Phần chú thích này dựa theo tinh thần các tài liệu của Ban Hướng Dẫn Trung Ương.
Mục Đích Để Huynh Trưởng hiểu rõ thêm về tổ chức mà bản Nội quy là văn kiện căn bản.
BẢN NỘI QUY GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM mà chúng đang thi hành là bản nội quy được Đại hội Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử toàn quốc biểu quyết ngày 30/06/1964, Được tu chỉnh bởi Đại hội Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử toàn quốc năm 1973 (Gồm có 5 chương, 19 Điều) nhưng thật ra không phải bản nội quy hiện hành mới ra đời năm 1964 mà đã được soạn thành văn kiện lập quy từ năm 1951 và được tu chỉnh nhiều lần. Mỗi lần tu chỉnh là một lần phản ảnh sự phát triển, sự lớn mạnh của Gia Đình Phật Việt Nam.
I. DANH HIỆU: (Điều 1)
1. Danh hiệu Gia Đình Phật Tử Được khai sáng vào năm 1951 để thay thế cho danh hiệu Gia Đình Phật Hóa Phổ. Trong năm 1951 hai sự kiện lịch sử Phật Giáo Việt Nam Đã diễn ra:
a. Đại hội Gia Đình Phật Tử gồm 9 tỉnh hội, chi hội Viện Phật học miền Trung (Thừa Thiên, Lâm Viên, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam Đà Nẵng, Đồng Nai Thượng, Di Linh, Bình Thuận, Chi hội Phan Rang) Đại diện Gia Đình Phật Tử miền Bắc (Hà Nội, Hải Phòng) họp tại chùa Từ Đàm - Huế trong những ngày 24,25,26/4/1951. Chính Đại hội này đã lấy danh xưng Gia Đình Phật Tử thay thế Gia Đình Phật Hóa Phổ. Ngoài danh xưng của tổ chức, Đại hội còn biểu quyết bản Nội Quy Trình của Gia Đình Phật Tử làm căn bản cho tổ chức.
b. Đại hội Phật giáo Thống nhất lần Đầu tiên của 6 tập Đoàn Tăng Già và Cư Sĩ, gồm 51 Đại biểu họp tại chùa Từ Đàm - Huế trong những ngày 6,7,8,9/5/1951, Đại hội đã thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam.
Sau Đại hội Phật Giáo thống nhất, phong trào Gia Đình Phật Tử lan rộng cả 3 miền.
2. Năm 1964, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được hình thành là cơ hội để Gia Đình Phật Tử kết thành một khối duy nhất, đặt dưới sự lãnh đạo của một cơ quan Trung Ương. Một Đại hội Huynh trưởng toàn quốc đã được triệu tập vào cuối tháng 5/1964. Bản nội quy đã được tu chỉnh cho phù hợp với giai đoạn mới với cơ cấu tổ chức của Giáo Hội.
Điều 1 Bản nội quy ghi:
}Chiếu Điều 14 của hiến chương lập ngày 4/1/1964, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất có một tổ chức giáo dục thanh niên lấy danh hiệu là Gia Đình Phật Tử Việt Nam, tổ chức này nằm trong Tổng Vụ Thanh niên (Gia Đình Phật Tử Vụ) của Viện Hóa Đạo ~ (Bản Hiến Chương này do Đại hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất kỳ 1 gồm Đại biểu của 11 tập Đoàn Phật Giáo (Nam, Bắc Tông) họp tại Sài Gòn Đầu năm 1964 biểu quyết)
Năm 1965, Đại hội Phật Giáo kỳ 2 Đã tu chỉnh bản Hiến Chương, các Điều khoản trong Hiến Chương thay Đổi nên Đại hội Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử toàn quốc 1967 Đã tu chỉnh lại Bản nội quy Điều 1 như sau:
} Chiếu Điều thứ 16 chương 2 của Hiến Chương lập ngày 14/12/1965, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất có một tổ chức giáo dục thanh niên lấy danh hiệu là Gia Đình Phật Tử Việt Nam. Tổ chức nầy nằm trong Tổng Vụ Thanh Niên (Gia Đình Phật Tử Vụ) của Viện Hóa Đạo.~
3. Nói về danh hiệu, có một Điều chúng ta cũng cần biết: Trong một phiên họp của Đại hội Huynh trưởng Trung phần năm 1960 có ý kiến muốn thay đổi danh hiệu Gia Đình Phật Tử ra “Thanh Niên Phật Tử“, những đa số đại biểu không chấp thuận.
