài sản và ngay cả sinh mạng để mong cầu đạo Bồ đề.
Lý tưởng thì vô cùng cao cả nhưng cũng lại rất gần gủi và mang tính chất "xã hội" nhưng "xã hội" với ý nghĩa thâm sâu vi diệu.
Tuy chỉ là đại cương, chúng ta không đi sâu vào quá chi tiết nhưng một số phẩm chúng ta đã lược qua nội dung, rõ ràng chúng ta thấy được: Khi bố thí hết lòng, hết khả năng của chúng ta cho tha nhân thì chính chúng ta đã làm công việc đền ơn đáp hiếu đúng pháp đối với cha mẹ, mà chính khi thực hiện chúng ta không nghĩ đến thân sơ. Suy cho đến cùng thì tất cả mọi người đều là ân nhân của ta, kể cả kẻ thù luôn luôn ám hại cũng lại là người thi ân cho ta. Trong phẩm "Thân cận" đức Phật đã tóm tắt cách thức báo ân, hơn nữa với lý nhân quả, luân hồi thì tất cả đều có những liên quan chằng chịt trong quá khứ nhiều đời nhiều kiếp. Chỉ có lòng Từ bi mới cởi mở được mọi oan khiên. Chỉ có lòng Từ bi, cứu giúp, bố thí cho mọi người, không chấp ngã mới thực sự đền đáp ân sâu nghĩa nặng của cha mẹ và tất cả ân nhân trong nhiều kiếp xa xưa và cũng chính là cách báo ân chư Phật vì "phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật". Đây cũng là cách đi vào Bồ tát đạo./-