4. Điều Đáng lưu ý nhất là Gia Định Phật Tử là tổ chức Giáo dục thanh thiếu nhi có một quá trình hoạt động lâu dài nhất của Phật Giáo Việt Nam.
II. MỤC ĐÍCH: (Điều 2)
1. Trong thời kỳ Gia Đình Phật Hóa Phổ, mục Đích của tổ chức là: “Đào tạo những Phật tử chân chính, xây hạnh phúc gia Đình trên nền luân lý Phật giáo”
2. Trong thời kỳ với danh xưng Gia Đình Phật Tử năm 1951 mục đích được tu chỉnh. Mục Đích của Gia Đình Phật Tử là “Huấn luyện thanh thiếu Đồng niên về ba phương diện: Trí Dục, Đức Dục, Thể Dục trên nền tảng Phật Giáo Để Đào tạo những Phật Tử chân chính”
3. Năm 1957, Hội Việt Nam Phật học thay Đổi danh hiệu là Hội Phật Giáo Việt Nam tại Trung phần, Đại hội Gia Đình Phật Tử vào thượng tuần tháng 8/1958 đã tu chỉnh. Mục Đích của Gia Đình Phật Tử là “Đào tạo những Thanh, Thiếu và Đồng niên thành những phật tử chân chính Để phục vụ Chánh pháp và trở thành những hội viên xứng Đáng của Hội”
4. Đại hội Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử toàn quốc năm 1964 Đã tu chỉnh lại như sau. Mục Đích Gia Đình Phật Tử là “Đào luyện Thanh Thiếu Đồng niên thần Phật tử chân chính. Góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo“
Mục Đích này được áp dụng đến ngày nay. Qua các lần tu chỉnh, chúng ta thấy gì?
Danh xưng Gia Đình Phật Hóa Phổ gợi cho chúng ta tâm niệm Phật Hóa Gia Đình. Căn bản là gia đình vì thời kỳ Thanh Niên Đức Dục và Gia Đình Phật Hóa Phổ là thời kỳ mà nền văn minh vật chất Tây phương đang làm lung lạc căn bản đạo đức của cơ cấu hạ tầng quốc gia, hạnh phúc gia đình đổ vỡ. Giai đoạn ấy cần chú trọng đến nếp sống gia đình. Do đó tổ chức Gia Đình Phật Hóa Phổ quy tụ nhiều lớp tuổi và sinh hoạt thuần túy giáo lý. Mục tiêu là CÁ NHÂN (Phật Tử chân chính) và GIA ĐÌNH (hạnh phúc gia đình).
Qua thời kỳ danh xưng Gia Đình Phật Tử (1951) ý thức giáo dục Thanh thiếu nhi mới phát hiện trên 3 phương diện Trí Dục - Đức Dục - Thể dục. Đối tượng giáo dục chính là thanh thiếu nhi.
Khởi đầu trong phạm vi nhỏ hẹp của cánh cửa gia đình, cá nhân, tổ chức được mở rộng cho hàng ngũ thanh thiếu nhi của mọi gia đình trên 3 phương diện Đức Dục - Trí Dục - Thể Dục (Bi - Trí - Dũng)
Sau cuộc Vận Động của Phật Giáo Việt Nam vào năm 1963 cho bình đẳng tôn giáo và công bằng xã hội, Phật giáo bước qua một giai đoạn mới, giai đoạn kiến tạo xã hội, đem lý tưởng hòa bình cố hữu của Phật giáo để phục vụ dân tộc. Do đó sự chuyển mình của Gia Đình Phật Tử qua lãnh vực xã hội với mục đích được tu chỉnh (1964) là “Đào luyện Thanh Thiếu Đồng niên thành Phật tử chân chính, góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo"
Điều mà chúng ta cần lưu ý hơn hết là qua bao lần tu chỉnh, căn bản vẫn giữ nguyên vẹn là “Phật tử chân chính“. Con người có chân chính mới cải tạo xã hội, cái mục đích căn bản ấy không bao giờ có thể quên lãng được. Và chính trong giai đoạn này chúng ta phải làm gì để "góp phần xây dựng cho xã hội” cũng là điều cần thiết.
III. CHÂM NGÔN (Điều 3)
1. Gia Đình Phật Hóa Phổ chỉ dùng một châm ngôn chung cho tất cả các lớp tuổi: “Hòa thuận - Tin yêu - Vui vẻ”. Đến khi lấy danh xưng Gia Đình Phật Tử. Thời kỳ đã đặt nền móng giáo dục cho từng lớp tuổi, thì châm ngồi được chia ra hai:
· Bi - Trí - Dũng cho Thanh thiếu Nam Nữ
· Hòa - Tin - Vui cho Đồng niên Nam Nữ
3. Đến lần tu chỉnh năm 1964, châm ngôn chỉ còn lại duy nhất “Bi – Trí – Dũng” với ý hướng tất cả mọi ngành Đều hướng về 1 mục tiêu.
IV. LUẬT (Điều 5)
1. Luật Đã có từ thời Gia Đình Phật Hóa Phổ, với 10 Điều là:
1 - Phật tử học kinh, niệm phật
2 - Phật tử kính mến cha mẹ, thuận thảo với anh chị em
3 - Phật tử nhơn từ đối với người và vật
4 - Phật lử lựa bạn tốt và mến thương bạn
5 - Phật tử vui buồn cùng chia, nhắc nhở nhau tránh dữ làm lành
6 - Phật tử giữ gìn lời nói ôn hòa, ngay thật
7 - Phật tử thật thà, siêng năng, thứ tự, sạch sẽ
8 - Phật tử sống giản dị và điều độ
9 - Phật tử bình tĩnh và lạc quan
10 - Phật tử làm tròn bổn phận
2. Đại hội 1951 từ chỉnh lại và chia ra hai lớp tuổi: Tuổi Oanh vũ và tuổi Ngành thiếu trở lên
Về Oanh vũ (Đồng niên) có 3 Điều:
1 - Em tưởng nhớ Phật
2 - Em kính mến cha mẹ và thuận thảo với anh chị em
3 - Em thương người và vật
So với luật của Gia Đình Phật Hóa Phổ thì 3 Điều luật này là tinh thần của 3 điều đầu trong 10 điều luật kể trên.
Về ngành Thanh thiếu niên (kể cả Huynh Trưởng) có 5 Điều:
1 - Phật tử quy y Phật, Pháp, Tăng và giữ giới đã phát nguyện.
2 - Phật Tử mở rộng lòng thương tôn trọng sự sống
3 - Phật Tử trau dồi trí tuệ, tôn trọng sự thật
4 - Phật Tử trong sạch tư thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm
5 - Phật tử sống hỷ xã để dũng tiến trên Đường Đạo.
Năm Điều luật này là hiện thân của 5 Hạnh mà một Phật Tử chân chính cần phải có để thực hiện mục Đích của Gia Đình Phật Tử. Kể từ năm 1951 trở đi, qua các lần tu chỉnh, nằm điều luật vẫn giữ y như cũ vì đó là lý tưởng cao cả mà người đoàn viên GĐPT phải thực hiện.
V. THÀNH PHẦN BAN HƯỚNG DẪN: (Điều 6)
Hiện thời ở cấp Trung Ương cũng như cấp tỉnh, thành phần BHD hùng hậu hơn trước nhiều nhất là ở cơ cấu tổ chức, hệ thống ngành, chứng tỏ có một sự chỉ đạo từ Trung Ương Đến Tỉnh xuống Đơn vị Gia Đình (qua 2 cấp trung gian là miền và quận).
Điều đáng cho ta lưu ý
· Trước đây chức vụ Trưởng Ban sẽ do hội giới thiệu một số người có khả năng trong GĐPT Để hội nghị bầu.
· Nay thì Trưởng Ban do Đại hội bầu ra và không còn do Giáo hội đề cử bất cứ ở cấp nào (lẽ dĩ nhiên là một Huynh trưởng).
Điều này chứng tỏ rằng GĐPT Đã trưởng thành, các Huynh Trưởng đã ý thức được trách nhiệm của mình, tự gánh vác lấy công việc của gia đình.
Ở Đây chúng ta cũng cần nói tới ban Đại diện Quận chỉ Được thành lập khi có từ 7 gia Đình trở lên. Về thành phần thì gồm có Đại diện Quận (nói cho đủ là Đại diện Ban hướng dẫn tại Quận), thư ký, thủ quỹ và ban Viên Tổ kiểm lưu ý là ban Viên Tổ Kiểm chứ không phải là Ủy viên Kiểm (dành cho BHD)
VI. VẤN ĐỀ PHÂN HÓA NGÀNH NAM NỮ (Điều 6)
Vấn Đề tách rời sinh hoạt ngành Nam, Nữ đã được đề cập lần đầu tiên tại Đại hội 1955 tại Đà Lạt và đã thành vấn đề vào những năm 1957, 1958 nhưng chỉ thực hiện do Đại hội 1964 với các chức vụ đã ghi hẳn trong nội quy:
· Phó trưởng ban phụ trách ngành Nam
· Phó trưởng ban phụ trách ngành Nữ
và
· Liên Đoàn trưởng phụ trách ngành Nam
· Liên Đoàn trưởng phụ trách ngành Nữ
Chính tại phiên họp khoáng Đại của Đại Hội 1964, vấn Đề thảo luận rất sôi nổi nhưng cuối cùng Đã chung quyết: "Trong một Đình tách riêng sinh hoạt của 2 ngành Nam và Nữ dưới sự Điều khiển của 1 Gia trưởng, một Liên Đoàn Trưởng Nam và một Liên Đoàn Trưởng Nữ, không có Liên Đoàn Phó”
VII. CÁC CHỨC VỤ TRONG BAN HUYNH TRƯỞNG (Điều 7)
1. Gia trưởng:
Theo nội quy 1951 thì Gia Trưởng là người do Khuôn Hội (nếu không có Khuôn thì do BHD Tỉnh Đề nghị với Tổng Hội) cử ra và lo cho gia đình về mọi mặt nhất là giao thiệp với khuôn, với BHD, với phụ huynh Đoàn sinh.
Đại hội toàn quốc 1964 Đã tu chỉnh:
a) Vị này phải là một cư sĩ từ 30 tuổi trở lên có uy tín trong Ban Đại diện Giáo Hội cấp Xã, Phường hay Chi, Khuôn và hiểu biết về GĐPT do ban Huynh trưởng mời và được sự đồng ý của BHD tỉnh.
b) Nếu Liên Đoàn trưởng từ 30 tuổi trở lên, có đủ tư cách, uy tín với Ban Đại Diện Giáo Hội cấp Xã, Phường, Chi hay Khuôn có thể kiêm chức vụ Gia Trưởng.
Đây là điều cần thiết và quan trọng vì vai trò của Gia Trường đã được đặt nặng và có nhiều liên hệ và trách nhiệm đối với gia đình. Chính vì lẽ ấy mà vị Gia Trưởng do Ban Huynh Trưởng mời và được sự đồng ý của BHD Tỉnh.
Có điều chúng ta cần lưu ý là: Gia Trưởng cũng thuộc thành phần Ban Huynh Trưởng cho nên nếu có Gia Trưởng là Huynh trưởng như điều (b) trên đây thì công việc gia đình sẽ gặp được nhiều trợ duyên hơn nữa. Đây là điều quan yếu mà Huynh Trưởng cần suy nghĩ cho tương lai GĐPT.
2. Liên Đoàn Trưởng, Thư Ký, Thủ Quỹ và các Đoàn Trưởng, Đoàn Phó:
Phải là Huynh Trưởng trong gia đình đã được huấn luyện và do Ban Huynh Trưởng bầu lên, ở đây có điều chúng ta cần ghi nhớ: Ban Huynh Trưởng gia Đình không phải bầu lại mỗi năm hay hạn kỳ nếu cần thì cải tổ hay bổ sung mà thôi.
VIII. TỔ CHỨC ĐOÀN (Điều 6)
Trong nội quy 1964 không ấn định chi tiết nhưng căn cứ vào các tài liệu huấn luyện hiện đang áp dụng, vấn đề tổ chức các Đoàn, Đội, Chúng, Đàn cũng cần Được Đề cập Để có tính cách thống nhất
1. Về Nam Phật Tử và Thiếu Nam:
Đoàn chia ra Đội lấy danh hiệu Sen vàng, Sen trắng, Sen hồng, Sen xanh (kèm theo 1 khẩu hiệu tùy theo Đội chọn)
2. Về Nữ Phật tử và Thiếu Nữ:
Đoàn chia ra Chúng cũng lấy danh hiệu như trên
3. Về Oanh vũ:
Riêng Đối với Oanh vũ. Đoàn chia ra Đàn lấy danh hiệu là Cánh vàng, Cánh Trắng, Cánh Nâu, Cánh Lam (Kèm theo một khẩu hiệu tuỳ theo Đoàn chọn)
Cũng cần lưu ý là ở Oanh vũ, dùng Đầu Đàn, Thứ Đàn thay cho Đàn Trưởng, Đàn Phó trước đây và không có Đầu Đàn Nhất (chính Đại hội 1970 tại Quy Nhơn đã thảo luận và biểu quyết vấn đề này)
IX. HUY HIỆU (Điều 11)
BÀI CA CHÍNH THỨC (Điều 12)
1. Huy hiệu và bài ca chính thức Đã có từ thời Phật học Đức Dục (1942). Đến nay vẫn không thay Đổi
2. Bài ca chính thức "Sen Trắng” - nhạc của Ưng Bình lời ca Phạm Hữu Bình, Nguyễn Hữu Quán
X. CẤP HIỆU VÀ PHÙ HIỆU (Điều 12)
Cấp hiệu và phù hiệu đã thay đổi qua nhiều lần
· Lần đầu tiên từ khi Gia Đình Phật Hóa Phổ đổi thành Gia Đình Phật Tử
· Lần tu chỉnh năm 1955 tại Đại Hội Đà Lạt
· Tu chỉnh năm 1964 tại Đại Hội Sài Gòn
· Tu chỉnh năm 1967 tại Đại Hội Sài Gòn
· Đến Đại Hội năm 1973 tại Đà Nẵng lại một lần nữa tu chỉnh
Cũng cần xác định vài danh từ:
· Huy hiệu: chỉ có 1 huy hiệu là Huy Hiệu Hoa Sen
· Cấp hiệu: dùng để phân biệt trình độ tu học như: Cấp Tập, Tín, Tấn Dũng (Huynh trưởng) hoặc Mở Mắt, Cánh Mềm... Hướng thiện, Sơ thiện...Hòa, Trực (Đoàn sinh)
· Phù hiệu: để phân biệt chức vụ, ngành, cấp Trung Ương, Tỉnh, Gia Đình hoặc để phân biệt thâm niên, khả năng chuyên môn.
(Có phù hiệu chức vụ, gia Đình hiệu, phù hiệu chuyên năng)
XI. KỲ HIỆU:
Cờ của GĐPT Thống Nhất từ sau Đại hội 1955 tại Đà Lại. Qua Đại hội thống nhất 1964 thể thức chính vẫn không thay Đổi, ngoại trừ kích thước. Do QĐ số 124/HDTƯ/QĐ ngày 7/11/1964 của BHDTƯ, phần ký hiệu được quyết định như sau:
1. Mô tả:
a) BHD TƯ, BHD Tỉnh, Đơn vị gia Đình, Đoàn: Hình chữ nhật, bên phải huy hiệu Hoa Sen, bên trái tên Trung Ương, Tỉnh, Gia Đình hay Đoàn.
b) Đơn vị Đội, Chúng, Đàn: hình chữ U, bên phải huy hiệu Hoa sen, bên trái khẩu hiệu Đội, Chúng hay Đàn.
2. Màu sắc:
a) BHD TƯ, BHD Tỉnh, gia Đình: nền lục, huy hiệu màu trắng, có tua trắng.
b) Đoàn, Đội, Chúng, Đàn: Huy hiệu, tên Đoàn và khẩu hiệu màu trắng, nền bên phải màu Lục, bên trái thay thế tùy theo ngành:
· Nam nữ Phật tử: Nâu
· Thiếu nam, nữ: Xanh biển
· Oanh vũ nam nữ: Xanh lục
3. Kích thước:
· BHD Trung Ương: 0m80 x 1m20
· BHD Tỉnh: 0m70 x 1m10
· Đơn vị gia Đình: 0m60 x 0m90
· Đơn vị Đoàn: 0m35 x 0m55
· Đội/Chúng: 0m21 x 0m29
· Đàn: 0m17 x 0m25
XII. ĐỒNG PHỤC: (Điều 13)
Đã được thống nhất từ năm 1951 tại Đại Hội 1964 ý kiến dùng khăn quàng nhưng Đại Hội bác bỏ.
Điều cần nói ở đây là Trại Phục Ngành Nữ (Nữ Phật Tử, Thiếu Nữ) đã được thảo luận trong nhiều hội nhưng chưa được thực hiện. Đại Hội Ngành Nữ 1969 tại Nha Trang trong phiên họp ngày 25/08/1969 có ghi:
· Áo dài lam vẫn như cũ, khi Đến Đất trại mặc áo: lam và quần trắng.
· Áo không có pince (suông từ trên xuống)
· Nút bọc, bỏ nút tay
· Giữ cở 1969
Đại hội Huynh Trưởng toàn quốc 1973 tại Đà Nẵng, phiên riêng ngành nữ ngày 31/07/1973 Đã quyết định để bổ túc cho các điều trên:
Về y phục: Ngành Nữ chỉ được mặc trại phục trong đất trại (Quần tây xanh, áo lam, đội mũ) đồng phục nữ (với áo dài) phải giản dị, đội nón, đi guốc hoặc dép thấp, không mặc quần đen khi bận áo dài.
XIII. THỂ THỨC THÀNH LẬP GIA ĐÌNH PHẬT TỬ
Bất cứ đơn vị gia đình nào muốn được thành lập có ít nhất 2 Huynh Trưởng Đã dự lớp huấn luyện mới được phép thành lập. Đó là điều quan trọng vì nếu không chưa dự lớp huấn luyện thì sự điều khiển gia đình sẽ dễ bị lệch lạc, không đi đúng đường lối, tinh thần của tổ chức. Điều nên lưu ý là Gia Đình Phật Tử tại các Thôn, Ấp, Xã, Khóm, Phường, Quận có thể tùy nghi thành lập không phân định khu vực. Đoàn quán đặt nơi nào thì liên lạc theo hệ thống ngang với ban Đại diện Giáo hội sở tại.
Với những điều kiện trên và có giấy ủy nhiệm của BHD tỉnh thì Đơn vị Gia Đình Phật Tử ấy mới bắt đầu hoạt động và sau 6 tháng nếu hoạt động điều hòa thì sẽ được BHD chính thức thừa nhận.
Tuy nhiên vẫn có những Đơn vị Gia Đình Phật Tử qua thời gian này vẫn chưa được thừa nhận chính thức là vì hoạt động và tổ chức chưa có nề nếp quy cũ.
Trong thời gian hoạt động lâm thời, các gia đình chỉ được mặc đồng phục chứ chưa được mang huy hiệu hoa sen và các phù hiệu khác:
· Chỉ được sinh hoạt tại Đoàn quán không được sinh hoạt ngoài địa phương hoặc những nơi xa Đoàn quán
· Chưa được dùng ký hiệu và khuôn dấu.
XIV. KHUÔN ĐẤU: (Điều 15)
Như đã được ấn định, chỉ có 5 cấp có khuôn dấu mà thôi: Trung Ương - Miền - Tỉnh - Quận - Gia Đình.
Kiểu và khuôn khổ cho mỗi cấp do BHD TƯ ấn Định
· Trung Ương, Miền: Đường kính 38 ly
· Tỉnh, Quận: Đường kính 36 ly
· Gia Đình: Đường kính 30 ly
XV. GIẢI TÁN: (Điều 18)
Theo Nội quy chế cũ thì:
1. Những gia đình hoạt động sai tôn chỉ của Hội và của Gia Đình Phật Tử thì sẽ bị đình chỉ hay giải tán. Sự đình chỉ hay giải tán ấy do Tỉnh Hội quyết định, sau khi xem ý kiến của Chi, Khuôn hội và BHD Tỉnh Hội.
2. BHD Tỉnh Hội mà hoạt động sai tôn chỉ của Hội và Gia Đình Phật Tử thì do Tỉnh Hội Điều chỉnh hay đình chỉ hoạt động sau khi báo tin cho BHD cấp Phần biết ít nhất là 1 tháng. Trong thời gian điều chỉnh hay đình chỉ hoạt động của BHD, chính Tỉnh Trị sự phải trực tiếp điều khiển Gia Đình Phật Tử của mình.
Khi bị giải tán hay bị đình chỉ, mọi vật dụng và tài sản phải do Ban Trị Sự sơ quản định liệu.
Với Nội quy hiện hành thì:
1. Những Gia Đình Phật Tử không sinh hoạt dụng nội quy Gia Đình Phật Tử Việt Nam thì sẽ do BHD Tỉnh quyết định, cho tạm ngưng hoạt động giải tán sau khi điều tra và lập báo cáo gởi về BHD TƯ.
2. Muốn giải tán BHD Tỉnh chỉ có BHD Trung Ương mới có quyền giải tán mà thôi, Ban Đại Diện Giáo Hội cấp Tỉnh có quyền Đề nghị giải tán BHD Tỉnh vì những lý do xác đáng kèm theo tài liệu đầy đủ và quyền quyết định vẫn do BHD TƯ.
3. Những gia đình hay BHD bị giải tán các vật dụng và tài chánh đều phải giao lại cho cấp trên của mình theo hệ thống dọc.
Với thể thức này chúng la thấy rằng việc của gia đình đã nằm trong tay của Gia Đình Phật Tử mà không còn qua lệ thuộc vào Giáo Hội như trước nữa. Chính đó là trách nhiệm thiêng liêng của chúng ta.
Bản nội quy này sau bao lần tu chỉnh cho thích hợp với sự tiến triển nhưng luôn luôn giữ tính chất căn bản của nó. Gia Đình Phật Tử là một tổ chức giáo dục, có mục đích “Đào luyện Thanh - Thiếu - Đồng niên thành những phật tử chân chính. Góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo”.
Nguồn: Ấn bản Nội quy GĐPT Việt Nam
BHD Trung Ương ấn hành - PL.2540